• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG vietwriter.co TỪ NGÀY 18/11

New TỪNG THỀ ƯỚC (6 Viewers)

  • Chương 11-12

Quyển 1 – Chương 11: Chàng Đừng Quên, Hẹn Nặng Tày Non[1]


[1] Trích trong bài “Kim Lũ khúc – Tặng Lương Phần” của Nạp Lan Tinh Đức (1655-1685), từ nhân đời Thanh. (ND)


Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước, như thể muốn Viêm Đế trông rõ những lời mà ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.


Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.


Sau sáu mươi năm bị Vương Mẫu giam cầm. A Hành mới lại được một mình rong ruổi khắp đại hoang, nhưng giờ đây nàng không còn là Tây Lăng Hành to gan làm loạn nữa, mà đã trở thành Tây Lăng công tử trị bệnh cứu người.


Tây Lăng công tử chữa bệnh cứu người không lấy một xu, chỉ yêu cầu cả nhà người bệnh hàng ngày sớm tối đều hướng về phía Thần Nông sơn thành tâm cầu chúc.


Nghe nói vạn vật đều có linh tính, chỉ cần có lòng thành, thành ý của vạn người trong thiên hạ có thể dung hợp với linh khí đất trời, giảm thiểu đau khổ của thế gian, đây chính là nguyên nhân tại sao thời loạn thường xuất hiện anh hùng, bởi người đời mong có một vị anh hùng để dẹp yên mọi chuyện, anh hùng cũng theo lẽ trời mà sinh ra.


Mỗi lần đi tới đâu, Tây Lăng công tử đều lập trường mở lớp, phàm là người yêu thích y thuật, bất kể thân phận cao thấp địa vị sang hèn đều có thể tới nghe giảng.


Theo bước chân rong chơi khắp cõi đại hoang, y thuật của Tây Lăng công tử cũng càng lúc càng tiến bộ.


Rất nhiều thầy thuốc nổi danh sùng bái Tây Lăng công tử, họ cho rằng trò chuyện với Tây Lăng công tử một lần có thể thông hiểu bao điều, y thuật bước lên một tầng cao mới. Nhưng cũng có người nghi ngờ Tây Lăng công tử, bởi nghe nói có lúc hỏi một số vấn đề đơn giản, công tử lại bỗng nhiên ấp úng không trả lời được.


Dù cho y thuật cao hay thấp, trên con đường rong ruổi của mình, Tây Lăng công tử cũng đã giúp đỡ rất nhiều người, khiến bao kẻ phải đội ơn.


Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chớp mắt đã sáu năm.


Hôm đó Tây Lăng công tử tới Vân Châu thành của Cao Tân quốc, như thường lệ, sáng sớm công tử luận bàn y thuật với các thầy thuốc, đến chiều thì chọn một nơi thoáng đãng ở ngoại thành tiếp người bệnh các phương đồ đến khám bệnh.


Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com


Nơi khám của Tây Lăng công tử rất đơn sơ, chỉ có một manh chiếu cô, công tử ngồi trên chiếu, xung quanh là những người tới nhờ chẩn trị.


Mộ danh tiếng lẫy lừng của Tây Lăng công tử, người ta đổ xô tới xin khám bệnh chật kín cả cánh đồng, từ kẻ ăn mày manh áo chẳng đủ che thân đến danh môn khuê tú ngồi đợi trong kiệu. May sao, các thầy thuốc hồi sáng nghe Tây Lăng công tử thuyết giảng cũng khảng khái ra tay giúp đỡ, họ học theo công tử, trải một tấm chiếu khám bệnh cho người.


Tuy người đông nghẹt nhưng cũng rất yên tĩnh, không ai chen lấn hay náo loạn, mọi người đều trật tự xếp hàng đợi, khiến cả vùng đồng hoang mênh mông bỗng trở nên trang nghiêm trầm mặc.


Thành chủ Vân Châu thành dẫn Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân tới bên sườn núi, trông thấy đám người đông nghìn nghịt, Yến Long than thở: “Tây Lăng công tử này nổi tiếng thật.”


Thành chủ cười phụ họa: “Thuộc hạ cũng nghĩ vậy, thế nên nghe tin điện hạ đi ngang bèn mời ngài tới đây.”


“Sao?”


“Thuộc hạ nghĩ nếu điện hạ có thể thu y về dưới trướng, hắn vô cùng có lợi cho uy tín của mình.” Thiếu Hạo rất được lòng trăm họ, bởi thế Yến Long cũng cần những trợ thủ có thể nâng cao danh tiếng cho mình.


Tháy Yến Long gật đầu, thành chủ lại bồi thêm, “Y họ Tây Lăng, nói không chừng là con cháu của Tây Lăng thế gia, mấy ngàn năm nay Tây Lăng thế gia suy vi, con cháu chẳng làm nên công trạng gì, có điều con sâu trăm chân, chết cũng không ngã, dù sa sút nhưng họ có dây mơ rễ má với ba thế gia kia, vẫn là một nguồn lực không nhỏ.”


Yến Long cười hờ hững, “Để ta đi gặp vị Tây Lăng công tử kia.”


Thành chủ định sai thuộc hạ dẹp đường, Yến Long đã ngăn lại, trách: “Bao nhiêu người đang khám bệnh thế kia, đừng quấy rầy bọn họ, ta sẽ tự tới đó.”


“Vâng, là thuộc hạ lo việc không chu đáo.”


Yến Long thong thả nhập vào đoàn người, vừa đi vừa để ý nghe mọi người xung quanh bàn tán về Tây Lăng công tử. Y ăn vận sang trọng, tướng mạo xuất chúng, đám đông đương nhiên tách ra nhường đường cho y.


Tây Lăng công tử nhìn cũng khá trẻ, mặc một bộ áo xanh, ngồi ngay ngắn dưới gốc đa, dung mạo bình thường nhưng thần thái điềm đạm cử chỉ ôn hòa, khiến người ta vừa gặp đã nảy sinh thiện cảm.


Tây Lăng công tử ngước lên trông thấy Yến Long liền ngẩn ra, Yến Long là Nhị vương tử cao quý của Cao Tân, trong cung đầy rẫy thầy thuốc, đường nhiên không tìm tới nơi đây để khám bệnh.


Yến Long chỉ mỉm cười, hơi khom lưng hành lễ với Tây Lăng công tử.


Tây Lăng công tử cũng khom người đáp lễ, nhưng trả lễ xong liền quay qua tiếp đãi bệnh nhân, chẳng để ý gì tới y nữa.


Mãi tới tối mịt, đám người buộc phải tản đi, Tây Lăng công tử mới thôi khám bệnh.


Yến Long cũng rất nhẫn nại, cứ lặng lẽ ngồi bên đợi, thấy người đã tản đi hết mới bước lại nói: “Tại hạ họ Thường, vô cùng kính phục cao nghĩa của công tử, muốn mời công tử dùng mấy chén rượu, nói đôi câu chuyện phiếm giang hồ.”


Tây Lăng công tử khách sáo từ chối, “Tôi vất cả cả ngày rồi, mai lại phải tới nhà người ta thăm bệnh, tối nay cần nghỉ ngơi sớm.”


Yến Long rất khiêm tốn lễ độ, cũng không nài ép, “Vậy tại hạ đợi công tử hết đợt khám bệnh sẽ lại đến mời.”


Liền ba ngày Yến Long đều đến từ sớm, ngồi đợi một bên, chẳng những không làm phiền Tây Lăng công tử, ngược lại còn giúp được rất nhiều việc như chia bệnh nhân thành từng nhóm, bệnh gì thì giao cho thầy thuốc chuyên về bệnh đó, nhờ Yến Long tổ chức có hiệu quả mà năng suất chữa bệnh nâng lên cao vọt.


Sau ba ngày, đợt khám bệnh kết thúc, Yến Long lại tới mời, “Tối nay là tết Phóng Đăng[2] của Cao Tân, tại hạ đã bày sẵn rượu và đồ nhắm, hy vọng công tử có thể đại giá quang lâm, cùng ngắm đèn trôi trên sông.”


[2] Tết thả đèn. (ND)


Tây Lăng công tử còn chưa kịp đáp, mấy tên thầy thuốc tới giúp đỡ vốn sẵn thiện cảm với Yến Long đã hùa thêm vào, “Công tử nhận lời đi, vất vả mấy ngày nay cũng nên nghỉ ngơi một chút.”


Thịnh tình khó chối, Tây Lăng công tử đành nhận lời với Yến Long.


Yến Long đưa Tây Lăng công tử lên một con thuyền bày biện trang nhã, hầu cận trên đó đều là thiếu nữ đương thì, ngay đến thuyền nương chèo thuyền cũng mặt hoa da phấn, dáng dấp yêu kiều. Các món ăn trên đó lại càng cầu kỳ hơn, nào là quế hoa viên tử nhưỡng, tùng thử ngư, bích hải minh nguyệt thang[3]…


[3] Bánh trôi chưng rượu quế hoa, cá xốt, canh trứng nấu với rau. (ND)


Thiếu nữ răng trắng muốt mắt nhung huyền vận chiếc quần lụa phương Nam, giới thiệu từng món ăn bằng giọng miền Nam ngọt ngào êm ái, quả có một phong vị tình tứ riêng.


Tây Lăng công tử cười khen: “Quả nhiên chưa tới phương Nam chưa biết thế nào là phong lưu.” Kỳ thực trong lòng thầm cảnh giác, ăn chẳng thấy ngon.


Vốn dĩ Tây Lăng chẳng hiểu gì về Yến Long, nhưng qua Vân Tang và Nặc Nại cũng nắm được chút chút chuyện tranh quyền đoạt vị giữa Yến Long và Thiếu Hạo, biết rằng Yến Long là nhân vật không dễ đối phó. Bởi vậy, Yến Long càng lịch thiệp thì Tây Lăng càng căng thẳng.


Ngắm làn sóng biển dập dờn trước mắt, Tây Lăng không khỏi nhớ tới Vân Tang và Nặc Nại, hai kẻ gặp nhau bên bờ nước, chẳng hiểu bây giờ bọn họ ra sao. Tây Lăng đã viết thư hỏi Vân Tang có muốn mình tới Cao Tân thăm Nặc Nại giùm không, Vân Tang đáp rằng hiện giờ thế cuộc phức tạp, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện đó. Tây Lăng hiểu ý Vân Tang, đang lúc thay triều đổi đại này, hễ sơ sểnh sẽ nổ ra đại loạn, Vân Tang vừa phải chăm lo cho bệnh tình Viêm Đế lại vừa phải phò trợ một Du Võng nhu nhược, e rằng bốn chữ “dốc cạn tâm sức” cũng không đủ hình dung tình cảnh nàng.


Yến Long thấy Tây Lăng công tử vẻ mặt căng thẳng, tâm thần hoảng hốt bèn rút ra một cây đàn bằng gỗ ngô đồng, cười nói: “Công tử biết chữa bệnh cứu người còn nghề đàn của tại hạ chỉ có thể giải khuây cho người, nay xin gảy một khúc, hy vọng có thể giúp công tử xua tan mệt mỏi.” Yến Long tự phụ ngón đàn của mình là thiên hạ vô song, thường ngày không tùy tiện gảy đàn, đừng nói tới đánh đàn tấu nhạc vì ai bao giờ, có điều lần này hắn muốn chiêu dụ Tây Lăng công tử nên không tiếc hạ mình mà thôi.


Tây Lăng công tử vội thi lễ cảm tạ.


Tay đàn của Yến Long cao diệu vô chừng, quả không hổ là thiên hạ đệ nhất. Thoạt đầu tiếng đàn dịu dàng cất lên tựa làn gió xuân xua tan hết đau khổ trần gian, khiến tâm hồn lâng lâng, bất giác quên hết mọi chuyện phiền não, sau đó tiếng đàn lại hòa vào cùng cảnh vật xung quanh, tiếng trôi giữa cảnh, cảnh hiện theo tiếng, Tây Lăng công tử cũng thả hồn theo tiếng đàn để thưởng thức hết phong cảnh bốn bề.


Người tới thả đèn cầu năm mới bình yên đông nghịt hai bên sông, ai nấy lũ lượt thả đèn xuống nước. Từng chiếc đèn rực rỡ theo dòng nước dập dềnh trôi mãi về nơi xa.


Con thuyền của họ lặng lẽ lướt trên mặt sông như đang đi giữa muôn ngàn ánh sao lấp lánh. Giờ đây Giang Nam đương độ cỏ xanh oanh vàng, hoa hồng liễu biếc, hai bên bờ trăm hoa đua nở, rực rỡ thắm tươi, gió đêm hây hẩy đưa hương, cỏ hoa phất phơ đón gió, đẹp không bút nào tả xiết.


Thầm nghĩ chỉ còn một tháng nữa hoa đào trong núi Cửu Lê nở rộ, mình lại có thể gặp Xi Vưu, Tây Lăng không khỏi bồi hồi trong dạ. Hàng năm, bọn họ đều y hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, tuy sum họp thật ngắn ngủi nhưng vẫn miên man hạnh phúc.


Đột nhiên, mấy tiếng khèn ồ ồ không ra khúc điệu gì chợt vang lên, cắt ngang dòng suy tưởng của Tây Lăng công tử, đồng thời cũng làm loạn tiếng đàn của Yến Long, tinh một tiếng, dây đàn đứt phựt. Yến Long biến sắc, đành trông lên bờ nói: “Hay chúng ta lên bờ đi dạo?”


Tây Lăng công tử gật đầu cười: “Cũng được.”


Thuyền nương cho thuyền cập vào bờ, ánh đèn trên sông càng lúc càng rõ mồn một, Yến Long vừa đi vừa luôn miệng giới thiệu các loại hoa đăng khác nhau với Tây Lăng công tử.


Liên Hoa đăng ngụ ý cát tường an khang, Đào Hoa đăng mong được nhân duyên tốt đẹp, Táo Hoa đăng cầu sớm sinh quý tử. Tịnh Đế Liên đăng hy vọng mãi mãi bên nhau, Quy Giáp đăng[4] cầu chúc cho cha mẹ sống lâu…


[4] Đèn hoa sen, đèn hoa đào, đèn hoa táo, đèn hoa sen tịnh đế, đèn mai rùa (ND)


Tây Lăng công tử thoạt đầu chỉ ham xem náo nhiệt, sau nghe Yến Long giải thích dần dần cũng hiểu ra trong mỗi chiếc đèn đều chứa đựng lời cầu khẩn chân thành của một người, mỗi ngọn đèn là một tâm nguyện thiết tha.


Mấy đứa trẻ giơ cao đèn hoa chạy xộc tới, trong lúc chạy sơ ý để ngọn đèn bén lửa bùng cháy, ngay lập tức, cả đám đông nhốn nháo lên lo tránh lửa.


Tây Lăng công tử đảo mắt, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, vờ như bị lạc khỏi Yến Long rồi thừa cơ chuồn thẳng. Dụng ý của Yến Long khi nhiệt tình khoản đãi mình lẽ nào Tây Lăng không hiểu, nhưng nàng không thể nào đáp ứng, đã vậy chi bằng chuồn sớm cho xong.


Chạy tới chỗ vắng người, không thấy bóng dáng Yến Long đâu nữa, Tây Lăng công tử khoái chí cười khì, nào ngờ trong rừng đào bỗng vang lên một tràng cười khanh khách.


Tây Lăng sững sờ, “Ai đó?”


Nàng vội ngẩng đầu lên, trông thấy một nam tử áo trắng thần thái phiêu dật đang vắt vẻo ngồi trên cây mận, tay cầm bầu rượu, dáng vẻ tiêu sái như thần tiên say vùi giữa ngàn hoa, những bông hoa mận đầy cành càng tôn lên vẻ phóng khoáng thanh cao, phi phàm xuất chúng của y.


Hóa ra là Thiếu Hạo, hèn chi có thể làm rối loạn tiếng đàn của Yến Long, Tây Lăng lập tức ngẩn người.


Thiếu Hạo cười hỏi: “Công tử tới ngắm hoa đăng trên sông sao?”


“Phải.”


“Thật ra địa điểm tốt nhất để ngắm hoa đăng không phải ở trên sông đâu.”


“Vậy ở đâu?”


Một con Huyền điểu đen tuyền sà xuống trước mặt hai người, Thiếu Hạo chỉ lên trời cười, “Ngắm sao trời phải đứng ở dưới đất, vậy ngắm ánh sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời rồi.”


Nói rồi y mời Tây Lăng công tử leo lên Huyền điểu, Tây Lăng thoáng do dự rồi cũng bước lên.


Huyền điểu cất cánh bay lên, Tây Lăng công tử sánh vai đứng bên Thiếu Hạo, cùng nhìn xuống mặt đất.


Cao Tân quốc ao hồ đầy rẫy, sông ngòi nhan nhản. Tết Phóng Đăng là ngày hội lớn nhất trong năm của Cao Tân, nhà nào nhà nấy đều làm đèn đem thả, khi nãy ngồi trên thuyền chỉ có thể ngắm đèn trôi trên một dòng sông, còn giờ đây từ trên cao nhìn xuống mới nhận ra tất cả hồ ao sông ngòi đều tràn ngập ánh đèn, lung linh rực rỡ, mênh mang vời vợi như vô vàn ánh sao trên mặt đất, những ánh sao này tụ lại thành muôn ngàn dòng sông sao, hoặc quanh co uốn khúc hoặc bát ngát bao la, mỹ lệ lộng lẫy hơn nhiều bầu trời sao trên không kia.


Tây Lăng tròn mắt ra nhìn, lẩm bẩm: “Đúng là tiên cảnh giữa trần gian, chằng biết mình đang ở trên trời hay dưới đất nữa.”


Thiếu Hạo chăm chú ngăm dải đất Cao Tân lấp lánh ngàn sao, mỉm cười phụ họa: “Hàng năm ta đều thưởng thức cảnh tượng này, vậy mà năm nào cũng rung động tận tâm can.”


Tây Lăng lại hỏi: “Chẳng hay truyền thuyết về tết Phóng Đăng bắt nguồn từ đâu?”


“Từ lâu lắm rồi, truyền thuyết thì nhiều lắm. Có truyền thuyết kể rằng, người yêu của một thiếu nữ xinh đẹp phải đi đánh giặc nơi xa, mãi chẳng thấy về, thiếu nữ đau buồn bèn thắp những ngọn đèn thả xuống sông để dẫn lối cho chàng ta về nhà, chàng dũng sĩ chỉ còn thoi thóp chút hơn tàn, nhờ ngọn đèn đưa đường cuối cùng cũng tìm được đường về, đoàn tụ cùng thiếu nữ. Còn có truyền thuyết kể rằng: trong ngôi làng tươi đẹp bình yên đột nhiên xuất hiện một con thủy quái lớn, để cứu mọi người trong làng, một thiếu niên dũng cảm đã chiến đấu ác liệt với thủy quái rồi hy sinh, mẹ cậu ta hết sức đau lòng, ngày đêm cứ quanh quẩn ngoài bờ sông gọi tên con, để an ủi người mẹ tội nghiệp đó, dân làng bèn thắp những ngọn đèn thả trôi trên sông.”


“Ngươi tin vào truyền thuyết nào?”


Thiếu Hạo đáp: “Ta tin rằng những ngọn đèn đó chính là những ánh sao.”


“Sao ư?”


Thiếu Hạo ngượng nghịu cười, “Mẹ ta qua đời trong lúc sinh ra ta. Vú già nuôi nấng ta thường trỏ những vì sao trên trời an ủi rằng mẹ vẫn ở bên ta, bà đã hóa thành sao trên trời, mãi mãi bảo vệ cho ta. Thoạt đầu ta rất tin lời vú, bất kể lúc vui hay lúc buồn đều cung kính thổ lộ hết với những vì sao đó, ngỡ rằng mẹ ta trên trời có thể nghe thấy mọi điều. Cho tới một lần ta gặp chuyện vô cùng oan ức, đệ đệ có mẹ chở che còn ta chẳng có ai cả, đành chịu bị người ta lăng nhục, ta ấm ức về bảo vú già: “Ta không tin mấy chuyện nhảm nhí của vú nữa, trên đời làm gì có ngôi sao bảo hộ chứ!” Vú già hết sức buồn rầu, bèn dắt ta ra ngoài xem người ta thả đèn, cả dải đất Cao Tân tựa hồ đều biến thành một bầu trời lấp lánh ánh sao, y như đêm nay vậy, vú già nói: “Trông thấy chưa? Đó đều là những ngôi sao bảo hộ đó!”


Tây Lăng chăm chú nhìn những vì sao bên dưới, bấy giờ mới hiểu ý Thiếu Hạo, những ngọn đèn kia là do vô số thiếu nữ, vô số dũng sĩ, vô số người mẹ, vô số đứa con thắp lên, ánh đèn cũng là tấm lòng muốn bảo vệ cho người thân của họ, thế nên gọi là những ngôi sao bảo hộ.


Thiếu Hạo mỉm cười nhìn Tây Lăng công tử, “Tại hạ Cao Tân Thiếu Hạo.”


Đó là cái tên khiến cả đại hoang chấn động, Tây Lăng thật không ngờ Thiếu Hạo lại đột nhiên tiết lộ thân phận của mình, mặt trân trân nhìn y.


“Ta nghĩ người chuyên cần học y ắt hẳn trong lòng có thứ gì đó muốn bảo vệ, chẳng hay điều Tây Lăng công tử muốn bảo vệ nhất là gì đây?”


Tây Lăng công tử trầm ngâm, tuy Tây Lăng chưa để lộ thân phận nhưng đã bị Thiếu Hạo nhìn thấu tâm tư mất rồi. Trước uy phong cùng sức mạnh của phụ vương và Đại ca, rõ ràng Tây Lăng vô cùng nhỏ bé. Chính vì không muốn một ngày kia mình trở thành kẻ vô dụng trước hai người đó nên Tây Lăng phải nỗ lực nghiên cứu y thuật.


Thiếu Hạo cũng không gặng tiếp, chỉ mỉm cười nói: “Y thuật của Tây Lăng công tử chẳng khác nào ngọn lửa, có thể thắp lên ngọn đèn giùm những thiếu nữ và những người mẹ kia, để bọn họ được hạnh phúc. Thay mặt tất cả những thiếu nữ và những người mẹ trên toàn Cao Tân này, ta xin công tử hãy ở lại, cùng ta bảo vệ bức họa tiên cảnh nhân gian ấy.”


Gương mặt Thiếu Hạo ánh lên vẻ kiên quyết vững vàng tựa ngọn núi cao ngàn thước không gì lay chuyển nổi, khiến Tây Lăng chợt thấy tim đập thình thịch, mơ hồ có cảm giác vừa tôn kính lại vừa sờ sợ.


Thiếu Hạo cười nói: “Ta biết đây là quyết định lớn nên công tử không cần phải vội, dù sao công tử vẫn còn ở lại Cao Tân rong chơi, cứ suy nghĩ thật kĩ rồi nói lại với ta. Dù công tử bằng lòng hay không, ta cũng rất biết ơn công tử đã tới Cao Tân, càng hoan nghênh công tử tới Cao Tân lần nữa.”


Tây Lăng công tử chỉ biết gật đầu.


Huyền điểu chở bọn họ đỗ xuống một mảnh sân nhỏ, Tây Lăng công tử đang định chối từ thì Thiếu Hạo đã tươi cười đẩy mở cửa phòng, chỉ thấy trên bàn bày đầy sách vở, “Đây là sách thuốc ta thu thập suốt bao năm nay, hy vọng có thể giúp ích cho công tử.”


Tây Lăng công tử không khỏi động tâm, bước tới cầm một cuốn lật xem, Thiếu Hạo khẽ khàng khép cửa lại, đợi đến khi Tây Lăng công tử ngẩng đầu lên đã không thấy y đâu nữa.


Tây Lăng công tử vốn định từ biệt, nhưng tiếc rẻ đống sách thuốc ở đây nên lại ngồi xuống đọc tiếp.


Suốt mấy ngày Tây Lăng công tử chỉ chúi mũi vào đống sách vở mà Thiếu Hạo thu thập được. Thiếu Hạo chẳng hề tới làm phiền Tây Lăng, thậm chí Tây Lăng còn không có cảm giác y cũng sống dưới cùng một mái nhà. Chỉ thi thoảng thấy mùi rượu thơm lừng đưa lại, Tây Lăng mới nhận ra kẻ đó đang ở gần đây.


Hôm đó đang đọc dở cuốn sách, Tây Lăng lại ngửi thấy mùi rượu, có điều lần này là thư tửu đất Điền, Tây Lăng không nhịn nổi đành mở toang cửa ra, nhưng trước sau nào thấy bóng người.


Đương lúc bực bội, trên nóc nhà chợt vang lên tiếng nói: “Đọc hết sách rồi sao?”


Tây Lăng lùi lại ngẩng lên, trông thấy Thiếu Hạo đang nghiêng mình nằm trên nóc nhà, một tay chống cằm, tay kia ôm hồ lô rượu, sau lưng là vầng trăng vằng vặc, dưới ánh sáng trong vắt mênh mang, trông y chẳng khác nào một vị tiên say khướt giữa vũng trăng.


“Sắp hết rồi, ngài uống rượu gì thế?”


“Thư tửu đất Điền, công tử muốn nếm thử không?” Thiếu Hạo ném hồ lô rượu cho Tây Lăng công tử.


Tây Lăng hớp một hớp, làm bộ không chịu nổi tửu lực, ném trả lại y, “Sao rượu còn phân ra thư hùng?”


Thiếu Hạo mỉm cười ngẩng đầu nhìn trời như đang hồi tưởng lại chuyện gì đó, “Đó là một người bạn cũng rất mê rượu nói cho ta nghe, quả thật rượu cũng chia ra thư hùng.”


Tây Lăng nín thở ngồi xuống chiếc bàn đá trong sân, ra vẻ tò mò hỏi: “Phải là người thế nào mới có thể làm bạn rượu của Thiếu Hạo nổi danh thiên hạ đây?”


Thiếu Hạo hớp một ngụm rượu, khóe môi ẩn hiện nụ cười, y lặng thinh không đáp, hồi lâu mới nói: “Nàng ấy rất thú vị.” Nói rồi y ngoảnh đầu nhìn về phía Tây, “Chẳng biết bây giờ nàng ấy đang vừa uống rượu vừa nghe người ta kể chuyện ở nơi nào nữa.”


Thấy Tây Lăng im lặng, Thiếu Hạo lại lắc lắc hồ lô rượu hỏi: “Muốn nếm nữa không?”


Tây Lăng cười: “Muốn!”


Thiếu Hạo ném hồ lô rượu qua.


Hai người kẻ ngồi nơi bàn đá kẻ nằm trên nóc nhà, vừa uống rượu vừa trò chuyện.


Tây Lăng biết Thiếu Hạo cũng toan tính giống Yến Long, thoạt đầu y cố tình phá hỏng kế hoạch của Yến Long, sau đó từng bước lấy lòng khiến mình không sao chối từ ý tốt của y, tuy nhiên cùng là chiêu dụ, Thiếu Hạo lại thực hiện rất tự nhiên chân thành. Chợt nghĩ, nếu mình thật sự là Tây Lăng công tử, e rằng đã sớm quy phục Thiếu Hạo, cam lòng phục vụ cho y rồi.


Hai người trò chuyện đến nửa đêm, Tây Lăng sợ rượu vào lời ra lại lộ tẩy nên không dám uống nữa, đành vờ say liêu xiêu về phòng nằm nghỉ.


Sáng sớm ra, Tây Lăng đang rửa mặt chợt trông thấy vô số tằm bay vào phòng, xếp thành hai chữ to tướng: “Về ngay.”


Tây Lăng đánh rơi cả khăn xuống đất, mặt tái nhợt.


Đợi tâm trạng trấn tĩnh lại, Tây Lăng bước ra khỏi phòng, phát hiện Thiếu Hạo đang đứng trong sân dõi mắt trông theo bóng Huyền điểu truyền tin vừa bay đi, vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường.


Rốt cuộc là chuyện gì mà đồng loạt kinh động cả Hiên Viên cùng Cao Tân thế này? Tây Lăng thầm suy đoán, tâm trạng càng thêm nặng nề.


Thiếu Hạo lên tiếng: “Ta vốn định cùng công tử ngao du khắp Cao Tân, nhưng hiện giờ ở nhà có việc gọi ta về, đành phải đi trước vậy, thật ngại quá! Công tử muốn đi đâu, để ta phái thuộc hạ hộ tống.”


Tây Lăng đáp: “Không cần đâu, tôi cũng có chút việc phải giải quyết, đang định từ giã điện hạ.”


Thiếu Hạo gật đầu cười, “Vậy công tử bảo trọng, ta rất mong sau này còn có dịp gặp lại nhau.”


Tây Lăng áy náy cười nói, “Nhất định sẽ gặp lại mà.”


Thiếu Hạo cũng chẳng nấn ná thêm, liền cưỡi Huyền điểu vội vã đi thẳng.


Tây Lăng đợi y đi khỏi cũng lập tức triệu hồi A Tệ và Liệt Dương, vội vàng quay về Hiên Viên sơn. Trước mắt chỉ có tin Viêm Đế bệnh nặng mới có thể đồng thời kinh động cả mẹ cùng Tuấn Đế, để hai người phải lập tức hạ lệnh gọi bọn họ về nhà. Xem ra khả năng dò thám tin tức của Cao Tân và Hiên Viên cũng một chín một mười.


Tây Lăng đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, chẳng hiểu Xi Vưu có ổn không?


A Hành còn đang ở giữa chừng không đã thấy Thanh Dương đứng trước điện Triêu Vân đợi.


Nàng vội nhảy từ lưng A Tệ xuống, bước đến trước mặt Thanh Dương, cung kính hành lễ, “Đại ca.”


Thanh Dương chỉ gật đầu, rảo bước đi trước dẫn đường, A Hành lặng lẽ theo sau y.


Bước vào chính điện, A Hành chợt trông thấy phụ vương, người đã mấy trăm nay chưa hề đặt chân đến đây đây.


Cha mẹ nàng đang ngồi bên bàn, đối diện nhau uống trà.


Cha nàng thân khoác vương bào, khí độ ung dung, oai phong lẫm liệt, còn mẹ nàng đã bạc trắng mái đầu, mặt sạm gió sương, già nua héo úa. Nếu không biết thân phận của hai người, e rằng chẳng ai dám tin họ lại là vợ chồng.


Đợi Thanh Dương hành lễ xong đứng sang một bên, A Hành liền quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, mẫu hậu, Hành nhi về rồi đây.”


Hoàng Đế cười nói, “Tới ngồi cạnh phụ vương nào, con cứ rong chơi bên ngoài suốt, chẳng chịu tới thăm phụ vương gì cả.”


A Hành ngồi xuống bên cha, tự tay châm trà hầu cha mẹ.


Nàng níu tay cha vừa nũng nịu vừa hỏi dò, “Phụ vương, sao người lại tới đây? Dạo này phụ vương không bận công việc ư?”


Hoàng Đế cười đáp: “Có bận rộn mấy đi nữa cũng phải lo việc chung thân đại sự cho con chứ!”


Tim A Hành đập rộn lên, nàng đưa mắt lên thắc mắc nhìn mẹ. Luy Tổ liền lên tiếng: “Phụ vương con đang định chọn ngày, gấp rút cho con thành hôn cùng Thiếu Hạo.”


A Hành đột nhiên thấy trước mặt tối sầm, phải ráng định thần, cất giọng năn nỉ: “Phụ vương, con chưa muốn lấy chồng đâu!”


Hoàng Đế vẫn thản nhiên uống trà, tay không hề khựng lại, như chẳng nghe thấy lời nàng.


Thanh Dương cúi đầu vừa châm trà vừa lạnh lùng hỏi: “Muội không muốn lấy chồng hay không muốn lấy Thiếu Hạo?”


Nhìn vẻ mặt thờ ơ của Đại ca, A Hành thấy lòng lạnh buốt: “Muội chỉ muốn rong chơi thêm mấy năm nữa thôi, sao đột nhiên bắt muội lấy chồng gấp rút thế?”


Thanh Dương đáp: “Nếu như bình thường, muội muốn chơi thì cứ việc chơi cho thoả sức, nhưng tình thế bây giờ không cho phép muội tuỳ hứng nữa rồi.”


“Tình thế bây giờ làm sao?”


“Người thiên hạ chỉ biết Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, nhưng chúng ta lại được tin báo Viêm Đế đang lâm trọng bệnh, e rằng Thần Nông tộc sắp thay thủ lĩnh mới rồi.”


A Hành siết chặt hai tay, dẫu đã đoán trước bệnh tình Viêm Đế chuyển biến xấu nhưng chính tai nghe thấy điều đó, nàng vẫn thấy khó mà chịu nổi.


Thanh Dương nói tiếp: “Thuộc địa của chúng ta và Thần Nông tiếp giáp nhau, mấy ngàn năm nay hai tộc Hiên Viên và Thần Nông vẫn tranh chấp liên miên, họ đã bất mãn với chúng ta từ lâu, sớm muộn gì Viêm Đế mới kế vị cũng sẽ cất quân đánh ta. Thần Nông quốc nằm giữa Trung Nguyên, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, dân chúng đông đúc, thực lực mạnh hơn ta nhiều, hơn nữa nền móng của chúng ta không bì được với những Thần tộc thượng cổ kia, nếu Thần Nông liên minh cùng Cao Tân, hẳn Hiên Viên sẽ đứng trước mối hoạ diệt tộc, bởi vậy muội phải thành hôn với Thiếu Hạo càng sớm càng tốt.”


A Hành trừng mắt nhìn Thanh Dương, “Huynh cứ luôn miệng nói nào Hiên Viên nào Thần Nông, vậy còn muội thì sao?”


Thanh Dương thản nhiên nói lạnh băng: “Muội là vương cơ của Hiên Viên, đây là trách nhiệm muội buộc phải gánh vác.”


A Hành lại quay sang cầu khẩn Hoàng Đế: “Phụ vương, xưa nay người thương con nhất mà, con chưa muốn lấy chồng đâu, cho con ở nhà hầu hạ người và mẫu hậu thêm mấy năm nữa nhé.”


Hoàng Đế nghiêm mặt: “Không phải phụ vương không muốn giữ con lại, có điều ta và Tuấn Đế đã trao đổi với nhau, qua ngày mai Thiếu Hạo sẽ đích thân tới Hiên Viên chọn ngày, những chuyện khác đều có thể chiều theo con nhưng hôn sự này nhất định phải nghe lời cha mẹ.”


A Hành vùng vằng hất hết chén đĩa mâm quả trên bàn xuống đất, bỏ chạy ra ngoài, “Muốn lấy thì các người tự đi mà lấy, con không lấy!”


Thấy vậy, Hoàng Đế giận dữ quay sang trách Luy Tổ: “Nhìn xem, nàng chiều chuộng nó thành cái gì rồi! Trong mắt nó còn coi ta là phụ vương không đây? Nếu lần này nó lại lén trốn xuống núi, ta nhất định sẽ nghiêm trị!” Dứt lời, Hoàng Đế phẩy tay áo đùng đùng đứng lên. Dưới sự hộ tống của đám thị vệ, cả đoàn người rầm rộ rời khỏi Triêu Vân phong.


Trong sân trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất nở hoa rực rỡ, mỗi khi có gió, từng trận hoa rụng rơi lả tả, nhấn chìm cả khoảnh sân giữa màn mưa hồng phấp phới, khiến cảnh sắc nhuốm màu diễm lệ.


A Hành ngước mắt nhìn trời, cảm thấy hít thở cũng khó khăn.


Sau lưng nàng chợt vang lên giọng nói của Luy Tổ: “Sao con không muốn lấy Thiếu Hạo? Tuy ta chưa từng gặp Thiếu Hạo nhưng Thanh Dương và Xương Ý đều hết lời ca tụng y, chắc hẳn cũng rất khá. Lẽ nào con đã có người trong mộng rồi ư?”


A Hành đang chần chừ định nói, chợt trông thấy Thanh Dương đứng sau mẫu hậu trừng mắt nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt, còn thấp thoáng vài phần sát khí, trước mắt nàng liền hiện ra cảnh tượng Đại ca vung kiếm đâm vào tim Xi Vưu ngày đó, bất giác ớn lạnh tận đáy lòng, đành nuốt hết những lời toan nói.


“Con… con chẳng thích ai cả, chỉ là muốn tự do tự tại thêm mấy năm nữa, chưa muốn lấy chồng.”


Luy Tổ dịu giọng dỗ dành: “Nữ tử nào cũng phải xuất giá thành hôn thôi, con là vương cơ Hiên Viên, rất nhiều việc đã được định sẵn từ khi sinh ra rồi. Đừng sợ, biết đâu sau khi lấy chồng, con lại hối hận sao không thành hôn sớm hơn đấy. Hai hôm nữa Thiếu Hạo tới, mẹ sẽ tìm cách để hai đứa ở riêng bên nhau vài ngày, may ra con hiều được lời mẹ nói chăng.”


A Hành gật đầu khẽ vâng dạ, ánh mắt vẫn trừng trừng nhìn Đại ca.


Đêm đã buông xuống, A Hành thấy toàn thân rời rã nhưng chẳng buồn ngủ chút nào.


Nàng đứng bên song ngắm từng cánh hoa phượng hoàng đỏ rực bay qua trước mắt, bây giờ đương độ hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, ngày mai chính là tết Khiêu Hoa, Xi Vưu sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, không gặp không về.


A Hành nghe lòng vừa ngọt ngào vừa chua xót, nàng gỡ Trụ Nhan hoa xuống, vờn nghịch trên tay.


Đợi mọi người đều đã say giấc nồng, nàng bắt đầu rón rén ra khỏi cung tìm A Tệ và Liệt Dương.


Nghe tiếng chân nàng, A Tệ và Liệt Dương lập tức tỉnh ngay.


A Hành ra dấu cho chúng im lặng rồi lén lút trèo lên lưng A Tệ nói nhỏ: “Đi Cửu Lê.”


A Tệ và Liệt Dương cất cánh bay lên, không gây ra một tiếng động, nhưng vừa bay lên cao, chuẩn bị dốc sức tăng tốc, A Hành chợt trông thấy Thanh Dương cưỡi trên Trùng Minh điểu[5] ngũ sắc, lạnh lùng nhìn nàng.


[5] Thập Di ký của Tấn Vương gia chép: “Trùng Minh điểu còn tên khác là Song Tinh, mỗi bên mắt có hai con ngươi. Hình dáng như gà, tiếng kêu tựa phượng. Mỗi khi dang cánh có thể đánh đuổi mãnh thú hổ lang, quét sạch yêu ma quỷ quái.”


“Muội định đi đâu thế?”


A Hành không trả lời, chỉ nói: “Huynh đừng quản chuyện còn muội, tránh ra đi!” Nói rồi nàng thúc A Tệ vượt lên, toan cướp đường chuồn đi.


Thanh Dương khoanh tay yên lặng đứng nhìn nhưng linh lực của y đã vây lấy A Tệ, khiến nó không sao bay nổi.


A Hành gỡ Trụ Nhan hoa khỏi búi tóc, Trụ Nhan hoa lập tức nở phồng ra, vô số cánh đào biến thành muôn ngàn lưỡi dao bay về phía Thanh Dương. Lúc này Thanh Dương mới vung một tay lên, toàn bộ những cánh đào bị linh lực của y dồn nén xoắn lại thành một sợi dây đỏ thắm, quấn lấy A Hành.


A Hành vừa điều khiển A Tệ lánh trái né phải vừa vây Trụ Nhan hoa toan gỡ sợi dây ra, nhưng sợi dây vẫn linh hoạt uốn éo như rắn, không chỉ tránh được hết các đòn tấn công mà còn vây chặt lấy nàng.


Để giải vây cho A Hành, Liệt Dương bèn phun ra một chuỗi lửa đỏ lôi kéo sự chú ý của Thanh Dương, nhân lúc y lơ là, A Tệ liền thừa cơ lén cắn đứt dây.


Thấy sợi dây quấn quanh A Hành sắp tuột ra, Thanh Dương nổi cáu quát Liệt Dương: “Súc sinh, còn không mau tránh ra!”


Liệt Dương tức thì phun ra một đám lửa khổng lồ cao đến ba trượng vây lấy Thanh Dương. Trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, Thanh Dương vô cùng kinh ngạc, hóa ra con chim này còn biết giả ngu giấu nghề, lừa cho kẻ địch coi thường mình rồi bất ngờ tập kích nữa.


Trùng Minh điểu tọa kỵ của y tuy là mãnh cầm hàng đầu trên đại hoang, đấu ngang tay được với cọp beo nhưng muôn chim trời sinh đều kính sợ phượng hoàng, trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, nghe tiếng phượng gáy thành thót, nó chẳng dám đối kháng trực diện cùng Liệt Dương nữa, động tác cũng chậm chạp đi nhiều.


A Hành vội thừa cơ vùng khỏi dây trói, vươn mình nhảy lên lưng A Tệ bay vút đi, “Liệt Dương, chạy mau!”


Nào ngờ Liệt Dương sẵn tính nóng như lửa, vừa nãy bị Thanh Dương chửi mắng, đời nào chịu nghe lời A Hành mà bỏ chạy, ngược lại còn liều mạng sấn tới tấn công Thanh Dương.


Thấy vậy, Thanh Dương bèn nổi sát tâm, nếu không giết con chim này đi, ắt tọa kỵ Trùng Minh điểu của y còn run rẩy sợ hãi, dù thúc ép thế nào nó cũng chẳng dám dốc toàn lực truy đuổi A Hành. Y ép buộc Trùng Minh điểu bay về phía Liệt Dương, thản nhiên xông qua Phượng Hoàng huyền hỏa đang cháy rừng rực, bàn tay chợt biến thành trắng xóa như tuyết, tấn công Liệt Dương.


A Hành quay đầu trông thấy, hồn phi phách tán, chẳng kịp gọi A Tệ, lập tức bổ nhào trở lại, trong nháy mắt nàng đã dung linh lực chật vật giằng được Liệt Dương ra, nhưng thân mình đang lơ lửng giữa không trung, không tránh nổi chưởng lực của Thanh Dương, liền bị đánh trúng.


Thấy thân hình nàng rơi nhanh xuống dưới, Thanh Dương tái mặt vội nhảy khỏi tọa kỵ, ôm chầm lấy nàng.


Hết thảy mọi việc chỉ diễn ra trong chớp mắt, lúc này A Tệ mới kịp bay ngược trở lại, túm được cả Thanh Dương và A Hành.


Thấy A Hành đỡ một chưởng cho mình, Liệt Dương phẫn nộ kêu lên quang quác, toàn thân bốc lửa rừng rực, biến thành một cuộn lửa đen điên cuồng đâm bổ vào Thanh Dương.


Thanh Dương một tay ôm lấy A Hành, tay kia giơ lên toan giết luôn con Lang điểu tự chuốc tai vạ.


“Đại ca!” A Hành níu chặt lấy tay Thanh Dương cầu khần, nhưng vừa mở miệng nàng đã phun ra một búng máu, bắn hết lên ngực Thanh Dương.


Thanh Dương thu tay lại, chỉ dùng tơ Thiên Tằm biến ra một tấm lưới lớn, quấn chặt lấy Liệt Dương. Tơ Thiên Tằm vốn chẳng chịu được Phượng Hoàng huyền hỏa, nhưng mấy sợi tơ Thiên Tằm này lấy từ tấm áo bảo mà Luy Tổ dệt cho Thanh Dương, lại có linh lực của Thanh Dương bảo hộ nên Liệt Dương không sao đốt cháy nổi.


Thanh Dương tranh thủ khám qua thương thế của em gái, thấy cũng không có gì nghiêm trọng, may mà y chỉ dùng có bốn thành linh lực, y phục trên người A Hành lại do chính tay Luy Tổ dệt nên đã hóa giải mất ba thành.


A Hành ngoan ngoãn dựa vào lòng Đại ca như thể đã từ bỏ ý định chạy trốn vì vết thương, nhưng khi Thanh Dương vừa định trị thương cho nàng, A Hành bất ngờ khống chế mệnh môn y, lại dùng đào hoa chưởng độc của Trụ Nhan hoa phong bế không cho linh khí của y vận hành, giữ chặt Thanh Dương lại.


Nàng cười hì hì nhảy lên lưng A Tệ, ngoái đầu nói với Thanh Dương, “Đại ca, huynh cứ ở đây hóng gió ngắm sao một lát đi, đào hoa chưởng độc này tuy lợi hại nhưng huynh là Hiên Viên Thanh Dương cơ mà, chút độc này có nhằm nhò gì đâu.”


Thanh Dương trừng mắt nhìn nàng: “Muội cũng biết ta là Hiên Viên Thanh Dương, khắp đại hoang này chẳng thần tiên hay yêu quái nào có thể dễ dàng đả thương ta như thế, chẳng qua ta không đề phòng muội muội mình nên muội mới đắc thủ đó thôi! Vì một gã đàn ông khác mà muội dám xuống tay đả thương Đại ca mình, có đáng không?”


A Hành thầm áy náy trong lòng, chỉ nói: “Đại ca, muội không muốn đả thương huynh, chỉ là muội quả thật không muốn lấy Thiếu Hạo.”


Thanh Dương nói: “Muội tưởng muội chạy thoát được ư? Đừng quên phụ vương đã từng nói, nếu phát hiện ra muội trốn xuống núi, Người nhất định sẽ nghiêm trị!”


A Hành nghiến răng thúc A Tệ bay về hướng Cửu Lê, “Đại ca, tha lỗi cho muội.” Nàng đã hứa với Xi Vưu, dù thế nào nàng cũng phải đi gặp hắn.


Chập tối hôm sau, A Hành đã tới sơn trại Cửu Lê tộc.


Hoa đào trong núi Cửu Lê rực rỡ như lửa như tranh, bạt ngàn sơn dã phủ đầy một màu đỏ thắm, xán lạn tựa ráng chiều.


A Hành đã quen đường, cứ men theo tiếng ca đi sâu vào trong.


Trong sơn cốc chẳng có đài tế cũng chẳng có lễ vật cúng tế, chỉ thấy từng đống lửa cháy rừng rực. Thanh niên thiếu nữ vây quanh đống lửa ca múa, ăn vận rất giản dị, lời ca cũng rất giản đơn nhưng giọng hát vẫn ngân lên lảnh lót, điệu múa vẫn sôi động, tiếng cười vẫn say đắm lòng người.


Ánh lửa bập bùng khiến gương mặt họ hồng rực lên đầy khỏe khoắn và hạnh phúc.


“Lúa trên nương chẳng cần tro


Đã yêu ta chẳng cần dò mối mai


Chẳng cần dê béo lợn bầy


Hát vang một khúc đón ngay em về”





Tiếng ca bên đống lửa ngân lên lanh lảnh nhưng A Hành chẳng để lọt tai một chữ. Nàng cứ ngẩn người đứng dưới cội hoa đào năm ngoái vò võ đợi Xi Vưu.


Từ nhỏ tới lớn, A Hành chưa khi nào bơ vơ như bây giờ. Thuở bé nàng luôn được cha cưng chiều, được mẹ bao bọc, muốn thứ gì thì cha cho thứ nấy, có chuyện gì cũng được mẹ chở che. Mãi đến giờ nàng mới hiểu, cha chiểu chuộng mình bởi những thứ nàng muốn chẳng ảnh hưởng tới lợi ích của ông, còn mẹ lại càng không đủ năng lực bảo vệ nàng trước mọi biến cố như nàng tưởng.


Đó vẫn là gia đình nàng, nhưng bỗng chốc hết thảy đều đã đổi thay, khiến nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, chỉ khi nhớ tới Xi Vưu nàng mới thấy bình yên lạ thường, như có một nguồn sức mạnh diệu kỳ ẩn sâu trong lòng vậy. Thật ra nàng chẳng cần Xi Vưu phải làm gì, chỉ mong có thể dựa vào vai hắn, được nghe hắn dỗ dành “Dù gì cô vẫn còn có ta”, chỉ cần một người sẵn sàng làm chỗ dựa mỗi khi nàng mệt mỏi hay kinh hãi, như vậy là đủ tiếp thêm dũng khí để nàng bước tiếp rồi.


Tiếng hát vẫn lanh lảnh vang lên, hết bài này sang bài khác mà Xi Vưu vẫn chưa thấy tới.


A Hành ngong ngóng trông chờ, bồi hồi mong đợi, lòng ngổn ngang bao điều muốn tâm sự với Xi Vưu. Nàng không muốn gả cho Thiếu Hạo, bởi thế, bao năm nay nàng đã dốc sức học y, chỉ mong đến một ngày có thể thưa với phụ vương một tiếng: “Con không bằng lòng”, hôm nay, rốt cuộc nàng đã thẳng thắn nói với phụ vương: “Con không bằng lòng” rồi.


Dần dà tiếng ca trong vắt cũng bặt hẳn đi, đám thiếu nữ đều đã tìm thấy người mình mong nhớ, chỉ có Xi Vưu là chưa tới.


Thoạt đầu A Hành còn cố giữ vẻ bình tĩnh, nhưng càng về sau nàng càng sốt ruột, cứ đăm đăm ngước mắt nhìn trời, khắc khoải mong Xi Vưu sẽ đột nhiên hiện ra, cưỡi trên lưng đại bang từ từ đáp xuống.


Ánh lửa càng lúc càng leo lét, trời mỗi lúc một tối dần, đám người xúm quanh đống lửa dần dần tản mác hết, nhưng Xi Vưu vẫn chưa thấy tới.


A Hành ngẩng đầu nhìn trời, ánh mắt đượm phần buồn bã nhưng vẫn không ngừng tìm lý do biện hộ cho Xi Vưu, có lẽ hắn vướng bận một chút, có lẽ hắn đang trên đường đi… nhất định hắn sẽ tới mà!


Vừa nghĩ ra đủ thứ lý do, nàng vừa mong Xi Vưu sẽ đột ngột hiện ra ngay sau đó.


A Hành đợi mãi đợi mãi, thời gian cứ thế dài ra lê thê rồi dần trở thành một nỗi giày vò, nhưng trong lúc nàng chịu giày vò, thời gian vẫn chầm chậm trôi đi.


Đêm ngả về khuya, đống lửa đã tàn hẳn, cả sơn cốc trở nên tĩnh lặng như tờ.


A Hành vẫn đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, một lòng mong mỏi lát nữa thôi Xi Vưu sẽ khoác chiếc áo đỏ rực rẽ khói băng mây mà tới, nét cười hờ hững còn vương vấn trên môi, thoạt trông thấy nàng, nụ cười ấy sẽ đổi thành rạng rỡ, hắn sẽ nhảy phắt từ trên lưng đại bàng xuống bên nàng.


Chỉ cần gặp được hắn, bấy nhiêu khổ đau trong khi chờ đợi đều chẳng là gì cả. Dù trong lòng vô cùng vui sướng, nàng vẫn sẽ vờ giận dỗi không thèm ngó đến hắn, để hắn phải rối rít nhận lỗi xin tha.


Đợi mãi đợi mãi, lòng A Hành đầy những bi thương và phẫn nộ, vừa giận Xi Vưu không giữ đúng lời lại vừa thầm cầu khẩn ông trời cho hắn mau đến! Miễn là hắn tới, nàng sẽ bỏ qua chuyện hắn đến muộn.


Nhưng hắn chẳng hề tới!


Chân trời phía Đông bắt đầu bàng bạc sáng lên, sắp đến bình minh, A Hành đã đợi dưới cội đào suốt cả một đêm. Nếu có thể hạnh phúc ngủ thiếp đi thì một đêm chẳng lấy gì làm dài, chỉ nhắm mắt mở mắt là hết, nhưng nếu vò võ đợi chờ thì một đêm dài dằng dặc như cả ngàn vạn năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, hy vọng thành tuyệt vọng, khiến trái tim chứa chan tình ý chết lặng rồi héo khô.


A Hành không tin Xi Vưu lại có thể nuốt lời. Trời còn chưa sáng, hắn nhất định sẽ tới! Hắn đã hứa dù xảy ra chuyện gì cũng sẽ tới, không gặp không về, hơn nữa giờ đang là lúc nàng cần hắn nhất!


Trên đầu trên vai A Hành phủ đầy cánh hoa, dưới ánh nắng mai trong trẻo, gương mặt nàng bỗng đỏ bừng lên, đỏ hơn cả những đóa hoa, toàn thân nàng rời rã, phải ôm lấy cội đào để cố giữ cho mình đứng vững, ngón tay liên tục rạch vào thân cây, Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu… từng vệt từng vệt móng tay nham nhở hằn lên gốc cây, như trái tim tan nát của nàng bây giờ vậy.


Thanh Dương thong thả bước lại gần, vạt áo lam bay phần phật trước gió, toát lên vẻ hững hờ của kẻ đã nhìn thấu tình đời, “Có đáng không? Muội bất chấp tất cả, chống đối phụ vương, đả thương Đại ca, mạo hiểm tới gặp hắn, nhưng còn hắn thì sao?”


Y đứng trước mặt A Hành, thay nàng phủi đi những cánh hoa vương trên vai trên tóc, “Có lẽ hắn bận việc gấp nên chậm trễ, nhưng còn lời hứa của hắn với muội thì sao? Chẳng lẽ chỉ khi nào hắn rảnh rỗi mới giữ lời hứa, còn khi có việc thì muội sẽ bị đẩy lại phía sau ư? Sinh mệnh của thần tiên rất dài, một đời có bao nhiêu là việc gấp, nếu muội chỉ có thể xếp sau những việc gấp đó thì muội giữ lời hứa tới gặp hắn làm gì?”


Nói rồi Thanh Dương kéo tay A Hành, “Theo ta về nhà đi!”


A Hành ra sức vùng khỏi tay y, ánh mắt vẫn cố chấp dõi về phía cuối trời Đông, Xi Vưu nói không gặp không về kia mà!


Thấy vậy Thanh Dương đành bất lực lắc đầu, y cũng không nổi giận, chỉ tựa lưng vào một gốc đào đợi cùng A Hành.


Vầng dương dần dần nhô lên, từ một hình bán nguyệt biến thành một chiếc đĩa tròn vành vạnh, tỏa ánh nắng rực rỡ khắp rừng đào. A Hành bị chói không mở nổi mắt, chỉ nghe Thanh Dương nói: “Muội còn muốn đợi bao lâu nữa đây? Theo ta về nhà đi, hắn không tới đâu!”


A Hành nước mắt lưng tròng nhưng vẫn không chịu đi theo Thanh Dương, bọn muội đã hẹn không gặp không về mà! Hắn biết muội đang đợi hắn, nhất định hắn sẽ đến thôi!


Có điều trong lòng nàng chợt vang lên một giọng nói phụ họa với Thanh Dương, hắn không tới đâu, hắn không tới nữa rồi…


Giọng nói đó cứ ong ong bên tai nàng như sấm sét, càng lúc càng vang vọng, A Hành chỉ thấy mắt nổ đom đóm, thân mình xiêu đi rồi ngất lịm.


Thanh Dương vội đỡ lấy A Hành, bấy giờ y mới nhận ra tuy A Hành chỉ phải chịu một thành linh lực từ phát chưởng khi trước của mình, nhưng do gấp rút lên đường, chẳng kịp điều tức, lại đứng đợi suốt đêm, cộng thêm niềm bi thương vô hạn, thương thế đã xâm nhập vào đến tâm mạch nàng.


Thanh Dương vừa giận vừa thương em gái, bèn ôm lấy nàng cưỡi lên Trùng Minh điểu, tức tốc trở về Hiên Viên sơn.


Vừa về đến Hiên Viên sơn, Thanh Dương đã thấy Ly Chu dẫn theo thị vệ chặn đường, Ly Chu là khai quốc công thần của Hiên Viên, Thanh Dương cũng chẳng dám vô lễ, vội bảo Trùng Minh điểu dừng lại.


Ly Chu hành lễ với y rồi cung kính thưa: “Bệ hạ sai thần trói vương cơ đưa đến cung Thượng Viên chờ xử lý.”


Thanh Dương khách sáo: “Tiểu muội bị thương, mong đại nhân để ta đi cùng muội ấy.”


Ly Chu thấy A Hành đã hôn mê bất tỉnh, đành nói: “Làm phiền điện hạ vậy.”


Dưới sự áp giải của đám thị vệ, Thanh Dương đưa A hành tới cung Thượng Viên yết kiến Hoàng Đế. Thấy A Hành mê man, Hoàng Đế bèn sai thầy thuốc cứu tỉnh nàng.


A Hành tỉnh lại, thấy mình đã nằm trong kim điện, phụ vương đang ngồi tít trên cao. Nàng liền lặng lẽ quỳ phục xuống thềm.


Hoàng Đế hỏi: “Con biết tội chưa?”


A Hành giương mắt quật cường nhìn Hoàng Đế, không đáp. Hoàng Đế lại hỏi tiếp: “Con có bằng lòng lấy Thiếu Hạo không?”


“Con không bằng lòng! Nếu phụ vương muốn trói con lại đưa đến vương cung Cao Tân thì cứ tùy ý!” Tuy giọng nàng yếu ớt nhưng trong kim điện lặng phắc như tờ lại nghe rất rõ ràng.


Thanh Dương lập tức quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, tiểu muội nhất thời còn chưa nghĩ thông, để con khuyên nhủ thêm, nhất định muội ấy sẽ…”


Hoàng Đế ra hiệu cho y im lặng rồi đưa mắt nhìn A Hành, “Bao năm nay ta đã chiều theo ý mẫu hậu con, mặc con muốn gì làm nấy mà lơ là quản giáo, khiến con quên rằng vương tộc cũng có quy củ của vương tộc.” Nói rồi ông quay sang bảo Ly Chu, “Nhốt vương cơ vào Ly Hỏa trận, khi nào nó nghĩ thông thì hãy tới bẩm với ta.”


Thanh Dương nghe truyền tái mặt, thể chất của A Hành là mộc linh, bị nhốt vào Ly Hỏa trận thì khác nào gỗ bị lửa thiêu đốt, đau đớn vô cùng, y liền dập đầu lia lịa, luôn miệng van xin, “Phụ vương, tiểu muội thần lực thấp kém, không chịu nổi giày vò trong Ly Hỏa trận đâu, xin người khai ân.”


Mặc cho Thanh Dương cầu xin, A Hành đứng phắt dậy lạnh lùng hỏi Ly Chu: “Ly Hỏa trận ở đâu? Chúng ta đi!”


Xưa nay Ly Chu vẫn cho rằng nhờ được Luy Tổ bao bọc nên A Hành rất ngây thơ trong sáng, nào ngờ nàng vương cơ hiền hòa này lại cương cường đến thế, không khỏi nảy sinh vài phần ngưỡng mộ, bèn cung kính đáp: “Xin vương cơ đi theo thuộc hạ.”


Thấy A Hành nghênh ngang bỏ đi còn Thanh Dương vẫn quỳ mọp dưới thềm năn nỉ, Hoàng Đế lạnh lùng nói: “Hôn nhân giữa Cao Tân và Hiên Viên là việc trọng đại, nếu con vì cảm xúc nhất thời định rat ay giúp A Hành, ta sẽ phạt cả con luôn đó.”


“Tượng Võng, tới Triêu Vân…” Hoàng Đế toan hạ lệnh đã thấy Tri Mạt, kẻ được xưng tụng là Đế sư bước lên hành lễ: “Xin bệ hạ phái thần đi Triêu Vân phong, thần sẽ khuyên giải vương hậu nương nương, ngăn nương nương đi cứu vương cơ.”


Hoàng Đế nhìn Tri Mạt giây lát rồi phán, “Ta định sai Tượng Võng đi nhưng ngươi đã chủ động đứng ra xin, vậy ngươi đi đi.”


Tri Mạt nhận lệnh quay mình lui ra, lúc ngang qua Thanh Dương lão còn đưa mắt nhìn y ra ý khuyên nhủ, Thanh Dương rùng mình, lấy lại bình tĩnh, dập đầu cung kính thưa với Hoàng Đế: “Nhi thần đã hiểu, đúng là nên giáo huấn tiểu muội một chút.”


Hoàng Đế xua tay cho Thanh Dương lui ra.


Ra khỏi cung Thượng Viên, Thanh Dương lạnh lùng cho tùy tùng lui ra, một mình tản bộ. Trên đường vàng rực nắng, người qua kẻ lại vô cùng náo nhiệt nhưng hướng y đi càng lúc càng vắng vẻ, dẫn tới một con hẻm tồi tàn. Trong hẻm có tiệm giặt giũ, có lò mổ lênh láng máu me và nước thải tràn ra đường, còn cả một quán rượu nho nhỏ, chuyên bán rượu cho thường dân. Giữa ban ngày nên quán vắng tanh vắng ngắt, Thanh Dương đi thẳng vào, ngồi xuống một góc: “Ông chủ, cho một cần rượu.”


“Có ngay!” Chủ quán vừa đáp vừa bưng rượu tới trước mặt Thanh Dương.


Thanh Dương cứ thế lặng lẽ uống từ khi trời đang sáng tới tận tối mịt, rồi say túy lúy gục xuống mặt bàn bẩn thỉu cũ nát ngủ thiếp đi.


Ông chủ cũng để mặc Thanh Dương, chỉ lo làm việc của mình. Lúc mới lên sáu bảy tuổi, hắn trông thấy Thanh Dương lần đầu, đến khi ngoài ba mươi tuổi lại gặp lần thứ hai, hắn đã kinh hoàng trợn mắt nhìn Thanh Dương la lớn: “Yêu quái”, liền bị cha cho một bạt tai, cha hắn nói khi ông tổ của ông nội của ông nội còn bán rượu đã thấy gã đàn ông này rồi, bao năm nay y vẫn như vậy, chẳng biết là thần hay là yêu, dù sao cũng không phải người xấu, mỗi lần tới y chỉ uống rượu, còn thanh toán tiền rượu rất đầy đủ.


Chập tối hôm sau, một nam tử bạch y bước vào quán, đưa cho chủ quán một bầu rượu, “Rót cho một cân rượu.”


“Có ngay!” Chủ quán nhanh nhẹn rót rượu.


Nam tử bạch y đón lấy bầu rượu bước đến cạnh Thanh Dương, đặt một tay lên vai y, tay kia cầm bầu rượu ngửa cổ tu liền mấy hớp.


Thanh Dương ngẩng lên nhìn, nét mặt trở nên mơ màng, mất hẳn vẻ lạnh lùng cố hữu, “Ngươi tới rồi ư?”


Thiếu Hạo hỏi: “Liệu A Hành chịu đựng được bao lâu trong Ly Hỏa trận?”


“Ngươi biết hết rồi sao?”


“A hoàn của ngươi tìm ngươi khắp nơi không thấy, vừa gặp ta nó liền tông tốc kể ra hết, nên ta đoán chắc hẳn ngươi lại tới đây uống rượu.”


“Tâm mạch của A Hành đang bị tổn thương, hằng ngày nó lại rất nhõng nhẽo, chẳng bao giờ chịu chăm chỉ luyện công, ta thật không hiểu sao nó có thể gắng gượng được đến giờ.”


Thiếu Hạo thầm than, anh em ngươi quật cường hệt như nhau, năm xưa ngươi cũng chịu cực hình giày vò của Hoàng Đế suốt nửa năm không hé răng cầu khẩn đấy thôi. Y ngẫm nghĩ: “Trước mặt Hoàng Đế không được nôn nóng, đầu tiên ngươi phải tìm cách đưa ta vào Ly Hoả trận bảo vệ cho A Hành đã, sau đó chúng ta sẽ từ từ nghĩ biện pháp cứu nàng.”


Hai người bước ra khỏi quán, ra tới cửa Thiếu Hạo còn ngoảnh lại giơ bầu rượu lên nói với chủ quán: “Rượu ông cất ngon hơn cả cụ tổ nhà ông, người đầu tiên bán rượu ở đây ấy, nhưng tính tình không trung thực bằng, ông không nên thấy ta nói giọng nơi khác mà đong thiếu cho ta một lạng chứ, bớt một đền mười nhé.”


Vừa dứt lời, chủ quán chợt thấy rượu trong chiếc vò trước mặt bỗng ùng ục mấy tiếng rồi biến mất, kinh hãi đến há hốc cả miệng, tới khi định thần ngẩng lên thì trước cửa đã vắng hoe.


Trong Ly Hỏa trận, dường như ngoài lửa ra chẳng còn gì hết.


Từng đám lửa đỏ bay qua bay lại như sao băng, thiêu rụi mọi thứ trong trận. Bởi thể chất của A Hành là mộc linh nên khi bị lửa hun đốt, nàng chịu đau đớn hơn những thần tiên khác gấp bội.


A Hành nghiến chặt răng, đã mấy lần đau đến ngất đi cũng chừng đó lần bị trận pháp hun cho tỉnh lại, liên tục vật vã trong đau đớn vô bờ.


Càng về sau nỗi đau càng tăng thêm, như thế có vô số ngọn lửa chạy rần rật trong cơ thể khiến A Hành không sao chịu nổi, nàng đau đến nỗi co rúm người lại lăn lộn trong trận pháp.


Tuy Ly Chu là đại thần tâm phúc của Hoàng Đế nhưng lại tận mắt chứng kiến A Hành từ nhỏ lớn lên, thấy nàng vật vã khổ sở lão cũng chẳng đành lòng, bèn cất lời khuyên nhủ: “Vương cơ nhận lỗi với bệ hạ đi, bệ hạ rất thương vương cơ, nhất định sẽ thả vương cơ ra ngay.”


A Hành đau đến nỗi lên cơn co giật nhưng vẫn làm thinh không nói.


Sau cùng nàng cũng chằng còn sức mà lăn lộn nữa, chỉ nằm toi thóp trên mặt đất, có điều Ly Hỏa trận là trận pháp dùng để trừng phạt thần tiên, bởi vậy những đau đớn về thể xác của nàng không hề được giảm nhẹ mà vẫn tiếp tục đẽo xương rứt tủy giày vò nàng.


Rất lâu rất lâu nữa, lâu đến nỗi A Hành cảm thấy trời tàn đất tận, thân thể nàng đột nhiên mát lạnh như nắng hạn gặp mưa rào, bao nhiêu đau đớn đều tan biến cả. Nàng lờ đờ hé mắt ra liền trông thấy nước lửa đan xen, ánh sáng chói lòa, Thiếu Hạo đứng giữa trận pháp như câu ngọc đón gió, chẳng vương chút bụi trần, vô số thủy linh vui vẻ bơi qua lượn lại quanh mình y, đám lửa đỏ rực trời đều bị nước ngăn lại phía ngoài.


Thiếu Hạo chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt phức tạp, y đỡ nàng dậy đút nước cho nàng rồi hỏi nhỏ: “Lẽ nào gả cho ta còn đau đớn hơn bị lửa thiêu đốt toàn thân ư?”


A Hành mở miệng toan nói, tiếc rằng cổ họng đã bị lửa hun khô rang, không cất nổi nên lời, chỉ biết lắc đầu.


Thiếu Hạo đặt Quy khư thủy ngọc vân mang bên mình vào miệng nàng, hạ giọng thì thầm: “Lén ngậm nó rồi vờ như nàng rất đau đớn.”


Dứt lời Thiếu Hạo đặt A Hành xuống, rời khỏi Ly Hỏa trận. Hỏa linh nghiêng trời lệch đất lập tức ập đến quanh nàng, cuộn lên từng bước y đi, nhưng lục phủ ngũ tạng A Hành vẫn mát mẻ, chỉ có da dẻ hơi phồng rộp lên, so với nỗi đau đớn ban đầu thì chẳng thấm vào đâu cả.


Theo ý chỉ của Tuấn Đế, Thiếu Hạo ngàn dặn xa xôi tới bái kiến Hoàng Đế xin chọn ngày thành hôn, Hoàng Đế bèn đặt tiệc trong cung Thượng Viên khoản đãi y.


Thiếu Hạo khiêm tốn lễ độ, học thức uyên bác, mấy chuyện tầm phào được y thao thao kể ra, còn trích dẫn điển tích nghe sinh động thú vị hẳn lên, cả đại điện râm ran tiếng cười nói như được tắm trong làn gió mát.


Nghe Hoàng Đế ướm hỏi Tuấn Đế định sắp xếp hôn sự ra sao, Thiếu Hạo liền thưa: “Cao Tân đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ rồi. Cứ theo ý phụ vương con thì càng nhanh càng tốt.”


Các triều thần đua nhau chúc mừng, Hoàng Đế cũng gật đầu cười hài lòng. Thiếu Hạo lại ngượng nghịu nói tiếp: “Theo lễ nghi Cao Tân, sau khi chính thức định ngày, con và vương cơ sẽ không được gặp nhau cho tới hôn lễ. Lần này con mang theo vài món đồ chơi cho vương cơ, ngày mai muốn, muốn… tự tay đưa tặng vương cơ, xin bệ hạ chuẩn y.”


Mọi người hiểu ra đều phá lên cười, đưa tặng quà chỉ là cái cớ, mục đích là muốn gặp mặt nhau. Hoàng Đế cũng mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là được.”


Nói rồi ông đưa mắt nhìn tâm phúc bên mình, đoạn căn dặn Thanh Dương: “Con đi báo với Hành nhi một tiếng, dặn nó tối nay nhớ nghỉ ngơi sớm, ngày mai trang điểm lộng lẫy đi gặp Thiếu Hạo, đừng để thất lễ.”


“Nhi thần hiểu.” Thanh Dương nhận lệnh lui khỏi đại điện.


Lúc Thanh Dương tới Ly Hỏa trận, tâm phúc của Hoàng Đế đã lệnh cho Ly Chu giải trừ trận pháp. Nhìn A Hành thương tích khắp người, chỉ còn thoi thóp, Thanh Dương chẳng dám để Luy Tổ trông thấy, đành đưa nàng về phủ mình.


Thanh Dương tu tập thủy linh, lại thêm Quy khư thủy ngọc vạn năm của Thiếu Hạo hỗ trợ nên vết thương bên ngoài của A Hành lành lại rất nhanh.


Thanh Dương xót xa nhìn em gái, “Bị thương đến thế này, muội vẫn không chịu để gả cho Thiếu Hạo ư?”


A Hành quật cường mím môi không đáp.


Thanh Dương đột ngột nổi giận: “Là Xi Vưu của Thần Nông phải không? Muội có tin ta đi giết phăng thằng nhãi Cửu Lê đó không?”


A Hành trừng mắt nhìn y, lộ vẻ cố chấp không sợ trời chẳng sợ đất.


Thanh Dương xả giận xong lại nghĩ, tuy bốn anh em mỗi người một tính nhưng nết quật cường thì hệt như nhau, tất phải tìm cách khác.


Y trầm ngâm như nghĩ ngợi xem nên nói từ đâu, hồi lâu mới hỏi: “Muội có biết người được phụ vương sủng ái nhất là ai không?”


A Hành đáp ngay chẳng cần nghĩ, giọng khàn khan: “Tam phi Đồng Ngư thị.” Chuyện này thần tiên nào của Hiên Viên mà không biết chứ.


“Theo tính tình của mẹ, muội nghĩ Người có chịu cầu xin lòng sủng ái của phụ vương không?”


“Dĩ nhiên không rồi!” A Hành ngỡ ngàng, chẳng hiểu Thanh Dương hỏi vậy là có ý gì. Tính khí của mẹ nàng rất kiên cường cứng rắn, lại chẳng chịu giữ gìn dung nhan trẻ đẹp nên từ khi hiểu chuyện, nàng chưa từng thấy phụ vương nghỉ tại Triêu Vân điện bao giờ.


“Hơn năm trăm năm trước, Đồng Ngư thị từng rắp tâm muốn dọn vào Triêu Vân điện.”


A Hành ngẫm nghĩ, bấy giờ mới hiểu ra ý tứ của câu nói này, liền kinh ngạc ngẩng lên: “Ý huynh là… bà ta muốn phụ vương phế hậu ư?”


Thanh Dương lạnh lùng gật đầu.


“Sao muội chả biết gì cả?”


“Xương Ý không muốn cho muội biết những chuyện này, nó xin ta đừng kể lại với muội. Xương Ý và mẹ đều muốn bảo vệ muội, để muội được sống những tháng ngày vô tư vô lự, nhưng muội sớm muộn gì cũng phải trưởng thành, có rất nhiều việc không thể trốn tránh được.”


A Hành sững người nhìn Thanh Dương, trong lòng chỉ canh cánh nghĩ tới việc phế hậu.


Thanh Dương cười nhạt hỏi: “A Hành, lẽ nào muội tưởng rằng gia đình ta toàn cha hiền con hiếu, anh em khăng khít sao?”


A Hành chẳng thốt nên lời, tuy nàng biết các anh vẫn ngấm ngầm tranh chấp với nhau, nhưng có lẽ Đại ca quá dũng mãnh nên nàng chưa từng trăn trở về việc này.


Thanh Dương lại hỏi: “Muội có biết tại sao Đồng Ngư thị thôi không lải nhải bên tai phụ vương rằng bà ta thích phong cảnh ở Triêu Vân điện nữa không?”


“Vì huynh sao?”


Thanh Dương cười khẩy lắc đầu, “Nếu vì ta thì bà ta càng muốn tiến vào Triêu Vân điện, có vậy con trai bà ta mới có thể trở thành con đích, mới có thể danh chính ngôn thuận tranh đoạt vương vị với ta.”


“Vậy là vì…” A Hành chẳng nghĩ ra được nguyên nhân nào nữa cả.


“Vì muội đấy.”


“Vì muội ư?” A Hành tròn mắt kinh ngạc, khi đó nàng vẫn là đứa trẻ ngây ngô, có thể giúp được gì chứ?


“Vì muội có hôn ước cùng Thiếu Hạo, mà Thiếu Hạo rất có khả năng sẽ trở thành Tuấn Đế, phụ vương đông con trai nhưng chỉ có mình muội là con gái. Cao Tân vô cùng coi trọng dòng dõi xuất thân, để muội có thể thuận lợi trở thành vương hậu Cao Tân, phụ vương không thể cướp đoạt thân phận tôn quý của muội.”


A Hành lộ vẻ kinh hãi.


Thanh Dương nói tiếp: “A Hành, mẹ đã dốc hết sức để muội có được năm trăm năm thoải mái vô lo, trong vương tộc điều đó quý giá nhường nào, muội biết không? Muội thấy bây giờ mẹ ra sao rồi đấy, muội hiểu những gì người phải bỏ ra vì chúng ta không? Muội đành lòng để mẹ bị đám phi tử kia làm nhục ư?”


Thấy A Hành cắn môi không đáp, Thanh Dương lại nói tiếp: “Từ nhỏ tới lớn Xương Ý đều che chở cho muội, muội có nghĩ hành động của mình sẽ làm tổn hại đến nó không? Nếu muội hủy hôn với Thiếu Hạo, rất có thể mẹ sẽ phải rời khỏi Triêu Vân điện, e rằng Xương Ý cũng bị phụ vương biếm đi, đến chừng đó, hết thảy mọi đả kích liền trút xuống, theo tính tình của Xương Ý, muội nói nó có ứng phó nổi không?”


A Hành rưng rưng nước mắt, nàng ngỡ rằng từ hôn chỉ là việc riêng của mình, dù bị phụ vương trừng phạt nàng cũng không sợ, ngờ đâu hôn sự của nàng lại liên quan mật thiết tới tính mạng mẹ và anh trai như vậy.


“Nếu vì một gã đàn ông mà muội đành lòng vứt bỏ cả mẹ và Xương Ý, ta cũng không sao ngăn được! Nhưng muội tưởng vứt bỏ mẹ và ca ca thì có thể giành được những gì mình muốn ư?”


A Hành chỉ ngây thơ thuần phác chứ chẳng phải hạng ngu dốt, nghe Đại ca giảng giải nàng đã hiểu cả, bất giác lã chã hai hàng nước mắt. Thấy vậy Thanh Dương lại tiếp tục dồn ép, như thể muốn xóa sạch chút tàn dư hy vọng còn sót lại trong lòng nàng, “Muội cãi lời phụ vương, phá hỏng mối liên minh giữa Hiên Viên và Cao Tân, có lẽ phụ vương không nỡ giết muội nhưng nhất định sẽ lấy mạng Xi Vưu! Vả lại Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo nghiêm ngặt nhất trong các Thần tộc, dù Thiếu Hạo khoan dung đại lượng chẳng tính toán với muội thì vương thất Cao Tân cũng không nuốt trôi nỗi nhục mà Xi Vưu đem lại, ắt hẳn sẽ phái binh ám sát hắn! Theo ta được biết Xi Vưu và Chúc Dung rất căm ghét nhau, biết đâu y chẳng đục nước béo cò mà giết chết Xi Vưu? A Hành, muội định đẩy Xi Vưu vào vòng truy sát của Tam đại Thần tộc ư? Đến chừng đó, dù thiên hạ rộng lớn thật đấy, nhưng bọn muội liệu còn chốn dung thân không?”


A Hành tái mặt đổ gục xuống như thể bị rút hết xương cốt. Thanh Dương chẳng những đã phá nát giấc mộng thiếu nữ của nàng mà còn đạp đổ tất cả những gì tốt đẹp mấy trăm năm nay mẹ và Xương Ý dựng lên cho nàng.


Thanh Dương lại hỏi: “Tri Mạt bá bá đang ở Triêu Vân phong, mẹ vẫn chưa biết chuyện muội bị trừng phạt, muội có muốn cho mẹ biết không?”


A Hành nước mắt như mưa nhưng vẫn cương quyết lắc đầu.


“Vậy được, chúng ta xem như chưa có gì xảy ra, muội nghỉ ngơi một đêm cho khỏe, sáng mai chúng ta quay về Triêu Vân điện, muội hãy nói với phụ vương và mẫu hậu rằng mình bằng lòng gả cho Thiếu Hạo.”


A Hành không đáp, chỉ vùi mặt vào gối, hai mắt nhắm nghiền, chan hòa nước mắt.


Nửa đêm, Xi Vưu đang định cưỡi đại bàng đến Cửu Lê gặp A Hành như đã hẹn, hắn còn toan tới sớm trước tết Khiêu Hoa để chuẩn bị cho nàng một bất ngờ.


Đột nhiên một luồng sáng đỏ rực bốc lên từ đỉnh Tiểu Nguyệt.


Trong chớp mắt Xi Vưu biến hẳn sắc mặt, hắn thoáng chần chừ trông về phía Cửu Lê xa tít cuối trời rồi lệnh cho đại bàng quay lại Thần Nông sơn.


Vừa nhảy xuống khỏi lưng đại bàng, hắn đã thấy Vân Tang hớt hải chạy tới đón, sắc mặt tái nhợt, “Phụ vương đã hoàn toàn hôn mê rồi, Du Võng hiện đang ở bên cạnh Người, trước khi Du Võng chính thức lên ngôi, phải phong tỏa tất cả tin tức, bằng không Hiên Viên và Cao Tân biết được sẽ bất ngờ dấy binh, giặc ngoài tất dẫn tới loạn trong, khó mà thu xếp được. Ta đã lấy danh nghĩa phụ vương triệu kiến Chúc Dung, Cộng Công và Hậu Thổ, bọn chúng vẫn chưa biết tình hình, đợi chúng tới ta sẽ lập tức phái trọng binh canh giữ, không cho chúng rời khỏi Thần Nông sơn, ngươi cũng phải hết sức cẩn thận đấy.”


Vân Tang lại quay sang dặn dò thống lĩnh thị vệ Hình Thiên bên cạnh: “Mau khởi động trận pháp, giới nghiêm toàn bộ hai mươi tám đỉnh của Thần Nông sơn, từ giờ trở đi chỉ có vào không có ra. Không được để bất kỳ tin tức nào truyền ra ngoài, kẻ nào nhất mực đòi đi chém ngay tức khắc!”


Đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn mấy đời tận trung với Viêm Đế thảy đều dạ ran, Phong Sơn trận pháp mấy ngàn năm mới khởi động một lần lại được khởi động lần nữa. Phong Sơn trận do Viêm Đế các đời dốc hết tâm huyết tạo nên, trừ phi có tinh huyết trích trong tim Viêm Đế hộ thân, bằng không dù một con ruồi cũng khó mà bay lọt khỏi Thần Nông sơn.


Xi Vưu rảo bước vội vã tới đại điện nhưng chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn về phía Cửu Lê, lòng đầy đau thương buồn bực, chẳng rõ là lo lắng cho Viêm Đế trong điện Tiểu Nguyệt hay lưu luyến A Hành trên Cửu Lê sơn.


Du Võng, Vân Tang và Mộc Cận vây quanh giường bệnh của Viêm Đế suốt đêm, mãi đến gần sáng Viêm Đế mới đột nhiên tỉnh lại.


Thấy vậy, Du Võng cùng Vân Tang vô cùng mừng rỡ, nhưng Viêm Đế đã chẳng thể nói năng gì, chỉ đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Trong lúc Vân Tang còn ngơ ngác, Du Võng vội quay ra gọi: “Xi Vưu, mau vào đi, phụ vương muốn gặp ngươi.”


Đám Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ chầu chực bên ngoài nghe Du Võng gọi, mỗi người tỏ một thái độ khác nhau nhưng hết thảy đều đổ dồn ánh mắt về phía Xi Vưu. Thấy Xi Vưu vội vã bước vào, Viêm Đế mỉm cười, nét mặt héo úa tiều tụy vì bệnh tật giày vò.


Xi Vưu chợt hồi tưởng lại ông lão gầy gò đầu đội nón tre lưng đeo gùi thuốc mấy trăm năm trước bước vào đầm lầy xoa bụng cười nói: “Ai da, sao ngươi dạy được đám khỉ hái quả cho mình hay vậy? Cho ta một quả với!”


Mấy trăm năm nay, chính là ông lão thoạt nhìn hòa nhã thật thà mà trong bụng gian trá giảo hoạt này dạy hắn tiếng người, dạy hắn biết đọc biết viết, còn lải nhải giảng cho hắn về lễ tiết nhân gian, vắt óc tìm cách mài mòn dã tính trong hắn.


Xi Vưu thấy cay cay sống mũi, liền quỳ sụp xuống bên giường Viêm Đế: “Sư phụ, ta nhất định sẽ giữ lời thề.”


Viêm Đế thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt đầy vẻ an ủi, đoạn lại nhìn sang Mộc Cận, Mộc Cận vội dập đầu: “Nếu không có phụ vương thu dưỡng, con đã chết từ lâu rồi. Ơn dưỡng dục của Người thật chẳng biết lấy gì báo đáp, con biết phụ vương vẫn canh cánh lo cho trăm họ Thần Nông, tuy con là phận gái nhưng cũng xin dốc hết sức mình thay Người bảo vệ cho dân chúng Thần Nông.”


Viêm Đế mấp máy môi nhưng chẳng thốt ra nổi một tiếng, lại nhìn sang bên gối.


Vân Tang thấy bên gối đặt một chiếc hộp gỗ bèn mở ra xem, thấy bên trong có hai con chim đẽo bằng gỗ, nàng ngơ ngác không hiểu là thứ gì, có điều nhìn biểu hiện dường như Viêm Đế muốn cầm, bèn đặt hai con chim đó vào tay Viêm Đế.


Viêm Đế chăm chú nhìn đôi chim một lượt rồi nhìn sang Vân Tang, bờ môi mấp máy chẳng thốt nổi nên lời, bấy giờ Vân Tang mới sực hiểu ra, vội ôm chậu sơn trà xanh biếc vẫn đặt trong phòng ngủ vào lòng, nghẹn ngào nói: “Con sẽ, sẽ trồng chúng trên… mộ cha mẹ, cha yên tâm!”


Viêm Đế đăm đăm ngắm những đóa sơn trà, ánh sáng trong mắt nhạt dần nhưng nụ cười trên môi càng lúc càng tươi tắn, sau cùng, đôi mắt Viêm Đế trở nên bạc phếch, nụ cười vẫn ngưng đọng trên môi.


Mộc Cận phủ phục bên giường Viêm Đế khóc lóc thảm thiết, thoạt đầu nàng còn ráng nén tiếng khóc, dần dần không sao nén nổi, tiếng nức nở cứ to dần.


Vân Tang quỳ thẳng đơ không khóc lóc cũng chẳng động đậy, rồi đột nhiên ngã lăn ra đất ngất lịm.


Đám Chúc Dung nghe tiếng khóc xông vào, thấy Viêm Đế đã qua đời, ai nấy đều thấy lòng buồn vô hạn, quỳ xuống đất khóc rống lên.


Vào đúng lúc Viêm Đế tắt thở, đôi chim gỗ trong tay Viêm Đế thình lình cử động, cất cánh bay lên, lượn quanh thi thể một vòng rồi bay ra ngoài cửa sổ.


Đôi chim đỏ rực từ Tiểu Nguyệt đỉnh Thần Nông sơn bay ra, vượt qua Phong Sơn trận pháp, một con bay tới Triêu Vân phong ở Hiên Viên sơn, con kia bay đến Ngọc sơn.


Sáng hôm sau.


Vương Mẫu vừa trang điểm xong, đang ngồi trước đài trang lần lữa chưa buồn đứng dậy, bà ngơ ngẩn ngắm mình trong gương, thấy dung nhan vẫn là thiếu nữ vừa tròn đôi tám, hệt như năm ấy.


Bất giác bà chợt chạnh lòng nhớ tới một khúc điệu vô cùng quen thuộc, trong tiếng nhạc du dương, bà như thấy lại tất cả: mặt trời xế bóng, những đóa hoa rực rỡ nở khắp núi đồi, và bản thân mình đang phơi phới múa.


Sau phút mơ màng, bà bỗng phát hiện ra khúc nhạc đó không chỉ vang lên trong lòng mình, mà còn từ bên ngoài vẳng lại.


Vương Mẫu đứng phắt dậy, mặc cho hộp trang điểm, gương soi, ghế ngồi đổ lỏng chỏng, bà điên cuồng chạy thẳng khỏi đại điện, liền trông thấy một con chim gỗ đỏ rực đang đỗ trên cành đào véo von cất giọng.


Khúc nhạc quen thuộc, nhưng chim gỗ hót lên lại chứa chan những ân hận và xa cách.


Vương Mẫu đờ người, sắc mặt tái nhợt, nước mắt cứ thế trào ra, chảy tràn xuống hai gò má không sao kiềm chế nổi.


Nghe mãi nghe mãi, Vương Mẫu bắt đầu múa theo tiếng chim, vừa múa vừa khóc, vừa múa vừa cười, bà đợi suốt ngàn năm cuối cùng cũng đợi được khúc nhạc này! Nào ai ngờ một khi tới lại là vĩnh biệt!


Khúc nhạc hoàn tất, chim gỗ cũng tan thành tro bụi.


Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.


Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.


Tất cả cung nữ đều luống cuống chỉ biết tròn mắt kinh ngạc nhìn Vương Mẫu vừa cười vừa hát, vừa khóc vừa múa.


Trong lúc Vương Mẫu vung tay áo phơi phới múa, mấy bông tuyết lấp lánh lạnh buốt đột nhiên từ trời cao phất phơ bay xuống.


Đám cung nữ chìa tay ra hứng, bàng hoàng không dám tin rằng đó là băng tuyết, nơi này là thánh địa Ngọc sơn quanh năm ấm áp như mùa xuân kia mà!


Từng bông từng bông tuyết lả tả trút xuống, càng lúc càng to, ngàn vạn gốc đào trên Ngọc sơn cũng theo nhau tàn lụi.


Cùng với điệu múa của Vương Mẫu, dung nhan bà cũng từ từ già đi, đám cung nữ ré lên kinh hãi: “Vương Mẫu, Người, mặt của Người!” Vương Mẫu chỉ dịu dàng cười, mặc cho những nếp nhăn lờ mờ lan ra từ khóe miệng, dần dà phủ đầy cả gương mặt.


Tuyết càng rơi càng lớn, cả Ngọc sơn bị băng tuyết bao phủ, nhuộm một màu trắng xóa.


Núi biếc chưa già, lại vì chàng mà bạc cả mái đầu.


Lúc chính ngọ là thời điểm Triêu Vân điện tràn ngập dương quang, Luy Tổ cũng rất thích ngồi bên song dệt vải dưới ánh nắng vàng rực rỡ.


Đột nhiên Luy Tổ vô tình ngẩng lên, trông thấy một cánh chim đỏ rực bay ngang trời rồi chấp chới khuất sau rừng dâu, sắc mặt bỗng tái nhợt, bà quăng thoi xuống chạy ra khỏi Triêu Vân điện.


Con chim đỏ rực đậu xuống cành dâu, véo von cất giọng hót với bà.


Luy Tổ lắng nghe, chợt mỉm cười!


Hơn ba ngàn năm trước, lúc bà dứt áo ra đi, bọn họ đã ngồi trên sườn núi xanh ngắt cỏ non hát khúc ca này đây.


Hoàng hôn hôm ấy đẹp đẽ vô ngần, khúc nhạc của Thạch Niên trầm bổng du dương nhường ấy, điệu múa của A Mi cũng say đắm lòng người như vậy, chỉ có bà là hát qua quýt cho xong, bởi trong lòng còn mải nghĩ đến gã thiếu niên anh tuấn hào sảng dưới Hiên Viên sơn.


Bà bất ngờ hạ quyết tâm đi tìm gã thiếu niên đó, bởi thế Thạch Niên chưa kịp thổi hết khúc nhạc đó, A Mi cũng chưa múa xong điệu múa đó.


Bà đâu có ngờ, khúc nhạc ấy phải hơn ba ngàn năm sau mới thổi hết.


Nếu năm đó bà biết rằng dù sinh mệnh có dài đằng đẵng, dù trong đời còn vô vàn buổi chiều tà, cũng không thể tìm lại được một chiều hoàng hôn mỹ lệ dịu dàng soi sáng cho ba người bọn họ như thế nữa, có lẽ bà đã chẳng nôn nóng bỏ đi như vậy mà sẽ trân trọng nâng niu từng khoảnh khắc, dẫu rằng chia tay là tất yếu, bà cũng muốn tha thiết hát cho hết khúc ca ấy dưới ánh hoàng hôn.


Chim gỗ hót hết khúc nhạc liền tan thành tro bụi, như thông báo rằng Viêm Đế, người chế tạo ra nó, đã vĩnh viễn khuất bóng trên thế giới này.


“Muội xin lỗi!”


Luy Tổ cố nén nhưng đau thương đã trào ra khóe mắt, hóa thành hai hàng lệ lã chã rơi, khóc cho một niềm ân hận đã ba ngàn năm chưa nguôi ngoai.


Dù xin lỗi cả trăm ngàn lần, cũng có được gì đâu? Trong đời bà sẽ vĩnh viễn chẳng thể tìm lại buổi hoàng hôn mỹ lệ, dịu dàng chiếu sáng cho ba người bọn họ như thế nữa.


Bảy ngày sau, Thần Nông quốc tuyên bố Viêm Đế đời thứ bảy đã qua đời. Tin này lập tức lan truyền khắp thiên hạ, ngũ hồ tứ hải, lục hợp bát hoang, ai nấy đều đau xót. Vương tử Du Võng kế vị, trở thành Viêm Đế đời thứ tám, đồng thời tuyên đọc di chiếu của Viêm Đế đời trước, phong cho Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nắm giữ tất cả binh mã Thần Nông quốc.


Mười ngày sau, hai tộc Cao Tân và Hiên Viên đồng thời tuyên bố đã chọn được một ngày thành hôn, Cao Tân Thiếu Hạo sẽ cưới Hiên Viên Bạt trong một ngày gần đây, hai đại Thần tộc chính thức kết mối liên minh, cả đại hoang đều khấp khởi mong đợi một hôn lễ long trọng chưa từng thấy suốt ngàn năm nay.


Quyển 1 – Chương 12: Đa Tình Chỉ Chuốc Lấy Hao Mòn[1]


[1] Trích trong bài từ theo điệu Ngu mỹ nhân của Nạp Lan Tinh Đức, nhan đề Chiều thu tản bộ. (ND)


Thiếu Hạo miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.


Mồng năm tháng Năm là tết Tháng Năm của Cao Tân, cũng là ngày đại cát để thành hôn. Hôn lễ của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt được cử hành vào hôm đó.


Trăm họ Hiên Viên đều thích tài hoa, trọng anh hùng, Cao Tân Thiếu Hạo là nam nhi xuất chúng nhất trong thiên hạ, là tấm chồng hoàn mỹ mà thiếu nữ nào cũng tha thiết ước mong, thấy vương cơ duy nhất của mình được gả cho Thiếu Hạo, bọn họ hết sức vui mừng. Muôn dân Cao Tân lại ưa huyết thống, trọng dòng dõi, Hiên Viên Bạt là con gái Chính phi Luy Tổ của Hoàng Đế, tuy huyết thống của Hiên Viên Hoàng Đế hơi kém nhưng Luy Tổ xuất thân từ nhà Tây Lăng danh gia vọng tộc, mang huyết thống tôn quý, trong tộc từng có một vị Viêm Hậu nên Hiên Viên Bạt gả cho Đại vương tử của họ cũng xứng đôi.


Tuy phong tục mỗi nơi mỗi khác nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, cả hai bên đều rất vừa lòng với cuộc hôn nhân này. Hôn sự của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt đã trở thành việc mừng của mọi nhà. Từ sau khi rời khỏi Hiên Viên sơn, đoàn đưa dâu của Hiên Viên đi tới đâu cũng được dân chúng nhiệt tình đón mừng và chúc phúc.


Xương Ý gõ gõ vào xe loan, phấn chấn khoe với Hiên Viên Bạt ngồi trong: “Muội thấy chưa? Đi đến đâu cũng được người ta múa hát chúc mừng!”


Hiên Viên Bạt ngồi ngay ngắn trong xe khẽ đáp: “Vâng, muội nghe thấy cả.”


Xương Ý nói: “Trước mặt là sông Tương, đoàn rước dâu của Thiếu Hạo đang chờ ở bờ bên kia, theo nghi thức ta chỉ có thể đưa muội đến bờ sông mà thôi, hay là nghỉ lại đây một lát?”


“Vâng.”


Xương Ý tựa vào thành xe khẽ nói: “Rõ ràng ta nên vui mới phải, nhưng ta lại vừa vui vừa buồn, chỉ mong vĩnh viễn đừng đi tới sông Tương.”


Hiên Viên Bạt cũng tựa đầu vào thành xe, như thể đang dựa vào Tứ ca: “Huynh đừng lo, Thiếu Hạo là bạn thân của Đại ca, nhất định sẽ đối tốt với muội, vả lại muội gả tới Cao Tân, huynh vẫn có thể tới thăm kia mà.”


Xương Ý cười: “Ừ, ta cũng nghĩ thế đấy. Nhược Thủy, đất phong của ta rất gần Cao Tân mà.”


Hiên Viên Bạt lại hỏi: “Khi nào huynh cưới chị dâu tương lai?”


“Sắp rồi, tới chừng đó coi như cũng có cớ để muội về nhà đoàn tụ với cả gia đình.”


“Tứ ca, sau này huynh nhớ săn sóc cho mẹ nhé.”


“Được, ta sẽ chăm lo thật tốt cho Người, muội khỏi lo.”


Vừa nói tới đó đã nghe lễ quan phụ trách giờ giấc nghi thức giục giã: “Điện hạ, nếu còn chùng chình sẽ lỡ giờ lành đó, đoàn rước dâu của Cao Tân đã đến bờ sông rồi kìa.”


Xương Ý khẽ thở dài rồi lệnh cho cả đoàn tiếp tục lên đường.


Chỉ lát sau đã đến bờ sông Tương.


Đoàn rước dâu và đưa dâu đứng hai bên bờ trông sang nhau, tiếng kèn trống réo rắt vô cùng nào nhiệt, lại thêm dân chúng đôi bờ reo hò mừng rỡ khiến cả đất trời tràn ngập niềm vui.


Hiên Viên Bạt được Xương Ý đỡ xuống xe loan, theo lề lối Cao Tân coi màu trắng là tôn quý nhất, nàng mặc một bộ đồ trắng tinh tha thướt, Thiếu Hạo bên kia cũng áo bào mũ ngọc, phong nhã hào hoa. Cả hai đứng ở đôi bờ nhìn nhau, người tóc xanh phơi phới, thanh lệ vô song, kẻ vạt áo tung bay, phong tư trác nguyệt, khiến dân chúng tới xem lễ đông nghẹt hai bên bờ mở cờ trong bụng, thầm ca tụng tân lang tân nương quả là trời sinh một cặp, như ngọc như ngà.


Tiếng kèn trống réo rắt chợt im bặt, lễ quan tiến lên dâng lời chúc phúc, sau đó là thỉnh chuông, gõ khánh.


Trong tiếng chuông khánh ngân vang văng vẳng, một trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân mình vận lễ phục bắt đầu ca khúc rước dâu.


“Tổ kia thước ở sẵn sàng


Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong


Bây giờ nàng ấy lấy chồng


Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu


Tổ kia thước ở đã lâu


Cưu đâu bay đến tranh nhau ở bừa


Bây giờ nàng lấy con vua


Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng


Tổ kia thước ở rõ ràng


Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh


Nàng kia cưới đúng giờ lành


Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng[2].”


[2] Bài thơ Thước sáo trích trong Kinh Thi. (ND)


Trong tiếng nhạc nhã tưng bừng của Cao Tân, gắn ngàn cánh Huyền điểu mỹ lệ bay tới bắc thành nhịp cầu nối đôi bờ sông Tương, đây là nghi thức rước dâu long trọng nhất của Cao Tân, hơn vạn năm nay, tuy đã có vô số đám cưới trong vương tộc nhưng chỉ có chính phi của Tuấn Đế mới được dùng nghi thức này.


Dân chúng đôi bờ chưa từng chứng kiến cảnh tượng lạ lùng đẹp đẽ như vậy, không hẹn mà cùng rộ lên tiếng hoan hô kinh ngạc.


Thiếu Hạo được chim thước dẫn đường, đi qua cầu Huyền điểu tiến về Hiên Viên Bạt, gió lay vạt áo, phong độ đường hoàng.


Xương Ý tươi cười lùi lại mấy bước, nói nhỏ với A Hành: “Muội đi đi! Chú rể của muội đang đợi phía trước kìa.” Chứng kiến nghi thức rước dâu long trọng của Cao Tân, cuối cùng y cũng có thể yên tâm tiễn em gái sang sông lấy chồng.


Trong tiếng hát du dương mà long trọng, dưới sự dẫn đường của chim thước, Hiên Viên Bạt bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền điểu kết thành.


Ánh dương rực rỡ, gió mát hiu hiu, lau lách trắng xóa đôi bờ sông Tương, trên sông sóng biếc lăn tăn, không một bóng thuyền, chiếc cầu Huyền điểu cong cong tựa cầu vồng bắc ngang sông, rạch ngang cả hư không, nối liền hai bên bờ.


Theo đúng nghi thức, Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt thong thả bước lên cầu.


Tất cả mọi người đều hồi hộp đổ dồn mắt vào bọn họ, chờ đợi phút giây họ gặp nhau giữa cầu, tay nắm lấy tay.


Đột nhiên giữa không trung vang lên tiếng thét đầy giận dữ như xuyên mây phá núi vọng tới: “Tây Lăng Hành!”


Khúc hát rước dâu được cả trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân đồng thanh ca vang cũng chẳng át nổi tiếng thét bi phẫn từ trời cao vọng xuống kia. Nhưng Hiên Viên Bạt như không nghe thấy, vẫn tiến về phía Thiếu Hạo.


Thiếu Hạo liếc nhìn trời, chân vẫn bước về phía Hiên Viên Bạt như chẳng nghe thấy gì, nhưng ngón tay ngầm kết lại thành linh ấn khiến gió nổi lên lồng lộng, sương khói phủ mờ mặt sông, hơi nước nghi ngút, che khuất tầm nhìn của đám người hai bên bờ.


Khi hai người bước đến giữa cầu, sương khói đã giăng mờ sông Tương, Thiếu Hạo đưa tay về phía Hiên Viên Bạt, nàng cũng đang định đặt tay vào tay y, đột nhiên giữa biển mây cuồn cuộn một nam tử vận hồng bào đỏ rực như máu, chân đạp trên lưng đại bàng đen từ trời bay xuống, cặp mắt đầy giận dữ và bi phẫn, thét gọi nàng: “Tây Lăng Hành, cô quên lời hẹn giữa chúng ta rồi sao?”


Hiên Viên Bạt trấn tĩnh tinh thần, đoạn ngoảnh đầu lại, nào ngờ vừa quay lại nàng đã thấy tròng mắt nhói lên, sắc đỏ rực đó như xói vào mắt nàng, hắn đang mặc trên người tấm áo do chính tay nàng chăn tằm dệt vải may thành.


“Cô quên lời thề của mình rồi sao? Cô đã thề hàng năm sẽ gặp ta dưới cội hoa đào, vậy mà bây giờ lại bằng lòng gả cho y?”


Xi Vưu bay tới bên cạnh họ, phẫn nộ chất vấn.


A Hành chỉ cười nhạt nói: “Ta chẳng hiểu ngươi nói gì cả, xin ngươi đi ngay cho.”


“A Hành, đi với ta đi!” Xi Vưu đưa tay cho Hiên Viên Bạt, vẻ mặt quật cường kiên nghị nhưng ánh mắt lại thấp thoáng khẩn cầu, “Là cha cô, Đại ca cô ép buộc cô ư?”


Hiên Viên Bạt đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng dạ rối bời, hắn dám công nhiên tới cướp dâu thế này tức là liều mạng thách thức cả thiên hạ, đến lúc đó dù Du Võng muốn bao che cho hắn cũng không thể lấp liếm nổi.


“Từ nhỏ ta đã có hôn ước với Thiếu Hạo, gả cho chàng là đương nhiên, cần gì phải ép buộc?” Nàng vừa nói vừa nhìn về phía Thiếu Hạo. Từ đầu đến cuối Thiếu Hạo vẫn bình tĩnh ung dung, dường như mọi chuyện trước mắt chẳng liên quan gì tới y.


Hiên Viên Bạt đặt tay mình vào tay Thiếu Hạo, Thiếu Hạo tươi cười, nắm lấy tay nàng.


Thấy vậy Xi Vưu lập tức ra tay toan giành lấy Hiên Viên Bạt từ Thiếu Hạo, Thiếu Hạo một tay nắm lấy Hiên Viên Bạt, tay kia giơ ra đỡ lấy đòn như sấm sét của Xi Vưu.


Kẻ đánh người đỡ, tay hai người bắt vào nhau, Xi Vưu bừng bừng lửa giận, Thiếu Hạo lại bình thản như nước.


Thiếu Hạo là đệ nhất cao thủ Thần tộc nổi danh cả ngàn năm nay, thực lực thâm sâu khó dò, chỉ trong một sát na, Xi Vưu đã hiểu mình hoàn toàn không phải là đối thủ của y, nhưng hắn vẫn bất chấp hết thảy, liên tiếp ra đòn, lăm le muốn giành lại A Hành từ tay Thiếu Hạo.


Thiếu Hạo vừa hóa giải chiêu thức của Xi Vưu vừa ôn hòa lễ độ thuyết phục: “Xi Vưu Đại tướng quân, hôm nay là hôn lễ của hai nước Hiên Viên và Cao Tân, mời ngài theo thị nữ lên Quan Lễ đài dự lễ.”


Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, chỉ tấn công như điên như dại, tuy Thiếu Hạo đã giăng kết giới phong tỏa tất cả, dân chúng hai bên bờ hoàn toàn không nghe thấy được mọi chuyện đang diễn ra, nhưng dây dưa quá lâu nhất định sẽ khiến họ sinh nghi.


Chẳng thể lằng nhằng với Xi Vưu mãi, y đành nói nhỏ: “Xin đắc tội!” Dứt lời năm ngón tay y liền biến thành năm con thủy long trắng xóa, ngẩng đầu há miệng lao về phía Xi Vưu.


Sóng cuộn ngập trời, bị năm con rồng đồng loạt công kích, Xi Vưu không sao chống đỡ nổi, rớt khỏi lưng đại bàng rơi xuống sông, đại bàng kêu lên một tiếng bi thương rồi vội vã lao xuống cứu chủ.


Một bàn tay Thiếu Hạo trước sau vẫn nắm chặt lấy tay Hiên Viên Bạt, y nhìn nàng như dò hỏi, thấy Hiên Viên Bạt gật đầu, y liền dắt nàng bước tiếp.


Vừa đi được một quãng, bỗng Xi Vưu đột ngột từ dưới nước lao lên, thúc đại bàng chặn trước mặt hai người, hắn đã bị thương, cả người ướt sũng, trông vô cùng nhếch nhác nhưng gương mặt vẫn đầy vẻ kiệt ngạo ngông cuồng, chẳng hề sợ hãi, cũng chẳng buồn để tâm rằng mình không phải đối thủ của Thiếu Hạo, hai bên bờ lại có quân tinh nhuệ của Cao Tân và Hiên Viên, chỉ cần Thiếu Hạo ra lệnh, hắn sẽ bị giết ngay tại chỗ.


Hai bàn tay Xi Vưu chợt đỏ rực lên như máu, chuẩn bị ra tay, lần này Thiếu Hạo cũng không dám khinh địch đành buông Hiên Viên Bạt ra, chậm rãi giơ tay trái lên. Thấy vậy Hiên Viên Bạt hoảng hốt chạy tới chắn trước mặt Thiếu Hạo, cao giọng mắng Xi Vưu: “Quân càn rỡ không hiểu lễ giáo kia, muốn cướp dâu cũng phải xem mình có xứng không chứ, Thiếu Hạo thân phận tôn quý, thần lực cao cường, dung mạo tuấn tú, ngươi có chỗ nào sánh được với chàng? Lẽ nào ta lại bỏ trân châu đi vớt mắt cá ư? Ngươi biết thân biết phận chút đi, đừng làm chuyện không tự lượng sức nữa!”


Xi Vưu sững sờ nhìn A Hành như không tin vào tai mình, niềm căm uất trào dâng, bi thương và phẫn nộ cuộn lên trong lòng khiến lồng ngực hắn phập phồng dữ dội, “Ta không tin đây là lời nói của Tây Lăng Hành mà ta quen.”


“Ngươi tự mình kêu Tây Lăng Hành đấy chứ, ta nói ngươi hay, từ đầu chí cuối chỉ có Hiên Viên Bạt mà thôi.”


Cặp mắt Xi Vưu vụt tối sầm, hắn không giận mà còn cười vang, gật gật đầu, “Té ra ta có mắt như mù, đã đặt tình cảm nhầm chỗ!” Nói rồi hắn vừa cười thê thiết vừa cởi áo ném trả A Hành.


Đại bàng sải cánh đưa hắn bay đi mất, trong nháy mắt cả người cả chim đều khuất sau màn khói mây mờ mịt, chỉ còn manh áo bào đỏ rực phất phơ rơi xuống trước mặt Hiên Viên Bạt.


Tổ kia thước ở sẵn sàng


Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong


Bây giờ nàng ấy lấy chồng


Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu


Gió nổi lên xua tan hết mây mù, dân chúng đôi bờ lại nhìn rõ cảnh tượng trên sông, thấy Thiếu Hạo đã đứng bên Tây Lăng Hành, họ xôn xao mừng rỡ rồi hòa giọng với đội lễ nhạc Cao Tân ca vang khúc rước dâu:


Tổ kia thước ở đã lâu


Chim cưu bay đến tranh nhau ở bừa


Bây giờ nàng lấy con vua


Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng


Tổ kia thước ở rõ ràng


Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh


Nàng kia cưới đúng giờ lành


Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Trong tiếng hát rước dâu rộn rã, trước sự mong đợi hân hoan của dân chúng hai bên bờ, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt nhìn nhau, chẳng hẹn mà cùng đưa tay ra nắm chặt lấy tay người kia.


Tức thời dân chúng đôi bờ đều đồng loạt hoan hô vang trời dậy đất, tiếng reo hò lan đi khắp nơi, chấn động cả mây xanh.


Nghe tiếng reo mừng vẳng lại, Xi Vưu đang ngồi trên lưng đại bàng vận linh lực trị thương lập tức rối loạn khí tức, máu tươi trào lên tận cổ họng nhưng hắn cương cường nghiến răng nuốt xuống.


Thiếu Hạo nhìn tấm áo đỏ rực dưới chân chần chừ chưa dám bước lên, trái lại Hiên Viên Bạt lờ đi như không thấy, dẫm thẳng lên hồng bào, nhờ Huyền điểu dẫn đường, hai người lại đi tiếp.


Từng bước từng bước băng qua cầu Huyền điểu theo đúng lễ nghi, bước lên mảnh đất thuộc Cao Tân quốc.


Hàng ngàn cánh Huyền điểu chao liệng trên không, muôn vàn đóa hoa rợp trời khoe sắc, vô số dân chúng reo hò nhảy múa.


Bây giờ nàng ấy lấy chồng


Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu


Bây giờ nàng lấy con vua


Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng


Nàng kia cưới đúng giờ lành


Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Men theo con đường rực rỡ sắc hoa, Thiếu Hạo nắm tay Hiên Viên Bạt tới trước cỗ xe ngọc chạm trổ rồng bay phượng múa, Hiên Viên Bạt vén áo bước lên nhưng bất giác vẫn ngoái đầu ngóng sang bờ bên kia, nơi đó là cố quốc nơi nàng sinh ra và lớn lên, có những người thân yêu ruột thịt của nàng.


Như có cảm ứng tâm linh, Xương Ý cũng lập tức giơ tay, vừa chạy dọc bờ sông, vừa vẫy vẫy tay với nàng.


Hiên Viên Bạt mỉm cười, quay mình bước lên xe ngồi cạnh Thiếu Hạo, nhưng đúng lúc xe ngọc bay lên, nàng không khỏi ngoảnh đầu dõi mắt trông về xa tít cuối trời.


Giờ hắn thế nào rồi!?


Cao Tân Thiếu Hạo dùng nghi lễ long trọng nhất cưới Hiên Viên Bạt về làm vợ, Tuấn Đế cũng vô cùng sủng ái nàng dâu vừa vào cửa, ban cho nàng ở Thừa Hoa điện- cung điện lớn thứ hai trong Ngũ Thần sơn[3], các ân điển khác cũng khó mà kể xiết.


[3] Ngũ Thần sơn: ở Quy khư, nơi ngàn vạn dòng nước cùng đổ về có năm ngọn núi, vì là nơi ở của thần tiên nên được tôn xưng là Ngũ Thần sơn. Theo Sơn Hải kinh ghi chép về nơi ở của Thần hệ Tuấn Đế, Viên Kha tiên sinh cho rằng dòng dõi Tuấn Đế cai quản cả Ngũ Thần sơn. Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn chép: “Đi về phía Đông Bột Hải chẳng biết bao nhiêu dặm có cùng biển lớn, sâu thẳm không đáy, tên gọi Quy khư. Nơi đó có năm ngọn núi, tên gọi lần lượt là Đại Dư, Vân Kiều, Phương Hồ, Tiệm Châu, Bồng Lai, chu vi toàn bộ ba vạn dặm, cao tới chín ngàn dặm.”


Cả Cao Tân đều chúc phúc cho Đại vương tử, nhưng Thừa Hoa điện nơi ở của vương tử phi lại tĩnh lặng như tờ. Các cung nhân vốn hầu hạ ở đó chưa biết tính tình vị chủ nhân mới ra sao nên luôn dè dặt cẩn thận, chẳng dám nhiều lời, còn đám thị nữ tới đây cùng Hiên Viên Bạt lại do Hoàng Đế đích thân tuyển chọn, ai nấy đều là kẻ thận trọng kín tiếng, không tùy tiện nói năng, bởi vậy toàn cung điện mênh mông nhường ấy, người hầu kẻ hạ hàng đàn nhưng ai ai cũng đi nhẹ nói khẽ như hồn ma bóng quỷ, chẳng gây ra tiếng động nào.


A Hành lặng lẽ ngồi trong phòng thẫn thờ như tượng, cảnh tượng lúc ban ngày cứ trở đi trở lại trong đầu, lúc đó nàng chỉ lo cho an nguy của Xi Vưu, sợ Thiếu Hạo sẽ nổi giận hạ sát thủ nên phải tức tốc đuổi hắn đi, vậy mà giờ đây, hình ảnh Xi Vưu bi phẫn cởi áo ném trả rồi quày quả bỏ đi lại hiện ra rành rành trước mắt nàng.


Liệt Dương đột ngột bay vào cửa sổ, đập phá một trận trong phòng, hất đồ đạc, đánh vỡ cả dạ minh châu khiến căn phòng tối om, đám thị nữ phải vừa nhớn nhác xua chim vừa cuống quýt thu dọn mọi thứ. A Tệ lẳng lặng lẻn đến bên A Hành, dúi cho nàng manh hồng bào đã vấy bẩn kia.


Lúc đám thị nữ đem dạ minh châu tới thắp sáng lại căn phòng vẫn thấy A Hành ngồi ngay ngắn ở đó. Sợ động chạm đến Đại vương tử phi, họ chẳng dám mắng chửi Liệt Dương, luôn miệng nhận tội về mình. Liệt Dương đậu trên ngọn cây thấy vậy đắc ý cười sằng sặc đến rung cả người.


Đã qua canh một, Bán Hạ, thị nữ được gả theo nàng tới đây bước vào khẽ thưa: “Xin vương tử phi đi nghỉ trước đi, xem tình hình chắc đêm nay điện hạ không tới đâu.”


“Cứ đợi đi.”


Hiên Viên Bạt tin chắc đêm nay Thiếu Hạo sẽ tới, bởi nàng biết nhất cử nhất động ở đây sẽ được trình báo ngay tới Tuấn Đế, hơn nữa y cũng biết Hoàng Đế nắm rõ y có đối tốt với vương cơ của Hiên Viên hay không. Y nhất định không thể khiến Hoàng Đế hiểu lầm mình được.


Đến canh hai, bên ngoài mới nghe tiếng lao xao: “Điện hạ tới, điện hạ tới rồi.”


Vừa nghe nói đã thấy Thiếu Hạo loạng choạng bước vào, người nồng nặc mùi rượu nhưng vẫn khá tỉnh táo, dưới sự chỉ dẫn của hỷ bà, y gắng gượng cạn ba chung rượu hợp hoan cùng A Hành.


Đám thị nữ cởi áo ngoài cho Thiếu Hạo rồi lục tục lui ra.


Thiếu Hạo chếnh choáng hành lễ với A Hành: “Trên tiệc có nhiều huynh đệ chúc rượu quá, ta khó khăn lắm mới thoát được, để nàng phải đợi lâu rồi.”


A Hành khẽ nói: “Có gì đâu chàng.” Đoạn nàng leo lên giường nhắm mắt nằm in trước. Chỉ lát sau, Thiếu Hạo cũng nằm xuống bên nàng, trong phòng lập tức tối om.


A Hành cứng người lại, nín thở khép chặt vạt áo, tim đập thình thịch như muốn vọt ra ngoài, nhưng Thiếu Hạo vừa đặt mình xuống đã thiếp đi, nàng đợi hồi lâu chẳng thấy y có động tĩnh gì bèn lấy ngón tay khẽ khều khều, chắc chắn y đã ngủ mê mệt mới dám thở phào nhẹ nhõm.


A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, lòng ngổn ngang trăm mối, tránh được đêm nay, còn sau này thì sao?


Sáng tinh mơ, nàng chợt nghe Thiếu Hạo khe khẽ gọi: “A Hành, hôm nay chúng ta phải dậy sớm tới bái kiến phụ vương và mẫu hậu theo quy củ.”


A Hành giật nảy mình, ngồi phắt dậy, trông thấy Thiếu Hạo đã y phục chỉnh tề ngồi cạnh đợi nàng tỉnh giấc.


Thấy A Hành đỏ bừng mặt ngượng ngùng, Thiếu Hạo bèn tiện tay cầm một cuốn sách lên vờ chăm chú lật xem. Mấy thị nữ bưng hộp nữ trang vừa lén liếc hai người vừa cười trộm, trong mắt người ngoài, cả hai vẫn là một đôi vợ chồng mới cưới ân ái mặn nồng.


A Hành được các thị nữ hầu hạ trang điểm lộng lẫy rồi cùng Thiếu Hạo tới khấu đầu thỉnh an Tuấn Đế cùng Tuấn Hậu.


Hôm qua là quốc lễ, cả cung điện đông nghịt bề tôi nên A Hành không sao nhìn rõ mặt Tuấn Đế, mãi tới khi thi hành gia lễ hôm nay, nàng mới được tận mắt trông thấy ông, cũng hiểu ra tại sao Vương Mẫu lại khen Tuấn Đế nho nhã phong lưu.


Tuy Tam Đế được xếp ngang hàng với nhau nhưng trên đại hoang chẳng mấy thần tiên may mắn được gặp cả ba vị đế vương, bởi thế A Hành không khỏi thầm so sánh ba người.


Viêm Đế chẳng hề để tâm tới bề ngoài của mình, lúc A Hành gặp Viêm Đế, Viêm Đế đang vận áo ngắn quần thô, chân đi giày cỏ, bàn chân lấm đầy bùn đất hệt như một ông lão gầy gò tiều tụy, mặt đầy nếp nhăn, nếu không biết thân phận của ông, nhất định không thể tin ông già đó lại là Viêm Đế Thần Nông thị được cả thiên hạ quy thuận.


Hoàng Đế cũng chẳng chú trọng dung mạo, chỉ quan tâm tới tôn nghiêm uy thế của bậc đế vương, Theo Hoàng Đế, diện mạo không nên quá già nua, nhìn rất suy nhược, cũng không nên quá trẻ trung, nhìn thiếu chững chạc, thế nên bao giờ trông Hoàng Đế cũng chỉ ngoại tứ tuần, nhất cử nhất động đều trầm tĩnh oai nghiêm khiến người khác phải kính phục, rất phù hợp với hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên thị uy chấn thiên hạ trong tưởng tượng của mọi người.


Khác với hai người kia, Tuấn Đế lại vô cùng chăm chút diện mạo của mình, gương mặt vẫn giữ nguyên nét trẻ trung tuổi hai mươi, cũng chẳng khoác vương bào, chỉ mặc một bộ y phục bình thường, nhìn giản dị nhưng thực chất lại được dệt từ tơ Ngọc tằm quý hiếm. Nét mặt Tuấn Đế giống Thiếu Hạo tới bảy tám phần, có điều Thiếu Hạo gom đủ vẻ hào hùng của núi lẫn tình tứ của sông, còn Tuấn Đế chỉ có nước mà thiếu non, cặp mắt dịu dàng đa tình, toàn thân toát lên khí chất của người đọc sách, thoạt nhìn giống hệt một vị công tử ngao du giữa hồng trần.


Lúc A Hành bước vào, Tuấn Đế đang ngồi đọc sách, vừa xem vừa gật đầu vẻ hài lòng, ngón trỏ còn vô thức vẽ trong không trung như phác lại những điều ghi trong sách. Thấy thị nữ định thông báo, Thiếu Hạo vội ra dấu ngăn lại rồi lặng lẽ đứng đợi cùng A Hành.


Nhìn Tuấn Đế, A Hành không khỏi nhớ tới Xương Ý, Tứ ca của nàng cũng ham mê sách vở y như vậy, so ra y còn thích ca phú thư họa hơn công văn tấu sở nhiều. Nàng bỗng nảy dạ tò mò, liền lén liếc trộm xem Tuấn Đế đang đọc sách gì, vừa trông thấy, nàng đã phải mím môi nén cười.


Tuấn Đế ngước mắt lên, bắt gặp A Hành đang mím môi nín cười, bèn gập sách lại hỏi: “Con cười gì thế?”


Thiếu Hạo thấy vậy giật thót mình, còn Tuấn Hậu chỉ nửa cười nửa không, ngồi yên quan sát.


A Hành vội quỳ xuống tâu: “Quyển sách phụ vương xem là do một người bạn con viết ra, thấy phụ vương thích thú như vậy, con chợt cao hứng thay cho y nên không khỏi thất lễ.”


Tuấn Đế mừng rỡ hỏi: “Con quen người viết ra những bài ca phú này thật ư? Ta từng phái người đi dò hỏi về y nhưng chẳng thu được tin tức gì cả.”


A Hành thưa: “Người nhà y không thích y chú tâm vào việc đó nên y chỉ dám lén lút viết chơi vậy thôi, có điều y chẳng chịu nổi tịch mịch, lại hận rằng khó tìm được tri âm, bèn ngấm ngầm lưu truyền những sách vở đó ra ngoài. Giờ đây có được người tri âm thưởng thức là y mãn nguyện lắm rồi, chẳng cần người ta biết tới thành danh làm gì.”


Tuấn Đế gật đầu vẻ vô cùng thấu hiểu, cũng không gạn hỏi thêm nữa, “Đọc những gì y viết, có thể hiểu được y chẳng màng áo vàng đại ngọc trước cung điện mà chỉ khát cầu một vành trăng trong giữa bóng tùng, thôi, con đứng lên đi.”


Bây giờ A Hành mới chính thức hành lễ với Tuấn Đế và Tuấn Hậu.


Tuấn Hậu lại ban thưởng cho nàng vô số vật phẩm, người hầu đứng bên cao giọng xướng tên các món quà cáp. Xưa nay Hiên Viên vương thất sống rất giản dị nên A Hành từ nhỏ đã chẳng để tâm tới mấy thứ ngọc ngà châu báu đó, càng không biết thật giả tốt xấu ra sao, nhưng nhìn thái độ đám thị nữ xung quanh, nàng cũng hiểu được mình được sủng hạnh vô vàn. Có điều vị Tuấn Hậu này xuất thân từ Thường Hy bộ trong Cao Tân tứ bộ, cũng là mẹ đẻ của Nhị vương tử Yến Long, từ khi gả cho Tuấn Đế đã sinh liền sáu con trai. Em gái Tuấn Hậu cũng nhập cung cùng lúc với chị, đứng đầu tất cả phi tần, sinh được bốn con trai, ba con gái, ba con gái đều gả cho Bạch Hổ bộ, nên Bạch Hổ bộ luôn kề vai sát cánh với bọn Yến Long và Trung Dung. Trong triều, thế lực của hai chị em Thường Hy thị vô cùng hùng mạnh, bởi vậy Tuấn Hậu càng tươi cười hóa nhã, A Hành lại càng không dám lơ là cảnh giác.


Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo rất nghiêm, A Hành ra mắt toàn bộ vương hậu, vương phi, vương tử, vương tử phi, vương cơ xong, lại nhất nhất đem chuyện ở nhà kể ra một lượt, sau cùng mới có thể cáo từ ra về. Rời khỏi đại điện, A Hành mới thấy quai hàm mình đã cứng đơ lại vì cười.


Thiếu Hạo cùng ngự xe mây xuống núi với A Hành, ngồi trong xe, y khẽ nói: “Người bạn mà nàng nói có phải Xương Ý chăng?”


A Hành kinh ngạc đáp: “ Vâng, là Tứ ca. Nhưng chàng giữ kín giùm, đừng nói lại với Đại ca nhé, bằng không huynh ấy lại khiển trách Tứ ca.”


Thiếu Hạo nói: “Thật ra, Thanh Dương…” Thấy A Hành chăm chú nhìn mình, y lại lắc đầu: “Không có gì, ta sẽ giữ kín.”


Thiếu Hạo có việc phải giải quyết nên sau khi đưa nàng về Thừa Hoa điện, y lập tức đi ngay.


A Hành vừa đổi sang thường phục mặc trong nhà đã thấy Bán Hạ tới bẩm: “Nặc Nại tướng quân đến dâng lễ vật lên điện hạ, vì lễ vật quý giá mà điện hạ lại đi vắng nên y nhất định đòi vương tử phi phải xem qua.”


A Hành liền nói: “Dù sao cũng rảnh rỗi, ta sẽ tới xem sao.”


Nghe tiếng chân người, Nặc Nại vội đứng lên, trông thấy A Hành, y liền mỉm cười hành lễ, nụ cười đượm vẻ chua xót.


A Hành sai tất cả thị nữ lui ra ngoài đợi lệnh, dù sao cửa sổ cũng mở toang, nhìn qua là thấy hết cảnh tượng trong phòng nên chẳng coi là trái lẽ được.


Nàng vừa hàn huyên với Nặc Nại vừa âm thầm dùng Trụ Nhan hoa giăng kết giới, đề phòng đám thị nữ nghe lén được lại phiền phức. Đây là phép thuật Đại ca dạy riêng cho nàng trước lúc lên đường sang Cao Tân, sau khi y đã xem xét Trụ Nhan hoa một lượt.


Nàng áy náy xin lỗi Nặc Nại: “Hôm đó trên Ngọc sơn ta nhất thời làm bậy, giả xưng là Tây Lăng Hành, nào ngờ về sau lại kéo theo nhiều chuyện như vậy, thật có lỗi với tướng quân.”


“Ai mà ngờ đường đường Hiên Viên vương cơ lại trêu chọc tại hạ như thế chứ? Không phải ta ngu ngốc, là ta hồ đồ nên bị lừa đó thôi.”


Nặc Nại chẳng thể cung kính dạ vâng với vương tử phi, trái lại còn trả lời với giọng điệu đầy vẻ bực bội tự trào, càng để lộ thái độ thoải mái mà chân thành. Thấy vậy A Hành không khỏi thầm khen ngợi y, chẳng trách Thiếu Hạo và Vân Tang lại xem trọng người này đến thế. “Mấy năm trước ta từng nhờ Thiếu Hạo chuyển cho ngươi một phong thư, sau đó ngươi có đi gặp Vân Tang không?”


“Chẳng giấu gì vương tử phi, hôm đó sau khi đọc xong thư, tại hạ nhất thời vẫn chưa thể nghĩ thông được. Thật ra tại hạ nào phải kẻ hẹp hòi, chỉ là quá xem trọng nên không chấp nhận được dối gian đó thôi. Sau này bình tĩnh lại mới hiểu rằng hết thảy chỉ là cơ duyên xảo hợp mà lầm, rồi lầm lại thêm lầm, nhưng bây giờ tại hạ đã có hôn ước, cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại nàng, mà gặp rồi biết nói cái gì đây? Tại hạ đành cương quyết từ hôn trước đã, may nhờ điện hạ giúp cho chu toàn, nhân lúc nhà gái phạm chút lỗi lầm điện hạ bèn bức Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước. Chuyện này kể ra chỉ dăm câu ba điều là xong, nhưng lúc đó phải giằng co hơn ba năm mới ổn thỏa. Sau khi từ hôn, tại hạ mừng rỡ cho rằng cuối cùng cũng có thể quang minh lỗi lạc tới gặp Vân Tang, nào ngờ lúc đến Thần Nông sơn xin Viêm Đế cho gặp Đại vương cơ của Thần Nông, lại…”


Nặc Nại buồn bã, trầm mặc hồi lâu mới kể tiếp: “Đám thị vệ Thần Nông rất hung hãn, tại hạ cứ tưởng gặp được nàng là ổn, nhưng nàng cũng hết sức lạnh nhạt, thậm chí không cho tại hạ lên núi. Dọc đường đi tại hạ còn hào hứng định ướm ý nàng, nếu tại hạ đến hỏi Viên Đế xin cầu hôn, liệu nàng có bằng lòng chăng. Nào ngờ tới khi gặp mặt nàng chỉ lạnh nhạt thờ ơ, đứng dưới núi nói vắn tắt vài câu với tại hạ rồi vội vã từ biệt, khiến bao nhiệt tình trong lòng tại hạ đóng băng hết thảy, đành ủ rũ quay về Cao Tân.”


A Hành dịu giọng hỏi: “Giờ ngươi đã hiểu lý do tại sao khi đó Vân Tang lại như vậy chưa?”


Nặc Nại gật đầu, “Có lẽ khi đó bệnh tình Viêm Đế đã nặng lắm rồi, nhớ lại lúc gặp nhau, tuy Vân Tang làm bộ lạnh lùng nhưng ánh mắt cứ tránh tránh né né, hẳn không muốn tại hạ nhận ra nỗi bi thương trong lòng nàng. Nàng luôn miệng giục tại hạ về vì không muốn tại hạ phát hiện Viêm Đế đang bệnh nặng.”


Ánh mắt Nặc Nại khó giấu nổi thương tâm, “Nàng xem thường tại hạ quá! Đến một chút tin tưởng cũng không!”


A Hành vội giải thích, “Ngươi nhầm rồi, không phải Vân Tang tỷ tỷ không tin ngươi, mà là không muốn ngươi khó xử đó thôi. Viêm Đế bệnh nặng là tin tức hết sức quan trọng, liên quan tới cục thế thiên hạ cũng như an nguy của Cao Tân, nếu để ngươi biết được, thân là tướng lĩnh của Cao Tân, là bạn thân của Thiếu Hạo, ngươi sẽ trung thành với Cao Tân, với Thiếu Hạo, hay sẽ bảo vệ Vân Tang?”


Nặc Nại sửng sốt, nín lặng hồi lâu chẳng biết đáp sao cho phải, A Hành lại nói tiếp: “Vân Tang thà một mình gánh vác tất cả còn hơn để ngươi phải dằn vặt khó xử không biết chọn bên nào. Như vậy ngươi khỏi phải phụ lòng Vân Tang, cũng khỏi phải phản bội Thiếu Hạo.”


Nghe A Hành giảng giải, Nặc Nại liền đứng dậy hành lễ với nàng, “Đa tạ vương phi thức tỉnh tại hạ khỏi cơn mê, tại hạ xin cáo từ.”


“Ngươi định đi đâu?”


Nặc Nại đi thẳng không ngoảnh lại: “Thần Nông sơn.”


A Hành mỉm cười nhìn theo bóng Nặc Nại tất tả bước đi, thầm mừng cho Vân Tang, ít nhất Vân Tang cũng còn một vòng tay vững vàng ấm áp để vùi đầu vào khóc lóc, trút hết mọi đau đớn và uất ức trong lòng. Chợt nghĩ tới mình, nàng không khỏi âu sầu buồn bã.


Tối đến, A Hành vội đi ngủ thật sớm, chẳng đợi Thiếu Hạo trở về, theo tính toán của nàng, với tính tình Thiếu Hạo, hẳn sẽ không đánh thức nàng dậy. Quả nhiên Thiếu Hạo về đến thấy nàng đã ngủ say, cũng rón rén leo lên giường ngủ, chẳng hề làm phiền nàng.


Sớm hôm sau khi nàng trở dậy, Thiếu Hạo đã đi khỏi, trước lúc đi còn cẩn thận dặn nhà bếp làm mấy món điểm tâm kiểu Hiên Viên cho nàng.


Hơn nửa tháng trời, hết lý do này tới nguyên nhân khác, Thiếu Hạo và A Hành vẫn chưa thực sự thành thân.


Mỗi lúc tối đến A Hành đều nơm nớp lo sợ, ngủ không an giấc, chẳng mấy chốc mà gầy rộc đi. Hàng ngày, để tránh né Thiếu Hạo, nàng toàn lấy cớ không hợp thủy thổ để lên giường ngủ thật sớm.


Từ khi bàn bạc chọn ngày thành hôn tới nay đã tròn một tháng chưa được ngủ yên, A Hành mơ màng thế nào lại ngủ thiếp đi. Lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, đập vào mắt là cảnh tượng nửa ống tơ nằm lăn lóc trên sàn, mái tóc đen dài của A Hành xõa xuống giường, y chỉ biết lắc đầu cười, nhẹ nhàng quấn lại tóc cho A Hành đoạn giơ tay toan sửa chăn giùm nàng, nào ngờ vừa chạm tới vai, A Hành đã giật mình tỉnh dậy, tiện tay rút dao găm dưới gối đâm y.


Vừa thấy hàn quang lấp loáng, mu bàn tay Thiếu Hạo đã bị rạch một đường, máu chảy ròng ròng, A Hành co rúm trên giường, tay nắm chặt dao, mắt không rời Thiếu Hạo, đôi mắt vừa to vừa sáng nổi bật trên gương mặt võ vàng nhợt nhạt của nàng, càng lộ rõ vẻ tiều tụy.


Thiếu Hạo vừa lấy khăn lau vết thương, vừa nói: “Bỏ dao xuống đi, nếu ta thật sự muốn ép buộc thì con dao đó của nàng chẳng ăn thua gì đâu.”


“Không phải thiếp muốn đả thương chàng, chỉ là, chỉ là…” A Hành không sao nói tiếp được, đành quẳng dao xuống dưới chân Thiếu Hạo.


Cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải là cách, Thiếu Hạo quyết định nói cho rõ ràng, bèn ngồi ghé xuống bên giường, “Hai ta đều biết mục đích thật sự của cuộc hôn nhân này là gì, rất nhiều việc chúng ta không thể tự làm chủ được. Mặc kệ phụ vương chúng ta nghĩ gì, cứ xuất phát từ lợi ích bản thân của hai ta thôi nhé, nàng cần ta giúp đỡ, ta cũng cần nàng hỗ trợ, chúng ta chẳng ai rời được ai cả. Bất kể trước đây nàng nghĩ thế nào, bất kể giữa nàng với người đàn ông khác từng có những gì, bây giờ nàng đã được gả cho ta, ta mong rằng từ nay về sau nàng có thể thật sự trở thành Đại vương tử phi.”


“Là vương tử phi, hay là vợ của chàng?”


Thiếu Hạo ngớ người, “Có gì khác nhau sao?”


A Hành đáp: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, như Viêm Đế với Viêm Hậu vậy. Chàng có thể mãi mãi ở bên thiếp, sống chết có nhau, bất kể được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sẵn lòng tin tưởng, yêu thương trân trọng thiếp suốt đời chăng?”


Thiếu Hạo chẳng ngờ A Hành lại chất vấn mình như vậy, vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, năm lần bảy lượt mở miệng mà chẳng sao hứa hẹn được với nàng. Tuy Cao Tân và Hiên Viên hiện tại là đồng minh, nhưng tương lai thì sao? Giữa y và A Hành còn muôn dân hai nước, còn cả sinh tử tồn vong của hai bên gia tộc, sao có thể không ngờ vực đề phòng đây?


Hồi lâu y mới cất tiếng hỏi: “Vậy vương tử phi thì sao?”


“Vương tử phi sẽ giống như Tuấn Hậu vậy, Tuấn Hậu cùng phụ vương chàng chia ngọt sẻ bùi, lợi dụng lẫn nhau, đồng thời đề phòng lẫn nhau, đôi bên chỉ là đồng minh cùng chung lợi ích, bởi thế dù Tuấn Đế có bao nhiêu phi tần, Tuấn Hậu cũng chẳng đau lòng, còn đích thân chọn ra những mỹ nữ hát hay múa dẻo để làm vui lòng Tuấn Đế. Tuấn Hậu xưa nay không hề coi Tuấn Đế là người chồng sống chết có nhau của mình, cũng chưa từng toàn tâm toàn ý tin tưởng yêu thương Tuấn Đế. Còn chàng, chàng nói cần thiếp hỗ trợ, thật ra là hỗ trợ gì đây? Giúp chàng lên ngôi ư?”


Thiếu Hạo chăm chú nhìn nàng A Hành lạ lẫm trước mặt mình, thật khó tin rằng cách đây không lâu nàng vẫn còn là một cô bé ngây thơ thuần phác dưới khung trời đầy sao, “Thiếu Hạo, nếu chàng chỉ muốn một vị vương tử phi có thể giúp chàng đăng cơ thì chúng ta kết thành liên minh đi, hai ta không làm vợ chồng, mà làm bạn bè.”


Thiếu Hạo trấn tĩnh nói, “Nàng giải thích rõ hơn đi.”


“Nhị vương tử Yến Long hành xử lịch thiệp, tài mạo phong lưu, đã chiêu mộ được không ít nhân tài chí sĩ, cũng rất được lòng quan lại trong triều, còn được rất nhiều huynh đệ khác dốc lòng ủng hộ, lại có mẹ ruột là Tuấn Hậu cai quản hậu cung, tuy mẹ chàng là vợ kết tóc xe tơ của Tuấn Đế nhưng bà đã mất sau khi sinh chàng, chàng chẳng có thế lực gì ở hậu cung cả. Bên trong chàng phải đối mặt với hậu cung trùng trùng mưu toan, bên ngoài lại có đám huynh đệ như hổ đói rình rập, tự đáy lòng chàng cũng biết phụ vương chàng có thể tạm thời tin cậy chàng, nhưng về lâu về dài thì khó nói lắm. Để tự bảo vệ mình, chàng đành rong ruổi khắp nhân gian, gửi gắm tình cảm vào non xanh nước biếc. Mấy chục năm trước, nhân lúc thiên hạ thái bình, chàng định chấn chỉnh quân đội đề phòng sau này có biến nhưng Yến Long sợ chàng thừa cơ nắm lấy quân đội, bèn ra tay cản trở hết lần này sang lần khác. Chàng tưởng mình sẽ được Tuấn Đế ủng hộ, nào ngờ danh tiếng của chàng ở đại hoang quá tốt, khiến phụ vương chàng cũng phải kiêng dè, bởi vậy chàng đành gắng gượng kiềm chế nhẫn nhịn. Có điều bọn Yến Long chẳng chịu buông tha, còn toan kết mối hôn nhân với Nặc Nại nhằm thao túng Hy Hòa bộ đang nghiêng về phía chàng. Tuy chàng ngầm giúp Nặc Nại hủy bỏ hôn ước nhưng Tuấn Đế vì thế từ yêu thích đổi sang bất mãn với y, chàng cũng coi như đại tổn nguyên khí.”


Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com


Thiếu Hạo hỏi, “Những chuyện này Thanh Dương nói cho nàng biết ư?”


A Hành đáp: “Ai nói với thiếp không quan trọng, quan trọng là thiếp quả thật có thể giúp chàng. Thiếp có thể làm một Đại vương tử phi hoàn mỹ, mượn lực lượng của Hiên Viên tộc khiến bọn Yến Long không thể tranh đoạt vương vị với chàng nữa, sau này chàng có thể tùy ý điều động tướng sĩ Cao Tân tới trấn giữ các nơi nhằm bảo vệ mảnh đất tươi đẹp này, bảo vệ những con người cần cù lao động trên mảnh đất này.”


Thiếu Hạo càng lúc càng thêm sửng sốt. Y chẳng lạ gì việc Hiên Viên Bạt nhìn thấu những nguy cơ trùng trùng ẩn sau vầng hào quang rực rỡ của Đại vương tử mà chỉ ngạc nhiên vì nàng biết được chí hướng của y. Trước kia y vốn xem nàng như em gái của Thanh Dương, cho rằng nàng chỉ là một thiếu nữ thuần phác ngây thơ, quật cường sôi nổi, nhưng giờ đây y chợt nhận ra mình đã nhìn lầm.


Thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, A Hành ngỡ y không đồng ý bèn đột ngột thay đổi dung mạo, bắt chước giọng điệu của y, “Ngắm sao trời phải đứng dưới mặt đất, còn ngắm sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời! Xin hỏi công tử có bằng lòng cùng ta bảo vệ bức họa đồ tiên cảnh nhân gian này chăng?”


“Nàng là Tây Lăng công tử ư?” Thiếu Hạo kinh ngạc đến nỗi nói chẳng nên lời.


A Hành gật đầu, “Chính phải, tại hạ đã nói chúng ta nhất định còn gặp lại kia mà.”


“Sau khi Viêm Đế qua đời, cả đại hoang đồn rằng Tây Lăng công tử là đệ tử cuối cùng của Viêm Đế, nắm giữ Thần Nông bản thảo kinh, nàng có biết khắp thiên hạ bây giờ có bao nhiêu thần tiên và yêu quái đang lùng sục mình không hả?”


“Thiếp biết chứ, chính thiếp phao tin đó ra mà. Vân Tang đã đau khổ lắm rồi, thiếp chẳng muốn bọn chúng tới quấy rầy tỷ ấy nữa, vả lại đó cũng không phải lời đồn nhảm, Thần Nông bản thảo kinh quả thực đang nằm trong tay thiếp.”


Thiếu Hạo ngạc nhiên buông lời cảm thán, “Sao Viêm Đế lại giao Thần Nông bản thảo kinh cho nàng chứ? Nàng là con gái Hiên Viên Hoàng Đế mà!” Có điều sự thật rành rành trước mắt, y không tin cũng chẳng được.


“Bây giờ chàng có bằng lòng liên minh với thiếp hay không?”


Thiếu Hạo thận trọng hỏi: “Đã kết liên minh thì đôi bên cùng có lợi, điều kiện của nàng là gì đây?”


“Điều thứ nhất, chúng ta chung giường nhưng không…” A Hành cắn môi đưa mắt nhìn vết thương trên tay Thiếu Hạo.


Thiếu Hạo vốn chẳng phải kẻ háo sắc, y gượng cười đáp ngay: “Đồng ý, còn điều thứ hai?”


“Nếu một mai chàng trở thành Tuấn Đế, đừng phong thiếp làm vương hậu.”


Thiếu Hạo nhìn A Hành, “Đồng ý!”


“Thứ ba, sau khi chàng trở thành Tuấn Đế, xin chàng dùng uy quyền đế vương ban cho thiếp được tự do lựa chọn một lần, để thiếp được tự mình quyết định nên đi hay ở.” Đôi mắt A Hành long lanh lệ, từ khi sinh ra, nàng đã bị định sẵn rằng không thể tự mình lựa chọn, nhưng nàng vẫn muốn được tự do quyết định một lần.


Đây là lần đầu Thiếu Hạo hiểu được chút ít về con người A Hành, dường như có phần cảm động trước nàng, y gật đầu trang trọng hứa, “Ta đồng ý!”


A Hành nghiêm trang chìa tay cho y, “Từ nay về sau, chúng ta kết thành đồng minh đôi bên cùng có lợi, muốn nghi kị, lợi dụng hay đề phòng lẫn nhau gì cũng chẳng sao, miễn là tuân thủ đúng lời hứa!”


Thiếu Hạo lập tức hạ quyết tâm, “Được! Làm đồng minh, không làm vợ chồng!”


Y cùng A Hành đập tay ba lần, kết thành đồng minh.


A Hành như được giải thoát liền ngáp dài một cái, díp cả mắt vì buồn ngủ, “Cuối cùng thiếp cũng có thể yên tâm ngủ rồi.” Nàng nằm phịch xuống ngủ thiếp đi, chẳng bao lâu đã nghe tiếng ngáy khe khẽ.


Ánh trăng vằng vặc bên ngoài len qua rèm lụa tràn vào phòng khiến mặt đất long lanh như phủ một lớp sương ngà ngọc. Thiếu Hạo ngả mình nằm xuống, có lẽ sống trong cung đình Cao Tân, y đã quen lối nói vòng vo bóng gió, lâu lắm mới thẳng thắn đối thoại thế này nên chẳng thấy buồn ngủ nữa. Y cứ miên man nghĩ mãi câu nói khi nãy của A Hành: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sống chết có nhau, chàng làm được chăng?” Vậy còn người chồng thì sao? Chồng cũng là người đàn ông duy nhất trong đời của vợ, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi, người vợ vẫn sẽ tin tưởng y, yêu y, không rời xa y, cùng sống chết với y.


Thiếu Hạo bất chợt miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.


Sáng hôm sau, Thiếu Hạo đánh thức A Hành, “Dậy đi, nàng có biết phụ vương của hai ta muốn thấy gì không?”


A Hành thoáng ngẩn ra, dụi mắt rồi gật đầu lia lịa.


Dưới sự hầu hạ của các thị nữ, hai người cùng trở dậy, A Hành tươi cười ngồi xuống trước đài trang chải tóc.


Thiếu Hạo ngồi ngay bên cạnh vừa đọc sách vừa chuyện phiếm với nàng.


Đợi đám thị nữ trang điểm chải chuốt cho A Hành xong, Thiếu Hạo liền ngắt một đóa hải đường trong sân cài lên búi tóc nàng.


A Hành thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng đi giải quyết công việc đi thôi.”


Thiếu Hạo gật đầu nắm lấy tay nàng, ra đến cửa mới bịn rịn chia tay.


Đám thị nữ Hiên Viên và Cao Tân đều lén nhìn trộm hai người, mím môi cười vụng.


A Hành mỉm cười quan sát bọn họ, lòng thầm thở dài.


Bán Hạ bưng trà đặt trước mặt A Hành, ngập ngừng nhìn nàng như có điều muốn nói. A Hành biết Bán Hạ thực tế là thuộc hạ của Đại ca, cũng đoán được cô ta định nói điều gì, bèn vờ như không thấy, cầm sách lên lật xem.


Tối hôm đó Thiếu Hạo về sớm dùng cơm với A Hành, sau bữa ăn lại cùng nhau đi dạo trong vườn. A Hành vui miệng thổ lộ rằng mình yêu hoa, thích một vườn hoa rộng thật rộng, hay nhất là quanh năm bốn mùa đều có hoa tươi. Nào ngờ Thiếu Hạo lập tức gọi tùy tùng tới sai họ tìm ngay bản thiết kế phủ đệ đưa đến phủ Nặc Nại, yêu cầu Nặc Nại thiết kế lại, kiến tạo một vườn hoa thật rộng cho vương tử phi, để nàng mở cửa liền thấy hoa, đóng cửa còn thơm ngát.


Xưa nay Thiếu Hạo vốn giản đơn tùy tiện, đây là lần đầu y xa hoa phô trương như vậy, khó trách đám người trong vương thất xì xầm không ngớt miệng.


Chẳng phụ tấm lòng Thiếu Hạo cùng công sức thiết kế của Nặc Nại, A Hành đã chăm sóc cho cả khu vườn nức tiếng xa gần, thêm vào đó, Tuấn Đế cũng ưa thích kì hoa dị thảo, cho rằng có thể tu dưỡng tính tình nên hết thảy hậu cung phi tần, danh gia vọng tộc đều đua nhau noi theo Tuấn Đế, vừa học phong nhã vừa lấy lòng đế vương. Hay tin Đại vương tử phi giỏi trồng hoa xén cỏ, họ bèn nườm nượp kéo tới học hỏi, thậm chí mấy phu nhân, tiểu thư bên Thường Hy bộ vốn bất hòa với Thiếu Hạo cũng đến gõ cửa xin gặp.


Sau khi ăn tối cùng nhau, Thiếu Hạo thường ngồi dưới đèn phê duyệt công văn các nơi gửi đến còn A Hành nghiêng mình nằm trên giường đọc sách y thuật. Mỗi lúc hoàng hôn, bọn họ lại sánh vai ngồi bên cửa sổ, Thiếu Hạo gảy đàn, A Hành chăm chú lắng nghe. Hễ cao hứng cả hai còn hái phù dung trong vườn ủ thành rượu Phù Dung dâng lên Tuấn Hậu.


Thiếu Hạo thích ủ rượu còn A Hành giỏi bình rượu, nàng có thể chỉ rõ điểm khác nhau giữa các loại rượu mà người khác không tài nào phân biệt được. Bát vương tử Quý Ly cũng vô cùng mê rượu, có lần Quý Ly bày tiệc tại phủ, cố ý để lẫn rượu Thiếu Hạo cất bao năm nay vào giữa đám rượu ngon thu thập khắp nơi trên đại hoang rồi mời Đại vương tử phi bình phẩm nhằm làm khó hai người, nào ngờ A Hành bịt mắt lại vẫn vạch rõ lai lịch từng loại một, đáng kinh ngạc hơn là nàng còn chỉ ra khuyết điểm trong từng loại rượu mà Thiếu Hạo ủ nên, khiến Thiếu Hạo xưa nay vẫn ung dung trấn tĩnh phải ngạc nhiên ra mặt,Quý Ly lại càng phục sát đất, mọi người cũng không ngớt trầm trồ.


Trong mắt mọi người ở Cao Tân, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt quả là một đôi giai ngẫu trời sinh, ngay Yến Long cũng phải ao ước, “Những thứ khác chẳng nói làm gì, có điều vận số Đại ca may quá, toàn vơ được chuyện hay ho, vốn chỉ là hôn nhân chính trị giữa hai vương tộc, không lạnh nhạt thờ ơ với nhau đã là giỏi lắm rồi, vậy mà y lại tìm được kẻ tâm đầu ý hợp nữa chứ.”


Có lần quần thần nghị sự trong đại điện đến tối muộn, Tuấn Đế vừa lệnh cho mọi người giải tán, Thiếu Hạo đã xăm xăm bước ra cửa, Tuấn Đế gọi y, y cũng chẳng nghe thấy, mãi tới khi bị thị vệ gọi lại y mới giật mình hoảng hốt, Tuấn Đế bèn hỏi: “Con mải nghĩ gì thế?”


Thiếu Hạo khẽ thưa: “Mấy hôm trước A Hành làm món dưa muối như ở quê nàng, hôm nay bắt đầu mở vại dưa. Ban sáng trước khi đi con đã dặn nàng chờ con về rồi cùng ăn, nào ngờ hôm nay nghị sự muộn thế này, e rằng nàng đợi cơm lại đói.”


Tuấn Đế không lấy thế làm điều, trái lại còn bật cười nói với chúng thần: “Các người xem, khi trước thằng bé này chẳng bao giờ sai sót mảy may nào, từ hồi lấy vợ mới bắt đầu có điểm giống người thường.”


Cả triều đình rộ lên cười, mọi người còn truyền tai nhau như câu chuyện vui, từ đó, Thiếu Hạo nổi tiếng khắp nơi trong triều ngoài nội là yêu vợ, cả đại hoang đều biết Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt ân ái mặn nồng.


Những chuyện rủ rỉ phòng khuê đó truyền đến Thần Nông đương nhiên Xi Vưu đều nghe không sót một lời, từng câu từng chữ như từng lưỡi kiếm nhọn hoắt rạch vào tim hắn, máu chảy đầm đìa. A Hành vốn chỉ định đóng kịch nhằm qua mặt phụ vương tinh minh của mình, nào ngờ những điều vụn vặt đó lại làm Xi Vưu tổn thương sâu sắc, khoét sâu thêm hiểu lầm giữa hai người.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom