Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 34
Chương 69
Quảng trường St Mark nằm ở đầu mút phía nam Đại Vận Hà của Venice, nơi thủy lộ này nhập vào biển khơi. Nhìn xuống chỗ giao thoa nguy hiểm này là pháo đài hình tam giác mộc mạc mang tên Dogana da Mar - Văn phòng Thuế quan Hàng hải - với tòa tháp canh từng trấn giữ cho Venice trước sự xâm lăng của ngoại bang. Ngày nay, tòa tháp được thay thế bằng một quả cầu vàng rất lớn và một cái chong chóng thời tiết có hình nữ thần may mắn, mỗi khi thay đổi hướng theo chiều gió đều nhắc cho các thủy thủ gắn bó với đại dương nhớ đến sự khó lường của số phận.
Khi Maurizio cho chiếc thuyền bóng bẩy lướt về cuối con kênh, biển khơi sóng vỗ hiện ra trước mặt họ đầy hăm dọa. Robert Langdon đã đi theo tuyến đường này nhiều lần trước đó, mặc dù luôn bằng một chiếc phà lớn hơn nhiểu, và anh cảm thấy không thoải mái khi chiếc limousine của họ nhào lên những ngọn sóng cơn đang cuộn lên từng đợt.
Để tới được cầu cảng của Quảng trường St Mark, thuyền của họ cần vượt qua một vùng đầm tắc nghẽn với hàng trăm phương tiện thủy, từ những du thuyền sang trọng đến tàu chở dầu, các thuyền buồm tư nhân, và cả những tàu lớn đồ sộ. Có cảm giác như thể họ đang ra khỏi một con đường thôn quê và hòa vào một siêu xa lộ tám làn xe vậy.
Sienna có vẻ bối rối không kém khi nhìn thấy con tàu chở khách cao mười tầng lừng lững đang lướt qua trước họ, chỉ cách có ba trăm thước. Các sàn tàu lố nhố hảnh khách, tất cả đều bu lấy lan can chụp ảnh Quảng trường St Mark từ phía biển. Trong vệt nước cồn lên của con tàu, ba chiếc tàu khác xếp hàng chờ đến lượt lướt qua danh thắng nổi tiếng nhất của Venice. Langdon từng nghe nói rằng trong những năm gần đầy, số tàu thuyền đã tăng lên nhanh đến mức có cả chuỗi tàu biển bất tận qua lại suốt ngày đêm,
Ở ví trí cầm lái, Maurizio nhìn dãy tàu chở khách đang lướt qua và nhìn sang trái nơi có một cầu cảng có mái che nằm cách đó không xa. "Tôi đỗ ở quán rượu Harry's nhé?" Anh ta ra hiệu về phía nhà hàng nổi tiếng vì đã sáng chế ra món đồ uống Bellini (39). “Đi bộ đến Quảng trường St Mark không xa lắm đâu."
(39): Loại cocktail là hỗn hợp của rượu vang Procecco và đào nghiền nhuyễn.
"Không được, đưa chúng tôi đi hết đường đi” Ferris yêu cầu, chỉ tay qua đầm nước về phía nhũng cầu cảng của Quảng trường St Mark.
Maurizio nhún vai hiền lành. "Sẽ được như ý các vị thôi. Đi nào.”
Tiếng động cơ rồ lên và chiếc limousine bắt đầu cắt qua mặt nước gợn sóng, lao vào một trong những luồng lạch có phao tiêu đánh dấu. Những con tàu lớn chở khách đang lướt qua trông chẳng khác gì các tòa nhà nổi, lằn sóng của chúng xô những chiếc thuyền tựa như những cái phao bẩn.
Trước sự ngạc nhiên của Langdon, hàng chục chiếc thuyền đáy bằng cũng đang băng băng vượt đầm nước như họ. Những thân thuyền thanh mảnh - dải gần một trăm hai mươi mét và nặng hơn sáu trăm cân - có vẻ rất vững vàng trong vùng nước sóng gió. Mỗi thuyền do một người chèo vững chân điều khiển. Họ đứng trên bên mạn trái thân thuyền, mặc áo sơ mi kẻ sọc đen trắng truyền thống và điều khiển một mái chèo duy nhất gắn vào mép thuyền bên phải. Mặc dù sóng lớn nhưng thấy rõ chiếc thuyền đáy bằng nào cũng nghiêng nghiêng sang trái đầy bí ẩn, một điều kỳ quái mà Langdon biết là do kết cấu phi đối xứng của thuyền. Tất cả thân thuyền đáy bằng đều uốn cong về bên phải, ngược với phía lái thuyền, để khắc phục xu hướng thuyền cứ xoay sang trái do chèo thuyền bên phải.
Maurizio tự hào chi vào một trong những chiếc thuyền đáy bằng khi họ chạy qua nó. "Các vị thấy thiết kế kim loại ở đằng trước không?", anh ta gọi với lại qua vai, làm hiệu về phía món đồ trang trí trang nhã nhô ra từ mũi thuyền. "Đó là bộ phận kim loại duy nhất trên thuyền đáy bằng - gọi là aferró di prua - lưỡi hái sắt mũi thuyền. Đó chính là hình ảnh của Venice!"
Maurizio giải thích rằng bộ phận trang trí hình lưỡi hái nhô lên từ mũi thuyền đáy bằng ở Venice có một ý nghĩa biểu trưng. Hình dạng uốn cong của ferro đại diện cho Đại Vận Hà, sáu răng của nó thể hiện cho sáu quận hay sestieri của Venice, và phần lưỡi thuôn là mũ sắt cách điệu của quan tổng trấn Venice.
Quan tổng trấn, Langđon nghĩ thầm, ý nghĩ của anh quay trở lại với nhiệm vụ trước mắt. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những đầu ngựa... và moi xương cả người mù lòa.
Langdon đưa mắt ngước nhìn dải đất ven bờ phía trước, nơi một công viên nhỏ có trồng cây tiếp giáp với mép nước. Vượt lên trên những ngọn cây in bóng lên bầu trời không gợn mây là tòa tháp bằng gạch đỏ của tháp chuông St. Mark, trên đỉnh có Tổng lãnh thiên thần Gabriel bằng vàng dõi mắt nhìn xuống từ độ cao chóng mặt, gần một trăm mét.
Trong một thành phố mà mọi vật dù cao lớn đến đâu cũng đều có xu hướng dễ chìm nghỉm, thì tòa tháp sừng sững Campanile di San Marco cũng chỉ giống như một ngọn đèn tín hiệu cho tất cả những ai mạo hiểm tiến vào cái mê cung kênh rạch và ngõ hẹp của Venice.
Khi một du khách bị lạc đường, chỉ cần nhìn lên bầu trời, sẽ nhận ra đường trở lại Quảng trường St. Mark. Langdon, vẫn thấy khó tin rằng tòa tháp đồ sộ này từng sụp đổ vào năm 1902, để lại một đống gạch vụn khổng lồ ngay Quảng trường St Mark. Điều kỳ lạ là chỉ có duy nhất một chú mèo bị thương vong trong thảm họa đó.
Du khách tới Venice sẽ đưọc trải nghiệm cảm giác độc đáo khi đến thăm những cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của nơi này, nhưng địa điểm ưa thích của Langdon luôn là Riva degli Schiavoni. Khu vực đi đạo lát đá rộng rãi này ngay kề mép nưóc và được xây dựng từ thế kỷ IX bằng phù sa nạo vét. Nó chạy dài từ xưởng tàu cũ đến tận Quảng trường St Mark.
Dọc theo nó là các quán cà phê xinh xắn, những khách sạn trang nhã, và thậm chí cả nhà thờ của gia đình Antonio Vivaldi (40). Điểm khởi đầu của Riva là tại xưởng đóng tàu cổ của Venice - noi mùi hương nồng nồng của chất nhựa cây đun sôi từng tràn ngập không khí khi những người thợ đóng tàu quét nhựa nóng lên những con tàu chưa hoàn thiện để bít kín các lỗ thủng. Người ta đồn rằng chính một lần tới thăm các xưởng đóng tàu này mà Dante Alighieri có cảm hứng đưa những dòng sông nhựa sôi sùng sục vào Hỏa ngục của mình như một công cụ trừng phạt.
(40) Antonio Vivaldi (sinh năm1678 tại Venice, mất năm 1741 tại Vienna) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và dàn đồng ca “della Picta” của Venice
Langdon đưa mắt sang phải bám theo Riva chạy dọc bên nước, và dừng lại ở đoạn cuối rất ấn tượng của khu vực đi dạo này. Ở đây, trên rìa tận cùng phía nam của Quảng trường St Mark, không gian lát đá rộng rãi này tiếp xúc trực tiếp với biển. Vào thời hoàng kim của Venice, chỗ vách bờ dựng đứng này được tự hào đặt tên là “rìa của tất cả nền văn minh".
Hôm nay, khoảng không gian dài ba trăm thước nơi Quảng trường St. Mark gặp gỡ biển cả, vẫn như mọi khi có không dưới trăm chiếc thuyền đáy bằng sơn đen bập bênh va vào bờ neo, mũi thuyền hình lưỡi hái nhô lên ngụp xuống trên nền những tòa nhà bằng đá cẩm thạch trắng của quảng trường.
Langdon vẫn không hiểu vì lý do gì mà cái thành phố nhỏ bé – chỉ rộng gấp đôi công viên Central Park ở New Yofk - vươn lên từ biển khơi này lại có thể trở thành đế chế rộng lớn và giàu có nhất phương Tây.
Khi Maurizio cho thuyền chạy lại gần hơn, Langdon có nhận ra quảng trường chính đông nghịt người. Napoleon từng gọi Quảng trường St. Mark là "phòng khách của châu Âu", và theo cảnh tượng nhìn thấy, "gian phòng" này đang chủ trì một đại tiệc đông nghịt khách khứa. Toàn bộ quảng trường trông như thể bị chìm dưới sức nặng của các vị khách tới chiêm ngưỡng.
"Chúa ơi", Sienna thì thào, mắt nhìn đám đông khách tham quan.
Langdon không rõ có phải cô nói như vậy vì sợ rằng Zobrist có thể đã lựa chọn một địa điểm đông đúc như thế này để tung ra đại dịch của hắn, hay bởi vì cô cảm thấy rằng trên thực tế Zobrist có thế có lý khi cảnh báo về những hiểm họa của tình trạng quá tải dân số.
Mỗi năm Venice đón tiếp một số lượng du khách đông kinh khủng - ước tính chiếm đến một phần ba dân số thế giới - khoảng hai mươi triệu khách trong năm 2000. Với con số một tỉ người được bổ sung vào dân số thế giới kể từ thời gian đó, giờ đây hàng năm, thành phố này đang phải rên rỉ dưới sức nặng của thêm ba triệu du khách nữa. Venice, giống như chính hành tinh này, chỉ có một không gian nhất định, và đến một lúc nào đó sẽ không còn khả năng nhập đủ lương thực, xử lý đủ lượng chất thải, hay tìm đủ giường ngủ cho tất cả những người muốn tới thăm nó.
Ferris đứng gần đó, nhưng mắt không nhìn về phía đất liền rmà lại nhìn ra biển, quan sát tất cả những con tàu đang tiến vào.
"Anh ổn chứ?, Sienna hỏi, mắt nhìn ông ta vẻ tò mò.
Ferris quay phắt lại. "Ơ, tốt thôi… chỉ đang suy nghĩ." Ông ta hướng lên phía trước và gọi Maurizio: "Đậu càng gần St. Mark càng tốt nhé”.
"Không thành vấn để!" Anh chàng lái thuyền vẫy tay. "Hai phút thôi.”
Chiếc limousine nước giờ đã đến ngang tầm Quầng trường St. Mark, và Dinh Tổng trấn đứng uy nghiêm bên tay phải nổi bật trên bờ biển.
Là một ví dụ hoàn hảo cho kiến trúc Venetian Gothic, tòa cung điện này chẳng khác gì một bài tập về cách tiết chế sự tao nhã. Không hề có những tháp pháo hay tháp canh vẫn gắn liền với cung điện của Pháp hay Anh, công trình này được tạo hình như một lăng trụ vuông vức rất lớn, đem lại không gian vô cùng rộng rãi phía bên trong, là nơi lưu trú của chính phủ trọng yếu cùng bộ máy hỗ trợ của tổng trấn.
Nhìn từ đại dương, tòa cung điện đồ sộ bằng đả vôi trắng trông có vẻ ngạo nghễ nếu không tiết chế một cách thận trọng hiệu ứng ấy bằng cách bổ sung thêm những mái cổng, cột trụ, hàng lang ngoài và những lỗ răng cưa hình lá bốn thùy. Những hoa văn kỳ lạ bằng đá vôi hồng xuất hiện khắp mặt ngoài, gợi cho Langdon nhớ đến pháo đài Alhambra (41) ở Tây Ban Nha.
(41) Alhambra (tên đầy đủ Calat Alhambra) là một quần thể cung điện và pháo đài nằm ở Granada, Andalusia, Tây Ban Nha. Nguyên thuỷ, đây là một pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ quên cho tới khi được vua người Moor Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào giữa thế kỉ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung năm 1333.
Khi thuyền áp sát bờ neo hơn, Ferris có vẻ lo lắng trước đám đông phía trước cung điện. Một đám đông khác tụ tập trên cầu, và mọi thành viên đều đang chỉ tay xuống một dòng kênh hẹp cắt giữa hai khu rộng lớn của Dinh Tổng trấn.
“Họ đang nhìn gì thế?", Ferris thắc mắc, giọng đầy lo lắng.
“Il Ponte del Sospiri", Sienna đáp. "Một cây cầu nổi tiếng của Venice.”
Langdon nhìn xuống con kênh chật hẹp về phía một đường hầm kín mít có chạm trổ rất đẹp uốn vòng giữa hai tòa nhà. Cầu thở dài, anh nghĩ thầm, nhớ lại một bộ phim mình rất thích khi còn bé là A Little Romance, được xây dựng dựa trên câu chuyện rằng nếu lúc hoàng hôn, hai người trẻ tuổi hôn nhau dưới cây cầu này trong khi Nhà thờ St. Mark đổ chuông, thì tình yêu của họ sẽ mãi mãi bềnvững. Cái ý niệm vô cùng lãng mạn ấy đọng lại trong Langdon suốt cả đời anh. Dĩ nhiên, còn có lý do nữa là bộ phim có diễn viên chính là một thiếu nữ mười bốn tuổi đáng yêu có tên Diane Lane, khiến cho Langdon lập tức mê mẩn. Đó là thứ tình cảm thời niên thiếu mà Langdon chưa bao giờ muốn lãng quên.
Nhiều năm sau, Langdon thấy sợ khi biết rằng cầu Thở dài có tên gọi như vậy không phải từ những tiếng thở hổn hển đầy đam mê, mà từ những tiếng thở dài đau khổ. Hóa ra, cái lối đi kín mít ấy có chức năng nối giữa dinh của tổng trấn và nhà tù của ông ta, nơi những người tù héo hon và qua đời, tiếng rên rỉ đau khổ của họ vọng qua những ô cửa sổ chặn lưới sắt trổ dọc theo con kênh hẹp.
Langdon từng tới thăm nhà tù một lần, và rất ngạc nhiên khi biết rằng những buồng giam đáng sợ nhất không phải là những buồng ngang mực nước, vốn thường xuyên bị ngập, mà là những buồng ở sàn trên cùng của cung điện đích thực - gọi là piombi do có phần mái ốp chỉ khiến cho những gian buồng ấy nóng khủng khiếp vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa đông, Người tình vĩ đại Casanova (42) đã từng là một người tù trong piombi vì bị tòa án dị giáo buộc tội thông dâm và làm gián điệp, anh ta sống sót qua mười lăm tháng bị giam cầm và trốn thoát bằng cách lừa giám ngục.
(42) Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu chuyện đời tôi được xem như một trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và tiêu chuẩn xã hội Châu Âu trong thế kỷ XVIII, ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ nữ, và kể nhiều chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.
“Chú ý vào!” Maurizio quát to với một người điều khiển thuyền đáy bằng khi chiếc limousine của họ lướt vào vị trí buông neo mà chiếc thuyền kia vừa bỏ trống. Anh ta tìm thấy một nơi ở phía trước khách sạn Danielli, chỉ cách Quảng trường St. Mark và Dinh Tổng trấn một trăm thước.
Marizio quăng một sợi dây quanh cọc neo và nhảy lên bờ, như thể đang thử vai cho bộ phim phiêu lưu lục lâm thảo khấu. Khi đã buộc chắc thuyền, anh ta quay lại và chìa một tay xuống thuyền như muốn giúp các vị khách lên bờ.
‘”Cảm ơn anh", Langdon nói lúc anh chàng Ý vạm vỡ kéo anh lên bờ.
Ferrit theo sau, trông hơi thiếu tập trung và lại liếc nhìn ra ngoài biển.
Sienna là người cuối cùng lên bờ. Khi nhấc bổng cô lên bờ, anh chàng Marizio điển trai nhìn xoáy vào cô như hàm ý rằng cô sẽ có một quãng thời gian tuyệt vời hơn nữa nếu hất cẳng hai gã đồng hành và ở lại trên thuyền với anh ta. Sienna dường như không chú ý.
“Cảm ơn, Marizio”, cô lơ đễnh nói, ánh mắt tập trung vào Dinh Tổng trấn gần đó.
Sau đó, không bỏ lỡ một bước, cô cùng Langdon và Ferris hòa vào đám đông.
Chương 70
Được đặt theo tên một trong những nhà du hành lừng danh một lịch sử, sân bay quốc tế Marco Polo nằm cách Quảng trường St. Mark bốn dặm về phía bắc trên vùng nước của phá Veneta.
Nhờ dịch vụ bay riêng xa xỉ, Elizabeth Sinskey vừa rời máy bay chỉ mới mười phút thì đã băng băng lướt sóng vượt qua phá trên chiếc xuồng chở khách màu đen, kiểu viễn tưởng – một chiếc Dubois SR52 Blackbird – do chính người lạ mặt nói chuyện trên điện thoại lúc trước gửi tới.
Thị trưởng.
Với Sinskey, sau khi bị giữ ở phía sau chiếc xe thùng suốt cả ngày, không khí của đại dương như tiếp thêm sinh lực cho bà. Bà ngoảnh mặt về phía làn gió mằn mặn và để cho mái tóc bạc của mình xổ tung về phía sau. Gần hai tiếng đã trôi qua kể từ khi bị tiêm mũi cuối cùng, rốt cuộc bà đã thấy tỉnh táo. Lần đầu tiên kể từ tối qua, Elizabeth Sinskey được là chính mình.
Đặc vụ Brüder ngồi bên cạnh bà cùng với đội của anh ta. Không ai trong số họ nói một lời. Nếu họ lo lắng về cuộc hẹn hò bất thường này, thì họ đều lập tức biết rõ suy nghĩ ấy không phù hợp ở đây, bởi quyết định không phải do họ đưa ra.
Chiếc xuồng phăm phăm lao về phía trước cho tới khi một hòn đảo lớn hiện dần ra ở bên phải, bờ đảo điểm những tòa nhà gạch thấp cùng những ống khói, Murano, Elizabeth nhận ra đó là những nhà máy thổi thủy tinh nổi tiếng.
Mình không tin được là mình trở lại đây, bà thầm nghĩ, lòng ngập tràn một nỗi buồn tê tái. Một vòng tròn trọn vẹn.
Nhiều năm trước, khi còn học ở trường y, bà đã tới Venice cùng với vị hôn phu của mình và tới thăm Bảo tàng Thủy tinh Murano. Ở đó, vị hôn phu của bà chú ý đến một vật xoay tròn thủy tinh thổi bằng tay rất đẹp và vô tình nói rằng ông muốn có vật giống như thế để một ngày nào đó đem treo trong phòng con nhỏ của họ. Cảm thấy có lỗi vì đã giữ kín bí mật đau lòng quá lâu, cuối cùng Elizabeth đã bộc bạch với ông về chứng hen suyễn lúc còn nhỏ là những buổi điều trị bằng glucocorticoid tai hại đã hủy hoại cơ quan sinh sản của bà.
Elizabeth không bao giờ biết được liệu sự thiếu trung thực hay chuyện vô sinh của bà đã biến trái tim người đàn ông trẻ thành sắt đá. Nhưng một tuần sau, bà rời Venice mà không còn chiếc nhẫn đính hôn.
Vật kỷ niệm duy nhất về chuyến đi đau khổ đó chính là chiếc bùa lam ngọc. Cây gậy Asclepius là một biểu tượng thích hợp cho y học – một liều thuốc đắng trong trường hợp này – nhưng bà đã luôn đeo nó kể từ khi đó.
Chiếc bùa quý giá của mình, bà thầm nghĩ. Món quà chia tay từ một người đàn ông muốn mình sinh con cho anh ấy.
Ngày nay, đối với bà, các đảo Venice không còn lãng mạn, nhưng ngôi làng biệt lập của chúng gợi lên ý nghĩ không phải về tình yêu mà về những khu vực kiểm dịch từng được thiết lập trên đó để kiểm soát Cái chết Đen.
Khi chiếc tàu Blackbird lao qua đảo San Pietro, Elizabeth nhận ra họ đang hướng đến một du thuyền màu xám rất lớn, hình như buông neo ở một luồng nước sâu, chờ họ đến.
Con tàu màu xám kim khí trông như một hạng mục trong Chương trình lá chắn của quân đội Hoa Kỳ. Cái tên ghi rõ ở phía sau không cho biết điều gì về thể loại tàu cả.
The Mendacium?
Con tàu hiện ra càng lúc càng lớn hơn, chỉ chốc lát Sinskey đã có thể nhìn rõ nhất bóng người đơn đọc đứng trên boong sau – nhất người đàn ông cô độc, nhỏ bé, nước da rám nắng, đang quan sát họ qua ống nhòm. Khi chiếc Blackbird tiến lại khoang neo đậu ở phía sau tàu The Mendacium, người đàn ông bước xuống thang để đón họ.
“Tiến sĩ Sinskey, chào mừng bà lên tàu.” Người đàn ông sạm nắng lịch thiệp bắt tay bà, bàn tay ông ta mềm và nhẵn, không thể là tay của một thủy thủ. “Tôi rất mừng vì bà đến. Xin hãy theo tôi.”
Khi cả nhóm leo lên vài tầng, Sinskey mới chú ý đến cách bài trí giống như các buồng ngăn ô nhộn nhịp. Con tàu kỳ lạ này thực tế chứa nhiều người, nhưng không có ai nghỉ ngơi cả - tất cả bọn họ đều đang làm việc.
Làm việc gì chứ?
Khi họ leo tiếp lên cao, Sinskey có thể nghe rõ tiếng động cơ rất mạnh của con tàu chạy ầm ầm, tạo ra một lằn nước sâu khi con tàu bắt đầu chuyển động.
Chúng ta đi đâu đây nhỉ? Bà cảnh giác thắc mắc.
“Tôi muốn nói chuyện riêng với tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói với mấy người lính, hơi ngừng lại để nhìn Sinskey. “ Nếu bà thấy tiện?”
Elizabeth gật đầu.
“Thưa ngài”, Brüder miễn cưỡng nói, “Tôi đề nghị một bác sĩ trên tàu kiểm tra cho tiến sĩ Sinskey. Bà ấy có một số …”
“Tôi không sao”, Sinskey xen vào. “Thực sự. Nhưng cũng cảm ơn anh”
Thị trưởng nhìn Brüder một lúc lâu và sau đó ra hiệu về phía một bàn thức ăn đồ uống đã được bố trí trên boong. “Nghỉ ngơi đi. Các anh cần như vậy. Chỉ lát nữa là các anh phải quay vào bờ rồi”
Không bận tâm thêm nữa, thị trưởng quay lưng lại gã đặc vụ và dẫn Sinskey vào một phòng khách tiếp cũng là phòng làm việc trang nhã, đóng cửa lại phía sau.
“Bà uống một chút chứ?”, ông ta hỏi, ra hiệu về phía quầy rượu.
Bà lắc đầu, vẫn đang cố tìm hiểu không gian kỳ lạ xung quanh mình. Người đàn ông này là ai? Ông ta làm gì ở đây?
Lúc này vị chủ nhà đang quan sát bà, những ngón tay của ông ta đỡ bên dưới cằm. “Chắc bà biết ông khách Bertrand Zobrist của tôi gọi bà là ‘con quỷ tóc bạc’ phải không?”
“Tôi cũng có một số tên gọi dành cho hắn.”
Người đàn ông không để lộ cảm xúc gì trong lúc đi về phía bàn làm việc và chỉ tay xuống một cuốn sách to. “Tôi rất muốn bà xem thứ này.”
Sinskey bước lại và nhìn trang bìa. Hỏa ngục của Dante à? Bà nhớ lại những hình ảnh chết chóc rùng rợn mà Zobrist đã cho bà xem trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
“Zobrist cũng cho tôi xem thứ này hai tuần trước. Còn có một dòng chữ nữa.”
Sinskey chăm chú nhìn dòng chữ viết tay trên trang bìa. Nó có chữ ký của Zobrist.
Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi. Thế giới cũng cảm ơn bạn.
Sinskey cũng cảm thấy rùng mình. “Ông đã giúp hắn tìm ra con đường nào?”
“Tôi không hề biết. Hay đúng hơn, cho tới vài tiếng trước thì tôi vẫn chưa biết.”
“Còn bây giờ?”
“Giờ tôi đã pải tạo ra một ngoại lệ hiếm hoi trong quy trình của minh…và tôi mời bà đến.”
Sinskey đã đi cả một chặng đường dài và không có tâm trí đâu cho một cộc trò chuyện khó hiểu. “Thưa ông, tôi không biết ông là ai, hay ông đang làm việc quái gì trên con tàu này, nhưng ông nợ tôi một lời giải thích. Hãy cho tôi biết tại sao ông lại che giấu một kẻ đang bị Tổ chức Y tế Thế giới tích cực truy lùng.”
Bất chấp giọng nói nóng nảy của Sinskey, người đàn ông vẫn trả lời rất khẽ như thì thào. “Tôi nhận ra bà và tôi đang làm việc vì những mục tiêu xung đột với nhau, nhưng tôi mong rằng chúng ta nên quên đi quá khứ. Tương lai, như tôi cảm nhận được, chính là những gì đòi hỏi chúng ta phải chú tâm ngay lập tức.”
Nói xong, người đàn ông rút ra một thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào máy tính của mình, ra hiệu cho bà ngồi xuống. “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này, Ông ta muốn tôi phát tán nó cho ông ta vào sáng mai.”
Sinskey chưa kịp đáp lại thì màn hình máy tính đã chuyển sang lờ mờ và bà nghe thấy những âm thanh nhè nhẹ của nước. Một khung cảnh bắt đầu hiện rõ trong bóng tối của lòng hang ngập nước, giống như một cái hồ chìm dưới lòng đất. Điều lạ lùng là có vẻ như nước đã được chiếu sáng từ bên trong, phát ra thứ ánh sáng đỏ đòng đọc rất kỳ quái.
Tiếng nước róc rách vẫn tiếp tục, máy quay lia xuống dưới và chìm hẳn vào làn nước, định vị trên nền hang phủ đầy bùn. Bắt vít xuống nền hang là tấm biển hình chữ nhật sáng loáng khắc ngày tháng và một cái tên bên trên.
“TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.”
Ngày tháng chính là ngày mai. Còn cái tên là Bertrand Zobrist. Sinskey thấy rùng mình. “Chỗ này là đâu vậy?!”, bà hỏi. “Chỗ này là nơi nào?!”
Để đáp lại, Thị trưởng biểu lộ chút cảm đầu tiên của ông ta – một tiếng thở dài thất vọng và lo lắng. “Tiến sĩ Sinskey”, ông ta đáp, “tôi hy vọng bà có thể biết được câu trả lời cho thắc mắc ấy”.
Cách đó một dặm, trên lối tản bộ bên bờ nước của Riva degli Schiavoni, cảnh tượng nhìn ra phía biển có chút thay đổi. Nếu có ai đó quan sát kỹ, ắt sẽ nhận ra một du thuyền màu xám rất lớn vừa xuất hiện chỗ mũi đất phía đông. Giờ nó đang hướng về phía quảng trường St.Mark.
Tàu The Mendacium fs-2080 nhận ra ngay cùng với chút sợ hãi.
Phần thân tàu màu xám không thể lẫn đi đâu được.
Thị trưởng đang đến…và thời gian đang cạn dần.
Quảng trường St Mark nằm ở đầu mút phía nam Đại Vận Hà của Venice, nơi thủy lộ này nhập vào biển khơi. Nhìn xuống chỗ giao thoa nguy hiểm này là pháo đài hình tam giác mộc mạc mang tên Dogana da Mar - Văn phòng Thuế quan Hàng hải - với tòa tháp canh từng trấn giữ cho Venice trước sự xâm lăng của ngoại bang. Ngày nay, tòa tháp được thay thế bằng một quả cầu vàng rất lớn và một cái chong chóng thời tiết có hình nữ thần may mắn, mỗi khi thay đổi hướng theo chiều gió đều nhắc cho các thủy thủ gắn bó với đại dương nhớ đến sự khó lường của số phận.
Khi Maurizio cho chiếc thuyền bóng bẩy lướt về cuối con kênh, biển khơi sóng vỗ hiện ra trước mặt họ đầy hăm dọa. Robert Langdon đã đi theo tuyến đường này nhiều lần trước đó, mặc dù luôn bằng một chiếc phà lớn hơn nhiểu, và anh cảm thấy không thoải mái khi chiếc limousine của họ nhào lên những ngọn sóng cơn đang cuộn lên từng đợt.
Để tới được cầu cảng của Quảng trường St Mark, thuyền của họ cần vượt qua một vùng đầm tắc nghẽn với hàng trăm phương tiện thủy, từ những du thuyền sang trọng đến tàu chở dầu, các thuyền buồm tư nhân, và cả những tàu lớn đồ sộ. Có cảm giác như thể họ đang ra khỏi một con đường thôn quê và hòa vào một siêu xa lộ tám làn xe vậy.
Sienna có vẻ bối rối không kém khi nhìn thấy con tàu chở khách cao mười tầng lừng lững đang lướt qua trước họ, chỉ cách có ba trăm thước. Các sàn tàu lố nhố hảnh khách, tất cả đều bu lấy lan can chụp ảnh Quảng trường St Mark từ phía biển. Trong vệt nước cồn lên của con tàu, ba chiếc tàu khác xếp hàng chờ đến lượt lướt qua danh thắng nổi tiếng nhất của Venice. Langdon từng nghe nói rằng trong những năm gần đầy, số tàu thuyền đã tăng lên nhanh đến mức có cả chuỗi tàu biển bất tận qua lại suốt ngày đêm,
Ở ví trí cầm lái, Maurizio nhìn dãy tàu chở khách đang lướt qua và nhìn sang trái nơi có một cầu cảng có mái che nằm cách đó không xa. "Tôi đỗ ở quán rượu Harry's nhé?" Anh ta ra hiệu về phía nhà hàng nổi tiếng vì đã sáng chế ra món đồ uống Bellini (39). “Đi bộ đến Quảng trường St Mark không xa lắm đâu."
(39): Loại cocktail là hỗn hợp của rượu vang Procecco và đào nghiền nhuyễn.
"Không được, đưa chúng tôi đi hết đường đi” Ferris yêu cầu, chỉ tay qua đầm nước về phía nhũng cầu cảng của Quảng trường St Mark.
Maurizio nhún vai hiền lành. "Sẽ được như ý các vị thôi. Đi nào.”
Tiếng động cơ rồ lên và chiếc limousine bắt đầu cắt qua mặt nước gợn sóng, lao vào một trong những luồng lạch có phao tiêu đánh dấu. Những con tàu lớn chở khách đang lướt qua trông chẳng khác gì các tòa nhà nổi, lằn sóng của chúng xô những chiếc thuyền tựa như những cái phao bẩn.
Trước sự ngạc nhiên của Langdon, hàng chục chiếc thuyền đáy bằng cũng đang băng băng vượt đầm nước như họ. Những thân thuyền thanh mảnh - dải gần một trăm hai mươi mét và nặng hơn sáu trăm cân - có vẻ rất vững vàng trong vùng nước sóng gió. Mỗi thuyền do một người chèo vững chân điều khiển. Họ đứng trên bên mạn trái thân thuyền, mặc áo sơ mi kẻ sọc đen trắng truyền thống và điều khiển một mái chèo duy nhất gắn vào mép thuyền bên phải. Mặc dù sóng lớn nhưng thấy rõ chiếc thuyền đáy bằng nào cũng nghiêng nghiêng sang trái đầy bí ẩn, một điều kỳ quái mà Langdon biết là do kết cấu phi đối xứng của thuyền. Tất cả thân thuyền đáy bằng đều uốn cong về bên phải, ngược với phía lái thuyền, để khắc phục xu hướng thuyền cứ xoay sang trái do chèo thuyền bên phải.
Maurizio tự hào chi vào một trong những chiếc thuyền đáy bằng khi họ chạy qua nó. "Các vị thấy thiết kế kim loại ở đằng trước không?", anh ta gọi với lại qua vai, làm hiệu về phía món đồ trang trí trang nhã nhô ra từ mũi thuyền. "Đó là bộ phận kim loại duy nhất trên thuyền đáy bằng - gọi là aferró di prua - lưỡi hái sắt mũi thuyền. Đó chính là hình ảnh của Venice!"
Maurizio giải thích rằng bộ phận trang trí hình lưỡi hái nhô lên từ mũi thuyền đáy bằng ở Venice có một ý nghĩa biểu trưng. Hình dạng uốn cong của ferro đại diện cho Đại Vận Hà, sáu răng của nó thể hiện cho sáu quận hay sestieri của Venice, và phần lưỡi thuôn là mũ sắt cách điệu của quan tổng trấn Venice.
Quan tổng trấn, Langđon nghĩ thầm, ý nghĩ của anh quay trở lại với nhiệm vụ trước mắt. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những đầu ngựa... và moi xương cả người mù lòa.
Langdon đưa mắt ngước nhìn dải đất ven bờ phía trước, nơi một công viên nhỏ có trồng cây tiếp giáp với mép nước. Vượt lên trên những ngọn cây in bóng lên bầu trời không gợn mây là tòa tháp bằng gạch đỏ của tháp chuông St. Mark, trên đỉnh có Tổng lãnh thiên thần Gabriel bằng vàng dõi mắt nhìn xuống từ độ cao chóng mặt, gần một trăm mét.
Trong một thành phố mà mọi vật dù cao lớn đến đâu cũng đều có xu hướng dễ chìm nghỉm, thì tòa tháp sừng sững Campanile di San Marco cũng chỉ giống như một ngọn đèn tín hiệu cho tất cả những ai mạo hiểm tiến vào cái mê cung kênh rạch và ngõ hẹp của Venice.
Khi một du khách bị lạc đường, chỉ cần nhìn lên bầu trời, sẽ nhận ra đường trở lại Quảng trường St. Mark. Langdon, vẫn thấy khó tin rằng tòa tháp đồ sộ này từng sụp đổ vào năm 1902, để lại một đống gạch vụn khổng lồ ngay Quảng trường St Mark. Điều kỳ lạ là chỉ có duy nhất một chú mèo bị thương vong trong thảm họa đó.
Du khách tới Venice sẽ đưọc trải nghiệm cảm giác độc đáo khi đến thăm những cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của nơi này, nhưng địa điểm ưa thích của Langdon luôn là Riva degli Schiavoni. Khu vực đi đạo lát đá rộng rãi này ngay kề mép nưóc và được xây dựng từ thế kỷ IX bằng phù sa nạo vét. Nó chạy dài từ xưởng tàu cũ đến tận Quảng trường St Mark.
Dọc theo nó là các quán cà phê xinh xắn, những khách sạn trang nhã, và thậm chí cả nhà thờ của gia đình Antonio Vivaldi (40). Điểm khởi đầu của Riva là tại xưởng đóng tàu cổ của Venice - noi mùi hương nồng nồng của chất nhựa cây đun sôi từng tràn ngập không khí khi những người thợ đóng tàu quét nhựa nóng lên những con tàu chưa hoàn thiện để bít kín các lỗ thủng. Người ta đồn rằng chính một lần tới thăm các xưởng đóng tàu này mà Dante Alighieri có cảm hứng đưa những dòng sông nhựa sôi sùng sục vào Hỏa ngục của mình như một công cụ trừng phạt.
(40) Antonio Vivaldi (sinh năm1678 tại Venice, mất năm 1741 tại Vienna) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và dàn đồng ca “della Picta” của Venice
Langdon đưa mắt sang phải bám theo Riva chạy dọc bên nước, và dừng lại ở đoạn cuối rất ấn tượng của khu vực đi dạo này. Ở đây, trên rìa tận cùng phía nam của Quảng trường St Mark, không gian lát đá rộng rãi này tiếp xúc trực tiếp với biển. Vào thời hoàng kim của Venice, chỗ vách bờ dựng đứng này được tự hào đặt tên là “rìa của tất cả nền văn minh".
Hôm nay, khoảng không gian dài ba trăm thước nơi Quảng trường St. Mark gặp gỡ biển cả, vẫn như mọi khi có không dưới trăm chiếc thuyền đáy bằng sơn đen bập bênh va vào bờ neo, mũi thuyền hình lưỡi hái nhô lên ngụp xuống trên nền những tòa nhà bằng đá cẩm thạch trắng của quảng trường.
Langdon vẫn không hiểu vì lý do gì mà cái thành phố nhỏ bé – chỉ rộng gấp đôi công viên Central Park ở New Yofk - vươn lên từ biển khơi này lại có thể trở thành đế chế rộng lớn và giàu có nhất phương Tây.
Khi Maurizio cho thuyền chạy lại gần hơn, Langdon có nhận ra quảng trường chính đông nghịt người. Napoleon từng gọi Quảng trường St. Mark là "phòng khách của châu Âu", và theo cảnh tượng nhìn thấy, "gian phòng" này đang chủ trì một đại tiệc đông nghịt khách khứa. Toàn bộ quảng trường trông như thể bị chìm dưới sức nặng của các vị khách tới chiêm ngưỡng.
"Chúa ơi", Sienna thì thào, mắt nhìn đám đông khách tham quan.
Langdon không rõ có phải cô nói như vậy vì sợ rằng Zobrist có thể đã lựa chọn một địa điểm đông đúc như thế này để tung ra đại dịch của hắn, hay bởi vì cô cảm thấy rằng trên thực tế Zobrist có thế có lý khi cảnh báo về những hiểm họa của tình trạng quá tải dân số.
Mỗi năm Venice đón tiếp một số lượng du khách đông kinh khủng - ước tính chiếm đến một phần ba dân số thế giới - khoảng hai mươi triệu khách trong năm 2000. Với con số một tỉ người được bổ sung vào dân số thế giới kể từ thời gian đó, giờ đây hàng năm, thành phố này đang phải rên rỉ dưới sức nặng của thêm ba triệu du khách nữa. Venice, giống như chính hành tinh này, chỉ có một không gian nhất định, và đến một lúc nào đó sẽ không còn khả năng nhập đủ lương thực, xử lý đủ lượng chất thải, hay tìm đủ giường ngủ cho tất cả những người muốn tới thăm nó.
Ferris đứng gần đó, nhưng mắt không nhìn về phía đất liền rmà lại nhìn ra biển, quan sát tất cả những con tàu đang tiến vào.
"Anh ổn chứ?, Sienna hỏi, mắt nhìn ông ta vẻ tò mò.
Ferris quay phắt lại. "Ơ, tốt thôi… chỉ đang suy nghĩ." Ông ta hướng lên phía trước và gọi Maurizio: "Đậu càng gần St. Mark càng tốt nhé”.
"Không thành vấn để!" Anh chàng lái thuyền vẫy tay. "Hai phút thôi.”
Chiếc limousine nước giờ đã đến ngang tầm Quầng trường St. Mark, và Dinh Tổng trấn đứng uy nghiêm bên tay phải nổi bật trên bờ biển.
Là một ví dụ hoàn hảo cho kiến trúc Venetian Gothic, tòa cung điện này chẳng khác gì một bài tập về cách tiết chế sự tao nhã. Không hề có những tháp pháo hay tháp canh vẫn gắn liền với cung điện của Pháp hay Anh, công trình này được tạo hình như một lăng trụ vuông vức rất lớn, đem lại không gian vô cùng rộng rãi phía bên trong, là nơi lưu trú của chính phủ trọng yếu cùng bộ máy hỗ trợ của tổng trấn.
Nhìn từ đại dương, tòa cung điện đồ sộ bằng đả vôi trắng trông có vẻ ngạo nghễ nếu không tiết chế một cách thận trọng hiệu ứng ấy bằng cách bổ sung thêm những mái cổng, cột trụ, hàng lang ngoài và những lỗ răng cưa hình lá bốn thùy. Những hoa văn kỳ lạ bằng đá vôi hồng xuất hiện khắp mặt ngoài, gợi cho Langdon nhớ đến pháo đài Alhambra (41) ở Tây Ban Nha.
(41) Alhambra (tên đầy đủ Calat Alhambra) là một quần thể cung điện và pháo đài nằm ở Granada, Andalusia, Tây Ban Nha. Nguyên thuỷ, đây là một pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ quên cho tới khi được vua người Moor Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào giữa thế kỉ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung năm 1333.
Khi thuyền áp sát bờ neo hơn, Ferris có vẻ lo lắng trước đám đông phía trước cung điện. Một đám đông khác tụ tập trên cầu, và mọi thành viên đều đang chỉ tay xuống một dòng kênh hẹp cắt giữa hai khu rộng lớn của Dinh Tổng trấn.
“Họ đang nhìn gì thế?", Ferris thắc mắc, giọng đầy lo lắng.
“Il Ponte del Sospiri", Sienna đáp. "Một cây cầu nổi tiếng của Venice.”
Langdon nhìn xuống con kênh chật hẹp về phía một đường hầm kín mít có chạm trổ rất đẹp uốn vòng giữa hai tòa nhà. Cầu thở dài, anh nghĩ thầm, nhớ lại một bộ phim mình rất thích khi còn bé là A Little Romance, được xây dựng dựa trên câu chuyện rằng nếu lúc hoàng hôn, hai người trẻ tuổi hôn nhau dưới cây cầu này trong khi Nhà thờ St. Mark đổ chuông, thì tình yêu của họ sẽ mãi mãi bềnvững. Cái ý niệm vô cùng lãng mạn ấy đọng lại trong Langdon suốt cả đời anh. Dĩ nhiên, còn có lý do nữa là bộ phim có diễn viên chính là một thiếu nữ mười bốn tuổi đáng yêu có tên Diane Lane, khiến cho Langdon lập tức mê mẩn. Đó là thứ tình cảm thời niên thiếu mà Langdon chưa bao giờ muốn lãng quên.
Nhiều năm sau, Langdon thấy sợ khi biết rằng cầu Thở dài có tên gọi như vậy không phải từ những tiếng thở hổn hển đầy đam mê, mà từ những tiếng thở dài đau khổ. Hóa ra, cái lối đi kín mít ấy có chức năng nối giữa dinh của tổng trấn và nhà tù của ông ta, nơi những người tù héo hon và qua đời, tiếng rên rỉ đau khổ của họ vọng qua những ô cửa sổ chặn lưới sắt trổ dọc theo con kênh hẹp.
Langdon từng tới thăm nhà tù một lần, và rất ngạc nhiên khi biết rằng những buồng giam đáng sợ nhất không phải là những buồng ngang mực nước, vốn thường xuyên bị ngập, mà là những buồng ở sàn trên cùng của cung điện đích thực - gọi là piombi do có phần mái ốp chỉ khiến cho những gian buồng ấy nóng khủng khiếp vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa đông, Người tình vĩ đại Casanova (42) đã từng là một người tù trong piombi vì bị tòa án dị giáo buộc tội thông dâm và làm gián điệp, anh ta sống sót qua mười lăm tháng bị giam cầm và trốn thoát bằng cách lừa giám ngục.
(42) Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu chuyện đời tôi được xem như một trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và tiêu chuẩn xã hội Châu Âu trong thế kỷ XVIII, ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ nữ, và kể nhiều chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.
“Chú ý vào!” Maurizio quát to với một người điều khiển thuyền đáy bằng khi chiếc limousine của họ lướt vào vị trí buông neo mà chiếc thuyền kia vừa bỏ trống. Anh ta tìm thấy một nơi ở phía trước khách sạn Danielli, chỉ cách Quảng trường St. Mark và Dinh Tổng trấn một trăm thước.
Marizio quăng một sợi dây quanh cọc neo và nhảy lên bờ, như thể đang thử vai cho bộ phim phiêu lưu lục lâm thảo khấu. Khi đã buộc chắc thuyền, anh ta quay lại và chìa một tay xuống thuyền như muốn giúp các vị khách lên bờ.
‘”Cảm ơn anh", Langdon nói lúc anh chàng Ý vạm vỡ kéo anh lên bờ.
Ferrit theo sau, trông hơi thiếu tập trung và lại liếc nhìn ra ngoài biển.
Sienna là người cuối cùng lên bờ. Khi nhấc bổng cô lên bờ, anh chàng Marizio điển trai nhìn xoáy vào cô như hàm ý rằng cô sẽ có một quãng thời gian tuyệt vời hơn nữa nếu hất cẳng hai gã đồng hành và ở lại trên thuyền với anh ta. Sienna dường như không chú ý.
“Cảm ơn, Marizio”, cô lơ đễnh nói, ánh mắt tập trung vào Dinh Tổng trấn gần đó.
Sau đó, không bỏ lỡ một bước, cô cùng Langdon và Ferris hòa vào đám đông.
Chương 70
Được đặt theo tên một trong những nhà du hành lừng danh một lịch sử, sân bay quốc tế Marco Polo nằm cách Quảng trường St. Mark bốn dặm về phía bắc trên vùng nước của phá Veneta.
Nhờ dịch vụ bay riêng xa xỉ, Elizabeth Sinskey vừa rời máy bay chỉ mới mười phút thì đã băng băng lướt sóng vượt qua phá trên chiếc xuồng chở khách màu đen, kiểu viễn tưởng – một chiếc Dubois SR52 Blackbird – do chính người lạ mặt nói chuyện trên điện thoại lúc trước gửi tới.
Thị trưởng.
Với Sinskey, sau khi bị giữ ở phía sau chiếc xe thùng suốt cả ngày, không khí của đại dương như tiếp thêm sinh lực cho bà. Bà ngoảnh mặt về phía làn gió mằn mặn và để cho mái tóc bạc của mình xổ tung về phía sau. Gần hai tiếng đã trôi qua kể từ khi bị tiêm mũi cuối cùng, rốt cuộc bà đã thấy tỉnh táo. Lần đầu tiên kể từ tối qua, Elizabeth Sinskey được là chính mình.
Đặc vụ Brüder ngồi bên cạnh bà cùng với đội của anh ta. Không ai trong số họ nói một lời. Nếu họ lo lắng về cuộc hẹn hò bất thường này, thì họ đều lập tức biết rõ suy nghĩ ấy không phù hợp ở đây, bởi quyết định không phải do họ đưa ra.
Chiếc xuồng phăm phăm lao về phía trước cho tới khi một hòn đảo lớn hiện dần ra ở bên phải, bờ đảo điểm những tòa nhà gạch thấp cùng những ống khói, Murano, Elizabeth nhận ra đó là những nhà máy thổi thủy tinh nổi tiếng.
Mình không tin được là mình trở lại đây, bà thầm nghĩ, lòng ngập tràn một nỗi buồn tê tái. Một vòng tròn trọn vẹn.
Nhiều năm trước, khi còn học ở trường y, bà đã tới Venice cùng với vị hôn phu của mình và tới thăm Bảo tàng Thủy tinh Murano. Ở đó, vị hôn phu của bà chú ý đến một vật xoay tròn thủy tinh thổi bằng tay rất đẹp và vô tình nói rằng ông muốn có vật giống như thế để một ngày nào đó đem treo trong phòng con nhỏ của họ. Cảm thấy có lỗi vì đã giữ kín bí mật đau lòng quá lâu, cuối cùng Elizabeth đã bộc bạch với ông về chứng hen suyễn lúc còn nhỏ là những buổi điều trị bằng glucocorticoid tai hại đã hủy hoại cơ quan sinh sản của bà.
Elizabeth không bao giờ biết được liệu sự thiếu trung thực hay chuyện vô sinh của bà đã biến trái tim người đàn ông trẻ thành sắt đá. Nhưng một tuần sau, bà rời Venice mà không còn chiếc nhẫn đính hôn.
Vật kỷ niệm duy nhất về chuyến đi đau khổ đó chính là chiếc bùa lam ngọc. Cây gậy Asclepius là một biểu tượng thích hợp cho y học – một liều thuốc đắng trong trường hợp này – nhưng bà đã luôn đeo nó kể từ khi đó.
Chiếc bùa quý giá của mình, bà thầm nghĩ. Món quà chia tay từ một người đàn ông muốn mình sinh con cho anh ấy.
Ngày nay, đối với bà, các đảo Venice không còn lãng mạn, nhưng ngôi làng biệt lập của chúng gợi lên ý nghĩ không phải về tình yêu mà về những khu vực kiểm dịch từng được thiết lập trên đó để kiểm soát Cái chết Đen.
Khi chiếc tàu Blackbird lao qua đảo San Pietro, Elizabeth nhận ra họ đang hướng đến một du thuyền màu xám rất lớn, hình như buông neo ở một luồng nước sâu, chờ họ đến.
Con tàu màu xám kim khí trông như một hạng mục trong Chương trình lá chắn của quân đội Hoa Kỳ. Cái tên ghi rõ ở phía sau không cho biết điều gì về thể loại tàu cả.
The Mendacium?
Con tàu hiện ra càng lúc càng lớn hơn, chỉ chốc lát Sinskey đã có thể nhìn rõ nhất bóng người đơn đọc đứng trên boong sau – nhất người đàn ông cô độc, nhỏ bé, nước da rám nắng, đang quan sát họ qua ống nhòm. Khi chiếc Blackbird tiến lại khoang neo đậu ở phía sau tàu The Mendacium, người đàn ông bước xuống thang để đón họ.
“Tiến sĩ Sinskey, chào mừng bà lên tàu.” Người đàn ông sạm nắng lịch thiệp bắt tay bà, bàn tay ông ta mềm và nhẵn, không thể là tay của một thủy thủ. “Tôi rất mừng vì bà đến. Xin hãy theo tôi.”
Khi cả nhóm leo lên vài tầng, Sinskey mới chú ý đến cách bài trí giống như các buồng ngăn ô nhộn nhịp. Con tàu kỳ lạ này thực tế chứa nhiều người, nhưng không có ai nghỉ ngơi cả - tất cả bọn họ đều đang làm việc.
Làm việc gì chứ?
Khi họ leo tiếp lên cao, Sinskey có thể nghe rõ tiếng động cơ rất mạnh của con tàu chạy ầm ầm, tạo ra một lằn nước sâu khi con tàu bắt đầu chuyển động.
Chúng ta đi đâu đây nhỉ? Bà cảnh giác thắc mắc.
“Tôi muốn nói chuyện riêng với tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói với mấy người lính, hơi ngừng lại để nhìn Sinskey. “ Nếu bà thấy tiện?”
Elizabeth gật đầu.
“Thưa ngài”, Brüder miễn cưỡng nói, “Tôi đề nghị một bác sĩ trên tàu kiểm tra cho tiến sĩ Sinskey. Bà ấy có một số …”
“Tôi không sao”, Sinskey xen vào. “Thực sự. Nhưng cũng cảm ơn anh”
Thị trưởng nhìn Brüder một lúc lâu và sau đó ra hiệu về phía một bàn thức ăn đồ uống đã được bố trí trên boong. “Nghỉ ngơi đi. Các anh cần như vậy. Chỉ lát nữa là các anh phải quay vào bờ rồi”
Không bận tâm thêm nữa, thị trưởng quay lưng lại gã đặc vụ và dẫn Sinskey vào một phòng khách tiếp cũng là phòng làm việc trang nhã, đóng cửa lại phía sau.
“Bà uống một chút chứ?”, ông ta hỏi, ra hiệu về phía quầy rượu.
Bà lắc đầu, vẫn đang cố tìm hiểu không gian kỳ lạ xung quanh mình. Người đàn ông này là ai? Ông ta làm gì ở đây?
Lúc này vị chủ nhà đang quan sát bà, những ngón tay của ông ta đỡ bên dưới cằm. “Chắc bà biết ông khách Bertrand Zobrist của tôi gọi bà là ‘con quỷ tóc bạc’ phải không?”
“Tôi cũng có một số tên gọi dành cho hắn.”
Người đàn ông không để lộ cảm xúc gì trong lúc đi về phía bàn làm việc và chỉ tay xuống một cuốn sách to. “Tôi rất muốn bà xem thứ này.”
Sinskey bước lại và nhìn trang bìa. Hỏa ngục của Dante à? Bà nhớ lại những hình ảnh chết chóc rùng rợn mà Zobrist đã cho bà xem trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
“Zobrist cũng cho tôi xem thứ này hai tuần trước. Còn có một dòng chữ nữa.”
Sinskey chăm chú nhìn dòng chữ viết tay trên trang bìa. Nó có chữ ký của Zobrist.
Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi. Thế giới cũng cảm ơn bạn.
Sinskey cũng cảm thấy rùng mình. “Ông đã giúp hắn tìm ra con đường nào?”
“Tôi không hề biết. Hay đúng hơn, cho tới vài tiếng trước thì tôi vẫn chưa biết.”
“Còn bây giờ?”
“Giờ tôi đã pải tạo ra một ngoại lệ hiếm hoi trong quy trình của minh…và tôi mời bà đến.”
Sinskey đã đi cả một chặng đường dài và không có tâm trí đâu cho một cộc trò chuyện khó hiểu. “Thưa ông, tôi không biết ông là ai, hay ông đang làm việc quái gì trên con tàu này, nhưng ông nợ tôi một lời giải thích. Hãy cho tôi biết tại sao ông lại che giấu một kẻ đang bị Tổ chức Y tế Thế giới tích cực truy lùng.”
Bất chấp giọng nói nóng nảy của Sinskey, người đàn ông vẫn trả lời rất khẽ như thì thào. “Tôi nhận ra bà và tôi đang làm việc vì những mục tiêu xung đột với nhau, nhưng tôi mong rằng chúng ta nên quên đi quá khứ. Tương lai, như tôi cảm nhận được, chính là những gì đòi hỏi chúng ta phải chú tâm ngay lập tức.”
Nói xong, người đàn ông rút ra một thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào máy tính của mình, ra hiệu cho bà ngồi xuống. “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này, Ông ta muốn tôi phát tán nó cho ông ta vào sáng mai.”
Sinskey chưa kịp đáp lại thì màn hình máy tính đã chuyển sang lờ mờ và bà nghe thấy những âm thanh nhè nhẹ của nước. Một khung cảnh bắt đầu hiện rõ trong bóng tối của lòng hang ngập nước, giống như một cái hồ chìm dưới lòng đất. Điều lạ lùng là có vẻ như nước đã được chiếu sáng từ bên trong, phát ra thứ ánh sáng đỏ đòng đọc rất kỳ quái.
Tiếng nước róc rách vẫn tiếp tục, máy quay lia xuống dưới và chìm hẳn vào làn nước, định vị trên nền hang phủ đầy bùn. Bắt vít xuống nền hang là tấm biển hình chữ nhật sáng loáng khắc ngày tháng và một cái tên bên trên.
“TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.”
Ngày tháng chính là ngày mai. Còn cái tên là Bertrand Zobrist. Sinskey thấy rùng mình. “Chỗ này là đâu vậy?!”, bà hỏi. “Chỗ này là nơi nào?!”
Để đáp lại, Thị trưởng biểu lộ chút cảm đầu tiên của ông ta – một tiếng thở dài thất vọng và lo lắng. “Tiến sĩ Sinskey”, ông ta đáp, “tôi hy vọng bà có thể biết được câu trả lời cho thắc mắc ấy”.
Cách đó một dặm, trên lối tản bộ bên bờ nước của Riva degli Schiavoni, cảnh tượng nhìn ra phía biển có chút thay đổi. Nếu có ai đó quan sát kỹ, ắt sẽ nhận ra một du thuyền màu xám rất lớn vừa xuất hiện chỗ mũi đất phía đông. Giờ nó đang hướng về phía quảng trường St.Mark.
Tàu The Mendacium fs-2080 nhận ra ngay cùng với chút sợ hãi.
Phần thân tàu màu xám không thể lẫn đi đâu được.
Thị trưởng đang đến…và thời gian đang cạn dần.
Bình luận facebook