Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 13-14
Quyển 1 – Chương 13: Gió Thu Se Sắt Lùa Biên Ải
Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ. Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”
Nóng lui lạnh tới, vắng thỏ bặt chim, chớp mắt đã cuối thu.
Như thường lệ, sau khi cùng dùng bữa tối, A Hành và Thiếu Hạo ở chung một phòng, ai làm việc nấy.
A Hành đang đọc sách y, chợt ngẩng lên thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, bèn gập sách lại hỏi, “Sao thế? Chàng muốn đi nghỉ rồi à?”
Thiếu Hạo đáp: “Du Võng đang tập kết đại quân, e rằng sắp tới sẽ tấn công Hiên Viên. Theo thám tử Cao Tân báo về thì Du Võng muốn đòi lại vùng đất khi xưa bị Hiên Viên lừa gạt chiếm mất. Nàng thấy sao?”
“Sao lại muốn nghe ý kiến của thiếp? Thiếp đâu có dẫn quân tác chiến!”
“Trên bàn cờ gió mây vần vũ, hai người chúng ta chỉ là những con cờ bị lợi dụng mà thôi, nếu không cam lòng làm con cờ thì phải cố gắng vươn lên, hơn nữa, để được ta xem trọng, nàng buộc phải có năng lực khiến ta nể vì.”
A Hành lập tức ngồi thẳng dậy, ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi: “Sao Du Võng vội vã động binh với Hiên Viên thế? Y vừa đăng cơ được mấy tháng, vương vị còn ngồi chưa vững kia mà.”
Thiếu Hạo đáp: “Chính vì ngồi chưa vững nên y mới buộc phải động binh.”
A Hành ngạc nhiên, liền khiêm nhường thỉnh giáo: “Xin rửa tai lắng nghe.”
“Hiên Viên tộc sau khi lập quốc đất đai cằn cỗi nên vẫn luôn khuếch trương về phía Đông, xâm lấn không ít lãnh địa của Thần Nông, Vương tộc Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, Hiên Viên chẳng xâm phạm được đến lợi ích của họ nhưng các nước chư hầu của Thần Nông phải gánh thiệt hại nặng nề, đem lòng căm hận Hiên Viên đã lâu. Chẳng qua khi xưa họ e ngại Viêm Đế đời trước đức cao vọng trọng, không dám gây chiến, còn bây giờ họ có sợ gì Du Võng, ắt hẳn đã liên kết với nhau xin phát binh, lại được mấy đại tướng nắm giữ binh quyền như Chúc Dung, Cộng Công đứng bên thêm dầu vào lửa, tát nước theo mưa nữa. Nếu thua trận, bọn Chúc Dung sẽ tha hồ đổ tại Du Võng dốt nát vô dụng còn nếu thắng, chúng vừa được lòng quân sĩ, lại được cả sự hỗ trợ từ các chư hầu. Lúc này Du Võng chưa ngồi vững trên vương vị, lại thêm bản tính thiếu quyết đoán, dưới sự ép buộc của quần thần, đành chịu để họ thao túng thôi.”
A Hành thở dài, “ Mọi người đều cho rằng đế vương muốn gì làm nấy, mấy ai biết được đế vương cũng luôn luôn bị kìm hãm, nhưng mà…”
“Nhưng mà làm sao?”
Để thăm dò tin tức về Xi Vưu, A Hành đành nghiến răng làm bộ bình thản nói: “Nhưng bên cạnh Du Võng còn có Xi Vưu hỗ trợ, bằng vào tính tình Xi Vưu, hắn chẳng chịu để kẻ khác thao túng cắt đặt đâu.”
Thiếu Hạo thản nhiên đáp, giọng điệu vẫn điềm đạm như cũ: “Nàng nói phải, có điều bây giờ không đến lượt hắn làm chủ.”
Nghĩ đến Xi Vưu hiện giờ chỉ có một chức quan hữu danh vô thực, chẳng thể khống chế cục diện triều đình, A Hành không khỏi than thầm.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Du Võng hiện giờ chỉ giống được Viêm Đế đời trước ở lòng nhân đức, chứ mưu trí và quyết đoán thì thua xa, hầu như cả đại hoang đều cho rằng Viêm Đế phong Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân là để bổ sung cho khiếm khuyết của Du Võng, nhưng ta lại thấy Viêm Đế còn có dụng ý sâu xa hơn kia.”
“Dụng ý sâu xa hơn ư?”
“Mấy vạn năm trước, thực lực Cao Tân vốn vượt xa Thần Nông, Viêm Đế đời thứ ba của Thần Nông là người nhìn ra trông rộng, lại vô cùng quyết đoán, đã bỏ lệ phong đất cho những người trong họ tộc, mà thi hành luật mới, bất kể có phải người trong vương thất hay không, cũng chẳng cần câu nệ là thần hay người, miễn lập công cho Thần Nông thì sẽ được phong vương, được toàn quyền thu thuế trên đất phong của mình. Nhờ cải cách đó mà lớp lớp anh hùng xuất hiện ở Thần Nông, vận nước càng lúc càng hưng thịnh, dần dần áp đảo cả Cao Tân. Nhưng về lâu về dài, chế độ phong vương cho người khác họ dần dà để lộ nhược điểm, các nước chư hầu cha truyền con nối rồi kết mối thông gia với nhau, thế lực cũng đan cài vào nhau, khó tránh chỉ tin dùng người thân của mình, con em các nhà quý tộc rất dễ trở thành tướng quân hay quan lớn, còn những kẻ xuất thân bần hàn thì khó mà cất mặt lên được. Kẻ tài hoa tuyệt thế thường ẩn giữa đám tiện dân, nhưng vì thể chế hủ hậu nên chẳng những không có cơ hội thi thố tài năng mà còn bị đám con cháu quý tộc làm nhục, trong lòng họ hẳn đã dồn nén rất nhiều uất ức, một khi bị kích động sẽ trở nên vô cùng đáng sợ.”
Nghe tới đây A Hành dần hiểu ý Thiếu Hạo, bèn tiếp lời: “Xi Vưu xuất thân tiện dân, không có huyết thống quý tộc nhưng hắn chính là niềm hy vọng lập công dựng nghiệp, thi thố tài năng của những người tài xuất thân hèn kém, họ sẽ tự động tụ họp lại dưới cờ của hắn, để cho hắn dẫn dắt. Nhờ luồng sinh khí mới này, Thần Nông quốc mới có thể tìm lại được phong quang thuở trước, đây là dụng ý thật sự của Viêm Đế!”
Thiếu Hạo gật đầu cười, chẳng hiểu là tán thưởng A Hành nhìn thấu sự việc hay khâm phục tầm nhìn của Viêm Đế, “Xi Vưu tính tình ngông cuồng phóng túng, xem thường quy tắc thế tục nhưng lại rất trọng tình trọng nghĩa, anh dũng mưu trí, chính là bậc minh chủ của những con người nghèo khổ ấy, sớm muộn sẽ có ngày bọn họ liều mạng vì hắn. Chừng đó hắn mới có thể trở thành Đốc Quốc Đại tướng quân thật sự, vung kiếm chỉ huy thiên quân vạn mã.”
A Hành nghe đến chấn động cả tâm thần, vừa mừng vừa lo nói: “Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng đông đảo, nếu lại thêm một minh quân biết khai thác triệt để sản vật cũng như tận dụng mọi khả năng của người tài thì chẳng kẻ địch nào dám động vào nữa cả.”
Thiếu Hạo nghiêm mặt, “Dân số Thần Nông gấp đôi Cao Tân, lại sẵn địa hình hiểm trở, đâu đâu cũng là cửa ải dễ thủ khó công, trong khi Cao Tân toàn đồng bằng bát ngát, chỉ có sông nước là bức bình phong thiên nhiên bao quanh che chở, một khi Thần Nông tộc vượt sông thì ngày vong quốc của Cao Tân đã điểm.”
Tâm trạng A Hành cũng trở nên nặng nề. Hiên Viên tuy địa hình phức tạp, khí hậu đa dạng, cũng có nhiều quan ải để chống giặc, nhưng tiếc rằng đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn, dù bao năm nay phụ vương nàng dốc sức bù trì, sửa đê khai khẩn nhưng vẫn chẳng bì được với mảnh đất Trung nguyên một năm hai vụ mùa.
Thiếu Hạo khẽ thở dài, “Thật ra những khuyết điểm đó đều khắc phục được cả, điểm yếu chí mạng của Cao Tân chính là thể chế cứng nhắc đến bất di bất dịch ngàn vạn năm nay, chỉ coi trọng dòng dõi và huyết thống, nghiêm cấm kết hôn giữa những người không cùng giai cấp, triều chính thì bị con em vương tộc cùng bốn bộ Thanh Long, Thường Hy, Hy Hòa, Bạch Hổ lũng đoạn, khiến bao kẻ có tài trong Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc phải ôm hận bỏ đi. Tri Mạt, đệ nhất công thần của phụ vương nàng vốn thuộc Yêu tộc Cao Tân, vì xuất thân thấp kém nên bị người Cao Tân phỉ nhổ, ấy vậy mà y lại có thể theo phò tá phụ vương nàng dựng nên hùng đồ bá nghiệp tại Hiên Viên, được tôn xưng làm Đế sư.”
Nghĩ tới vận mệnh tương lai của hai đất nước, A Hành và Thiếu Hạo đều nghe lòng ngổn ngang trăm mối.
A Hành chợt hỏi: “Nếu bây giờ Thần Nông tuyên chiến với Hiên Viên, liệu Cao Tân có tham chiến không?”
Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không đâu! Ta rất muốn biết lực lượng tích lũy suốt mấy ngàn năm nay của Hiên Viên ra sao, giờ đã có Thần Nông xung phong do thám hộ, Cao Tân đương nhiên sẽ khoanh tay đứng nhìn. Dù Hoàng Đế tới thuyết phục phụ vương tham chiến, ta cũng nhất định khuyên can!”
A Hành gượng cười: “Chàng có cần thẳng thắn đến thế không?”
“Khi nào cần dối gạt, ta sẵn sàng nói dối không chớp mắt, nhưng chuyện này không cần phải thế, dù sao nàng cũng nhận ra ngay ấy mà!”
A Hành chợt hiểu vì sao Đại ca và Thiếu Hạo có thể thành bạn thân, hai người bọn họ đều có thái độ thẳng thắn đến gần như tàn khốc. Nàng liếc đồng hồ nước rồi đứng dậy gom sách vở lại, “Chúng ta đi nghỉ thôi!”
Thiếu Hạo cùng A Hành nằm song song trên giường, cách nhau ít nhất hai thước.
A Hành bỗng lên tiếng: “Sáng mai thiếp định tới gặp phụ vương và mẫu hậu, xin hai người cho phép xuất cung. Chàng nói giúp thiếp mấy lời được chăng?”
“E rằng khó đấy. Cao Tân là Thần tộc từ thượng cổ, được xưng là dân tộc có lễ giáo, phong tục cổ hủ, phép tắc nghiêm ngặt, đừng nói là vương tử phi, ngay đến vương hậu cũng không thể tùy tiện ra ngoài.”
“Phụ vương cho thiếp mang theo ba ngàn tằm giống, nghe nói vì không hợp thủy thổ nên đã chết mất một nửa. Thiếp định nói rõ với phụ vương xin xuất cung khảo sát thủy thổ dân tình các nơi, chọn ra giống tằm Cao Tân phù hợp.”
Thiếu Hạo nghĩ ngợi một hồi đoạn nói: “Phụ vương tính tình nho nhã, chỉ thích thư họa ca múa, lại rất dịu dàng chiều chuộng phụ nữ nên chủ yếu khó khăn về phía vương hậu thôi, phụ vương đâu có để tâm chuyện hậu cung. Có điều vải vóc của Cao Tân đều trông cả vào đó, nếu sản lượng thấp sẽ khiến chất lượng vải kém đi, mặc lên người không thoải mái. Nguyên liệu dệt nên tơ lụa cho vương thất quý tộc Cao Tân mấy ngàn năm nay đều phải mua từ Hiên Viên, đây là khoản chi phí rất lớn, chúng ta cứ vin vào đó mà thỉnh cầu, hẳn phụ vương sẽ ủng hộ nàng, vương hậu cũng chẳng thể không nhượng bộ.’
“Cảm ơn chàng!”
Trong bóng tối, cả hai người đều làm thinh, qua một hồi lâu, Thiếu Hạo mới nói khẽ: “Cảm ơn nàng chịu dạy dân chúng Cao Tân chăn tằm dệt vải!”
“Chàng đừng quên chúng ta là đồng minh, hiện giờ thiếp đang là Đại vương tử phi của Cao Tân, đây cũng là việc nên làm thôi mà.”
A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.
Nhờ Thiếu Hạo giúp đỡ, A Hành đã được Tuấn Đế cho phép ra vào Ngũ Thần sơn, tuy nhiên phải có thị nữ và thị vệ đi cùng. Dù hiện tại chẳng được tự do như lúc ở Hiên Viên, nhưng nàng cũng hài lòng với kết qủa này lắm rồi.
Ngày tháng thấm thoắt trôi đi sau vẻ ngoài yên ả.
Cuối năm đó, Viêm Đế Du Võng phái sứ giả tới yết kiến Hoàng Đế, đòi Hoàng Đế trả lại phần đất đã xâm lấn của Thần Nông, bị Hoàng Đế cự tuyệt yêu cầu.
Trước trăm quan Thần Nông trên đỉnh Tử Kim, Viêm Đế tuyên bố chính thức khai chiến với Hiên Viên, giành lại lãnh thổ đã bị Hiên Viên lừa gạt chiếm giữ.
Cả triều đường sục sôi hào khí, các chiến sĩ trẻ chỉ mong được lấy máu mình rửa nhục cho tổ tiên, dưới thời Viêm Đế đời thứ bảy, nguyện vọng này không sao thực hiện được, nhưng đến thời Viêm Đế đời thứ tám, cuối cùng cũng đã đạt thành.
Chúc Dung được phong làm Chinh Tây Tường quân, dẫn năm trăm chiến binh Thần tộc, ba ngàn chiến binh Yêu tộc cùng năm vạn chiến binh Nhân tộc tiến đánh Hiên Viên, giành lại lãnh thổ bị xâm lấn.
Trận đầu tiên là mấu chốt để củng cố sĩ khí toàn quốc gia, có thể nói chỉ được thắng, không được bại nên A Hành đoán rằng phụ vương sẽ phái Đại ca Thanh Dương thống lĩnh ba quân chặn địch, nào ngờ Đại tướng quân chỉ huy quân đội Hiên Viên lại là Tam ca Hiên Viên Huy.
Hiên Viên Huy là con trai Tam phi Đổng Ngư thị, A Hành rất hiếm khi gặp vị ca ca này, cũng chẳng biết gì về năng lực của y.
Nàng liền đem thắc mắc hỏi Thiếu Hạo: “Sao phụ vương không phái Đại ca nhỉ? Chúc Dung hiệu là Hỏa thần, chuyên điều khiển lửa, tới lúc then chốt nhất định sẽ bày Hỏa trận, lấy lửa đánh thành, mà băng tuyết của Đại ca lại vừa khéo khắc chế được lửa của hắn.”
Đang đánh đàn chợt nghe A Hành hỏi vậy, Thiếu Hạo vừa gảy tiếp vừa đáp: “Nếu bây giờ Thần Nông tấn công Cao Tân, phụ vương cũng chẳng phái ta đi nghênh địch đâu.”
A Hành nghĩ ngợi một lát rồi nói, vẻ không muốn tin: “Sao phụ vương lại nghi kị Đại ca chứ? Đại ca là do phụ vương một tay dạy dỗ kia mà!”
Thiếu Hạo thản nhiên: “Khi con cái còn nhỏ, vẫn đang là con mình, Hoàng Đế thân làm cha đương nhiên sẽ dốc tâm huyết dạy dỗ nên một đứa con tài giỏi, nhưng dần dần con cái sẽ lớn lên, trở thành bề tôi, Hoàng Đế thân làm đế vương, hiển nhiên không thể để một bề tôi thâu tóm tất cả được, ông ta vẫn làm những việc nên làm ở từng địa vị khác nhau đấy chứ.”
A Hành dễ dàng chấp nhận việc Tuấn Đế nghi kỵ Thiếu Hạo nhưng lại khó mà chịu được cảnh phụ vương kiêng dè Đại ca, xem ra người ta chỉ có thể bình tĩnh trước những sự việc không can hệ tới mình thôi.
Tựa hồ rất hiểu cảm giác của nàng, Thiếu Hạo chỉ chăm chú gảy đàn, mặc A Hành ngây người ngồi đó.
Một hồi lâu sau, A Hành mới khó nhọc cất tiếng: “Chàng và Đại ca thật không hổ là bạn bè đồng cảnh ngộ, người ngoài đều kính trọng hai người như tuyệt thế anh hùng đời nay, còn người nhà lại chỉ chăm chăm đề phòng các vị hệt loạn thần tặc tử!”
Thiếu Hạo ngừng tay đàn, ngẫm lại lời A Hành vừa nói rồi bật cười: “Thật ra Thanh Dương còn khổ sở hơn ta.” Thấy A Hành ngơ ngơ ngác ngác, y nói tiếp: “Sau này từ từ nàng sẽ hiểu.”
Chúc Dung chia quân làm hai ngả tấn công biên giới phía Tây của Hiên Viên, bao vây ải Đồng Nhĩ, Hiên Viên Huy nhớ kỹ lời Hoàng Đế dặn dò, cứ giữ chặt trong thành không ra ngoài.
Ải Đồng Nhĩ dễ thủ khó công, Hiên Viên huy lại một mực cố thủ trong thành câu giờ, cứ theo tính khí nóng nảy của Chúc Dung thì sớm muộn gì cũng sơ sảy, chỉ cần hắn sơ sảy, Hiên Viên sẽ lập tức phản công.
Giữ thành thoạt nhìn có vẻ dễ dàng nhưng trải qua bao triều đại, danh tướng thạo công thành thì nhiều chứ giỏi giữ thành thì chẳng có mấy ai. Thủ thành thực ra là tâm lý chiến, thời gian kéo dài, quân Thần Nông từ xa tới sốt ruột đã đành, ngay cả quân Hiên Viên cũng thấy mệt mỏi. Để ép Hiên Viên động binh nghênh chiến, quân Thần Nông đã giở ra đủ mọi thủ đoạn. Trước sự khiêu khích của Thần Nông, binh sĩ Hiên Viên, hầu hết đều là những trang nam nhi bừng bừng nhiệt huyết, chỉ hận không thể xông ra quyết một trận sống mái với Thần Nông nhưng Hiên Viên Huy cứ lần lữa chẳng chịu nghênh chiến, dần dà khiến lòng quân oán thán.
Ba quân bắt đầu nảy sinh lời ong tiếng ve, nói Hiên Viên Huy hèn nhát, chỉ giỏi làm rùa rút đầu trong thành, nếu đổi lại là Đại điện hạ Thanh Dương hẳn đã đánh cho Chúc Dung tan tác từ lâu.
Hiên Viên Huy vốn đã mất hết kiên nhẫn lại nghe được những lời xì xầm của thuộc hạ, nhớ tới lời mẹ tha thiết dặn dò trước khi ra trận, lòng càng hoảng loạn hơn.
Trước lúc ra đi, Đổng Ngư thị mẹ y đã gọi y cùng Cửu đệ Di Bành lại bảo, “Có vài chuyện xưa nay mẹ vẫn giấu các con, giờ đây hai đứa đã lớn cả, cũng nên cho các con được biết. Ta và người đàn bà trên Triêu Vân phong kia sớm muộn gì cũng có ngày phải sống mái với nhau, bà ta không chết thì ta chết. Nếu Thanh Dương kế thừa vương vị thì ba mẹ con ta chỉ có đường tự tử thôi.”
Di Bành bất lực khuyên nhủ, “Mẹ à, mấy chuyện đó qua lâu rồi mà. Bây giờ Đại ca tốt với chúng con lắm, mẹ cứ canh cánh bên lòng chuyện cũ làm gì?”
“Tốt lắm ư?” Đổng Ngư thị giáng cho Di Bành một bạt tai, “Ta bảo con phải đề phòng nó bao nhiêu lần rồi kia mà? Con cứ hồ đồ như thế, sớm muộn cũng có ngày chết về tay nó cho xem! Nó đã thò lưỡi rắn vào miệng con mà con vẫn coi nó là anh em tốt à? Nếu con giúp Tam ca con một tay thì Thanh Dương đâu thể bành trướng thế lực như bây giờ?”
Dường như đã hoàn toàn thất vọng với Di Bành, Đổng Ngư thị quay sang buồn bã nhìn Hiên Viên Huy, “Huy nhi, lần này con ra quân nhất định phải thắng lợi! Đây là thời cơ ngàn năm có một của mẹ con ta, chỉ thắng trận con mới có thể được phụ vương trọng dụng, con nhớ nhé, nhất định phải chứng minh năng lực của con không kém gì Thanh Dương, phải thể hiện với phụ vương rằng con mới là đứa con trai ưu tú nhất của Người.”
Hiên Viên Huy chẳng biết đáp sao cho phải, đành quỳ xuống dập đầu, “Xin mẹ yên tâm, con nhất định sẽ dốc hết toàn lực.”
Lời hứa với mẹ vẫn đè nặng trong lòng, từng giờ từng phút nhắc nhở y. Chuyện này liên quan tới sự sống chết của ba mẹ con y nên y nhất định phải thắng, nhất định thế!
Hai tên thuộc hạ nôn nóng lập công đã nhận ra tâm tình xáo trộn của Hiên Viên Huy, liền xúi y mở cổng thành nghênh chiến, “Chúc Dung bôn ba đường xa tới đây, lại giằng co bao lâu nay, hẳn người ngựa đều mệt nhoài cả rồi, chúng ta lấy nhàn chống mệt, nhân sĩ khí bây giờ đang vượng, thừa lúc đêm khuya đánh úp một mẻ nhất định sẽ lập được công lớn.”
Hiên Viên Huy đang cần lập công lớn để khẳng định bản thân, vừa nghe đến “nhất định sẽ lập được công lớn” đã thấy nhiệt huyết trào lên, vội hạ quyết tâm ngay.
Y liền triệu tập các tướng lại bàn kế nửa đêm đánh úp Chúc Dung, tướng lĩnh thảy đều đồng tình, duy chỉ có quan chủ quản vận lương là Ứng Long kiên quyết phản đối, nhưng Hiên Viên Huy chẳng để vào tai, còn khiển trách Ứng Long: “Ngươi chỉ là một tên Yêu tộc nhãi nhép, lấy tư cách gì nói càn trước mặt các đại tướng Thần tộc bọn ta?”
Hết thảy tướng lĩnh Thần tộc trong phòng đều cười rộ lên, Ứng Long thấy vậy đành cúi đầu im lặng.
Nửa đêm Hiên Viên Huy đích thân dẫn theo tinh anh Thần tộc đánh úp Chúc Dung, còn bố trí mấy vạn đại quân Nhân tộc vây bủa bên ngoài sẵn sàng truy quét quân Thần Nông trốn chạy.
Mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của Hiên Viên, đại quân Chúc Dung hầu như không hề đề phòng, vừa đánh đã bỏ chạy tán loạn.
Thấy ngọn cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm của Chúc Dung chạy về hướng Bắc, nơi chỉ có một dải đồng bằng bao la, hoàn toàn không thể phòng thủ, Hiên Viên Huy mừng rỡ khôn cùng, thầm nghĩ nếu giết được Chúc Dung, hẳn sáng mai thôi là mình nổi danh khắp đại hoang, rồi y lại lan man nghĩ tới Hiên Viên Thanh Dương, nghĩ tới phụ vương, nghĩ tới mẹ… Vì quá hăng hái, y quên khuấy cả thận trọng, chỉ lo tập trung tất cả quân đội Thần tộc đuổi giết Chúc Dung.
Bọn Hiên Viên Huy vừa đuổi tới nơi, đột nhiên lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm phân ra thành năm ngọn lửa, bập bùng vờn quanh. Hiên Viên Huy cười nhạt, biết Chúc Dung chuyên dùng hỏa công, y đã có chuẩn bị sẵn, bèn lệnh cho quân đội Hiên Viên bày trận hô mưa.
Chúc Dung cưỡi trên Tất Phương điểu lắc đầu cười, mỗi trận pháp không chỉ dựa vào tinh lực của Thần tộc mà còn phải biết cách vận dụng linh hoạt, hiện giờ đang giữa tháng Chạp đông giá, vùng này lại khô hạn lâu ngày, rõ ràng là địa điểm tốt để bày trận hỏa công, chứ hô mưa làm sao nổi.
Thần Nông thoạt nhìn như thể đang bỏ chạy tán loạn nhưng thực tế ai nấy đều đã ổn định vị trí đâu vào đó, Chúc Dung ngồi giữa trận thúc động linh lực, chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa bắt đầu rần rật khắp vùng.
Hiên Viên Huy cũng lệnh cho các tướng sĩ hô mưa, nhưng thế trận của Hiên Viên bị vây giữa thế trận của Chúc Dung, linh khí trời đất ở đây lại hợp hỏa chứ không hợp thủy, dần dà, mưa của họ càng lúc càng nhỏ lại, trong khi lửa của Chúc Dung mỗi lúc một lớn, như muốn nuốt chửng quân địch.
Hiên Viên Huy bắt đầu hoảng sợ.
Hai bên giao tranh, bên nào dũng cảm hơn thì thắng! Chủ tướng vừa hoảng hốt, lòng quân lập tức hoang mang, binh lính bỏ chạy tán loạn, trận pháp liền tan vỡ. Quân Hiên Viên bỏ chạy càng lúc càng đông, nhưng trên trời dưới đất đâu đâu cũng có binh lính Thần Nông trấn giữ, thấy kẻ nào giết kẻ nấy.
Nhận ra mình đang bị lửa đỏ bao vây, Hiên Viên Huy toan cưỡi tọa kỵ bỏ trốn, nào ngờ Chúc Dung đã giáng Lôi Đình hỏa ép y phải đáp xuống đất.
Thế lửa càng lúc càng mạnh, tọa kỵ của Hiên Viên Huy thất kinh, giằng cương chạy trốn, chẳng buồn nghe lệnh y nữa.
Mất đi tọa kỵ, Hiên Viên Huy chỉ biết chạy tới chạy lui giữa hỏa trận, vận linh lực xua tan từng luồng hơi nóng, có điều hảo trận này do năm trăm Thần binh của Thần Nông chung sức tạo thành, lại được Hỏa thần Chúc Dung dốc toàn lực điều khiển, linh lực của Hiên Viên Huy làm sao chống nổi.
Dần dà y cạn kiệt linh lực, bị U Minh hỏa xâm nhập thân thể, thiêu đốt ruột gan, khắp người từ trong ra ngoài đều đỏ rực lên, phải gào thảm xin tha.
Chúc Dung đứng trên Tất Phương điểu nhìn xuống thấy hết mọi chuyện, đắc ý cười ha hả.
Từ xa trông lại, thấy ánh lửa đỏ rực trời, Ứng Long biết đại cuộc đã hết cách cứu vãn, lập tức lệnh cho một đội quân Yêu tộc thông thuộc địa hình dẫn theo đại quân Nhân tộc rút lui. Còn y cùng hai ngàn quân Yêu tộc đóng ở hai bên sườn núi, vừa bắn tên yểm trợ đại quân Nhân tộc vừa lợi dụng dòng sông trong sơn cốc bố trí một trận thủy nhỏ, ngăn cản quân Thần Nông truy sát.
Chém giết suốt một đêm, đến nỗi trời đất cũng thành ra u ám, binh lính phơi thây đầy nội.
Trời vừa sáng, tin ải Đồng Nhĩ thất thủ đã truyền về Hiên Viên thành.
Toàn bộ tướng sĩ Thần tộc do Hiên Viên Huy dẫn đầu đều bị tiêu diệt, Yêu tộc thương vong nặng nề, Nhân tộc nhờ trốn vào núi sâu nên chẳng tổn thương một binh một tốt, quả là kỳ tích.
Hoàng Đế nghe trình tấu mà run rẩy cả người, ngồi phịch xuống ghế, không nói nổi một lời, hồi lâu mới trầm giọng ra lệnh: “Lập tức lôi tên Ứng Long lâm trận bỏ chạy xử tử, tất cả lính đào ngũ đều biến làm nô lệ, bắt làm lao dịch trong quân.”
Thanh Dương biết Hoàng Đế vì mất con mà đau lòng quá độ, sinh ra căm phẫn nên chẳng dám khuyên giải, chỉ đỡ lời: “Ứng Long chết không đủ đền tội, có điều hắn đã tận mắt chứng kiến trận chiến, lời nói ra là đáng tin nhất, chi bằng giải hắn về đây hỏi rõ tình hình quân địch rồi xử tử cũng chẳng muộn.”
Hoàng Đế chẳng còn sức mà lên tiếng nữa, chỉ xua tay tỏ ý Thanh Dương cứ toàn quyền quyết xử lý.
Thanh Dương nhận lệnh bước ra, bảo thị nữ Chu Du: “Ngươi lập tức tới biên giới cùng các quan viên áp giải Ứng Long về đây, nhớ chăm sóc cho hắn tử tế, dọc đường nhất định phải tôn trọng hắn, tuyệt đối không được thất lễ.”
Chu Du ngỡ ngàng, “Tại sao phải thế ạ? Chẳng phải hắn chết đến nơi rồi sao?”
Thanh Dương giải thích: “Chúc Dung thần lực cao cường, được tôn làm Hỏa thần. Ứng Long chỉ có hai ngàn quân Yêu tộc mà dám giao tranh với Chúc Dung, lợi dụng địa thế bảo toàn được tướng sĩ Nhân tộc, để cho Yêu tộc thương vong nặng nề, có thể nói là một viên tướng tài hiếm thấy, hội tụ đủ cả nhân, trí, dũng, tuy hiện giờ phụ vương đau lòng quá độ thành ra sơ suất nhưng khi bình tĩnh lại nhất định sẽ nghĩ thông mà trọng dụng hắn.”
Đang nói chợt y trông thấy Tam phi Đổng Ngư thị tóc tai rũ rượi nhào xuống khỏi xe loan, hai chân xỏ hai chiếc hài cọc cạch, hiển nhiên vừa nghe tin đã chạy đến đây xác nhận ngay, chẳng kịp rửa mặt chải đầu.
Đồng Ngư thị vừa chạy vừa gào lên thảm thiết, “Bệ hạ, bọn chúng nói láo, bọn chúng phao tin đồn nhảm…” Trông thấy Thanh Dương, bà ta liền trợn tròn mắt, căm hận nói, “Ngươi, nhất định là ngươi. Có phải là qủy kế của ngươi không? Ta biết ngươi muốn hại chết chúng từ lâu rồi, ngươi muốn báo thù cho Vân Trạch, là ngươi hại chết Huy nhi…” Bà ta vừa kêu khóc vừa lao tới đánh Thanh Dương, đám thị nữ phải cản lại.
Chu Du tái mặt sợ hãi nhưng Thanh Dương chẳng lấy đó làm điều, chỉ cung kính hành lễ với Đổng Ngư thị rồi lập tức bỏ đi.
Tiếng khóc thảm thiết của Đổng Ngư thị còn văng vẳng sau lưng y, “Huy nhi không việc gì, Huy nhi sẽ không việc gì đâu…”
Những lời này sao nghe quen đến thế…
Hơn ngàn năm trước, mẹ y cũng từng tái mét mặt khi đứng trước mặt y, luôn miệng lẩm bẩm: “Vân Trạch không việc gì, Vân Trạch sẽ không việc gì đâu…”
Bà tuyệt vọng nắm chặt lấy tay y, như thể cầu xin y khẳng định với mình “Vân Trạch không việc gì đâu”.
Y cũng muốn an ủi mẹ bằng câu “Mẹ yên lòng, Vân Trạch không sao đâu” biết bao, nhưng chẳng làm sao cất nổi lời, chỉ biết lặng lẽ quỳ trước mặt bà dập đầu thật mạnh, ra sức dập đầu.
Mẹ y nhũn người ra như bị rút hết gân cốt, ngồi phệt xuống đất.
Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ.
Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”
Thanh Dương còn nhớ thuở nhỏ Vân Trạch rất sợ đau, hễ trượt chân hay vấp ngã là khóc òa lên, lần nào như lần nấy mẹ đều ôm Vân Trạch vào lòng khe khẽ ru hời, Vân Trạch sợ đau như vậy mà lại bị thiêu sống đến chết.
Ánh mắt Thanh Dương buốt lạnh, khóe miệng càng lúc càng mím chặt.
Tin đại quân Hiên Viên bị tiêu diệt, một vị vương tử bỏ mình truyền đến Cao Tân, khiến triều đình nhốn nháo cả lên.
Quan viên trong triều kẻ chủ trương phái binh chi viện Hiên Viên kẻo một khi Thần Nông đánh bại Hiên Viên thì Cao Tân sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp, kẻ lại phản đối, nói Hiên Viên chẳng qua mới thua một trận, Cao Tân nên nghe ngóng tình hình thêm đã, còn có kẻ đề nghị nên tặng mỹ nữ và lễ vật cho Thần Nông để bày tỏ thiện ý, nếu kết nối thông gia được với Thần Nông là hay nhất.
A Hành đang ở ngoài thành dạy đám phụ nữ quay tơ dệt vải, nghe tin này lập tức quay về Ngũ Thần sơn.
Về tới nơi, nàng cũng không dám xông vào giữa triều đường làm phiền các quan bàn luận, đành phải đứng ngoài đợi.
Hai vị vương tử Quý Ly và Tam Thân đều chủ trương chi viện Hiên Viên, sát cánh cùng nhau chống lại Thần Nông, còn mười mấy vị vương tử Yến Long, Trung Dung, Hắc Xi, vân vân… lại cho rằng không nên giúp Hiên Viên, ai nấy đều khăng khăng theo ý mình, tranh cãi rất găng.
Tuấn Đế bảo bọn họ yên lặng rồi hỏi Thiếu Hạo, “Con thấy thế nào?”
Yến Long và Trung Dung cười nhạt, Thiếu Hạo là rể Hiên Viên, cần gì phải hỏi nữa.
Vậy mà Thiếu Hạo chỉ đáp gọn: “Nhi thần nghĩ chúng ta nên án binh bất động.”
Tuấn Đế liền phán: “Vậy cứ thế đi, ta cũng mệt rồi, bãi triều!”
Thấy Thiếu Hạo phản đối xuất quân chi viện, Bán Hạ lén liếc A Hành nhưng nàng chẳng phản ứng gì, chỉ lặng lẽ đứng dưới thềm vắng đợi.
Thiếu Hạo bước ra khỏi đại điện cùng Quý Ly, đang đi chợt y dừng bước, nhường Quý Ly đi trước còn mình băng qua dãy hành lang trùng trùng, bước tới trước mặt A Hành, chủ động nắm lấy tay nàng, “Hai ta đi dạo một chút rồi hẵng về cung nhé.”
Bán Hạ cùng các thị nữ biết ý lui cả xuống dưới.
Thiếu Hạo lên tiếng hỏi: “Nàng nghe thấy ta nói gì rồi ư?”
“Vâng.”
“Nàng giận sao?”
A Hành đáp: “Thoạt đầu nghe nói cái gì toàn quân bị diệt, thiếp vô cùng lo sợ, vội sấp sấp ngửa ngửa chạy về, nhưng nghe chàng nói lại thấy yên lòng. Nhất định chàng nhận thấy Hiên Viên chưa bị tổn thương nguyên khí nên mới ung dung không xuất quân như thế, chứ nếu tình hình Hiên Viên nguy cấp, hẳn chàng đã phải nôn nóng từ lâu.”
Thiếu Hạo khẽ cười, tiếng cười lồng lộng trong gió, toát lên vẻ thích thú, “Trận chiến này e rằng chẳng thể kết thúc ngay trong một sớm một chiều, Cao Tân quả thật không cần phải vội.”
Nói đến đây Thiếu Hạo chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn A Hành như thể đang đố nàng.
A Hành chẳng chịu lép vế, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Bản thân Du Võng vốn không muốn gây chiến, phái Chúc Dung ra trận là việc cực chẳng đã mà thôi. Chúc Dung cũng chỉ muốn lấy lòng tướng sĩ và lôi kéo chư hầu chứ đâu có định đánh thật, giờ y đã thắng một trận vẻ vang, giết được một vị vương tử Hiên Viên, có thể nói là lập công lớn rồi, nếu đánh nữa sẽ phải tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên khổ chiến, một kẻ không chịu tiêu hao binh lực của mình như Chúc Dung nhất định không chịu tiến sâu thêm đâu, nếu có quan viên nào xúi giục tiếp tục đánh, y cũng sẽ đứng về phía Du Võng vì lợi ích bản thân cho xem.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Thật chẳng hổ là muội muội của Thanh Dương, tiến bộ rất nhanh, có lẽ chẳng bao lâu nữa nàng có thể cầm quân ra trận rồi.”
A Hành chắp tay thi lễ với Thiếu Hạo, “Đó là nhờ thiếp được thầy giỏi chỉ bảo, ngày ngày đều cùng chàng bàn luận những chuyện này, chỉ cần không phải gỗ mục thì nhất định phải có tiến bộ chứ, có điều…”
“Có điều làm sao?”
“Thiếp rất ít khi tiếp xúc với Tam ca, gần như chẳng có ấn tượng gì, nói thật, nghe tin huynh ấy chết trận, thiếp kinh ngạc nhiều hơn là đau buồn, nhưng huynh ấy là con trai của người phụ nữ mà phụ vương sủng ái nhất, e rằng bây giờ phụ vương thiếp đang đau lòng khôn xiết, dù Chúc Dung không tiến đánh Hiên Viên nữa, phụ vương thiếp cũng chưa chắc chịu bỏ qua cho y.”
Thiếu Hạo phân tích: “Luận về tài tình phẩm mạo phụ vương ta đều đứng đầu, chỉ phải cái tai thính quá, hơi một tí gió lay cỏ động là nơm nớp đề phòng mấy đứa con trai, nhưng nếu có đứa con nào bị giết hại, nhất định Người sẽ lập tức xuất quân báo thù cho chúng ta không tiếc bất cứ thứ gì, còn phụ vương nàng thì khác, Hoàng Đế chỉ đau lòng trong chốc lát mà thôi, qua cơn đau xót sẽ lại lấy đại cuộc làm trọng.”
Nghe Thiếu Hạo nói, A Hành thấy lạnh buốt cả cõi lòng.
Nghĩ tới Thanh Dương, ánh mắt Thiếu Hạo chợt thấp thoáng lo âu, “A Hành, nàng có biết mình còn một ca ca nữa không?”
“Thiếp cũng có nghe loáng thoáng, luận vai vế huynh ấy đáng ra là Nhị ca, có điều qua đời quá sớm nên mọi người cũng không nhắc tới.”
“Nàng biết y chết thế nào không?”
“Tứ ca kể với thiếp là huynh ấy mắc bệnh mà chết, thiếp sợ mẹ đau lòng nên xưa nay chẳng dám hỏi tới, kể ra thì tên huynh ấy là gì thiếp cũng không biết nữa. Sao đột nhiên chàng lại hỏi chuyện này?”
“Có sao đâu, đột nhiên ta nghĩ tới thì hỏi thôi.”
A Hành buồn bã, “Cứ nói tuổi thọ của Thần tộc lâu dài nhưng chín ca ca của thiếp nay chỉ còn bảy. Chúng ta luôn ỷ tuổi thọ dài lâu, chẳng để tâm tới việc gì cả, lại cho rằng dù thế nào cũng còn rất nhiều thời gian, mà đâu biết thực ra rất nhiều thứ chỉ vụt qua trong chớp mắt, sinh mệnh đằng đẵng càng khiến cho nỗi đau dài ra vô tận mà thôi.”
Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Thư tửu và hùng tửu ta cất đều ngon cả, nàng có muốn thử uống hai loại cùng lúc không?”
“Hay lắm!”
Quả thật phải uống một trận say khướt mới hóa giải được nỗi buồn vì toàn quân bị diệt, nỗi đau vì mất đi một người anh trai chôn sâu trong lòng A Hành.
Thiếu Hạo ngẩng lên trời huýt một tiếng lanh lảnh, triệu gọi Huyền điểu tọa kỵ đỗ xuống. Y nắm tay A Hành bước lên lưng Huyền điểu, mặc đám thị nữ thị vệ cuống quýt chạy theo hỏi: “Điện hạ, vương tử phi, hai vị đi đâu thế?”
A Hành bực bội cau mày với Thiếu Hạo, đoạn ngoảnh lại đổi sang vẻ mặt tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo, lấy giọng nhõng nhẽo trả lời bọn họ: “Vợ chồng ta đi làm chuyện vợ chồng, các ngươi cũng muốn theo nhìn ư?”
Đám thị nữ Hiên Viên còn đỡ, nhưng hết thảy thị nữ thị vệ Cao Tân đều kinh hãi khựng lại, không dám tin rằng đường đường vương tử phi lại dám thốt ra những lời dâm loạn đến thế.
A Hành nháy mắt với Thiếu Hạo, Thiếu Hạo lắc đầu cười lớn, lệnh cho Huyền điểu bay vút đi.
Đúng như Thiếu Hạo và A Hành phân tích, sau khi khao thưởng Chúc Dung thật hậu hĩnh, Du Võng chẳng mấy mặn mà với những lời đề nghị tiếp tục thừa thắng truy kích, Chúc Dung cũng lấy cớ quân sĩ không hợp thủy thổ, phát sinh bệnh tả để từ chối tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên.
Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế cũng phong thưởng Ứng Long thuộc Yêu tộc, khen ngợi y đã bảo tồn được binh lực Nhân tộc quý báu cho Hiên Viên.
Trước sự ưu ái của Hoàng Đế, Ứng Long chỉ biết khấu tạ liên hồi.
Đợi Ứng Long cùng các quan viên khác lui ra, trong đại điện chỉ còn lại Hoàng Đế và Thanh Dương, Hoàng Đế mới quay sang bảo: “Lần này con làm rất tốt, nếu không có con, ta chẳng những đã giết lầm một viên tướng tài hiếm có mà còn làm mất lòng Yêu tộc. Không có lương thảo, không có binh khí, thậm chí không có lãnh thổ đều có thể nghĩ cách, nhưng để mất lòng dân thì chẳng cách nào cứu vãn được cả. Con cũng phải nhớ lấy, trên đời này thứ đáng quý nhất chính là lòng dân, nhất định không được để mất lòng dân.”
Thanh Dương cung kính: “Nhi thần sẽ nhớ kỹ lời phụ vương dạy bảo.”
Hoàng Đế lại hỏi: “Chuyện Chúc Dung con thấy thế nào?”
Thanh Dương đáp: “Chúc Dung giết chết Tam đệ, đương nhiên chẳng thể bỏ qua, con xin được dẫn quân thảo phạt hắn, nhất định đem đầu hắn về gặp phụ vương.”
Hoàng Đế lắc đầu: “Không thể giết Chúc Dung được! Mẹ và bà hắn đều xuất thân tôn quý, có thế lực hùng hậu ở Thần Nông, nếu giết chết Chúc Dung chẳng khác nào bức mấy bộ lạc lớn kia tử chiến với chúng ta. Dân số Thần Nông đông gấp ba Hiên Viên, nếu họ quyết tử chiến với ta, dù quân ta có kiêu dũng mấy chăng nữa cũng không chống nổi đâu.”
Thanh Dương nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Nhi thần ngu ngốc không hiểu ý Người, xin phụ vương giảng giải thêm cho.”
Hoàng Đế giải thích: “Cách hay nhất không phải là giết chết Chúc Dung, mà là khiến hắn quy thuận chúng ta, để thế lực của hắn thu về dưới trướng Hiên Viên.”
“Sao có thể được? Chúc Dung là người Thần Nông chính gốc mà!”
Hoàng Đế nhướng mày, ánh mắt sắc như dao, vặn lại: “Sao không được chứ? Thủy tổ của Thần Nông khi xưa chẳng phải cũng là thuộc hạ Bàn Cổ sao?”
Thanh Dương vội chữa lại: “Phụ vương nói rất có lý, Chúc Dung lòng tham không đáy, tự coi mình là kẻ có thần lực cao cường nhất trong Thần Nông tộc, đời nào cam lòng đứng dưới một Du Võng bất tài vô dụng. Chỉ cần đem món lợi lớn ra nhử hắn, hắn nhất định sẽ động lòng.”
Hoàng Đế gật đầu cười, “Có điều Chúc Dung cũng chỉ là một con chó hoang thôi, thoạt đầu phải lấy gậy đánh cho nhụt hết nhuệ khí để nó biết sợ rồi mới đem thỏ béo ra dụ dỗ, dần dà thuần hóa nó thành chó nhà.”
“Nhi thần hiểu rồi.”
“Chuyện này giao cả cho con, ta biết con có cài thám tử vào Thần Nông quốc, cứ sai chúng phao tin đồn nhảm để Du Võng cùng quan lại trong triều đinh ninh rằng Chúc Dung sớm muộn sẽ tạo phản, đợi khi nào Chúc Dung nhận ra cả triều đình đều nghĩ mình sắp làm phản, chừng đó hắn muốn không phản cũng không được.”
Thanh Dương quỳ xuống dập đầu, “Vâng.” Y hiểu những lời này của Hoàng Đế vừa là giao nhiệm vụ, cũng vừa là cảnh cáo ngầm, con làm gì ta đều biết hết.
Hoàng Đế cúi đầu lật lật công văn, “Con lui xuống đi.”
Thanh Dương đứng dậy hỏi, “Tam đệ vừa qua đời, hôn sự của Xương Ý có phải lùi lại không ạ?”
Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi đáp, “Không cần, cũng đâu phải bậc bề trên qua đời, khỏi cần giữ quy củ chịu tang. Hơn nữa mùa xuân sang năm mới tới hôn lễ của Xương Ý, còn hơn một năm nữa, cứ cử hành đúng hạn đi! Giờ đang là lúc Hiên Viên cần dùng người, Xương Ý lại kết hôn với nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy, sau này chiêu mộ quân lính từ Nhược Thủy tộc cũng thuận tiện hơn nhiều.”
Chẳng rõ đang nhớ tới chuyện gì, Hoàng Đế chợt ngẩn ra, hồi lâu mới nói, “Tuy hôn sự có mẹ các con lo liệu nhưng mấy năm nay tinh thần bà ấy không được tốt, con nên đỡ đần thêm cho bà ấy, nhất định hôn lễ phải tổ chức thật trọng thể, mời hết khách khứa bốn phương để Nhược Thủy tộc thấy rằng chúng ta hết sức tôn trọng họ. Nhược Thủy tộc kiêu dũng thiện chiến nhưng tâm tư rất thuần phác, chúng ta càng tỏ lòng tôn trọng họ, họ sẽ càng trung thành với chúng ta.”
Lúc Thanh Dương còn nhỏ, Hoàng Đế chưa lập nên Hiên Viên quốc, Luy Tổ cũng chưa trở thành vương hậu nên chưa có danh xưng mẫu hậu, giờ đây Hoàng Đế bỗng vô tình dùng lại cách xưng hô ngày cũ ân cần dặn dò khiến Thanh Dương nghe mà chợt xót xa, chỉ biết cúi đầu thành tâm vâng dạ, đợi Hoàng Đế căn dặn xong xuôi, y bèn cáo từ lui ra.
Thấy Thanh Dương bước ra khỏi đại điện, Chu Du liền rảo bước theo sau, vừa đi vừa nói: “Tên khốn Ứng Long kia thật tệ, hôm nay nô tỳ trông thấy y bèn lên tiếng chào hỏi, chúc mừng y thăng quan tiến chức, nào ngờ y lạnh như tiền, chẳng hề tỏ vẻ biết ơn, cũng chẳng thèm nghĩ xem nếu không nhờ điện hạ, y đã phải bỏ mạng từ lâu rồi!”
Thanh Dương lườm Chu Du, chế giễu: “Ngươi đã ở bên ta hơn ngàn năm, cũng tu thành hình người mấy trăm năm nay rồi, sao vẫn dốt đặc cán mai như khúc gỗ thế?”
Chu Du ấm ức ra mặt nhưng chẳng dám phản bác, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, nô tỳ vốn là khúc gỗ mà!
Thanh Dương bèn nhẫn nại cắt nghĩa, “Ta cứu y là bởi phẩm chất và mưu trí của y, muốn cho y một cơ hội thi thố tài năng, nếu y tỏ vẻ thân thiết với chúng ta, ngược lại chính là phụ lòng ta, khiến ta thất vọng vì đã cứu y đó.”
“Thế là thế nào?” Chu Du vẫn ngơ ngác không hiểu. Thanh Dương hết cả kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Nếu y quá thân cận với ta thì phụ vương sẽ đắn đo khi dùng y, vậy há chẳng phải phụ tâm ý ta cứu y ư?”
“À! Té ra là thế, xem chừng nô tỳ trách oan y rồi! Nô tỳ đã nói Yêu tộc của nô tỳ luôn uống nước nhớ nguồn mà!”
Thanh Dương lắc đầu ngán ngẩm nhìn Chu Du, vừa đi vừa dặn: “Nhược Thủy tộc sùng bái nhược mộc[1], nhưng nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không sao sống nổi, ngươi nghĩ cách trồng cho được nhược mộc ở Hiên Viên đi, khi nào Xương Ý thành hôn cùng Trọc Sơn Xương Phó, ta muốn nhược mộc nở hoa dọc hai bên đường đón dâu.”
[1] Theo Sơn Hải kinh: ở Nam Hải, nơi hai dòng nước trong đục giao hòa vào nhau, có một loài cây tên nhược mộc, là khởi nguồn của Nhược Thủy. (ND)
Chu Du cười hì hì, “Việc này cứ giao cho nô tỳ, nô tỳ sẽ đi nài nỉ ông tổ của nhược mộc, lão ta còn nợ nô tỳ, cảm phiền con cháu lão nở hoa một lần chỉ là chuyện nhỏ.”
“Còn nữa, nhớ thúc cho đám dâu trên Triêu Vân phong chín sớm lên đấy.”
“Biết rồi biết rồi, Tứ điện hạ và vương cơ đều thích ăn dâu lạnh, chừng nào họ tới điện hạ nhớ làm một trận tuyết, nhân đó hái luôn dâu lạnh tươi rói, ngon hơn dâu ướp lạnh trong hầm băng nhiều.”
Thanh Dương nghe vậy lạnh lùng trừng mắt nhìn Chu Du khiến ả giật nảy mình vội cúi gằm mặt xuống than thầm, người ta ngốc thì lườm, người ta thông minh thì trừng, thế là sao đây!
Quyển 1 – Chương 14: Nắm Chặt Tay, Bên Nhau Mãi Mãi[1]
[1] Trích trong Kinh Thi, bài Kích cổ. (ND)
Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hóa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.
Gần mười người đàn bà xúm xít quanh một cái nong lớn, trong nong là mười mấy nắm tằm giống màu sắc khác nhau, A Hành lần lượt nhặt từng loại lên giảng giải.
“Những giống tằm phổ biến nhất ở đại hoang là tằm dâu, tằm tạc, tằm thầu dầu, tằm sắn, tằm dâu ngựa, tằm long não, tằm dẻ, tằm xư, tằm ô cựu, tằm liễu, tằm hổ phách… Đa phần chỉ cần nghe tên là biết thức ăn chủ yếu của giống tằm đó là gì. Các giống tằm khác nhau cũng có công dụng khác nhau, ví như tằm thầu dầu không ươm được tơ nhưng có thể kéo lụa sống, còn loại màu vàng kim này là tằm hổ phách, chuyên ăn lá cây kim, tơ dai mà lóng lánh như hổ phách, có điều sản lượng rất thấp nên chỉ dùng dệt vải vóc thượng đẳng thôi…”
Đám đàn bà nhặt tằm giống lên vừa phân biệt thật kỹ, vừa rì rầm trao đổi.
A Hành bước tới manh chiếu trúc trải cạnh đó, khoanh chân ngồi xuống sàng lọc những giống tằm láo nháo mà người làng thu thập được, đương lúc trời nóng bức, nàng lại hao tâm tổn sức phân loại nên chẳng mấy chốc đã đổ mồ hôi đầy đầu. A Hành đưa tay quệt mồ hôi trán, đang định kiếm miếng nước uống chợt thấy một cốc nước đưa tới trước mặt.
Ngỡ rằng ai đó trong số đàn bà kia đem đến cho mình, nàng thuận tay đón lấy uống một hơi cạn sạch rồi cười nói: “Cảm ơn.” Nghiêng người đưa trả chiếc cốc mới nhận ra là Thiếu Hạo.
Y đang ngồi xổm một bên tò mò nhìn nàng lựa tằm giống, còn đám người trong sân chẳng biết đã tản đi tự lúc nào.
“Chàng tới khi nào vậy? Sao chẳng gọi thiếp?” A Hành hết sức bất ngờ.
“Hôm nay trong triều chẳng có việc gì nên ta ra mấy thôn làng bên ngoài đi dạo nghe nói nhà nào nhà nấy đều có thể tới nhận tằm giống miễn phí, vừa khéo tiện đường, ta liền tới thăm nàng, thấy nàng đang giảng giải cho mấy phụ nữ kia có vẻ rất thú vị, ta bèn đứng ngoài lắng tai nghe, thật chẳng ngờ con tằm giống bé xíu mà cũng chứa nhiều kiến thức đến thế.”
A Hành nhoẻn cười, cúi xuống tiếp tục sàng lọc.
Thiếu Hạo hỏi: “Nàng lấy đâu ra nhiều tiền thế?”
“Chàng quên những thứ phụ vương và vương hậu thưởng cho thiếp rồi sao? Những vật dụng chuyên dùng trong vương thất thiếp đều sai Bán Hạ cất đi, còn các thứ khác chất đống trong kho cũng chỉ tổ bám bụi, chi bằng đem ra mướn người thu thập những loại tằm láo nháo về gây nên tằm giống.”
“Hèn chi dân tình mười dặm tám làng quanh đây đều hết lời ca ngợi phụ vương, té ra là vì chuyện này.”
“Thiếp dùng những thứ phụ vương ban thưởng nên đương nhiên ân trạch này thuộc về phụ vương rồi.”
Thiếu Hạo khẽ nói: “Cảm ơn nàng.”
A Hành thấy sắc mặt Thiếu Hạo u ám, tựa hồ vừa xảy ra chuyện gì đó không vui, nhưng y đã không nói, nàng cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn trỏ mấy con tằm giống trước mặt bảo, “Chàng giúp thiếp lựa giống tằm đi, cứ dùng linh lực kiểm tra, nếu thấy trứng tằm tốt, nở đều thì giữ lại, nếu thấy không tốt tức là không thể gây giống được, thì để thả lại ra đồng hoang.”
Thiếu Hạo khoanh chân ngồi xuống cạnh A Hành, bắt đầu sàng lọc. Y sẵn có linh lực cao cường nên tằm giống vừa qua tay đã tự động chia thành hai loại, chẳng hề mất công nhọc sức. Ỷ lại Thiếu Hạo, A Hành trốn việc không làm nữa, chỉ ngồi một bên vừa hóng mát vừa xem y làm.
Thiếu Hạo lại hỏi nàng: “Hôn lễ của Xương Ý đã định vào mùa xuân sang năm, Thanh Dương phái sứ giả tới xin phép phụ vương để sang năm đón nàng về Hiên Viên dự lễ cưới Xương Ý đó.”
A Hành mừng rỡ, “Thế phụ vương nói sao?”
“Phụ vương nhận lời rồi, còn bảo ta về cùng với nàng để bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu.”
Nghĩ tới hôn lễ của Tứ ca, lại nghĩ tới việc mình được về nhà, A Hành vô cùng vui sướng, nheo nheo mắt ngắm vầng dương rực rỡ trên đầu ngọn cây.
Hai người làm thinh chẳng ai nói gì nên nghe rất rõ những âm thanh trong làng đưa lại, nào là tiếng trâu kéo cày, tiếng trẻ con đùa giỡn đuổi nhau… A Hành lại chạnh lòng nhớ tới Cửu Lê, giờ đang là tiết hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, Mễ Đóa và Kim Đan đã con đàn cháu đống rồi chăng? Họ vẫn ca vang khúc sơn ca tỏ lòng mình với đối phương trong bóng hoàng hôn loang rực mặt sông kia chứ?
Thiếu Hạo cất tiếng hỏi: “Nàng đang nghĩ gì thế?”
A Hành khẽ đáp: “Nếu vĩnh viễn không có chiến tranh, cứ bình yên thế này mãi thì hay quá.”
Thiếu Hạo dịu giọng an ủi, “Sẽ như thế, nhất định sẽ như thế mà.”
A Hành vờ bình thản hỏi: “Gần đây phía Thần Nông sao rồi?”
Thật ra điều nàng muốn biết là Xi Vưu dạo này ra sao. Từ khi gả tới Cao Tân, hết bị thám tử của Tuấn Đế dòm ngó lại bị thị nữ do Hoàng Đế phái tới vây quanh, A Hành gần như bị cách ly với thế giới, chẳng nhận được chút tin tức nào từ bên ngoài.
“Thú vị lắm.”
“Sao cơ?”
“Nhân lúc Chúc Dung bận đi đánh ải Đồng Nhĩ, Xi Vưu đã tạo dựng một đội quân, thoạt đầu chỉ có mấy chục người, toàn là đàn ông Cửu Lê tộc, Xi Vưu bèn đăng bảng chiêu mộ dũng sĩ trên khắp Thần Nông, bất kể xuất thân sang hèn, địa vị cao thấp, chỉ trong mấy tháng đã tuyển được năm trăm người. Chúc Dung ngồi không vững ở ải Đồng Nhĩ nhưng Du Võng lại sai hắn giữ ải, ngoài miệng nói là để thưởng cho hắn, bảo vệ chiến công của hắn, thực tế là ngăn không cho hắn quay về cản trở việc của Xi Vưu, hiện giờ Chúc Dung đang khốn đốn mà chẳng biết kêu ai.”
A Hành không nhịn được cười: “Thật chẳng khác nào đem Chúc Dung đày ra biên ải, chiêu hiểm thế này không giống chủ ý của Du Võng, ắt là ý của Xi Vưu đây.”
Vẻ mặt Thiếu Hạo nặng nề như chất chứa trùng trùng tâm sự, hồi lâu y mới nói khẽ: “Vừa nãy ta bị phụ vương quở mắng trên đại điện.”
“Sao thế?”
“Nói ra thì dài dòng lắm, một lời không hết được.”
“Chàng cứ thong thả kể đi, thiếp rảnh rỗi mà.”
“Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc thượng cổ, duy trì dòng dõi rất khắt khe, mấy vạn năm nay để giữ gìn lợi ích cho tộc mình, họ nghiêm cấm những kẻ không cùng đẳng cấp kết hôn với nhau. Viêm Đế đời trước muốn cưới Viêm Hậu xuất thân thấp kém cũng chật vật muôn vàn, sau cùng phải nói thác rằng Viêm Hậu thuộc chi thứ của Xích Thủy thị mới có thể miễn cưỡng kết hôn. Bởi đã nếm mùi đau khổ nên suốt thời gian tại vị, Viêm Đế luôn nỗ lực phá bỏ quy định khắt khe về dòng dõi, có điều muốn cải cách một tập tục đã mấy vạn năm nhất định phải máu chảy đầu rơi, mà Viêm Đế lại là người nhân hậu, không nỡ lòng nào, bởi thế dù ông ta cố gắng đến mấy đi chăng nữa cũng chỉ thay đổi được bề ngoài chứ không sao chạm tới gốc rễ. Nhưng Xi Vưu thì khác, để đạt được mục đích, hắn chẳng ngại gì thây phơi đầy nội, dưới tay hắn, ắt hẳn Thần Nông sẽ thay da đổi thịt. Hiên Viên vốn khác hẳn hai nước chúng ta, nên khỏi cần nhắc tới.”
“Phải, Hiên Viên không giống với hai nước kia.” Giọng điệu A Hành toát lên vẻ kiêu ngạo, “Thiếp phát hiện phụ nữ Cao Tân khi bình phẩm về đàn ông chẳng thèm đếm xỉa gì tới phẩm cách tài hoa của họ mà đầu tiên phải quan tâm tới dòng dõi huyết thống trước đã, như thế chỉ những kẻ con nhà dòng dõi, mang huyết thống cao quý mới đáng để kết hôn vậy, những lời đó thoạt nghe chỉ là chuyện vãn khuê phòng, nhưng lại phản ánh rất nhiều điều. Người Hiên Viên bọn thiếp tuy không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi hai đại Thần tộc, nhưng phụ vương thiếp từng nói: “Thần tiên, con người hay yêu quái trừ chủng tộc bất đồng còn lại đều bình đẳng, chẳng có gì là cao quý hay đê tiện cả, thật hoang đường hết sức.” Dù là người hay yêu quái, sự sang hèn của bản thân chỉ phụ thuộc vào chính những hành động của mình mà thôi. Ở Hiên Viên, bất kể chàng thuộc Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc, bất kể chàng sinh ra trong nhà quyền quý hay nghèo hèn, chỉ cần có tài, chàng sẽ được mọi người kính trọng.”
Thiếu Hạo nói: “Đến giờ Cao Tân vẫn chìm trong niềm tự mãn của một Thần tộc thượng cổ chứ nào chịu nhìn nhận sự cổ hủ của mình, ngay phụ vương cũng đâu có nhận ra Thần Nông đang chuyển mình mạnh mẽ, họ chỉ coi chuyện tranh đấu giữa Chúc Dung và Xi Vưu như một cuộc chiến giành quyền lực mà thôi. Hôm nay trên triều ta tâu rằng cuộc tranh đấu giữa Xi Vưu và Chúc Dung thật ra là cuộc xung đột giữa hai giai tầng rồi thử đề xuất một vài cải cách nhưng phụ vương rất không vui, nói lễ nghi tôn ti là gốc để lập quốc, vậy mà ta lại dám nói càn đòi thay đổi.”
Những chuyện này A Hành chẳng làm sao tháo gỡ giùm y được, nàng đành lựa lời khuyên giải: “Chàng cứ từ từ, có những chuyện không thể nóng vội được đâu.”
Thiếu Hạo thở dài: “Chỉ mong có thể khuyên phụ vương để ngài dần hiểu ra thôi! Nếu Cao Tân cứ khư khư bảo thủ thế này thì sớm muộn sẽ mất nước. Có lúc ta cũng thực ngưỡng mộ Xi Vưu, hắn muốn gì làm nấy, chẳng ngại gì cả.”
A Hành lặng thinh, đăm đắm trông vời xa xăm.
Lựa giống tằm xong, Thiếu Hạo quay sang hành lễ với A Hành, “Vương tử phi nương nương, ta làm xong rồi, chúng ta về nhà được chưa?”
A Hành cười đáp: “Về thôi.”
Cùng Thiếu Hạo cưỡi Huyền điểu quay về, thầm nghĩ tới đám cưới sắp tới của Tứ ca, A Hành sực nhớ ra phải chuẩn bị quà gặp mặt cho chị dâu tương lai.
Thấy nàng lặng yên không nói, Thiếu Hạo bèn hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”
“Thiếp đang nghĩ xem nên tặng quà gì cho Tứ tẩu.”
“Nàng đã nghe ngóng xem Tứ tẩu thích gì chưa?”
“Thiếp chẳng biết gì hết, tại cái tính của Tứ ca đó! Hỏi mười câu huynh ấy chỉ đáp nửa câu, thiếp lải nhải bên tai huynh ấy cả ngày chỉ moi được mỗi chuyện chị ấy là con nhà vọng tộc ở đó, họ Trọc Sơn.”
“Thần Nông có Cửu Lê, Hiên Viên có Nhược Thủy, đều là những vùng dân tình thuần phác mà dũng mãnh, chỉ nể trọng những kẻ anh hùng kiêu dũng, Tứ tẩu này của nàng chẳng những xuất thân từ vọng tộc Trọc Sơn thị mà còn là nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy nữa đó.”
“Hả? Tứ ca định cưới nữ tộc trưởng Nhược Thủy?” A Hành trợn tròn mắt, “Thiếp cứ ngỡ Tứ ca sẽ cưới một cô gái dịu dàng hiền thục kia, ai dè huynh ấy lại thích nữ trung hào kiệt!”
Thiếu Hạo bật cười, “Nàng định tặng gì cho nữ anh hùng nào?”
A Hành nghĩ ngợi một thoáng, chợt sáng mắt lên, nghiêng đầu nhìn THiếu Hạo cười ranh mãnh: “Xưa nay anh hùng chuộng danh khí! Món quà thích hợp nhất phải làm phiền Thiếu Hạo điện hạ vang danh thiên hạ về nghề rèn rồi, có điều nghe nói xưa nay y không rèn binh khí, chẳng hiểu y có chịu ra tay giúp đỡ hay chăng?”
“Không phải y không chịu, nhưng…”
A Hành hồi hộp hỏi: “Nhưng sao?”
Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời, làm bộ nghĩ ngợi một hồi, “Cũng chẳng có nhưng gì cả, năm xưa lấy không bí quyết nấu Thư tửu của nàng, xem như là trả lễ vậy! Có điều hơi gấp gáp, thời gian một năm thì chỉ rèn được chủy thủ tùy thân thôi.”
A Hành thở phào nhẹ nhõm, nàng xúc động lắc lắc cánh tay Thiếu Hạo, mừng rỡ hơn cả khi y làm lợi cho mình: “Cảm ơn chàng, cảm ơn chàng, cảm ơn…”
Thiếu Hạo cười, “Huynh muội nàng y hệt nhau, lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn dâng cho đối phương những thứ tốt nhất trên đời.”
A Hành chẳng hề phủ nhận mà còn nhoẻn cười gật đầu, “Tứ ca là ca ca tốt nhất trên đời đó.”
“Thế còn Thanh Dương?”
A Hành tắt hẳn nụ cười, khẽ nói: “Đại ca giống phụ vương, đều lấy đại cuộc làm trọng.”
Thiếu Hạo định nói gì đó nhưng sau cùng chỉ gượng cười làm thinh.
Tối đến A Hành ngồi ở giường, tấm áo đỏ rực đã gập vuông vắn đặt trên đầu gối. Nàng vừa vuốt ve tấm áo vừa nhớ lại năm xưa trên Thần Nông sơn, Xi Vưu bắt nàng hứa rằng mồng tám tháng Tư hàng năm sẽ gặp nhau dưới cội hoa đào, nàng đã nói với hắn, miễn là năm nào hắn cũng mặc áo nàng may thì nàng sẽ tới gặp. Trong lời nói đã có ý hẹn ước cả đời, Xi Vưu hiểu ý nàng nên mừng rỡ khôn cùng .
Lúc sắp thành hôn với Thiếu Hạo, bên cạnh nàng luôn có thị nữ giám sát, còn chỗ Xi Vưu hắn cũng trùng trùng nguy cơ, bởi thế nàng không dám báo tin cho hắn, lỡ bị phát hiện chẳng những sẽ liên lụy tới mẹ và Tứ ca mà còn có thể đẩy Xi Vưu vào đường cùng nữa.
Có lẽ giờ đây nàng và Thiếu Hạo thành hôn đã lâu, lại thêm tin tức bay về đều khiến Hoàng Đế yên lòng nên ông dần nới lỏng vòng kiềm tỏa, đám thị nữ cũng quen với việc nàng bận bịu chạy đi chạy lại, chẳng còn cảnh giác như xưa.
Sáng mai nàng định tới thôn trại Nhân tộc xem tằm, chắc có thể tìm cơ hội sai A Tệ lén đem áo rời khỏi Cao Tân, đưa đến cho Xi Vưu, trông thấy áo, ắt Xi Vưu sẽ hiểu nàng muốn nói gì. Dù xui xẻo rơi vào tay kẻ xấu đi nữa, chúng cũng chỉ thấy một manh áo mà thôi.
Hai ngày sau, A Hành dâng thư lên Tuấn Đế xin tới miền Bắc cực Cao Tân dạy dân chăn tằm dệt lụa, vì đường sá xa xôi nên không thể ngày đi tối về Ngũ Thần sơn được.
Thời gian này, Tuấn Đế luôn để ý mọi hành vi của Hiên Viên Bạt trong dân gian, đương nhiên cũng nghe thấy hết những lời tán tụng của muôn dân đối với mình, so với một Thiếu Hạo thâm trầm tinh minh, ông còn thích nàng dâu khéo trồng hoa nhổ cỏ, bình phẩm thư họa này hơn, liền vui vẻ chuẩn y ngay.
Đám thị vệ và thị nữ Cao Tân tộc theo Hiên Viên Bạt đi đi lại lại vô số làng mạc, chưa từng có điều gì sơ suất, chỉ thấy vương tử phi hết lòng lo toan cho trăm họ Cao Tân, đương nhiên cũng dần lơi lỏng cảnh giác.
Chập tối, A Hành tạo ra một người gỗ thế vai mình đi ngủ thật sớm. Còn bản thân nàng lại cùng A Tệ lẻn tới Cửu Lê, ngôi làng này rất gần Thần Nông quốc, trăng vừa lên đến ngọn cây, nàng đã tới nơi.
Hoa đào trên sườn núi rực rỡ đua tươi, ánh lửa trong sơn cốc sáng lòa cả mắt. Thanh niên thiếu nữ đều quây quần dưới gốc đào, bên đống lửa, cao giọng hát những khúc tình ca say lòng người.
A Hành đứng dưới cội đào lặng lẽ đợi.
Đợi mãi đến khi trăng tà bóng ngả vẫn chưa thấy Xi Vưu tới.
A Hành ôm lấy A Tệ hỏi nhỏ: “A Tệ, mày đem áo đưa cho hắn rồi chứ?”
“Gừ…” A Tệ gật đầu lia lịa, nhớn nhác ngóng trông.
Thấy vậy A Hành xoa đầu nó an ủi, “Đừng nôn nóng, hắn sẽ tới mà.” Nhưng thực tế lòng nàng còn chênh chao nôn nóng hơn ai hết.
Tựa vào A Tệ, A Hành vừa lẳng lặng nghe đám thanh niên thiếu nữ hát sơn ca, vừa đợi Xi Vưu.
Ngọn lửa dần lụi tắt, khúc ca dần bặt tiếng, chỉ có ngàn cội hoa đào trong sơn cốc vẫn rực rỡ huy hoàng, âm thầm mà nở rộ.
Xi Vưu vẫn không thấy tới.
A Hành ôm lấy A Tệ, lòng đau như xé. Cao Tân cung đình quy củ ngặt nghèo, lần này để tới gặp Xi Vưu, nàng đã phải chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, mượn cớ dạy muôn dân trồng dâu nuôi tằm xin Tuấn Đế đồng ý cho nàng xuất cung, rồi lại giữ bổn phận từng ly từng tí nhằm đổi được lòng tin của Tuấn Đế, vất vả cả nửa năm mới đổi được tự do một đêm, vậy mà Xi Vưu lại một lần nữa thất hẹn.
Nàng đã chuẩn bị bao điều để nói với hắn, nỗi bất lực của nàng, cơn giận của nàng, cơn giận vì năm ngoái hắn đã thất hẹn, giận vì hắn không chịu tin nàng, và mà hết thảy dự định ngọt ngào đều uổng phí, bao lời gan ruột chẳng biết thổ lộ cùng ai.
Lại là bi thương, lại là phẫn nộ, nước mắt cứ thế lã chã rơi.
Đột nhiên Liệt Dương hoan hỉ kêu quang quác, A Tệ vừa mừng rối rít vừa nhảy cẫng lên. A Hành ngẩng đầu trông, liền thấy một bóng áo đỏ trong mây đang phấp phới bay đến. Nàng vội nín khóc nhoẻn miệng cười, vừa cuống quýt lau nước mắt vừa sửa lại búi tóc, quần áo, còn thấp thỏm hỏi A Tệ: “Thế này đã được chưa? Có rối không?”
Cánh đại bàng xẹt ngang trời như sao băng rồi đâm bổ xuống, nàng hồi hộp đứng lặng, A Tệ mừng rỡ nhào đến, toan nhảy xổ vào lòng Xi Vưu như mọi bận, đột nhiên nó khựng lại, hoang mang nhìn đại bàng.
Trên lưng đại bàng chẳng có một ai, nó chỉ lượn quanh cội đào một vòng, thả manh áo đỏ ngậm trong miệng xuống rồi đập cánh bay vút đi.
“Hu…u…u…” A Tệ kêu lên ai oán, bối rối vòng đi vòng lại quanh tấm áo.
Mặt A Hành trắng bệch, nàng đã hứa chỉ cần hắn hàng năm đều mặc tấm áo này, nàng sẽ tới gặp hắn, lần này nàng cố ý đưa áo tới nhưng hắn lại sai đại bàng ngậm hồng bào quăng xuống dưới cội hoa đào, tỏ rõ rằng hắn sẽ không bao giờ mặc nữa.
A Hành loạng choạng chạy tới nhặt tấm áo lên, thất thần ôm vào lòng, đờ đẫn.
Cánh đào rơi lả tả như mưa, chẳng mấy chốc, đầu nàng, vai nàng đỏ rực những hoa.
Nghe Liệt Dương kêu lên quang quác, A Hành mới sực tỉnh, nhìn dáng vẻ lo lắng của A Tệ và Liệt Dương, oan giận và bi thương đan xen dâng ngập lòng, nàng liệng phắt tấm áo xuống đất ngươi đã chẳng cần, ta còn cần làm chi!
Nhưng tình cảm đã trao đi nào phải muốn quăng là quăng được, dù giận hắn oán hắn, hắn vẫn mãi ở trong tim nàng.
Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hoa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.
A Hành phẫn nộ đập một chưởng vào thân cây, lập tức hoa đào trên cành rào rào rụng xuống như mưa, ngón tay nàng vẫn sờ thấy vô số chữ “Xi Vưu” vạch lên thân cây năm ngoái, nếu hắn thấy những chữ này, lẽ nào chẳng hiểu cho lòng nàng, tiếc rằng ngay cả đến đây, hắn cũng không buồn đến nữa.
Nàng rút trâm ngọc, vạch bên cạnh mấy trăm chữ Xi Vưu kia một câu hoi đầy căm giận, “Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?” Chưa viết hết câu, ngọc trâm đã gãy đôi. A Hành cưỡi lên lưng A Tệ, chẳng nói chẳng rằng, chỉ vỗ vỗ vào người nó, A Tệ hiểu ý nàng, lặng lẽ bay về Cao Tân.
Bấy giờ Xi Vưu đang đứng chơi vơi trên sườn dốc chót vót gần Cửu Lê, tựa hồ chỉ cần một cơn gió là rớt xuống. Hắn không khoác áo ngoài mà chỉ vận áo lót, rõ ràng vừa cởi ra chưa lâu.
Khe núi dưới chân hắn lô chô đá nhọn, um tùm cây cối, lại thêm một dòng suối róc rách men theo sườn núi hai bên, quãng rộng quãng hẹp, nước suối lúc xiết lúc chậm, sau cùng tụ lại thành đầm nước trong leo lẻo. Đang giữa mùa hoa đào nở rộ, đôi bên khe núi đỏ rực những hoa, dưới ánh trăng bát ngát hệt ráng chiều, như gấm lụa, đẹp tựa cõi mơ, gió vừa thổi qua, muôn ngàn cánh hoa đã lả tả đổ xuống sơn cốc, phất phơ như tuyết.
Xi Vưu lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng dưới chân, hồi lâu chẳng hề động đậy.
Đột nhiên hắn như bừng tỉnh giấc mộng, vội ngoảnh đầu trông về phía Cửu Lê, thảng thốt. Nàng đến rồi ư? Nàng đang đợi hắn ư? Nàng ân ái mặn nồng với Thiếu Hạo như thế, sao còn vất vả giữ lời hẹn hoa đào gì nữa chứ?
Phân vân do dự một hồi, Xi Vưu cao giọng gọi: “Tiêu Dao!”
Đại bàng vừa đỗ xuống hắn đã vội vàng nhảy ngay lên, bay vụt về phía Cửu Lê.
Ánh trăng tịch mịch rọi xuống khe núi rực sắc đào, gió đêm lành lạnh, dưới cội đào nào thấy bóng ai, chỉ còn một manh áo đỏ tươi như máu bị quăng dưới đất, cánh hoa rụng phủ dày, hiển nhiên nằm dưới đất đã lâu, xem ra từ lúc Tiêu Dao quăng xuống cũng chẳng ai động tới.
Xi Vưu nhặt áo lên, ngước nhìn tàng hao cười nhạt, mấy lần nhấc tay định ném đi nhưng lại chẳng đành lòng.
Lát sau hắn ngửa mặt cười dài, nhảy lên lưng đại bàng bỏ đi thẳng.
Tháng Tư năm sau, khi sắc đào nhuộm đỏ khắp núi rừng, A Hành và Thiếu Hạo cùng về Hiên Viên dự hôn lễ của Xương Ý.
Trước khi kết hôn, A Hành hầu như chẳng có cảm giác gì với ba chữ Hiên Viên tộc, nhưng từ sau đám cưới, dù đi tới đâu, mọi người nhìn vào nàng, nhận xét đầu tiên là người của Hiên Viên tộc, vì xuất thân Hiên Viên, có những kẻ thuộc Thần tộc coi thường nàng, cũng có những kẻ Yêu tộc kính trọng nàng, bấy giờ nàng mới thực sự hiểu ra ý nghĩa mà một dòng họ đại diện.
Nàng đã rời nhà rồi lại quay về vô số lần, nhưng trước giờ chưa bao giờ mừng rỡ vì được về nhà thế này.
A Hành vừa vào đến lãnh thổ Hiên Viên, nàng đã tươi cười reo lên: “Về tới nhà rồi!”
Thấy nàng tươi tỉnh, A Tệ và Liệt Dương cũng vui lây, A Tệ vừa bay vừa kêu líu ríu rất êm tai, khiến Huyền điểu tọa kỵ của Thiếu Hạo phải hoan hỷ cất tiếng hót theo.
Thiếu Hạo rớt lại sau mấy trượng, âm thầm nhìn theo A Hành đang hào hứng hoa chân múa tay. Từ ngày gả tới Cao Tân, nàng luôn dè dặt thận trọng, từng cử chỉ hành vi lời ăn tiếng nói đều nhất nhất tuân theo nghi lễ Cao Tân, chưa từng được thoải mái tự do như hiện giờ.
A Tệ càng bay càng nhanh, thẳng một mạch đến Hiên Viên sơn, còn sớm hơn bọn họ dự tính nửa ngày.
A Hành định cho cả nhà một bất ngờ, ai dè Thanh Dương tựa hồ cảm giác thấy bọn họ về đến, đã đứng trước điện chờ sẵn. Trái lại, đám cung nữa quét tước trước điện kinh ngạc khôn xiết, vội chạy như bay vào trong bẩm báo: “Vương cơ về rồi! Vương cơ về rồi!”
Thiếu Hạo vừa bước xuống tọa kỵ, đã lên tiếng ghẹo Thanh Dương: “Mấy chục năm không gặp, nom tiểu đệ Thanh Dương vẫn như xưa.”
Thanh Dương thản nhiên cười: “Ở đây là Hiên Viên sơn, ngươi lại là con rể đến chơi, phải đổi cách xưng hô, gọi ta là Đại ca.”
Thiếu Hạo liếc A Hành cười nói: “Đợi chừng nào ngươi thắng được ta rồi tính!”
Thanh Dương đáp ngay: “Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày!” Nói rồi chỉ vào rừng dâu, làm động tác mời.
“Được!” Thiếu Hạo thẳng thắn nhận lời, theo Thanh Dương về rừng dâu.
Chu Du hấp tấp đuổi theo, càu nhàu, “Hai vị công tử đã đánh suốt ngàn năm nay rồi, cứ gì mỗi lần gặp lại lôi nhau ra phân thắng bại chứ!”
Thiếu Hạo ngoảnh lại nhìn Chu Du, “Ngươi cứ chê khúc gỗ này ngu ngốc, nhưng ta thấy khá đấy chứ.”
Thanh Dương thoáng nét cười, “Ngốc lắm, rèn giũa mấy trăm năm vẫn ngốc đến kinh ngạc.”
Chu Du tức điên mà không dám lên tiếng, đành siết chặt tay lầm bầm: “Nô tì nghe thấy đấy, nô tỳ nghe thấy đấy…”
Thanh Dương và Thiếu Hạo vừa cười nói vừa giăng cấm chế. Bàn tay Thanh Dương trắng xóa những tuyết, từng đóa băng mẫu đơn ngưng kết quanh mình, cả rừng dâu bỗng trở nên lạnh buốt. Thiếu Hạo cười cười đứng đó, vạt áo không gió mà bay, nước từ dưới đất phụt lên quanh người, từng đóa hoa nước bắn tung như những bông lan nở rộ.
Chu Du can ngăn không nổi đành quay sang cầu viện A Hành, “Vương cơ nói giùm một câu đi.”
Trông thấy mẹ và Tứ ca, A Hành lè lưỡi với Chu Du tỏ vẻ lực bất tòng tâm rồi chạy vụt về phía Luy Tổ, nhào vào lòng bà, “Mẹ!”
Luy Tổ tươi cười ôm lấy nàng, A Hành tựa vào lòng mẹ, soi Xương Ý từ trên xuống dưới, “Trông Tứ ca ra dáng chú rể ghê, chúc mừng huynh!”
Nhìn Xương Ý đỏ mặt tía tai, A Hành phá lên cười khanh khách, đang định ghẹo thêm thì Luy Tổ đã vỗ vỗ lưng nàng, “Hôm nay là ngày lành của Tứ ca con, đừng bắt nạt nó nữa.”
A Hành nũng nịu, “Mẹ thiên vị quá, Tứ ca đã có Tứ tẩu chiều chuộng rồi mà mẹ vẫn thiên vị huynh ấy!”
Xương ý lườm nàng, “Lẽ nào Thiếu Hạo không chiều muội? Mọi người nghe được bao nhiêu chuyện về hai người rồi đó.”
A Hành gục mặt vào vai mẹ, gương mặt tắt hẳn nụ cười nhưng giọng nói vẫn nhí nhảnh, “Mẹ, Tứ ca bắt nạt con, mẹ giúp con với!”
Đột nhiên, những bông tuyết trắng xóa như lông ngỗng âm thầm trút xuống khiến Xương Ý ngơ ngác ngẩng lên.
A Hành trỏ vào rừng dâu, “Đại ca đang giao đấu với Thiếu Hạo, hy vọng cả hai đừng ai bị thương quá nặng.”
Luy Tổ mỉm cười đưa tay hứng tuyết, đoạn quay sang dặn thị nữ theo sau: “Tuyết rơi đúng lúc lắm, đợi lát nữa các ngươi đi hái ít dâu lạnh đi.”
Chu Du lẩm bẩm than, “Thật không biết là muốn thắng Thiếu Hạo hay muốn mượn lý do chính đáng để làm tuyết rơi nữa.”
Thiếu Hạo cùng Thanh Dương ra khỏi rừng dâu, sắc mặt Thiếu Hạo tái nhợt, khóe môi Thanh Dương ứa máu, hiển nhiên cả hai đều bị thương không nhẹ.
Chu Du cuống quýt móc đơn dược trong người ra đưa cho Thanh Dương nhưng y chỉ xua tay lạnh lùng, “Tục Mệnh đan của ngươi chẳng có tác dụng gì với ta đâu, cứ giữ lại cho mình đi!”
Xương Ý liền trêu: “Xem ra vẫn là Thiếu Hạo ca ca… à, Thiếu Hạo muội phu thắng rồi!” Hiếm lắm mới có khi chòng ghẹo bắt nạt được Thiếu Hạo, Xương Ý chưa nói dứt câu đã cười phá lên.
Thiếu Hạo nghe nói cười cười, chẳng thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, tiến lên mấy bước quỳ xuống trước mặt Luy Tổ hành đại lễ, đổi giọng gọi bà là mẫu hậu.
Luy Tổ nhận ba lạy của y rồi ra hiệu cho Xương Ý đỡ y dậy.
Xương Ý nói với Thiếu Hạo: “Hồi nhỏ lần đầu tiên gọi Thiếu Hạo ca ca, ta đã ước giá mà Thiếu Hạo là ca ca của mình thật, ngờ đâu hôm nay chúng ta lại thành người một nhà thật rồi!”
Thiếu Hạo vẫn tươi cười như thường, nhưng ánh mắt thoáng vẻ hoảng hốt.
Luy Tổ một tay dắt A Hành, một tay dắt Xương Ý bước vào tẩm điện, Thanh Dương và Thiếu Hạo sánh vai đi sau.
A Hành cùng Xương Ý vẫn chứng nào tật nấy, vừa đi vừa nói, vừa nói vừa cười, râm ran cả lên. Xương Ý đấu võ mồm không lại A Hành còn định quay lại kêu Thiếu Hạo đòi phân xử.
Thiếu Hạo chỉ cười không nói gì, nụ cười từ khóe môi lan dần lên ánh mắt. Cung đình Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, y không có mẹ, cũng chẳng có huynh đệ ruột rà, trong trí nhớ, từ nhỏ y đã phải để ý lời ăn tiếng nói từng chút một, luôn luôn đề phòng để khỏi bị người ta hãm hại, xưa nay chưa bao giờ làm con của một người mẹ, cũng chưa bao giờ làm huynh trưởng của các em. Y cứ ngỡ rằng vương tộc chính là như vậy, nhưng lần này y mới cảm nhận được, thì ra anh chị em với nhau có thể thoải mái nói cười, thuận hòa vui vẻ thế này đây.
Đến giữa Ngọ, nghe kẻ hầu vào bẩm đoàn đưa dâu đã tiếp cận Hiên Viên sơn, Xương Ý cuống quýt lên, chân tay như thừa thãi cả, vừa đội mũ mặc áo vừa luôn miệng hỏi Thiếu Hạo, “Hôm đó lúc đón A Hành về, đệ nói những gì?” Chẳng đợi Thiếu Hạo trả lời, y lại nói tiếp: “Hôm đó hai người suôn sẻ hết mọi bề, lỡ hôm nay có sự cố gì, ta phải làm sao đây?”
A Hành và Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nhau, Thiếu Hạo mỉm cười làm thinh còn A Hành cười đáp: “Tứ ca yên tâm đi, nếu huynh không xử lý được thì Tứ tẩu sẽ xử lý!”
Xương Ý lườm A Hành rồi ngẩng lên trời lẩm nhẩm cầu khẩn: “Lạy trời cho mọi bề suôn sẻ, mọi bề suôn sẻ!” Khấn xong vẫn chần chừ bất động, lại quay sang Thanh Dương, “Đại ca, huynh cùng xuống núi với đệ nhé?” Gương mặt y đầy vẻ nài nỉ, tội nghiệp vô cùng, hệt như hồi nhỏ mỗi khi có chuyện gì rắc rối lại đi tìm Đại ca nhờ vả.
Thanh Dương chịu hết nổi bèn đẩy thẳng Xương Ý vào xe mây, sốt ruột mắng, “Đệ đi rước dâu chứ đâu phải đi đánh lộn, ta đi theo làm gì? Mau đi nghênh đón cô dâu đi!”
Xương Ý vẫn bấu chặt tay áo Thanh Dương, căng thẳng nài nỉ: “Đại ca, huynh đợi đã, đệ còn muốn hỏi…”
“Hỏi cái gì mà hỏi? Ta đã lấy vợ đâu mà biết!” Thanh Dương giật tay ra, một chưởng quét qua lưng chim loan kéo xe mây, chim loan liền hót vang bay thẳng xuống núi.
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Xe mây tròng trành nghiêng ngả rồi biến mất giữa biển mây, tiếng gọi của Xương Ý vẫn văng vẳng lại: “Đại ca, Đại ca…” Thanh Dương bực bội cau mày.
A Hành cười lăn cười bò với Thiếu Hạo: “Trong mắt Tứ ca, Đại ca cái gì cũng biết, cái gì cũng giỏi, việc gì cũng phải tìm Đại ca.”
Thiếu Hạo cười cười không đáp. Trên danh nghĩa, y có hơn hai mươi người em trai, nhưng chẳng đứa nào coi y là Đại ca cả, y chỉ là hòn đá ngáng đường chúng bước lên vương vị mà thôi. Nhìn Thanh Dương bực bội như vậy, nhưng kỳ thực trong lòng hắn rất sung sướng. Cả hai đều hiểu, ở vị trí của mình không thể tin tưởng bất kỳ ai, cũng chẳng có ai dám tin tưởng hai người bọn họ, có được một người toàn tâm toàn ý tin cậy là chuyện chỉ có thể gặp chứ chẳng thể cầu.
Đợi đoàn xe rước dâu của Xương Ý đi xa, Thanh Dương, Thiếu Hạo và A Hành mới thong thả xuống núi.
Thấy hai bên đường là hai hàng cây cao vút, thân đỏ sẫm, lá xanh biếc, A Hành tò mò hỏi: “Cây gì thế này?”
Chu Du đắc ý cười khoe: “Trừ giống phù tang ở Thang cốc[2], trên đại hoang còn ba loại thần mộc khác là nhược mộc, tầm mộc và kiến mộc. Đây chính là nhược mộc nổi tiếng khắp nơi. Nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không thể ra hoa, nhưng nô tỳ đã khiến bọn chúng nở hoa vào hôm nay đó.”
[2] Thang cốc hay còn gọi là Dương cốc, theo truyền thuyết là nơi mặt trời mọc. Theo Sơn Hải kinh, ở Thang cốc có loài cây phù tang, là như lá dâu, còn gọi là phù mộc. (ND)
Dọc hai bên đường bọn họ đi qua, nhược mộc nở hoa rực rỡ từ chân núi lên tận đỉnh, từng đóa từng đóa hoa to bằng miệng chén đỏ chói, nhuộm thắm cả đất trời.
A Hành ngây ra trước sắc đỏ rạng rỡ ấy, dưới biển hoa đở thắm kia, nàng nhìn thấy nổi lên một bóng áo đỏ rực còn chói mắt hơn.
Đặt cạnh vóc dáng cao lớn, khoác tấm áo đỏ rực như máu của Xi Vưu, những cây nhược mộc chót vót đều nhạt nhòa hẳn đi. Hắn chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng xa cách nhưng cặp mắt lại rực lên nóng bỏng, bao ánh nhìn là bấy nhiêu khổ đau và khát vọng. A Hành cũng ngơ ngẩn nhìn hắn, nghe đau đớn quặn lên trong lòng.
Xe mây đỗ lại, Thanh Dương và Thiếu Hạo bước tới trước mặt Xi Vưu nói lời cảm tạ bọn họ không quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ. A Hành sững sờ nhận ra đây chẳng phải là ảo ảnh, Xi Vưu quả thật đang đứng dưới gốc nhược mộc.
Chẳng ngờ lần này lại gặp Xi Vưu ở đây, A Hành hoảng hốt, không dám nhìn về phía hắn, cũng chẳng dám tiến lại, đành vờ chăm chú ngắm nhược mộc hoa.
Thấy Thanh Dương gọi nàng qua bên đó, A Hành biết mình trốn không nổi, đành cố định thần, tươi cười bước tới trước mặt bọn họ.
Có đông đủ mọi người, Vân Tang không muốn vồn vã với A Hành nên chỉ trao đổi xã giao mấy câu, giữ đúng lễ tiết vương tộc gặp nhau. A Hành cũng biết Vân Tang nhiều mối lo âu, giờ đây nàng mới dần dà hiểu được giữa vương tộc với nhau có bao nhiêu phức tạp. Chẳng phải Đại ca nàng và Thiếu Hạo trước mặt mọi người vẫn khách sáo xã giao với nhau đó thôi, nghĩ vậy, nàng cũng bày ra một nụ cười giả tạo che mắt quan khách.
Nào ngờ gã Hậu Thổ lạ hoắc vừa gặp A Hành đã tỏ vẻ thân thiết vô cùng, khác hẳn thái độ nhã nhặn kín đáo thường ngày, còn kéo cả Mộc Cận tới hành lễ với A Hành, luôn miệng gọi “vương tử phi”, trái lại, Xi Vưu chỉ hờ hững vái một cái: “Vương cơ dạo này ổn chứ?”
Mộc Cận ngỡ Xi Vưu không hiểu lễ nghi nên lỡ lời, bèn nhắc khẽ: “Nữ tử đã thành hôn sẽ xưng hô theo vai vế bên chồng, phải gọi là vương tử phi.”
Thanh Dương và Thiếu Hạo hình như đều không nghe thấy gì, A Hành rung động, lo âu cùng vui mừng dâng ngập cả lòng, nỗi oán hận đã vơi đi quá nửa, liền đáp: “Mọi chuyện ổn cả.”
Xi Vưu cười hỏi tiếp: “Chẳng biết những lúc vương cơ ân ái mặn nồng cùng Thiếu Hạo, có khi nào chạnh lòng nhớ tới người xưa chăng?”
Mọi người nghe nói đều tái mặt, may sao đúng lúc đó đoàn đưa dâu Nhược Thủy đến nơi, hỷ nhạc rộ lên rộn rã, át cả câu hỏi của Xi Vưu.
Hai ả thị nữ vén rèm xe, nữ tử áo đỏ rực ngồi ngay ngắn bên trong, dung mạo thanh tú, mày mắt đoan trang, áo cưới nàng vận cũng chiết eo hẹp tay hệt như phục trang cưỡi ngựa bắn cung, càng làm nổi bật vẻ hiên ngang hào sảng.
Hỷ nương đặt một đầu dải lụa hồng vào tay tân nương, đầu kia do Xương Ý cầm, ra hiệu cho tân nương đi theo Xương Ý. Chỉ cần xuống khỏi xe đưa dâu theo Xương Ý lên xe loan, nàng đã trở thành con dâu của Hiên Viên.
Nào ngờ tân nương nắm lấy dải lụa nhưng chẳng hề bước xuống, trái lại còn đứng lên càng xe, ngạo nghễ đưa mắt nhìn chúng nhân bên dưới. Bị khí thế của nàng chấn nhiếp, tiếng nói cười xôn xao chợt ngưng bặt.
Xương Ý đang căng thẳng lo lắng nên vẫn chưa phát hiện ra, chỉ nắm chặt lấy dải lụa hồng cắm cúi đi, đột nhiên dải lụa căng ra khiến y suýt chút ngã lăn quay, bèn quay phắt lại, trông thấy tân nương đang ngạo nghễ đứng trên xe, toàn thân hỷ phục rực rỡ lóa mắt.
Trọc Sơn Xương Phó giơ tay làm hiệu, lập tức đoàn đưa dâu phía sau ngưng tấu nhạc, cả đám người dũng mãnh như hổ báo đều ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng thẳng tắp nghiêm trang.
Đoàn rước dâu của Hiên Viên thấy đối phương như vậy cũng từ từ ngưng tấu nhạc, một trời rộn rã tiếng kèn sáo chợt trở nên tĩnh lặng trang nghiêm lạ thường.
Trọc Sơn Xương Phó cao giọng: “Hôm nay, Trọc Sơn Xương Phó của Nhược Thủy tộc ta được gả cho Hiên Viên Xương Ý của Hiên Viên tộc, cảm ơn các vị chẳng quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ, xin các vị làm chứng cho chúng ta.”
Khách khứa khắp nơi đều dồn mắt về phía Trọc Sơn Xương Phó, không đoán ra nàng định làm gì.
Xương Phó nhìn thẳng vào mắt Xương Ý, “Nữ nhi Nhược Thủy tộc bọn thiếp suốt đời chung thủy với một chồng, đời này kiếp này thiếp nguyện theo chàng đến răng long đầu bạc, chàng có bằng lòng cả đời chỉ có mình thiếp là vợ không?”
Thế này là muốn Xương Ý thề không nạp phi trước bàn dân thiên hạ, Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, định bước ra lên tiếng nhưng A Hành đã níu lấy tay y, ánh mắt lộ vẻ khẩn cầu: “Đại ca!”
Thanh Dương giật mạnh tay A Hành ra, bước tới trước mặt Xương Phó định lên tiếng, nào ngờ Xương Ý đã định thần lại, chẳng chút do dự đáp ngay: “Ta bằng lòng!”
Tiếng xôn xao rộ lên khắp nơi, Thanh Dương giận tím mặt, trừng mắt nhìn Xương Ý, ánh mắt vô cùng phức tạp.
Xương Phó lại hỏi tiếp: “Tương lai thiếp trở thành tộc trưởng Nhược Thủy, người trong tộc sẽ liều mình chiến đấu đến người cuối cùng vì thiếp, thiếp cũng phải bảo vệ bọn họ đến hơi thở cuối cùng, nếu lấy thiếp, chàng phải cùng thiếp bảo vệ cho nhược mộc của Nhược Thủy năm năm đều nở hoa, chàng có bằng lòng không?”
Xương Ý mỉm cười bình thản đáp: “Ta chỉ biết rằng từ nay về sau ta là phu quân của nàng, ta sẽ dùng tính mạng mình để bảo vệ cho nàng.”
Xương Phó nhoẻn miệng cười tươi tắn, hạnh phúc càng khiến nhan sắc của nàng thêm rạng rỡ, còn đẹp hơn cả những đóa nhược mộc hoa đỏ thắm rợp trời kia. Nàng nắm chặt dải lụa hồng bước xuống xe, chạy vụt tới trước mặt Xương Ý, tươi cười tuyên bố với tộc nhân: “Từ nay về sau, Xương Phó sẽ chung họa phúc, cùng sống chết với Xương Ý.”
Sau lưng nàng, tất cả phụ nữ Nhược Thủy đều rộ lên hoan hô vang trời dậy đất. Còn Hiên Viên tộc bên này thì ngượng ngùng im lặng, mọi người đều nhìn về phía Thanh Dương, chẳng biết nên phản ứng ra sao.
Thấy A Hành tươi cười cất tiếng hoan hô, Chu Du liếc trộm Thanh Dương đang tái mặt vì giận rồi cũng ra sức vỗ tay, vừa vỗ tay vừa hoan hô theo A Hành, Hiên Viên tộc thấy vương cơ như vậy mới rộ lên hoan hô cười nói, chẳng chút e dè.
Nam nhi Nhược Thủy thổi kèn, nữ nhi rung chuông Nhược Mộc Hoa, vừa ca hát vừa nhảy múa, lại khiêng ra từng vò lớn rượu ngon, rót cho mỗi vị khách một bát thật lớn. Mọi người cũng vui lây cùng những nàng con gái Nhược Thủy chân thành thẳng thắn, tất cả nghi lễ ban đầu loạn hết lên, đành hùa theo bọn họ nâng chén chúc mừng.
Xương Ý dắt Xương Phó lại trước mặt Thanh Dương và A Hành, giới thiệu: “Đây là Đại ca ta, đây là tiểu muội của ta, còn đây là muội phu Thiếu Hạo.”
Vừa nãy trước bao nhiêu khách khứa đại hoang, Xương Phó hào sảng hiên ngang, dõng dạc thẳng thắn nhường ấy, vậy mà lúc này lại đỏ mặt thẹn thùng, hồi hộp hành lễ chào hỏi Thanh Dương, như sợ Thanh Dương ghét bỏ mình.
Thật lòng A Hành rất thích vị Tứ tẩu này, vội rút ngay lễ vật đã chuẩn bị sẵn, hai tay đưa cho Xương Phó, “Tẩu tẩu, thanh chủy thủ này là muội và Thiếu Hạo rèn cho tẩu đấy.” A Hành vẽ kiểu, Thiếu Hạo dùng sắt Hàn sơn, nước Thang cốc, lửa mặt trời, rèn suốt một năm mới xong.
“Là binh khí do Cao Tân Thiếu Hạo rèn ư?” Đây quả là món quà mà mọi kẻ học võ đều khao khát, Xương Phó không nén nổi kinh ngạc, liền nhận lấy xem thật kỹ. Chuôi và vỏ đều bằng gỗ phù tang, bên trên khắc hoa văn nhược mộc hoa, Xương Phó từ từ rút chủy thủ ra, thấy lưỡi dao lấp loáng như nước, soi gương được. Nàng thích thú không rời tay, vội cảm ơn A Hành và Thiếu Hạo.
Để đáp lễ, nàng tháo chiếc vòng bằng nhược mộc trên tay xuống, đeo vào tay A Hành, “Chiếc vòng này chỉ làm bằng gỗ thường, nhưng có khắc lời thề của nhi nữ Nhược Thủy chúng ta trên đó, bất kể lúc nào muội có gặp khó khăn, nhi nữ Nhược Thủy chúng ta sẽ đeo cung tên che chắn cho muội.”
A Hành ung dung hành lễ, “Đa tạ tẩu tẩu.”
Xương Ý đăm đăm nhìn thê tử, ánh mắt ngập tràn niềm vui cùng hạnh phúc khiến Xương Phó đỏ mặt cúi đầu, chẳng dám ngẩng lên.
Thấy tình cảnh đó, Thanh Dương chỉ biết than thầm, bất lực bảo Xương Ý: “Nghi lễ loạn hết lên rồi, thôi hai người lên núi luôn đi, phụ vương và mẫu hậu đang ở Triêu Vân điện chờ bọn đệ tới dập đầu hành lễ đó.”
Chu Du vội gọi xe ngọc lại.
A Hành tiễn hai người lên xe rồi ngơ ngẩn trông theo, cỗ xe đã khuất sau làn mây mà vẫn chưa định thần lại được.
Bên tai chợt vang lên tiếng Xi Vưu, “Cô rõ những ân ân ái ái như của bọn họ lắm nhỉ? Duyên mới đã là châu là ngọc, tình xưa chỉ là mắt cá, còn đoái hoài tới làm gì, sai A Tệ đến đưa áo làm chi?”
A Hành giật thót người, vội lách mình né ra mấy bước mới kịp trấn tĩnh quay lại đáp: “Ta cùng Thiếu Hạo tình đầu ý hợp, đầm ấm hạnh phúc, chẳng hiểu Đại tướng quân đang nói gì nữa.”
Căm hận và bất lực ngập đầy trong mắt Xi Vưu, hắn đau đớn thốt, “Cô không hiểu ta coi cô là gì thật ư? Cô đúng là đồ ong bướm lả lơi, nhu nhược hèn nhát, ích kỷ tàn nhẫn, vậy mà ta vẫn không sao quên nổi.”
Thấy Thanh Dương và Thiếu Hạo đều đang nhìn mình, A Hành sầm mặt, “Có lẽ trước đây ta đã làm gì đó khiến Đại tướng quân hiểu lầm, nhưng giờ ta đã là vương tử phi của Cao Tân, xin ngài hãy tự trọng.” Dứt lời, nàng đi thẳng về phía Thiếu Hạo, đứng bên cạnh y, bấy giờ Thanh Dương mới dời mắt đi nơi khác.
Xi Vưu phá lên cười ha hả, vừa cười vừa bưng bát rượu lên tu ừng ực uống cạn.
A Hành nghe lòng lạnh buốt, đành ráng giữ nụ cười trên môi, đờ đẫn nhìn thẳng phía trước.
Thiếu nữ Nhược Thủy bưng vò rượu tới chúc mừng, Thiếu Hạo liền đưa A Hành một bát, “Nhược tửu của Nhược Thủy rất có phong vị riêng, nàng nếm thử xem.”
A Hành mỉm cười bưng lên uống, chỉ thấy đắng chát trong miệng, “Ừm, ngon lắm.”
Hậu Thổ bưng hai bát rượu tiến lại, A Hành ngỡ gã định kính rượu trò chuyện với Thiếu Hạo nên khéo léo tránh đi, nào ngờ gã bước tới đưa một bát cho nàng, chăm chú nhìn nàng cười cười không nói, A Hành đành ngượng nghịu cười đáp lễ, “Đa tạ Tướng quân” rồi ngửa cổ dốc cạn bát rượu.
Ánh mắt Hậu Thổ không giấu nổi thất vọng, “Vương tử phi không nhận ra tôi ư?”
A Hành sững người, mấy năm nay, Hậu Thổ nổi danh ngang với Xi Vưu, đều là anh tài mới nổi xuất sắc nhất Thần Nông tộc gần đây, đương nhiên nàng đã nghe tiếng từ lâu nhưng mới chỉ gặp mặt một lần duy nhất lúc cùng Xi Vưu lên Thần Nông sơn tìm Viêm Đế xin thuốc giải, đúng lúc gã phụng mệnh trấn giữ Thần Nông sơn. Lần đó nàng lại dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo nên nói đúng ra A Hành đã gặp Hậu Thổ nhưng Hậu Thổ chưa từng gặp A Hành. Có điều, vẻ thất vọng hằn rõ trong mắt gã khiến A Hành hơi cảm động, toan hỏi rõ tại sao thì Xích điểu đã đậu xuống vai Hậu Thổ, thả tấm thẻ ngọc nho nhỏ vào tay gã, Hậu Thổ liền nghiêm mặt, nhìn A Hành định nói gì đó nhưng lại thôi, sau cùng chỉ hành lễ rồi vội vã đi khỏi.
Lòng A Hành trăm mối ngổn ngang, lại chẳng bụng dạ nào mà nghĩ ngợi nhiều, bèn tìm một góc yên tĩnh, ừng ực nốc Nhược tửu như uống nước.
Vân Tang lặng lẽ tới gần nhưng thấy Chu Du đứng hầu bên A Hành, nàng chỉ cười nói mấy lời khách sáo rồi quay mình định đi, nào ngờ A Hành bỗng níu lại, “Không sao đâu, Chu Du là thị nữ của Đại ca muội, có thể tin được.” Đoạn quay sang nửa năn nỉ, nửa ra lệnh cho Chu Du: “Tỷ tỷ tốt bụng ơi, muội muốn nói riêng với Vân Tang mấy câu, tỷ canh chừng giùm bọn muội với.”
Trước khi đi, Thanh Dương chỉ dặn Chu Du chông trừng A Hành, không được để A Hành cùng Xi Vưu gặp riêng nhau chứ không dặn không cho A Hành cùng Vân Tang nói chuyện riêng, nên Chu Du mau mắn nhận lời, bước sang một bên canh chừng.
Vân Tang ngồi xuống cạnh A Hành, chăm chú nhìn nàng, “Nghe nói muội cùng Thiếu Hạo ân ái mặn nồng, keo sơn khăng khít?”
A Hành gượng cười, ngửa cổ ừng ực dốc cạn bát rượu.
Vân Tang hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết thở dài, “Xương Phó thật đáng ngưỡng mộ! Có thể tự do thoải mái, muốn yêu thì yêu, không chịu chung chồng cùng kẻ khác liền buộc Tứ ca muội lập lời thề trước mặt mọi người. Tứ ca muội cũng rất chân thành, biết rõ phụ vương muội sẽ nổi giận, vậy mà vẫn lập lời thề không chút do dự.”
A Hành liếc nàng, “Tỷ cần gì phải ngưỡng mộ người khác? Viêm Đế Du Võng là em trai tỷ, đâu thể ép buộc được tỷ, nếu tỷ chịu hạ giá[3] thì Nặc Nại cũng chẳng ngần ngại lập lời thề, suốt đời suốt kiếp ở bên tỷ.”
[3] Hạ giá: chỉ việc công chúa (trong tác phẩm này là “vương cơ”) kết hôn với người có địa vị thấp hơn mình, ví như tướng quân, quan lại…
“Nha đầu chết tiệt, ăn nói càng lúc càng không ra thể thống gì cả.” Vân Tang đỏ bừng mặt, trong vẻ ngượng ngùng lại toát lên bao ngọt ngào êm dịu không lời.
Trông bộ dạng Vân Tang, A Hành bật cười, xem ra lần trước Nặc Nại lên Thần Nông sơn cũng chẳng uổng công, mọi hiềm khích giữa đôi bên đã hóa giải cả rồi, “Chừng nào đến tỷ và Nặc Nại?”
“Chừng nào cái gì?” Vân Tang giả vờ không hiểu.
“Chừng nào thành hôn đó! Tỷ là Trưởng vương cơ của Thần Nông, hạ giá lấy Nặc Nại cũng có phần thiệt thòi, có điều đèn nhà ai nhà nấy rạng, cần gì quan tâm kẻ khác nói gì, chỉ cần Nặc Nại kiên trì nhẫn nại, nhất định Thiếu Hạo sẽ giúp y.”
Vân Tang gật đầu, “Nặc Nại chẳng nhẫn nại thận trọng được thế đâu, y chưa từng coi ta là vương cơ, chỉ cần ta đồng ý, y sẽ chính thức lên đỉnh Tử Kim cầu hôn.”
“Vậy tại sao…”
“Du Võng là đệ đệ ngoan của ta, chuyện gì nó cũng nghĩ cho ta, lẽ nào ta có thể ích kỷ không nghĩ cho nó ư? Tính tình Du Võng muội biết rồi đấy, ngai vị này nó ngồi chật vật vô cùng, bọn Chúc Dung lúc nào cũng chòng chọc nhìn vào nó, hiện giờ Xi Vưu chưa đủ lông đủ cánh, chỉ có ta mới miễn cưỡng trấn áp được chúng đôi phần, nếu bây giờ ta thành hôn, lại gả cho một tướng quân ngoại tộc thì sẽ rất bất lợi cho Du Võng, nên ta đành nói Nặc Nại đợi ta hai trăm năm. Hai trăm năm nữa, Xi Vưu đủ khả năng nắm giữ quân đội Thần Nông, có hắn phụ tá Du Võng, ta mới có thể yên tâm xuất giá.” Vân Tang cười, đoạn thở phào nhẹ nhõm, “Lúc đó ta cũng có thể thật sự từ bỏ thân phận Trưởng vương cơ, làm một người phụ nữ bình thường, kiến thức nông cạn, bụng dạ hẹp hòi, chỉ lo toan về gạo dầu mắm muối, ngày ngày nấu canh bồi bổ cho chồng.”
A Hành vui vẻ nói, “Chúc mừng tỷ tỷ! Bao năm nay tỷ đã phải nghĩ cho cha, cho muội muội đệ đệ, cũng đến lúc nên nghĩ cho chính mình rồi.”
Vâng Tang cười hỏi lại: “Thế còn muội? Từ nhỏ muội đã ngang ngược quật cường, ta chẳng tin muội chịu nghe phụ vương muội sắp xếp đâu.”
“Muội tự có tính toán của mình.” A Hành rót hai bát rượu, đưa một bát cho Vân Tang, “Tỷ thấy hôm nay Tứ ca muội hạnh phúc nhường nào rồi đấy, thuở nhỏ, bất kể chuyện gì Tứ ca cũng nhường nhịn muội, bảo vệ cho muội, bây giờ muội cũng nên nhường Tứ ca, bảo vệ Tứ ca để Tứ ca có thể yên ổn ở bên người Tứ ca thật lòng yêu thương. Chỉ cần mẹ và Tứ ca được bình yên, dù có thiệt thòi đến mấy muội cũng vẫn vui vẻ.”
Vân Tang lắc đầu cảm thán, “A Hành, muội lớn thật rồi!” Nhưng tự đáy lòng, Vân Tang lại mong mỏi A Hành có thể mãi mãi như khi trước xiết bao.
“Cạn!” A Hành chạm bát với Vân Tang, Vân Tang vốn không thích uống rượu nhưng hôm nay bất luận ra sao, nàng cũng phải uống cùng A Hành.
Hai người cứ thế chuốc hết bát này sang bát khác, chẳng bao lâu Vân Tang đã say lăn ra không biết trời trăng gì, để lại một mình A Hành tự rót tự uống, mãi đến lúc mê man mất hết ý thức.
Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ. Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”
Nóng lui lạnh tới, vắng thỏ bặt chim, chớp mắt đã cuối thu.
Như thường lệ, sau khi cùng dùng bữa tối, A Hành và Thiếu Hạo ở chung một phòng, ai làm việc nấy.
A Hành đang đọc sách y, chợt ngẩng lên thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, bèn gập sách lại hỏi, “Sao thế? Chàng muốn đi nghỉ rồi à?”
Thiếu Hạo đáp: “Du Võng đang tập kết đại quân, e rằng sắp tới sẽ tấn công Hiên Viên. Theo thám tử Cao Tân báo về thì Du Võng muốn đòi lại vùng đất khi xưa bị Hiên Viên lừa gạt chiếm mất. Nàng thấy sao?”
“Sao lại muốn nghe ý kiến của thiếp? Thiếp đâu có dẫn quân tác chiến!”
“Trên bàn cờ gió mây vần vũ, hai người chúng ta chỉ là những con cờ bị lợi dụng mà thôi, nếu không cam lòng làm con cờ thì phải cố gắng vươn lên, hơn nữa, để được ta xem trọng, nàng buộc phải có năng lực khiến ta nể vì.”
A Hành lập tức ngồi thẳng dậy, ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi: “Sao Du Võng vội vã động binh với Hiên Viên thế? Y vừa đăng cơ được mấy tháng, vương vị còn ngồi chưa vững kia mà.”
Thiếu Hạo đáp: “Chính vì ngồi chưa vững nên y mới buộc phải động binh.”
A Hành ngạc nhiên, liền khiêm nhường thỉnh giáo: “Xin rửa tai lắng nghe.”
“Hiên Viên tộc sau khi lập quốc đất đai cằn cỗi nên vẫn luôn khuếch trương về phía Đông, xâm lấn không ít lãnh địa của Thần Nông, Vương tộc Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, Hiên Viên chẳng xâm phạm được đến lợi ích của họ nhưng các nước chư hầu của Thần Nông phải gánh thiệt hại nặng nề, đem lòng căm hận Hiên Viên đã lâu. Chẳng qua khi xưa họ e ngại Viêm Đế đời trước đức cao vọng trọng, không dám gây chiến, còn bây giờ họ có sợ gì Du Võng, ắt hẳn đã liên kết với nhau xin phát binh, lại được mấy đại tướng nắm giữ binh quyền như Chúc Dung, Cộng Công đứng bên thêm dầu vào lửa, tát nước theo mưa nữa. Nếu thua trận, bọn Chúc Dung sẽ tha hồ đổ tại Du Võng dốt nát vô dụng còn nếu thắng, chúng vừa được lòng quân sĩ, lại được cả sự hỗ trợ từ các chư hầu. Lúc này Du Võng chưa ngồi vững trên vương vị, lại thêm bản tính thiếu quyết đoán, dưới sự ép buộc của quần thần, đành chịu để họ thao túng thôi.”
A Hành thở dài, “ Mọi người đều cho rằng đế vương muốn gì làm nấy, mấy ai biết được đế vương cũng luôn luôn bị kìm hãm, nhưng mà…”
“Nhưng mà làm sao?”
Để thăm dò tin tức về Xi Vưu, A Hành đành nghiến răng làm bộ bình thản nói: “Nhưng bên cạnh Du Võng còn có Xi Vưu hỗ trợ, bằng vào tính tình Xi Vưu, hắn chẳng chịu để kẻ khác thao túng cắt đặt đâu.”
Thiếu Hạo thản nhiên đáp, giọng điệu vẫn điềm đạm như cũ: “Nàng nói phải, có điều bây giờ không đến lượt hắn làm chủ.”
Nghĩ đến Xi Vưu hiện giờ chỉ có một chức quan hữu danh vô thực, chẳng thể khống chế cục diện triều đình, A Hành không khỏi than thầm.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Du Võng hiện giờ chỉ giống được Viêm Đế đời trước ở lòng nhân đức, chứ mưu trí và quyết đoán thì thua xa, hầu như cả đại hoang đều cho rằng Viêm Đế phong Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân là để bổ sung cho khiếm khuyết của Du Võng, nhưng ta lại thấy Viêm Đế còn có dụng ý sâu xa hơn kia.”
“Dụng ý sâu xa hơn ư?”
“Mấy vạn năm trước, thực lực Cao Tân vốn vượt xa Thần Nông, Viêm Đế đời thứ ba của Thần Nông là người nhìn ra trông rộng, lại vô cùng quyết đoán, đã bỏ lệ phong đất cho những người trong họ tộc, mà thi hành luật mới, bất kể có phải người trong vương thất hay không, cũng chẳng cần câu nệ là thần hay người, miễn lập công cho Thần Nông thì sẽ được phong vương, được toàn quyền thu thuế trên đất phong của mình. Nhờ cải cách đó mà lớp lớp anh hùng xuất hiện ở Thần Nông, vận nước càng lúc càng hưng thịnh, dần dần áp đảo cả Cao Tân. Nhưng về lâu về dài, chế độ phong vương cho người khác họ dần dà để lộ nhược điểm, các nước chư hầu cha truyền con nối rồi kết mối thông gia với nhau, thế lực cũng đan cài vào nhau, khó tránh chỉ tin dùng người thân của mình, con em các nhà quý tộc rất dễ trở thành tướng quân hay quan lớn, còn những kẻ xuất thân bần hàn thì khó mà cất mặt lên được. Kẻ tài hoa tuyệt thế thường ẩn giữa đám tiện dân, nhưng vì thể chế hủ hậu nên chẳng những không có cơ hội thi thố tài năng mà còn bị đám con cháu quý tộc làm nhục, trong lòng họ hẳn đã dồn nén rất nhiều uất ức, một khi bị kích động sẽ trở nên vô cùng đáng sợ.”
Nghe tới đây A Hành dần hiểu ý Thiếu Hạo, bèn tiếp lời: “Xi Vưu xuất thân tiện dân, không có huyết thống quý tộc nhưng hắn chính là niềm hy vọng lập công dựng nghiệp, thi thố tài năng của những người tài xuất thân hèn kém, họ sẽ tự động tụ họp lại dưới cờ của hắn, để cho hắn dẫn dắt. Nhờ luồng sinh khí mới này, Thần Nông quốc mới có thể tìm lại được phong quang thuở trước, đây là dụng ý thật sự của Viêm Đế!”
Thiếu Hạo gật đầu cười, chẳng hiểu là tán thưởng A Hành nhìn thấu sự việc hay khâm phục tầm nhìn của Viêm Đế, “Xi Vưu tính tình ngông cuồng phóng túng, xem thường quy tắc thế tục nhưng lại rất trọng tình trọng nghĩa, anh dũng mưu trí, chính là bậc minh chủ của những con người nghèo khổ ấy, sớm muộn sẽ có ngày bọn họ liều mạng vì hắn. Chừng đó hắn mới có thể trở thành Đốc Quốc Đại tướng quân thật sự, vung kiếm chỉ huy thiên quân vạn mã.”
A Hành nghe đến chấn động cả tâm thần, vừa mừng vừa lo nói: “Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng đông đảo, nếu lại thêm một minh quân biết khai thác triệt để sản vật cũng như tận dụng mọi khả năng của người tài thì chẳng kẻ địch nào dám động vào nữa cả.”
Thiếu Hạo nghiêm mặt, “Dân số Thần Nông gấp đôi Cao Tân, lại sẵn địa hình hiểm trở, đâu đâu cũng là cửa ải dễ thủ khó công, trong khi Cao Tân toàn đồng bằng bát ngát, chỉ có sông nước là bức bình phong thiên nhiên bao quanh che chở, một khi Thần Nông tộc vượt sông thì ngày vong quốc của Cao Tân đã điểm.”
Tâm trạng A Hành cũng trở nên nặng nề. Hiên Viên tuy địa hình phức tạp, khí hậu đa dạng, cũng có nhiều quan ải để chống giặc, nhưng tiếc rằng đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn, dù bao năm nay phụ vương nàng dốc sức bù trì, sửa đê khai khẩn nhưng vẫn chẳng bì được với mảnh đất Trung nguyên một năm hai vụ mùa.
Thiếu Hạo khẽ thở dài, “Thật ra những khuyết điểm đó đều khắc phục được cả, điểm yếu chí mạng của Cao Tân chính là thể chế cứng nhắc đến bất di bất dịch ngàn vạn năm nay, chỉ coi trọng dòng dõi và huyết thống, nghiêm cấm kết hôn giữa những người không cùng giai cấp, triều chính thì bị con em vương tộc cùng bốn bộ Thanh Long, Thường Hy, Hy Hòa, Bạch Hổ lũng đoạn, khiến bao kẻ có tài trong Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc phải ôm hận bỏ đi. Tri Mạt, đệ nhất công thần của phụ vương nàng vốn thuộc Yêu tộc Cao Tân, vì xuất thân thấp kém nên bị người Cao Tân phỉ nhổ, ấy vậy mà y lại có thể theo phò tá phụ vương nàng dựng nên hùng đồ bá nghiệp tại Hiên Viên, được tôn xưng làm Đế sư.”
Nghĩ tới vận mệnh tương lai của hai đất nước, A Hành và Thiếu Hạo đều nghe lòng ngổn ngang trăm mối.
A Hành chợt hỏi: “Nếu bây giờ Thần Nông tuyên chiến với Hiên Viên, liệu Cao Tân có tham chiến không?”
Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không đâu! Ta rất muốn biết lực lượng tích lũy suốt mấy ngàn năm nay của Hiên Viên ra sao, giờ đã có Thần Nông xung phong do thám hộ, Cao Tân đương nhiên sẽ khoanh tay đứng nhìn. Dù Hoàng Đế tới thuyết phục phụ vương tham chiến, ta cũng nhất định khuyên can!”
A Hành gượng cười: “Chàng có cần thẳng thắn đến thế không?”
“Khi nào cần dối gạt, ta sẵn sàng nói dối không chớp mắt, nhưng chuyện này không cần phải thế, dù sao nàng cũng nhận ra ngay ấy mà!”
A Hành chợt hiểu vì sao Đại ca và Thiếu Hạo có thể thành bạn thân, hai người bọn họ đều có thái độ thẳng thắn đến gần như tàn khốc. Nàng liếc đồng hồ nước rồi đứng dậy gom sách vở lại, “Chúng ta đi nghỉ thôi!”
Thiếu Hạo cùng A Hành nằm song song trên giường, cách nhau ít nhất hai thước.
A Hành bỗng lên tiếng: “Sáng mai thiếp định tới gặp phụ vương và mẫu hậu, xin hai người cho phép xuất cung. Chàng nói giúp thiếp mấy lời được chăng?”
“E rằng khó đấy. Cao Tân là Thần tộc từ thượng cổ, được xưng là dân tộc có lễ giáo, phong tục cổ hủ, phép tắc nghiêm ngặt, đừng nói là vương tử phi, ngay đến vương hậu cũng không thể tùy tiện ra ngoài.”
“Phụ vương cho thiếp mang theo ba ngàn tằm giống, nghe nói vì không hợp thủy thổ nên đã chết mất một nửa. Thiếp định nói rõ với phụ vương xin xuất cung khảo sát thủy thổ dân tình các nơi, chọn ra giống tằm Cao Tân phù hợp.”
Thiếu Hạo nghĩ ngợi một hồi đoạn nói: “Phụ vương tính tình nho nhã, chỉ thích thư họa ca múa, lại rất dịu dàng chiều chuộng phụ nữ nên chủ yếu khó khăn về phía vương hậu thôi, phụ vương đâu có để tâm chuyện hậu cung. Có điều vải vóc của Cao Tân đều trông cả vào đó, nếu sản lượng thấp sẽ khiến chất lượng vải kém đi, mặc lên người không thoải mái. Nguyên liệu dệt nên tơ lụa cho vương thất quý tộc Cao Tân mấy ngàn năm nay đều phải mua từ Hiên Viên, đây là khoản chi phí rất lớn, chúng ta cứ vin vào đó mà thỉnh cầu, hẳn phụ vương sẽ ủng hộ nàng, vương hậu cũng chẳng thể không nhượng bộ.’
“Cảm ơn chàng!”
Trong bóng tối, cả hai người đều làm thinh, qua một hồi lâu, Thiếu Hạo mới nói khẽ: “Cảm ơn nàng chịu dạy dân chúng Cao Tân chăn tằm dệt vải!”
“Chàng đừng quên chúng ta là đồng minh, hiện giờ thiếp đang là Đại vương tử phi của Cao Tân, đây cũng là việc nên làm thôi mà.”
A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.
Nhờ Thiếu Hạo giúp đỡ, A Hành đã được Tuấn Đế cho phép ra vào Ngũ Thần sơn, tuy nhiên phải có thị nữ và thị vệ đi cùng. Dù hiện tại chẳng được tự do như lúc ở Hiên Viên, nhưng nàng cũng hài lòng với kết qủa này lắm rồi.
Ngày tháng thấm thoắt trôi đi sau vẻ ngoài yên ả.
Cuối năm đó, Viêm Đế Du Võng phái sứ giả tới yết kiến Hoàng Đế, đòi Hoàng Đế trả lại phần đất đã xâm lấn của Thần Nông, bị Hoàng Đế cự tuyệt yêu cầu.
Trước trăm quan Thần Nông trên đỉnh Tử Kim, Viêm Đế tuyên bố chính thức khai chiến với Hiên Viên, giành lại lãnh thổ đã bị Hiên Viên lừa gạt chiếm giữ.
Cả triều đường sục sôi hào khí, các chiến sĩ trẻ chỉ mong được lấy máu mình rửa nhục cho tổ tiên, dưới thời Viêm Đế đời thứ bảy, nguyện vọng này không sao thực hiện được, nhưng đến thời Viêm Đế đời thứ tám, cuối cùng cũng đã đạt thành.
Chúc Dung được phong làm Chinh Tây Tường quân, dẫn năm trăm chiến binh Thần tộc, ba ngàn chiến binh Yêu tộc cùng năm vạn chiến binh Nhân tộc tiến đánh Hiên Viên, giành lại lãnh thổ bị xâm lấn.
Trận đầu tiên là mấu chốt để củng cố sĩ khí toàn quốc gia, có thể nói chỉ được thắng, không được bại nên A Hành đoán rằng phụ vương sẽ phái Đại ca Thanh Dương thống lĩnh ba quân chặn địch, nào ngờ Đại tướng quân chỉ huy quân đội Hiên Viên lại là Tam ca Hiên Viên Huy.
Hiên Viên Huy là con trai Tam phi Đổng Ngư thị, A Hành rất hiếm khi gặp vị ca ca này, cũng chẳng biết gì về năng lực của y.
Nàng liền đem thắc mắc hỏi Thiếu Hạo: “Sao phụ vương không phái Đại ca nhỉ? Chúc Dung hiệu là Hỏa thần, chuyên điều khiển lửa, tới lúc then chốt nhất định sẽ bày Hỏa trận, lấy lửa đánh thành, mà băng tuyết của Đại ca lại vừa khéo khắc chế được lửa của hắn.”
Đang đánh đàn chợt nghe A Hành hỏi vậy, Thiếu Hạo vừa gảy tiếp vừa đáp: “Nếu bây giờ Thần Nông tấn công Cao Tân, phụ vương cũng chẳng phái ta đi nghênh địch đâu.”
A Hành nghĩ ngợi một lát rồi nói, vẻ không muốn tin: “Sao phụ vương lại nghi kị Đại ca chứ? Đại ca là do phụ vương một tay dạy dỗ kia mà!”
Thiếu Hạo thản nhiên: “Khi con cái còn nhỏ, vẫn đang là con mình, Hoàng Đế thân làm cha đương nhiên sẽ dốc tâm huyết dạy dỗ nên một đứa con tài giỏi, nhưng dần dần con cái sẽ lớn lên, trở thành bề tôi, Hoàng Đế thân làm đế vương, hiển nhiên không thể để một bề tôi thâu tóm tất cả được, ông ta vẫn làm những việc nên làm ở từng địa vị khác nhau đấy chứ.”
A Hành dễ dàng chấp nhận việc Tuấn Đế nghi kỵ Thiếu Hạo nhưng lại khó mà chịu được cảnh phụ vương kiêng dè Đại ca, xem ra người ta chỉ có thể bình tĩnh trước những sự việc không can hệ tới mình thôi.
Tựa hồ rất hiểu cảm giác của nàng, Thiếu Hạo chỉ chăm chú gảy đàn, mặc A Hành ngây người ngồi đó.
Một hồi lâu sau, A Hành mới khó nhọc cất tiếng: “Chàng và Đại ca thật không hổ là bạn bè đồng cảnh ngộ, người ngoài đều kính trọng hai người như tuyệt thế anh hùng đời nay, còn người nhà lại chỉ chăm chăm đề phòng các vị hệt loạn thần tặc tử!”
Thiếu Hạo ngừng tay đàn, ngẫm lại lời A Hành vừa nói rồi bật cười: “Thật ra Thanh Dương còn khổ sở hơn ta.” Thấy A Hành ngơ ngơ ngác ngác, y nói tiếp: “Sau này từ từ nàng sẽ hiểu.”
Chúc Dung chia quân làm hai ngả tấn công biên giới phía Tây của Hiên Viên, bao vây ải Đồng Nhĩ, Hiên Viên Huy nhớ kỹ lời Hoàng Đế dặn dò, cứ giữ chặt trong thành không ra ngoài.
Ải Đồng Nhĩ dễ thủ khó công, Hiên Viên huy lại một mực cố thủ trong thành câu giờ, cứ theo tính khí nóng nảy của Chúc Dung thì sớm muộn gì cũng sơ sảy, chỉ cần hắn sơ sảy, Hiên Viên sẽ lập tức phản công.
Giữ thành thoạt nhìn có vẻ dễ dàng nhưng trải qua bao triều đại, danh tướng thạo công thành thì nhiều chứ giỏi giữ thành thì chẳng có mấy ai. Thủ thành thực ra là tâm lý chiến, thời gian kéo dài, quân Thần Nông từ xa tới sốt ruột đã đành, ngay cả quân Hiên Viên cũng thấy mệt mỏi. Để ép Hiên Viên động binh nghênh chiến, quân Thần Nông đã giở ra đủ mọi thủ đoạn. Trước sự khiêu khích của Thần Nông, binh sĩ Hiên Viên, hầu hết đều là những trang nam nhi bừng bừng nhiệt huyết, chỉ hận không thể xông ra quyết một trận sống mái với Thần Nông nhưng Hiên Viên Huy cứ lần lữa chẳng chịu nghênh chiến, dần dà khiến lòng quân oán thán.
Ba quân bắt đầu nảy sinh lời ong tiếng ve, nói Hiên Viên Huy hèn nhát, chỉ giỏi làm rùa rút đầu trong thành, nếu đổi lại là Đại điện hạ Thanh Dương hẳn đã đánh cho Chúc Dung tan tác từ lâu.
Hiên Viên Huy vốn đã mất hết kiên nhẫn lại nghe được những lời xì xầm của thuộc hạ, nhớ tới lời mẹ tha thiết dặn dò trước khi ra trận, lòng càng hoảng loạn hơn.
Trước lúc ra đi, Đổng Ngư thị mẹ y đã gọi y cùng Cửu đệ Di Bành lại bảo, “Có vài chuyện xưa nay mẹ vẫn giấu các con, giờ đây hai đứa đã lớn cả, cũng nên cho các con được biết. Ta và người đàn bà trên Triêu Vân phong kia sớm muộn gì cũng có ngày phải sống mái với nhau, bà ta không chết thì ta chết. Nếu Thanh Dương kế thừa vương vị thì ba mẹ con ta chỉ có đường tự tử thôi.”
Di Bành bất lực khuyên nhủ, “Mẹ à, mấy chuyện đó qua lâu rồi mà. Bây giờ Đại ca tốt với chúng con lắm, mẹ cứ canh cánh bên lòng chuyện cũ làm gì?”
“Tốt lắm ư?” Đổng Ngư thị giáng cho Di Bành một bạt tai, “Ta bảo con phải đề phòng nó bao nhiêu lần rồi kia mà? Con cứ hồ đồ như thế, sớm muộn cũng có ngày chết về tay nó cho xem! Nó đã thò lưỡi rắn vào miệng con mà con vẫn coi nó là anh em tốt à? Nếu con giúp Tam ca con một tay thì Thanh Dương đâu thể bành trướng thế lực như bây giờ?”
Dường như đã hoàn toàn thất vọng với Di Bành, Đổng Ngư thị quay sang buồn bã nhìn Hiên Viên Huy, “Huy nhi, lần này con ra quân nhất định phải thắng lợi! Đây là thời cơ ngàn năm có một của mẹ con ta, chỉ thắng trận con mới có thể được phụ vương trọng dụng, con nhớ nhé, nhất định phải chứng minh năng lực của con không kém gì Thanh Dương, phải thể hiện với phụ vương rằng con mới là đứa con trai ưu tú nhất của Người.”
Hiên Viên Huy chẳng biết đáp sao cho phải, đành quỳ xuống dập đầu, “Xin mẹ yên tâm, con nhất định sẽ dốc hết toàn lực.”
Lời hứa với mẹ vẫn đè nặng trong lòng, từng giờ từng phút nhắc nhở y. Chuyện này liên quan tới sự sống chết của ba mẹ con y nên y nhất định phải thắng, nhất định thế!
Hai tên thuộc hạ nôn nóng lập công đã nhận ra tâm tình xáo trộn của Hiên Viên Huy, liền xúi y mở cổng thành nghênh chiến, “Chúc Dung bôn ba đường xa tới đây, lại giằng co bao lâu nay, hẳn người ngựa đều mệt nhoài cả rồi, chúng ta lấy nhàn chống mệt, nhân sĩ khí bây giờ đang vượng, thừa lúc đêm khuya đánh úp một mẻ nhất định sẽ lập được công lớn.”
Hiên Viên Huy đang cần lập công lớn để khẳng định bản thân, vừa nghe đến “nhất định sẽ lập được công lớn” đã thấy nhiệt huyết trào lên, vội hạ quyết tâm ngay.
Y liền triệu tập các tướng lại bàn kế nửa đêm đánh úp Chúc Dung, tướng lĩnh thảy đều đồng tình, duy chỉ có quan chủ quản vận lương là Ứng Long kiên quyết phản đối, nhưng Hiên Viên Huy chẳng để vào tai, còn khiển trách Ứng Long: “Ngươi chỉ là một tên Yêu tộc nhãi nhép, lấy tư cách gì nói càn trước mặt các đại tướng Thần tộc bọn ta?”
Hết thảy tướng lĩnh Thần tộc trong phòng đều cười rộ lên, Ứng Long thấy vậy đành cúi đầu im lặng.
Nửa đêm Hiên Viên Huy đích thân dẫn theo tinh anh Thần tộc đánh úp Chúc Dung, còn bố trí mấy vạn đại quân Nhân tộc vây bủa bên ngoài sẵn sàng truy quét quân Thần Nông trốn chạy.
Mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của Hiên Viên, đại quân Chúc Dung hầu như không hề đề phòng, vừa đánh đã bỏ chạy tán loạn.
Thấy ngọn cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm của Chúc Dung chạy về hướng Bắc, nơi chỉ có một dải đồng bằng bao la, hoàn toàn không thể phòng thủ, Hiên Viên Huy mừng rỡ khôn cùng, thầm nghĩ nếu giết được Chúc Dung, hẳn sáng mai thôi là mình nổi danh khắp đại hoang, rồi y lại lan man nghĩ tới Hiên Viên Thanh Dương, nghĩ tới phụ vương, nghĩ tới mẹ… Vì quá hăng hái, y quên khuấy cả thận trọng, chỉ lo tập trung tất cả quân đội Thần tộc đuổi giết Chúc Dung.
Bọn Hiên Viên Huy vừa đuổi tới nơi, đột nhiên lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm phân ra thành năm ngọn lửa, bập bùng vờn quanh. Hiên Viên Huy cười nhạt, biết Chúc Dung chuyên dùng hỏa công, y đã có chuẩn bị sẵn, bèn lệnh cho quân đội Hiên Viên bày trận hô mưa.
Chúc Dung cưỡi trên Tất Phương điểu lắc đầu cười, mỗi trận pháp không chỉ dựa vào tinh lực của Thần tộc mà còn phải biết cách vận dụng linh hoạt, hiện giờ đang giữa tháng Chạp đông giá, vùng này lại khô hạn lâu ngày, rõ ràng là địa điểm tốt để bày trận hỏa công, chứ hô mưa làm sao nổi.
Thần Nông thoạt nhìn như thể đang bỏ chạy tán loạn nhưng thực tế ai nấy đều đã ổn định vị trí đâu vào đó, Chúc Dung ngồi giữa trận thúc động linh lực, chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa bắt đầu rần rật khắp vùng.
Hiên Viên Huy cũng lệnh cho các tướng sĩ hô mưa, nhưng thế trận của Hiên Viên bị vây giữa thế trận của Chúc Dung, linh khí trời đất ở đây lại hợp hỏa chứ không hợp thủy, dần dà, mưa của họ càng lúc càng nhỏ lại, trong khi lửa của Chúc Dung mỗi lúc một lớn, như muốn nuốt chửng quân địch.
Hiên Viên Huy bắt đầu hoảng sợ.
Hai bên giao tranh, bên nào dũng cảm hơn thì thắng! Chủ tướng vừa hoảng hốt, lòng quân lập tức hoang mang, binh lính bỏ chạy tán loạn, trận pháp liền tan vỡ. Quân Hiên Viên bỏ chạy càng lúc càng đông, nhưng trên trời dưới đất đâu đâu cũng có binh lính Thần Nông trấn giữ, thấy kẻ nào giết kẻ nấy.
Nhận ra mình đang bị lửa đỏ bao vây, Hiên Viên Huy toan cưỡi tọa kỵ bỏ trốn, nào ngờ Chúc Dung đã giáng Lôi Đình hỏa ép y phải đáp xuống đất.
Thế lửa càng lúc càng mạnh, tọa kỵ của Hiên Viên Huy thất kinh, giằng cương chạy trốn, chẳng buồn nghe lệnh y nữa.
Mất đi tọa kỵ, Hiên Viên Huy chỉ biết chạy tới chạy lui giữa hỏa trận, vận linh lực xua tan từng luồng hơi nóng, có điều hảo trận này do năm trăm Thần binh của Thần Nông chung sức tạo thành, lại được Hỏa thần Chúc Dung dốc toàn lực điều khiển, linh lực của Hiên Viên Huy làm sao chống nổi.
Dần dà y cạn kiệt linh lực, bị U Minh hỏa xâm nhập thân thể, thiêu đốt ruột gan, khắp người từ trong ra ngoài đều đỏ rực lên, phải gào thảm xin tha.
Chúc Dung đứng trên Tất Phương điểu nhìn xuống thấy hết mọi chuyện, đắc ý cười ha hả.
Từ xa trông lại, thấy ánh lửa đỏ rực trời, Ứng Long biết đại cuộc đã hết cách cứu vãn, lập tức lệnh cho một đội quân Yêu tộc thông thuộc địa hình dẫn theo đại quân Nhân tộc rút lui. Còn y cùng hai ngàn quân Yêu tộc đóng ở hai bên sườn núi, vừa bắn tên yểm trợ đại quân Nhân tộc vừa lợi dụng dòng sông trong sơn cốc bố trí một trận thủy nhỏ, ngăn cản quân Thần Nông truy sát.
Chém giết suốt một đêm, đến nỗi trời đất cũng thành ra u ám, binh lính phơi thây đầy nội.
Trời vừa sáng, tin ải Đồng Nhĩ thất thủ đã truyền về Hiên Viên thành.
Toàn bộ tướng sĩ Thần tộc do Hiên Viên Huy dẫn đầu đều bị tiêu diệt, Yêu tộc thương vong nặng nề, Nhân tộc nhờ trốn vào núi sâu nên chẳng tổn thương một binh một tốt, quả là kỳ tích.
Hoàng Đế nghe trình tấu mà run rẩy cả người, ngồi phịch xuống ghế, không nói nổi một lời, hồi lâu mới trầm giọng ra lệnh: “Lập tức lôi tên Ứng Long lâm trận bỏ chạy xử tử, tất cả lính đào ngũ đều biến làm nô lệ, bắt làm lao dịch trong quân.”
Thanh Dương biết Hoàng Đế vì mất con mà đau lòng quá độ, sinh ra căm phẫn nên chẳng dám khuyên giải, chỉ đỡ lời: “Ứng Long chết không đủ đền tội, có điều hắn đã tận mắt chứng kiến trận chiến, lời nói ra là đáng tin nhất, chi bằng giải hắn về đây hỏi rõ tình hình quân địch rồi xử tử cũng chẳng muộn.”
Hoàng Đế chẳng còn sức mà lên tiếng nữa, chỉ xua tay tỏ ý Thanh Dương cứ toàn quyền quyết xử lý.
Thanh Dương nhận lệnh bước ra, bảo thị nữ Chu Du: “Ngươi lập tức tới biên giới cùng các quan viên áp giải Ứng Long về đây, nhớ chăm sóc cho hắn tử tế, dọc đường nhất định phải tôn trọng hắn, tuyệt đối không được thất lễ.”
Chu Du ngỡ ngàng, “Tại sao phải thế ạ? Chẳng phải hắn chết đến nơi rồi sao?”
Thanh Dương giải thích: “Chúc Dung thần lực cao cường, được tôn làm Hỏa thần. Ứng Long chỉ có hai ngàn quân Yêu tộc mà dám giao tranh với Chúc Dung, lợi dụng địa thế bảo toàn được tướng sĩ Nhân tộc, để cho Yêu tộc thương vong nặng nề, có thể nói là một viên tướng tài hiếm thấy, hội tụ đủ cả nhân, trí, dũng, tuy hiện giờ phụ vương đau lòng quá độ thành ra sơ suất nhưng khi bình tĩnh lại nhất định sẽ nghĩ thông mà trọng dụng hắn.”
Đang nói chợt y trông thấy Tam phi Đổng Ngư thị tóc tai rũ rượi nhào xuống khỏi xe loan, hai chân xỏ hai chiếc hài cọc cạch, hiển nhiên vừa nghe tin đã chạy đến đây xác nhận ngay, chẳng kịp rửa mặt chải đầu.
Đồng Ngư thị vừa chạy vừa gào lên thảm thiết, “Bệ hạ, bọn chúng nói láo, bọn chúng phao tin đồn nhảm…” Trông thấy Thanh Dương, bà ta liền trợn tròn mắt, căm hận nói, “Ngươi, nhất định là ngươi. Có phải là qủy kế của ngươi không? Ta biết ngươi muốn hại chết chúng từ lâu rồi, ngươi muốn báo thù cho Vân Trạch, là ngươi hại chết Huy nhi…” Bà ta vừa kêu khóc vừa lao tới đánh Thanh Dương, đám thị nữ phải cản lại.
Chu Du tái mặt sợ hãi nhưng Thanh Dương chẳng lấy đó làm điều, chỉ cung kính hành lễ với Đổng Ngư thị rồi lập tức bỏ đi.
Tiếng khóc thảm thiết của Đổng Ngư thị còn văng vẳng sau lưng y, “Huy nhi không việc gì, Huy nhi sẽ không việc gì đâu…”
Những lời này sao nghe quen đến thế…
Hơn ngàn năm trước, mẹ y cũng từng tái mét mặt khi đứng trước mặt y, luôn miệng lẩm bẩm: “Vân Trạch không việc gì, Vân Trạch sẽ không việc gì đâu…”
Bà tuyệt vọng nắm chặt lấy tay y, như thể cầu xin y khẳng định với mình “Vân Trạch không việc gì đâu”.
Y cũng muốn an ủi mẹ bằng câu “Mẹ yên lòng, Vân Trạch không sao đâu” biết bao, nhưng chẳng làm sao cất nổi lời, chỉ biết lặng lẽ quỳ trước mặt bà dập đầu thật mạnh, ra sức dập đầu.
Mẹ y nhũn người ra như bị rút hết gân cốt, ngồi phệt xuống đất.
Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ.
Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”
Thanh Dương còn nhớ thuở nhỏ Vân Trạch rất sợ đau, hễ trượt chân hay vấp ngã là khóc òa lên, lần nào như lần nấy mẹ đều ôm Vân Trạch vào lòng khe khẽ ru hời, Vân Trạch sợ đau như vậy mà lại bị thiêu sống đến chết.
Ánh mắt Thanh Dương buốt lạnh, khóe miệng càng lúc càng mím chặt.
Tin đại quân Hiên Viên bị tiêu diệt, một vị vương tử bỏ mình truyền đến Cao Tân, khiến triều đình nhốn nháo cả lên.
Quan viên trong triều kẻ chủ trương phái binh chi viện Hiên Viên kẻo một khi Thần Nông đánh bại Hiên Viên thì Cao Tân sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp, kẻ lại phản đối, nói Hiên Viên chẳng qua mới thua một trận, Cao Tân nên nghe ngóng tình hình thêm đã, còn có kẻ đề nghị nên tặng mỹ nữ và lễ vật cho Thần Nông để bày tỏ thiện ý, nếu kết nối thông gia được với Thần Nông là hay nhất.
A Hành đang ở ngoài thành dạy đám phụ nữ quay tơ dệt vải, nghe tin này lập tức quay về Ngũ Thần sơn.
Về tới nơi, nàng cũng không dám xông vào giữa triều đường làm phiền các quan bàn luận, đành phải đứng ngoài đợi.
Hai vị vương tử Quý Ly và Tam Thân đều chủ trương chi viện Hiên Viên, sát cánh cùng nhau chống lại Thần Nông, còn mười mấy vị vương tử Yến Long, Trung Dung, Hắc Xi, vân vân… lại cho rằng không nên giúp Hiên Viên, ai nấy đều khăng khăng theo ý mình, tranh cãi rất găng.
Tuấn Đế bảo bọn họ yên lặng rồi hỏi Thiếu Hạo, “Con thấy thế nào?”
Yến Long và Trung Dung cười nhạt, Thiếu Hạo là rể Hiên Viên, cần gì phải hỏi nữa.
Vậy mà Thiếu Hạo chỉ đáp gọn: “Nhi thần nghĩ chúng ta nên án binh bất động.”
Tuấn Đế liền phán: “Vậy cứ thế đi, ta cũng mệt rồi, bãi triều!”
Thấy Thiếu Hạo phản đối xuất quân chi viện, Bán Hạ lén liếc A Hành nhưng nàng chẳng phản ứng gì, chỉ lặng lẽ đứng dưới thềm vắng đợi.
Thiếu Hạo bước ra khỏi đại điện cùng Quý Ly, đang đi chợt y dừng bước, nhường Quý Ly đi trước còn mình băng qua dãy hành lang trùng trùng, bước tới trước mặt A Hành, chủ động nắm lấy tay nàng, “Hai ta đi dạo một chút rồi hẵng về cung nhé.”
Bán Hạ cùng các thị nữ biết ý lui cả xuống dưới.
Thiếu Hạo lên tiếng hỏi: “Nàng nghe thấy ta nói gì rồi ư?”
“Vâng.”
“Nàng giận sao?”
A Hành đáp: “Thoạt đầu nghe nói cái gì toàn quân bị diệt, thiếp vô cùng lo sợ, vội sấp sấp ngửa ngửa chạy về, nhưng nghe chàng nói lại thấy yên lòng. Nhất định chàng nhận thấy Hiên Viên chưa bị tổn thương nguyên khí nên mới ung dung không xuất quân như thế, chứ nếu tình hình Hiên Viên nguy cấp, hẳn chàng đã phải nôn nóng từ lâu.”
Thiếu Hạo khẽ cười, tiếng cười lồng lộng trong gió, toát lên vẻ thích thú, “Trận chiến này e rằng chẳng thể kết thúc ngay trong một sớm một chiều, Cao Tân quả thật không cần phải vội.”
Nói đến đây Thiếu Hạo chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn A Hành như thể đang đố nàng.
A Hành chẳng chịu lép vế, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Bản thân Du Võng vốn không muốn gây chiến, phái Chúc Dung ra trận là việc cực chẳng đã mà thôi. Chúc Dung cũng chỉ muốn lấy lòng tướng sĩ và lôi kéo chư hầu chứ đâu có định đánh thật, giờ y đã thắng một trận vẻ vang, giết được một vị vương tử Hiên Viên, có thể nói là lập công lớn rồi, nếu đánh nữa sẽ phải tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên khổ chiến, một kẻ không chịu tiêu hao binh lực của mình như Chúc Dung nhất định không chịu tiến sâu thêm đâu, nếu có quan viên nào xúi giục tiếp tục đánh, y cũng sẽ đứng về phía Du Võng vì lợi ích bản thân cho xem.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Thật chẳng hổ là muội muội của Thanh Dương, tiến bộ rất nhanh, có lẽ chẳng bao lâu nữa nàng có thể cầm quân ra trận rồi.”
A Hành chắp tay thi lễ với Thiếu Hạo, “Đó là nhờ thiếp được thầy giỏi chỉ bảo, ngày ngày đều cùng chàng bàn luận những chuyện này, chỉ cần không phải gỗ mục thì nhất định phải có tiến bộ chứ, có điều…”
“Có điều làm sao?”
“Thiếp rất ít khi tiếp xúc với Tam ca, gần như chẳng có ấn tượng gì, nói thật, nghe tin huynh ấy chết trận, thiếp kinh ngạc nhiều hơn là đau buồn, nhưng huynh ấy là con trai của người phụ nữ mà phụ vương sủng ái nhất, e rằng bây giờ phụ vương thiếp đang đau lòng khôn xiết, dù Chúc Dung không tiến đánh Hiên Viên nữa, phụ vương thiếp cũng chưa chắc chịu bỏ qua cho y.”
Thiếu Hạo phân tích: “Luận về tài tình phẩm mạo phụ vương ta đều đứng đầu, chỉ phải cái tai thính quá, hơi một tí gió lay cỏ động là nơm nớp đề phòng mấy đứa con trai, nhưng nếu có đứa con nào bị giết hại, nhất định Người sẽ lập tức xuất quân báo thù cho chúng ta không tiếc bất cứ thứ gì, còn phụ vương nàng thì khác, Hoàng Đế chỉ đau lòng trong chốc lát mà thôi, qua cơn đau xót sẽ lại lấy đại cuộc làm trọng.”
Nghe Thiếu Hạo nói, A Hành thấy lạnh buốt cả cõi lòng.
Nghĩ tới Thanh Dương, ánh mắt Thiếu Hạo chợt thấp thoáng lo âu, “A Hành, nàng có biết mình còn một ca ca nữa không?”
“Thiếp cũng có nghe loáng thoáng, luận vai vế huynh ấy đáng ra là Nhị ca, có điều qua đời quá sớm nên mọi người cũng không nhắc tới.”
“Nàng biết y chết thế nào không?”
“Tứ ca kể với thiếp là huynh ấy mắc bệnh mà chết, thiếp sợ mẹ đau lòng nên xưa nay chẳng dám hỏi tới, kể ra thì tên huynh ấy là gì thiếp cũng không biết nữa. Sao đột nhiên chàng lại hỏi chuyện này?”
“Có sao đâu, đột nhiên ta nghĩ tới thì hỏi thôi.”
A Hành buồn bã, “Cứ nói tuổi thọ của Thần tộc lâu dài nhưng chín ca ca của thiếp nay chỉ còn bảy. Chúng ta luôn ỷ tuổi thọ dài lâu, chẳng để tâm tới việc gì cả, lại cho rằng dù thế nào cũng còn rất nhiều thời gian, mà đâu biết thực ra rất nhiều thứ chỉ vụt qua trong chớp mắt, sinh mệnh đằng đẵng càng khiến cho nỗi đau dài ra vô tận mà thôi.”
Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Thư tửu và hùng tửu ta cất đều ngon cả, nàng có muốn thử uống hai loại cùng lúc không?”
“Hay lắm!”
Quả thật phải uống một trận say khướt mới hóa giải được nỗi buồn vì toàn quân bị diệt, nỗi đau vì mất đi một người anh trai chôn sâu trong lòng A Hành.
Thiếu Hạo ngẩng lên trời huýt một tiếng lanh lảnh, triệu gọi Huyền điểu tọa kỵ đỗ xuống. Y nắm tay A Hành bước lên lưng Huyền điểu, mặc đám thị nữ thị vệ cuống quýt chạy theo hỏi: “Điện hạ, vương tử phi, hai vị đi đâu thế?”
A Hành bực bội cau mày với Thiếu Hạo, đoạn ngoảnh lại đổi sang vẻ mặt tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo, lấy giọng nhõng nhẽo trả lời bọn họ: “Vợ chồng ta đi làm chuyện vợ chồng, các ngươi cũng muốn theo nhìn ư?”
Đám thị nữ Hiên Viên còn đỡ, nhưng hết thảy thị nữ thị vệ Cao Tân đều kinh hãi khựng lại, không dám tin rằng đường đường vương tử phi lại dám thốt ra những lời dâm loạn đến thế.
A Hành nháy mắt với Thiếu Hạo, Thiếu Hạo lắc đầu cười lớn, lệnh cho Huyền điểu bay vút đi.
Đúng như Thiếu Hạo và A Hành phân tích, sau khi khao thưởng Chúc Dung thật hậu hĩnh, Du Võng chẳng mấy mặn mà với những lời đề nghị tiếp tục thừa thắng truy kích, Chúc Dung cũng lấy cớ quân sĩ không hợp thủy thổ, phát sinh bệnh tả để từ chối tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên.
Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế cũng phong thưởng Ứng Long thuộc Yêu tộc, khen ngợi y đã bảo tồn được binh lực Nhân tộc quý báu cho Hiên Viên.
Trước sự ưu ái của Hoàng Đế, Ứng Long chỉ biết khấu tạ liên hồi.
Đợi Ứng Long cùng các quan viên khác lui ra, trong đại điện chỉ còn lại Hoàng Đế và Thanh Dương, Hoàng Đế mới quay sang bảo: “Lần này con làm rất tốt, nếu không có con, ta chẳng những đã giết lầm một viên tướng tài hiếm có mà còn làm mất lòng Yêu tộc. Không có lương thảo, không có binh khí, thậm chí không có lãnh thổ đều có thể nghĩ cách, nhưng để mất lòng dân thì chẳng cách nào cứu vãn được cả. Con cũng phải nhớ lấy, trên đời này thứ đáng quý nhất chính là lòng dân, nhất định không được để mất lòng dân.”
Thanh Dương cung kính: “Nhi thần sẽ nhớ kỹ lời phụ vương dạy bảo.”
Hoàng Đế lại hỏi: “Chuyện Chúc Dung con thấy thế nào?”
Thanh Dương đáp: “Chúc Dung giết chết Tam đệ, đương nhiên chẳng thể bỏ qua, con xin được dẫn quân thảo phạt hắn, nhất định đem đầu hắn về gặp phụ vương.”
Hoàng Đế lắc đầu: “Không thể giết Chúc Dung được! Mẹ và bà hắn đều xuất thân tôn quý, có thế lực hùng hậu ở Thần Nông, nếu giết chết Chúc Dung chẳng khác nào bức mấy bộ lạc lớn kia tử chiến với chúng ta. Dân số Thần Nông đông gấp ba Hiên Viên, nếu họ quyết tử chiến với ta, dù quân ta có kiêu dũng mấy chăng nữa cũng không chống nổi đâu.”
Thanh Dương nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Nhi thần ngu ngốc không hiểu ý Người, xin phụ vương giảng giải thêm cho.”
Hoàng Đế giải thích: “Cách hay nhất không phải là giết chết Chúc Dung, mà là khiến hắn quy thuận chúng ta, để thế lực của hắn thu về dưới trướng Hiên Viên.”
“Sao có thể được? Chúc Dung là người Thần Nông chính gốc mà!”
Hoàng Đế nhướng mày, ánh mắt sắc như dao, vặn lại: “Sao không được chứ? Thủy tổ của Thần Nông khi xưa chẳng phải cũng là thuộc hạ Bàn Cổ sao?”
Thanh Dương vội chữa lại: “Phụ vương nói rất có lý, Chúc Dung lòng tham không đáy, tự coi mình là kẻ có thần lực cao cường nhất trong Thần Nông tộc, đời nào cam lòng đứng dưới một Du Võng bất tài vô dụng. Chỉ cần đem món lợi lớn ra nhử hắn, hắn nhất định sẽ động lòng.”
Hoàng Đế gật đầu cười, “Có điều Chúc Dung cũng chỉ là một con chó hoang thôi, thoạt đầu phải lấy gậy đánh cho nhụt hết nhuệ khí để nó biết sợ rồi mới đem thỏ béo ra dụ dỗ, dần dà thuần hóa nó thành chó nhà.”
“Nhi thần hiểu rồi.”
“Chuyện này giao cả cho con, ta biết con có cài thám tử vào Thần Nông quốc, cứ sai chúng phao tin đồn nhảm để Du Võng cùng quan lại trong triều đinh ninh rằng Chúc Dung sớm muộn sẽ tạo phản, đợi khi nào Chúc Dung nhận ra cả triều đình đều nghĩ mình sắp làm phản, chừng đó hắn muốn không phản cũng không được.”
Thanh Dương quỳ xuống dập đầu, “Vâng.” Y hiểu những lời này của Hoàng Đế vừa là giao nhiệm vụ, cũng vừa là cảnh cáo ngầm, con làm gì ta đều biết hết.
Hoàng Đế cúi đầu lật lật công văn, “Con lui xuống đi.”
Thanh Dương đứng dậy hỏi, “Tam đệ vừa qua đời, hôn sự của Xương Ý có phải lùi lại không ạ?”
Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi đáp, “Không cần, cũng đâu phải bậc bề trên qua đời, khỏi cần giữ quy củ chịu tang. Hơn nữa mùa xuân sang năm mới tới hôn lễ của Xương Ý, còn hơn một năm nữa, cứ cử hành đúng hạn đi! Giờ đang là lúc Hiên Viên cần dùng người, Xương Ý lại kết hôn với nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy, sau này chiêu mộ quân lính từ Nhược Thủy tộc cũng thuận tiện hơn nhiều.”
Chẳng rõ đang nhớ tới chuyện gì, Hoàng Đế chợt ngẩn ra, hồi lâu mới nói, “Tuy hôn sự có mẹ các con lo liệu nhưng mấy năm nay tinh thần bà ấy không được tốt, con nên đỡ đần thêm cho bà ấy, nhất định hôn lễ phải tổ chức thật trọng thể, mời hết khách khứa bốn phương để Nhược Thủy tộc thấy rằng chúng ta hết sức tôn trọng họ. Nhược Thủy tộc kiêu dũng thiện chiến nhưng tâm tư rất thuần phác, chúng ta càng tỏ lòng tôn trọng họ, họ sẽ càng trung thành với chúng ta.”
Lúc Thanh Dương còn nhỏ, Hoàng Đế chưa lập nên Hiên Viên quốc, Luy Tổ cũng chưa trở thành vương hậu nên chưa có danh xưng mẫu hậu, giờ đây Hoàng Đế bỗng vô tình dùng lại cách xưng hô ngày cũ ân cần dặn dò khiến Thanh Dương nghe mà chợt xót xa, chỉ biết cúi đầu thành tâm vâng dạ, đợi Hoàng Đế căn dặn xong xuôi, y bèn cáo từ lui ra.
Thấy Thanh Dương bước ra khỏi đại điện, Chu Du liền rảo bước theo sau, vừa đi vừa nói: “Tên khốn Ứng Long kia thật tệ, hôm nay nô tỳ trông thấy y bèn lên tiếng chào hỏi, chúc mừng y thăng quan tiến chức, nào ngờ y lạnh như tiền, chẳng hề tỏ vẻ biết ơn, cũng chẳng thèm nghĩ xem nếu không nhờ điện hạ, y đã phải bỏ mạng từ lâu rồi!”
Thanh Dương lườm Chu Du, chế giễu: “Ngươi đã ở bên ta hơn ngàn năm, cũng tu thành hình người mấy trăm năm nay rồi, sao vẫn dốt đặc cán mai như khúc gỗ thế?”
Chu Du ấm ức ra mặt nhưng chẳng dám phản bác, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, nô tỳ vốn là khúc gỗ mà!
Thanh Dương bèn nhẫn nại cắt nghĩa, “Ta cứu y là bởi phẩm chất và mưu trí của y, muốn cho y một cơ hội thi thố tài năng, nếu y tỏ vẻ thân thiết với chúng ta, ngược lại chính là phụ lòng ta, khiến ta thất vọng vì đã cứu y đó.”
“Thế là thế nào?” Chu Du vẫn ngơ ngác không hiểu. Thanh Dương hết cả kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Nếu y quá thân cận với ta thì phụ vương sẽ đắn đo khi dùng y, vậy há chẳng phải phụ tâm ý ta cứu y ư?”
“À! Té ra là thế, xem chừng nô tỳ trách oan y rồi! Nô tỳ đã nói Yêu tộc của nô tỳ luôn uống nước nhớ nguồn mà!”
Thanh Dương lắc đầu ngán ngẩm nhìn Chu Du, vừa đi vừa dặn: “Nhược Thủy tộc sùng bái nhược mộc[1], nhưng nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không sao sống nổi, ngươi nghĩ cách trồng cho được nhược mộc ở Hiên Viên đi, khi nào Xương Ý thành hôn cùng Trọc Sơn Xương Phó, ta muốn nhược mộc nở hoa dọc hai bên đường đón dâu.”
[1] Theo Sơn Hải kinh: ở Nam Hải, nơi hai dòng nước trong đục giao hòa vào nhau, có một loài cây tên nhược mộc, là khởi nguồn của Nhược Thủy. (ND)
Chu Du cười hì hì, “Việc này cứ giao cho nô tỳ, nô tỳ sẽ đi nài nỉ ông tổ của nhược mộc, lão ta còn nợ nô tỳ, cảm phiền con cháu lão nở hoa một lần chỉ là chuyện nhỏ.”
“Còn nữa, nhớ thúc cho đám dâu trên Triêu Vân phong chín sớm lên đấy.”
“Biết rồi biết rồi, Tứ điện hạ và vương cơ đều thích ăn dâu lạnh, chừng nào họ tới điện hạ nhớ làm một trận tuyết, nhân đó hái luôn dâu lạnh tươi rói, ngon hơn dâu ướp lạnh trong hầm băng nhiều.”
Thanh Dương nghe vậy lạnh lùng trừng mắt nhìn Chu Du khiến ả giật nảy mình vội cúi gằm mặt xuống than thầm, người ta ngốc thì lườm, người ta thông minh thì trừng, thế là sao đây!
Quyển 1 – Chương 14: Nắm Chặt Tay, Bên Nhau Mãi Mãi[1]
[1] Trích trong Kinh Thi, bài Kích cổ. (ND)
Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hóa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.
Gần mười người đàn bà xúm xít quanh một cái nong lớn, trong nong là mười mấy nắm tằm giống màu sắc khác nhau, A Hành lần lượt nhặt từng loại lên giảng giải.
“Những giống tằm phổ biến nhất ở đại hoang là tằm dâu, tằm tạc, tằm thầu dầu, tằm sắn, tằm dâu ngựa, tằm long não, tằm dẻ, tằm xư, tằm ô cựu, tằm liễu, tằm hổ phách… Đa phần chỉ cần nghe tên là biết thức ăn chủ yếu của giống tằm đó là gì. Các giống tằm khác nhau cũng có công dụng khác nhau, ví như tằm thầu dầu không ươm được tơ nhưng có thể kéo lụa sống, còn loại màu vàng kim này là tằm hổ phách, chuyên ăn lá cây kim, tơ dai mà lóng lánh như hổ phách, có điều sản lượng rất thấp nên chỉ dùng dệt vải vóc thượng đẳng thôi…”
Đám đàn bà nhặt tằm giống lên vừa phân biệt thật kỹ, vừa rì rầm trao đổi.
A Hành bước tới manh chiếu trúc trải cạnh đó, khoanh chân ngồi xuống sàng lọc những giống tằm láo nháo mà người làng thu thập được, đương lúc trời nóng bức, nàng lại hao tâm tổn sức phân loại nên chẳng mấy chốc đã đổ mồ hôi đầy đầu. A Hành đưa tay quệt mồ hôi trán, đang định kiếm miếng nước uống chợt thấy một cốc nước đưa tới trước mặt.
Ngỡ rằng ai đó trong số đàn bà kia đem đến cho mình, nàng thuận tay đón lấy uống một hơi cạn sạch rồi cười nói: “Cảm ơn.” Nghiêng người đưa trả chiếc cốc mới nhận ra là Thiếu Hạo.
Y đang ngồi xổm một bên tò mò nhìn nàng lựa tằm giống, còn đám người trong sân chẳng biết đã tản đi tự lúc nào.
“Chàng tới khi nào vậy? Sao chẳng gọi thiếp?” A Hành hết sức bất ngờ.
“Hôm nay trong triều chẳng có việc gì nên ta ra mấy thôn làng bên ngoài đi dạo nghe nói nhà nào nhà nấy đều có thể tới nhận tằm giống miễn phí, vừa khéo tiện đường, ta liền tới thăm nàng, thấy nàng đang giảng giải cho mấy phụ nữ kia có vẻ rất thú vị, ta bèn đứng ngoài lắng tai nghe, thật chẳng ngờ con tằm giống bé xíu mà cũng chứa nhiều kiến thức đến thế.”
A Hành nhoẻn cười, cúi xuống tiếp tục sàng lọc.
Thiếu Hạo hỏi: “Nàng lấy đâu ra nhiều tiền thế?”
“Chàng quên những thứ phụ vương và vương hậu thưởng cho thiếp rồi sao? Những vật dụng chuyên dùng trong vương thất thiếp đều sai Bán Hạ cất đi, còn các thứ khác chất đống trong kho cũng chỉ tổ bám bụi, chi bằng đem ra mướn người thu thập những loại tằm láo nháo về gây nên tằm giống.”
“Hèn chi dân tình mười dặm tám làng quanh đây đều hết lời ca ngợi phụ vương, té ra là vì chuyện này.”
“Thiếp dùng những thứ phụ vương ban thưởng nên đương nhiên ân trạch này thuộc về phụ vương rồi.”
Thiếu Hạo khẽ nói: “Cảm ơn nàng.”
A Hành thấy sắc mặt Thiếu Hạo u ám, tựa hồ vừa xảy ra chuyện gì đó không vui, nhưng y đã không nói, nàng cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn trỏ mấy con tằm giống trước mặt bảo, “Chàng giúp thiếp lựa giống tằm đi, cứ dùng linh lực kiểm tra, nếu thấy trứng tằm tốt, nở đều thì giữ lại, nếu thấy không tốt tức là không thể gây giống được, thì để thả lại ra đồng hoang.”
Thiếu Hạo khoanh chân ngồi xuống cạnh A Hành, bắt đầu sàng lọc. Y sẵn có linh lực cao cường nên tằm giống vừa qua tay đã tự động chia thành hai loại, chẳng hề mất công nhọc sức. Ỷ lại Thiếu Hạo, A Hành trốn việc không làm nữa, chỉ ngồi một bên vừa hóng mát vừa xem y làm.
Thiếu Hạo lại hỏi nàng: “Hôn lễ của Xương Ý đã định vào mùa xuân sang năm, Thanh Dương phái sứ giả tới xin phép phụ vương để sang năm đón nàng về Hiên Viên dự lễ cưới Xương Ý đó.”
A Hành mừng rỡ, “Thế phụ vương nói sao?”
“Phụ vương nhận lời rồi, còn bảo ta về cùng với nàng để bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu.”
Nghĩ tới hôn lễ của Tứ ca, lại nghĩ tới việc mình được về nhà, A Hành vô cùng vui sướng, nheo nheo mắt ngắm vầng dương rực rỡ trên đầu ngọn cây.
Hai người làm thinh chẳng ai nói gì nên nghe rất rõ những âm thanh trong làng đưa lại, nào là tiếng trâu kéo cày, tiếng trẻ con đùa giỡn đuổi nhau… A Hành lại chạnh lòng nhớ tới Cửu Lê, giờ đang là tiết hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, Mễ Đóa và Kim Đan đã con đàn cháu đống rồi chăng? Họ vẫn ca vang khúc sơn ca tỏ lòng mình với đối phương trong bóng hoàng hôn loang rực mặt sông kia chứ?
Thiếu Hạo cất tiếng hỏi: “Nàng đang nghĩ gì thế?”
A Hành khẽ đáp: “Nếu vĩnh viễn không có chiến tranh, cứ bình yên thế này mãi thì hay quá.”
Thiếu Hạo dịu giọng an ủi, “Sẽ như thế, nhất định sẽ như thế mà.”
A Hành vờ bình thản hỏi: “Gần đây phía Thần Nông sao rồi?”
Thật ra điều nàng muốn biết là Xi Vưu dạo này ra sao. Từ khi gả tới Cao Tân, hết bị thám tử của Tuấn Đế dòm ngó lại bị thị nữ do Hoàng Đế phái tới vây quanh, A Hành gần như bị cách ly với thế giới, chẳng nhận được chút tin tức nào từ bên ngoài.
“Thú vị lắm.”
“Sao cơ?”
“Nhân lúc Chúc Dung bận đi đánh ải Đồng Nhĩ, Xi Vưu đã tạo dựng một đội quân, thoạt đầu chỉ có mấy chục người, toàn là đàn ông Cửu Lê tộc, Xi Vưu bèn đăng bảng chiêu mộ dũng sĩ trên khắp Thần Nông, bất kể xuất thân sang hèn, địa vị cao thấp, chỉ trong mấy tháng đã tuyển được năm trăm người. Chúc Dung ngồi không vững ở ải Đồng Nhĩ nhưng Du Võng lại sai hắn giữ ải, ngoài miệng nói là để thưởng cho hắn, bảo vệ chiến công của hắn, thực tế là ngăn không cho hắn quay về cản trở việc của Xi Vưu, hiện giờ Chúc Dung đang khốn đốn mà chẳng biết kêu ai.”
A Hành không nhịn được cười: “Thật chẳng khác nào đem Chúc Dung đày ra biên ải, chiêu hiểm thế này không giống chủ ý của Du Võng, ắt là ý của Xi Vưu đây.”
Vẻ mặt Thiếu Hạo nặng nề như chất chứa trùng trùng tâm sự, hồi lâu y mới nói khẽ: “Vừa nãy ta bị phụ vương quở mắng trên đại điện.”
“Sao thế?”
“Nói ra thì dài dòng lắm, một lời không hết được.”
“Chàng cứ thong thả kể đi, thiếp rảnh rỗi mà.”
“Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc thượng cổ, duy trì dòng dõi rất khắt khe, mấy vạn năm nay để giữ gìn lợi ích cho tộc mình, họ nghiêm cấm những kẻ không cùng đẳng cấp kết hôn với nhau. Viêm Đế đời trước muốn cưới Viêm Hậu xuất thân thấp kém cũng chật vật muôn vàn, sau cùng phải nói thác rằng Viêm Hậu thuộc chi thứ của Xích Thủy thị mới có thể miễn cưỡng kết hôn. Bởi đã nếm mùi đau khổ nên suốt thời gian tại vị, Viêm Đế luôn nỗ lực phá bỏ quy định khắt khe về dòng dõi, có điều muốn cải cách một tập tục đã mấy vạn năm nhất định phải máu chảy đầu rơi, mà Viêm Đế lại là người nhân hậu, không nỡ lòng nào, bởi thế dù ông ta cố gắng đến mấy đi chăng nữa cũng chỉ thay đổi được bề ngoài chứ không sao chạm tới gốc rễ. Nhưng Xi Vưu thì khác, để đạt được mục đích, hắn chẳng ngại gì thây phơi đầy nội, dưới tay hắn, ắt hẳn Thần Nông sẽ thay da đổi thịt. Hiên Viên vốn khác hẳn hai nước chúng ta, nên khỏi cần nhắc tới.”
“Phải, Hiên Viên không giống với hai nước kia.” Giọng điệu A Hành toát lên vẻ kiêu ngạo, “Thiếp phát hiện phụ nữ Cao Tân khi bình phẩm về đàn ông chẳng thèm đếm xỉa gì tới phẩm cách tài hoa của họ mà đầu tiên phải quan tâm tới dòng dõi huyết thống trước đã, như thế chỉ những kẻ con nhà dòng dõi, mang huyết thống cao quý mới đáng để kết hôn vậy, những lời đó thoạt nghe chỉ là chuyện vãn khuê phòng, nhưng lại phản ánh rất nhiều điều. Người Hiên Viên bọn thiếp tuy không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi hai đại Thần tộc, nhưng phụ vương thiếp từng nói: “Thần tiên, con người hay yêu quái trừ chủng tộc bất đồng còn lại đều bình đẳng, chẳng có gì là cao quý hay đê tiện cả, thật hoang đường hết sức.” Dù là người hay yêu quái, sự sang hèn của bản thân chỉ phụ thuộc vào chính những hành động của mình mà thôi. Ở Hiên Viên, bất kể chàng thuộc Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc, bất kể chàng sinh ra trong nhà quyền quý hay nghèo hèn, chỉ cần có tài, chàng sẽ được mọi người kính trọng.”
Thiếu Hạo nói: “Đến giờ Cao Tân vẫn chìm trong niềm tự mãn của một Thần tộc thượng cổ chứ nào chịu nhìn nhận sự cổ hủ của mình, ngay phụ vương cũng đâu có nhận ra Thần Nông đang chuyển mình mạnh mẽ, họ chỉ coi chuyện tranh đấu giữa Chúc Dung và Xi Vưu như một cuộc chiến giành quyền lực mà thôi. Hôm nay trên triều ta tâu rằng cuộc tranh đấu giữa Xi Vưu và Chúc Dung thật ra là cuộc xung đột giữa hai giai tầng rồi thử đề xuất một vài cải cách nhưng phụ vương rất không vui, nói lễ nghi tôn ti là gốc để lập quốc, vậy mà ta lại dám nói càn đòi thay đổi.”
Những chuyện này A Hành chẳng làm sao tháo gỡ giùm y được, nàng đành lựa lời khuyên giải: “Chàng cứ từ từ, có những chuyện không thể nóng vội được đâu.”
Thiếu Hạo thở dài: “Chỉ mong có thể khuyên phụ vương để ngài dần hiểu ra thôi! Nếu Cao Tân cứ khư khư bảo thủ thế này thì sớm muộn sẽ mất nước. Có lúc ta cũng thực ngưỡng mộ Xi Vưu, hắn muốn gì làm nấy, chẳng ngại gì cả.”
A Hành lặng thinh, đăm đắm trông vời xa xăm.
Lựa giống tằm xong, Thiếu Hạo quay sang hành lễ với A Hành, “Vương tử phi nương nương, ta làm xong rồi, chúng ta về nhà được chưa?”
A Hành cười đáp: “Về thôi.”
Cùng Thiếu Hạo cưỡi Huyền điểu quay về, thầm nghĩ tới đám cưới sắp tới của Tứ ca, A Hành sực nhớ ra phải chuẩn bị quà gặp mặt cho chị dâu tương lai.
Thấy nàng lặng yên không nói, Thiếu Hạo bèn hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”
“Thiếp đang nghĩ xem nên tặng quà gì cho Tứ tẩu.”
“Nàng đã nghe ngóng xem Tứ tẩu thích gì chưa?”
“Thiếp chẳng biết gì hết, tại cái tính của Tứ ca đó! Hỏi mười câu huynh ấy chỉ đáp nửa câu, thiếp lải nhải bên tai huynh ấy cả ngày chỉ moi được mỗi chuyện chị ấy là con nhà vọng tộc ở đó, họ Trọc Sơn.”
“Thần Nông có Cửu Lê, Hiên Viên có Nhược Thủy, đều là những vùng dân tình thuần phác mà dũng mãnh, chỉ nể trọng những kẻ anh hùng kiêu dũng, Tứ tẩu này của nàng chẳng những xuất thân từ vọng tộc Trọc Sơn thị mà còn là nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy nữa đó.”
“Hả? Tứ ca định cưới nữ tộc trưởng Nhược Thủy?” A Hành trợn tròn mắt, “Thiếp cứ ngỡ Tứ ca sẽ cưới một cô gái dịu dàng hiền thục kia, ai dè huynh ấy lại thích nữ trung hào kiệt!”
Thiếu Hạo bật cười, “Nàng định tặng gì cho nữ anh hùng nào?”
A Hành nghĩ ngợi một thoáng, chợt sáng mắt lên, nghiêng đầu nhìn THiếu Hạo cười ranh mãnh: “Xưa nay anh hùng chuộng danh khí! Món quà thích hợp nhất phải làm phiền Thiếu Hạo điện hạ vang danh thiên hạ về nghề rèn rồi, có điều nghe nói xưa nay y không rèn binh khí, chẳng hiểu y có chịu ra tay giúp đỡ hay chăng?”
“Không phải y không chịu, nhưng…”
A Hành hồi hộp hỏi: “Nhưng sao?”
Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời, làm bộ nghĩ ngợi một hồi, “Cũng chẳng có nhưng gì cả, năm xưa lấy không bí quyết nấu Thư tửu của nàng, xem như là trả lễ vậy! Có điều hơi gấp gáp, thời gian một năm thì chỉ rèn được chủy thủ tùy thân thôi.”
A Hành thở phào nhẹ nhõm, nàng xúc động lắc lắc cánh tay Thiếu Hạo, mừng rỡ hơn cả khi y làm lợi cho mình: “Cảm ơn chàng, cảm ơn chàng, cảm ơn…”
Thiếu Hạo cười, “Huynh muội nàng y hệt nhau, lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn dâng cho đối phương những thứ tốt nhất trên đời.”
A Hành chẳng hề phủ nhận mà còn nhoẻn cười gật đầu, “Tứ ca là ca ca tốt nhất trên đời đó.”
“Thế còn Thanh Dương?”
A Hành tắt hẳn nụ cười, khẽ nói: “Đại ca giống phụ vương, đều lấy đại cuộc làm trọng.”
Thiếu Hạo định nói gì đó nhưng sau cùng chỉ gượng cười làm thinh.
Tối đến A Hành ngồi ở giường, tấm áo đỏ rực đã gập vuông vắn đặt trên đầu gối. Nàng vừa vuốt ve tấm áo vừa nhớ lại năm xưa trên Thần Nông sơn, Xi Vưu bắt nàng hứa rằng mồng tám tháng Tư hàng năm sẽ gặp nhau dưới cội hoa đào, nàng đã nói với hắn, miễn là năm nào hắn cũng mặc áo nàng may thì nàng sẽ tới gặp. Trong lời nói đã có ý hẹn ước cả đời, Xi Vưu hiểu ý nàng nên mừng rỡ khôn cùng .
Lúc sắp thành hôn với Thiếu Hạo, bên cạnh nàng luôn có thị nữ giám sát, còn chỗ Xi Vưu hắn cũng trùng trùng nguy cơ, bởi thế nàng không dám báo tin cho hắn, lỡ bị phát hiện chẳng những sẽ liên lụy tới mẹ và Tứ ca mà còn có thể đẩy Xi Vưu vào đường cùng nữa.
Có lẽ giờ đây nàng và Thiếu Hạo thành hôn đã lâu, lại thêm tin tức bay về đều khiến Hoàng Đế yên lòng nên ông dần nới lỏng vòng kiềm tỏa, đám thị nữ cũng quen với việc nàng bận bịu chạy đi chạy lại, chẳng còn cảnh giác như xưa.
Sáng mai nàng định tới thôn trại Nhân tộc xem tằm, chắc có thể tìm cơ hội sai A Tệ lén đem áo rời khỏi Cao Tân, đưa đến cho Xi Vưu, trông thấy áo, ắt Xi Vưu sẽ hiểu nàng muốn nói gì. Dù xui xẻo rơi vào tay kẻ xấu đi nữa, chúng cũng chỉ thấy một manh áo mà thôi.
Hai ngày sau, A Hành dâng thư lên Tuấn Đế xin tới miền Bắc cực Cao Tân dạy dân chăn tằm dệt lụa, vì đường sá xa xôi nên không thể ngày đi tối về Ngũ Thần sơn được.
Thời gian này, Tuấn Đế luôn để ý mọi hành vi của Hiên Viên Bạt trong dân gian, đương nhiên cũng nghe thấy hết những lời tán tụng của muôn dân đối với mình, so với một Thiếu Hạo thâm trầm tinh minh, ông còn thích nàng dâu khéo trồng hoa nhổ cỏ, bình phẩm thư họa này hơn, liền vui vẻ chuẩn y ngay.
Đám thị vệ và thị nữ Cao Tân tộc theo Hiên Viên Bạt đi đi lại lại vô số làng mạc, chưa từng có điều gì sơ suất, chỉ thấy vương tử phi hết lòng lo toan cho trăm họ Cao Tân, đương nhiên cũng dần lơi lỏng cảnh giác.
Chập tối, A Hành tạo ra một người gỗ thế vai mình đi ngủ thật sớm. Còn bản thân nàng lại cùng A Tệ lẻn tới Cửu Lê, ngôi làng này rất gần Thần Nông quốc, trăng vừa lên đến ngọn cây, nàng đã tới nơi.
Hoa đào trên sườn núi rực rỡ đua tươi, ánh lửa trong sơn cốc sáng lòa cả mắt. Thanh niên thiếu nữ đều quây quần dưới gốc đào, bên đống lửa, cao giọng hát những khúc tình ca say lòng người.
A Hành đứng dưới cội đào lặng lẽ đợi.
Đợi mãi đến khi trăng tà bóng ngả vẫn chưa thấy Xi Vưu tới.
A Hành ôm lấy A Tệ hỏi nhỏ: “A Tệ, mày đem áo đưa cho hắn rồi chứ?”
“Gừ…” A Tệ gật đầu lia lịa, nhớn nhác ngóng trông.
Thấy vậy A Hành xoa đầu nó an ủi, “Đừng nôn nóng, hắn sẽ tới mà.” Nhưng thực tế lòng nàng còn chênh chao nôn nóng hơn ai hết.
Tựa vào A Tệ, A Hành vừa lẳng lặng nghe đám thanh niên thiếu nữ hát sơn ca, vừa đợi Xi Vưu.
Ngọn lửa dần lụi tắt, khúc ca dần bặt tiếng, chỉ có ngàn cội hoa đào trong sơn cốc vẫn rực rỡ huy hoàng, âm thầm mà nở rộ.
Xi Vưu vẫn không thấy tới.
A Hành ôm lấy A Tệ, lòng đau như xé. Cao Tân cung đình quy củ ngặt nghèo, lần này để tới gặp Xi Vưu, nàng đã phải chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, mượn cớ dạy muôn dân trồng dâu nuôi tằm xin Tuấn Đế đồng ý cho nàng xuất cung, rồi lại giữ bổn phận từng ly từng tí nhằm đổi được lòng tin của Tuấn Đế, vất vả cả nửa năm mới đổi được tự do một đêm, vậy mà Xi Vưu lại một lần nữa thất hẹn.
Nàng đã chuẩn bị bao điều để nói với hắn, nỗi bất lực của nàng, cơn giận của nàng, cơn giận vì năm ngoái hắn đã thất hẹn, giận vì hắn không chịu tin nàng, và mà hết thảy dự định ngọt ngào đều uổng phí, bao lời gan ruột chẳng biết thổ lộ cùng ai.
Lại là bi thương, lại là phẫn nộ, nước mắt cứ thế lã chã rơi.
Đột nhiên Liệt Dương hoan hỉ kêu quang quác, A Tệ vừa mừng rối rít vừa nhảy cẫng lên. A Hành ngẩng đầu trông, liền thấy một bóng áo đỏ trong mây đang phấp phới bay đến. Nàng vội nín khóc nhoẻn miệng cười, vừa cuống quýt lau nước mắt vừa sửa lại búi tóc, quần áo, còn thấp thỏm hỏi A Tệ: “Thế này đã được chưa? Có rối không?”
Cánh đại bàng xẹt ngang trời như sao băng rồi đâm bổ xuống, nàng hồi hộp đứng lặng, A Tệ mừng rỡ nhào đến, toan nhảy xổ vào lòng Xi Vưu như mọi bận, đột nhiên nó khựng lại, hoang mang nhìn đại bàng.
Trên lưng đại bàng chẳng có một ai, nó chỉ lượn quanh cội đào một vòng, thả manh áo đỏ ngậm trong miệng xuống rồi đập cánh bay vút đi.
“Hu…u…u…” A Tệ kêu lên ai oán, bối rối vòng đi vòng lại quanh tấm áo.
Mặt A Hành trắng bệch, nàng đã hứa chỉ cần hắn hàng năm đều mặc tấm áo này, nàng sẽ tới gặp hắn, lần này nàng cố ý đưa áo tới nhưng hắn lại sai đại bàng ngậm hồng bào quăng xuống dưới cội hoa đào, tỏ rõ rằng hắn sẽ không bao giờ mặc nữa.
A Hành loạng choạng chạy tới nhặt tấm áo lên, thất thần ôm vào lòng, đờ đẫn.
Cánh đào rơi lả tả như mưa, chẳng mấy chốc, đầu nàng, vai nàng đỏ rực những hoa.
Nghe Liệt Dương kêu lên quang quác, A Hành mới sực tỉnh, nhìn dáng vẻ lo lắng của A Tệ và Liệt Dương, oan giận và bi thương đan xen dâng ngập lòng, nàng liệng phắt tấm áo xuống đất ngươi đã chẳng cần, ta còn cần làm chi!
Nhưng tình cảm đã trao đi nào phải muốn quăng là quăng được, dù giận hắn oán hắn, hắn vẫn mãi ở trong tim nàng.
Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hoa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.
A Hành phẫn nộ đập một chưởng vào thân cây, lập tức hoa đào trên cành rào rào rụng xuống như mưa, ngón tay nàng vẫn sờ thấy vô số chữ “Xi Vưu” vạch lên thân cây năm ngoái, nếu hắn thấy những chữ này, lẽ nào chẳng hiểu cho lòng nàng, tiếc rằng ngay cả đến đây, hắn cũng không buồn đến nữa.
Nàng rút trâm ngọc, vạch bên cạnh mấy trăm chữ Xi Vưu kia một câu hoi đầy căm giận, “Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?” Chưa viết hết câu, ngọc trâm đã gãy đôi. A Hành cưỡi lên lưng A Tệ, chẳng nói chẳng rằng, chỉ vỗ vỗ vào người nó, A Tệ hiểu ý nàng, lặng lẽ bay về Cao Tân.
Bấy giờ Xi Vưu đang đứng chơi vơi trên sườn dốc chót vót gần Cửu Lê, tựa hồ chỉ cần một cơn gió là rớt xuống. Hắn không khoác áo ngoài mà chỉ vận áo lót, rõ ràng vừa cởi ra chưa lâu.
Khe núi dưới chân hắn lô chô đá nhọn, um tùm cây cối, lại thêm một dòng suối róc rách men theo sườn núi hai bên, quãng rộng quãng hẹp, nước suối lúc xiết lúc chậm, sau cùng tụ lại thành đầm nước trong leo lẻo. Đang giữa mùa hoa đào nở rộ, đôi bên khe núi đỏ rực những hoa, dưới ánh trăng bát ngát hệt ráng chiều, như gấm lụa, đẹp tựa cõi mơ, gió vừa thổi qua, muôn ngàn cánh hoa đã lả tả đổ xuống sơn cốc, phất phơ như tuyết.
Xi Vưu lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng dưới chân, hồi lâu chẳng hề động đậy.
Đột nhiên hắn như bừng tỉnh giấc mộng, vội ngoảnh đầu trông về phía Cửu Lê, thảng thốt. Nàng đến rồi ư? Nàng đang đợi hắn ư? Nàng ân ái mặn nồng với Thiếu Hạo như thế, sao còn vất vả giữ lời hẹn hoa đào gì nữa chứ?
Phân vân do dự một hồi, Xi Vưu cao giọng gọi: “Tiêu Dao!”
Đại bàng vừa đỗ xuống hắn đã vội vàng nhảy ngay lên, bay vụt về phía Cửu Lê.
Ánh trăng tịch mịch rọi xuống khe núi rực sắc đào, gió đêm lành lạnh, dưới cội đào nào thấy bóng ai, chỉ còn một manh áo đỏ tươi như máu bị quăng dưới đất, cánh hoa rụng phủ dày, hiển nhiên nằm dưới đất đã lâu, xem ra từ lúc Tiêu Dao quăng xuống cũng chẳng ai động tới.
Xi Vưu nhặt áo lên, ngước nhìn tàng hao cười nhạt, mấy lần nhấc tay định ném đi nhưng lại chẳng đành lòng.
Lát sau hắn ngửa mặt cười dài, nhảy lên lưng đại bàng bỏ đi thẳng.
Tháng Tư năm sau, khi sắc đào nhuộm đỏ khắp núi rừng, A Hành và Thiếu Hạo cùng về Hiên Viên dự hôn lễ của Xương Ý.
Trước khi kết hôn, A Hành hầu như chẳng có cảm giác gì với ba chữ Hiên Viên tộc, nhưng từ sau đám cưới, dù đi tới đâu, mọi người nhìn vào nàng, nhận xét đầu tiên là người của Hiên Viên tộc, vì xuất thân Hiên Viên, có những kẻ thuộc Thần tộc coi thường nàng, cũng có những kẻ Yêu tộc kính trọng nàng, bấy giờ nàng mới thực sự hiểu ra ý nghĩa mà một dòng họ đại diện.
Nàng đã rời nhà rồi lại quay về vô số lần, nhưng trước giờ chưa bao giờ mừng rỡ vì được về nhà thế này.
A Hành vừa vào đến lãnh thổ Hiên Viên, nàng đã tươi cười reo lên: “Về tới nhà rồi!”
Thấy nàng tươi tỉnh, A Tệ và Liệt Dương cũng vui lây, A Tệ vừa bay vừa kêu líu ríu rất êm tai, khiến Huyền điểu tọa kỵ của Thiếu Hạo phải hoan hỷ cất tiếng hót theo.
Thiếu Hạo rớt lại sau mấy trượng, âm thầm nhìn theo A Hành đang hào hứng hoa chân múa tay. Từ ngày gả tới Cao Tân, nàng luôn dè dặt thận trọng, từng cử chỉ hành vi lời ăn tiếng nói đều nhất nhất tuân theo nghi lễ Cao Tân, chưa từng được thoải mái tự do như hiện giờ.
A Tệ càng bay càng nhanh, thẳng một mạch đến Hiên Viên sơn, còn sớm hơn bọn họ dự tính nửa ngày.
A Hành định cho cả nhà một bất ngờ, ai dè Thanh Dương tựa hồ cảm giác thấy bọn họ về đến, đã đứng trước điện chờ sẵn. Trái lại, đám cung nữa quét tước trước điện kinh ngạc khôn xiết, vội chạy như bay vào trong bẩm báo: “Vương cơ về rồi! Vương cơ về rồi!”
Thiếu Hạo vừa bước xuống tọa kỵ, đã lên tiếng ghẹo Thanh Dương: “Mấy chục năm không gặp, nom tiểu đệ Thanh Dương vẫn như xưa.”
Thanh Dương thản nhiên cười: “Ở đây là Hiên Viên sơn, ngươi lại là con rể đến chơi, phải đổi cách xưng hô, gọi ta là Đại ca.”
Thiếu Hạo liếc A Hành cười nói: “Đợi chừng nào ngươi thắng được ta rồi tính!”
Thanh Dương đáp ngay: “Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày!” Nói rồi chỉ vào rừng dâu, làm động tác mời.
“Được!” Thiếu Hạo thẳng thắn nhận lời, theo Thanh Dương về rừng dâu.
Chu Du hấp tấp đuổi theo, càu nhàu, “Hai vị công tử đã đánh suốt ngàn năm nay rồi, cứ gì mỗi lần gặp lại lôi nhau ra phân thắng bại chứ!”
Thiếu Hạo ngoảnh lại nhìn Chu Du, “Ngươi cứ chê khúc gỗ này ngu ngốc, nhưng ta thấy khá đấy chứ.”
Thanh Dương thoáng nét cười, “Ngốc lắm, rèn giũa mấy trăm năm vẫn ngốc đến kinh ngạc.”
Chu Du tức điên mà không dám lên tiếng, đành siết chặt tay lầm bầm: “Nô tì nghe thấy đấy, nô tỳ nghe thấy đấy…”
Thanh Dương và Thiếu Hạo vừa cười nói vừa giăng cấm chế. Bàn tay Thanh Dương trắng xóa những tuyết, từng đóa băng mẫu đơn ngưng kết quanh mình, cả rừng dâu bỗng trở nên lạnh buốt. Thiếu Hạo cười cười đứng đó, vạt áo không gió mà bay, nước từ dưới đất phụt lên quanh người, từng đóa hoa nước bắn tung như những bông lan nở rộ.
Chu Du can ngăn không nổi đành quay sang cầu viện A Hành, “Vương cơ nói giùm một câu đi.”
Trông thấy mẹ và Tứ ca, A Hành lè lưỡi với Chu Du tỏ vẻ lực bất tòng tâm rồi chạy vụt về phía Luy Tổ, nhào vào lòng bà, “Mẹ!”
Luy Tổ tươi cười ôm lấy nàng, A Hành tựa vào lòng mẹ, soi Xương Ý từ trên xuống dưới, “Trông Tứ ca ra dáng chú rể ghê, chúc mừng huynh!”
Nhìn Xương Ý đỏ mặt tía tai, A Hành phá lên cười khanh khách, đang định ghẹo thêm thì Luy Tổ đã vỗ vỗ lưng nàng, “Hôm nay là ngày lành của Tứ ca con, đừng bắt nạt nó nữa.”
A Hành nũng nịu, “Mẹ thiên vị quá, Tứ ca đã có Tứ tẩu chiều chuộng rồi mà mẹ vẫn thiên vị huynh ấy!”
Xương ý lườm nàng, “Lẽ nào Thiếu Hạo không chiều muội? Mọi người nghe được bao nhiêu chuyện về hai người rồi đó.”
A Hành gục mặt vào vai mẹ, gương mặt tắt hẳn nụ cười nhưng giọng nói vẫn nhí nhảnh, “Mẹ, Tứ ca bắt nạt con, mẹ giúp con với!”
Đột nhiên, những bông tuyết trắng xóa như lông ngỗng âm thầm trút xuống khiến Xương Ý ngơ ngác ngẩng lên.
A Hành trỏ vào rừng dâu, “Đại ca đang giao đấu với Thiếu Hạo, hy vọng cả hai đừng ai bị thương quá nặng.”
Luy Tổ mỉm cười đưa tay hứng tuyết, đoạn quay sang dặn thị nữ theo sau: “Tuyết rơi đúng lúc lắm, đợi lát nữa các ngươi đi hái ít dâu lạnh đi.”
Chu Du lẩm bẩm than, “Thật không biết là muốn thắng Thiếu Hạo hay muốn mượn lý do chính đáng để làm tuyết rơi nữa.”
Thiếu Hạo cùng Thanh Dương ra khỏi rừng dâu, sắc mặt Thiếu Hạo tái nhợt, khóe môi Thanh Dương ứa máu, hiển nhiên cả hai đều bị thương không nhẹ.
Chu Du cuống quýt móc đơn dược trong người ra đưa cho Thanh Dương nhưng y chỉ xua tay lạnh lùng, “Tục Mệnh đan của ngươi chẳng có tác dụng gì với ta đâu, cứ giữ lại cho mình đi!”
Xương Ý liền trêu: “Xem ra vẫn là Thiếu Hạo ca ca… à, Thiếu Hạo muội phu thắng rồi!” Hiếm lắm mới có khi chòng ghẹo bắt nạt được Thiếu Hạo, Xương Ý chưa nói dứt câu đã cười phá lên.
Thiếu Hạo nghe nói cười cười, chẳng thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, tiến lên mấy bước quỳ xuống trước mặt Luy Tổ hành đại lễ, đổi giọng gọi bà là mẫu hậu.
Luy Tổ nhận ba lạy của y rồi ra hiệu cho Xương Ý đỡ y dậy.
Xương Ý nói với Thiếu Hạo: “Hồi nhỏ lần đầu tiên gọi Thiếu Hạo ca ca, ta đã ước giá mà Thiếu Hạo là ca ca của mình thật, ngờ đâu hôm nay chúng ta lại thành người một nhà thật rồi!”
Thiếu Hạo vẫn tươi cười như thường, nhưng ánh mắt thoáng vẻ hoảng hốt.
Luy Tổ một tay dắt A Hành, một tay dắt Xương Ý bước vào tẩm điện, Thanh Dương và Thiếu Hạo sánh vai đi sau.
A Hành cùng Xương Ý vẫn chứng nào tật nấy, vừa đi vừa nói, vừa nói vừa cười, râm ran cả lên. Xương Ý đấu võ mồm không lại A Hành còn định quay lại kêu Thiếu Hạo đòi phân xử.
Thiếu Hạo chỉ cười không nói gì, nụ cười từ khóe môi lan dần lên ánh mắt. Cung đình Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, y không có mẹ, cũng chẳng có huynh đệ ruột rà, trong trí nhớ, từ nhỏ y đã phải để ý lời ăn tiếng nói từng chút một, luôn luôn đề phòng để khỏi bị người ta hãm hại, xưa nay chưa bao giờ làm con của một người mẹ, cũng chưa bao giờ làm huynh trưởng của các em. Y cứ ngỡ rằng vương tộc chính là như vậy, nhưng lần này y mới cảm nhận được, thì ra anh chị em với nhau có thể thoải mái nói cười, thuận hòa vui vẻ thế này đây.
Đến giữa Ngọ, nghe kẻ hầu vào bẩm đoàn đưa dâu đã tiếp cận Hiên Viên sơn, Xương Ý cuống quýt lên, chân tay như thừa thãi cả, vừa đội mũ mặc áo vừa luôn miệng hỏi Thiếu Hạo, “Hôm đó lúc đón A Hành về, đệ nói những gì?” Chẳng đợi Thiếu Hạo trả lời, y lại nói tiếp: “Hôm đó hai người suôn sẻ hết mọi bề, lỡ hôm nay có sự cố gì, ta phải làm sao đây?”
A Hành và Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nhau, Thiếu Hạo mỉm cười làm thinh còn A Hành cười đáp: “Tứ ca yên tâm đi, nếu huynh không xử lý được thì Tứ tẩu sẽ xử lý!”
Xương Ý lườm A Hành rồi ngẩng lên trời lẩm nhẩm cầu khẩn: “Lạy trời cho mọi bề suôn sẻ, mọi bề suôn sẻ!” Khấn xong vẫn chần chừ bất động, lại quay sang Thanh Dương, “Đại ca, huynh cùng xuống núi với đệ nhé?” Gương mặt y đầy vẻ nài nỉ, tội nghiệp vô cùng, hệt như hồi nhỏ mỗi khi có chuyện gì rắc rối lại đi tìm Đại ca nhờ vả.
Thanh Dương chịu hết nổi bèn đẩy thẳng Xương Ý vào xe mây, sốt ruột mắng, “Đệ đi rước dâu chứ đâu phải đi đánh lộn, ta đi theo làm gì? Mau đi nghênh đón cô dâu đi!”
Xương Ý vẫn bấu chặt tay áo Thanh Dương, căng thẳng nài nỉ: “Đại ca, huynh đợi đã, đệ còn muốn hỏi…”
“Hỏi cái gì mà hỏi? Ta đã lấy vợ đâu mà biết!” Thanh Dương giật tay ra, một chưởng quét qua lưng chim loan kéo xe mây, chim loan liền hót vang bay thẳng xuống núi.
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Xe mây tròng trành nghiêng ngả rồi biến mất giữa biển mây, tiếng gọi của Xương Ý vẫn văng vẳng lại: “Đại ca, Đại ca…” Thanh Dương bực bội cau mày.
A Hành cười lăn cười bò với Thiếu Hạo: “Trong mắt Tứ ca, Đại ca cái gì cũng biết, cái gì cũng giỏi, việc gì cũng phải tìm Đại ca.”
Thiếu Hạo cười cười không đáp. Trên danh nghĩa, y có hơn hai mươi người em trai, nhưng chẳng đứa nào coi y là Đại ca cả, y chỉ là hòn đá ngáng đường chúng bước lên vương vị mà thôi. Nhìn Thanh Dương bực bội như vậy, nhưng kỳ thực trong lòng hắn rất sung sướng. Cả hai đều hiểu, ở vị trí của mình không thể tin tưởng bất kỳ ai, cũng chẳng có ai dám tin tưởng hai người bọn họ, có được một người toàn tâm toàn ý tin cậy là chuyện chỉ có thể gặp chứ chẳng thể cầu.
Đợi đoàn xe rước dâu của Xương Ý đi xa, Thanh Dương, Thiếu Hạo và A Hành mới thong thả xuống núi.
Thấy hai bên đường là hai hàng cây cao vút, thân đỏ sẫm, lá xanh biếc, A Hành tò mò hỏi: “Cây gì thế này?”
Chu Du đắc ý cười khoe: “Trừ giống phù tang ở Thang cốc[2], trên đại hoang còn ba loại thần mộc khác là nhược mộc, tầm mộc và kiến mộc. Đây chính là nhược mộc nổi tiếng khắp nơi. Nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không thể ra hoa, nhưng nô tỳ đã khiến bọn chúng nở hoa vào hôm nay đó.”
[2] Thang cốc hay còn gọi là Dương cốc, theo truyền thuyết là nơi mặt trời mọc. Theo Sơn Hải kinh, ở Thang cốc có loài cây phù tang, là như lá dâu, còn gọi là phù mộc. (ND)
Dọc hai bên đường bọn họ đi qua, nhược mộc nở hoa rực rỡ từ chân núi lên tận đỉnh, từng đóa từng đóa hoa to bằng miệng chén đỏ chói, nhuộm thắm cả đất trời.
A Hành ngây ra trước sắc đỏ rạng rỡ ấy, dưới biển hoa đở thắm kia, nàng nhìn thấy nổi lên một bóng áo đỏ rực còn chói mắt hơn.
Đặt cạnh vóc dáng cao lớn, khoác tấm áo đỏ rực như máu của Xi Vưu, những cây nhược mộc chót vót đều nhạt nhòa hẳn đi. Hắn chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng xa cách nhưng cặp mắt lại rực lên nóng bỏng, bao ánh nhìn là bấy nhiêu khổ đau và khát vọng. A Hành cũng ngơ ngẩn nhìn hắn, nghe đau đớn quặn lên trong lòng.
Xe mây đỗ lại, Thanh Dương và Thiếu Hạo bước tới trước mặt Xi Vưu nói lời cảm tạ bọn họ không quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ. A Hành sững sờ nhận ra đây chẳng phải là ảo ảnh, Xi Vưu quả thật đang đứng dưới gốc nhược mộc.
Chẳng ngờ lần này lại gặp Xi Vưu ở đây, A Hành hoảng hốt, không dám nhìn về phía hắn, cũng chẳng dám tiến lại, đành vờ chăm chú ngắm nhược mộc hoa.
Thấy Thanh Dương gọi nàng qua bên đó, A Hành biết mình trốn không nổi, đành cố định thần, tươi cười bước tới trước mặt bọn họ.
Có đông đủ mọi người, Vân Tang không muốn vồn vã với A Hành nên chỉ trao đổi xã giao mấy câu, giữ đúng lễ tiết vương tộc gặp nhau. A Hành cũng biết Vân Tang nhiều mối lo âu, giờ đây nàng mới dần dà hiểu được giữa vương tộc với nhau có bao nhiêu phức tạp. Chẳng phải Đại ca nàng và Thiếu Hạo trước mặt mọi người vẫn khách sáo xã giao với nhau đó thôi, nghĩ vậy, nàng cũng bày ra một nụ cười giả tạo che mắt quan khách.
Nào ngờ gã Hậu Thổ lạ hoắc vừa gặp A Hành đã tỏ vẻ thân thiết vô cùng, khác hẳn thái độ nhã nhặn kín đáo thường ngày, còn kéo cả Mộc Cận tới hành lễ với A Hành, luôn miệng gọi “vương tử phi”, trái lại, Xi Vưu chỉ hờ hững vái một cái: “Vương cơ dạo này ổn chứ?”
Mộc Cận ngỡ Xi Vưu không hiểu lễ nghi nên lỡ lời, bèn nhắc khẽ: “Nữ tử đã thành hôn sẽ xưng hô theo vai vế bên chồng, phải gọi là vương tử phi.”
Thanh Dương và Thiếu Hạo hình như đều không nghe thấy gì, A Hành rung động, lo âu cùng vui mừng dâng ngập cả lòng, nỗi oán hận đã vơi đi quá nửa, liền đáp: “Mọi chuyện ổn cả.”
Xi Vưu cười hỏi tiếp: “Chẳng biết những lúc vương cơ ân ái mặn nồng cùng Thiếu Hạo, có khi nào chạnh lòng nhớ tới người xưa chăng?”
Mọi người nghe nói đều tái mặt, may sao đúng lúc đó đoàn đưa dâu Nhược Thủy đến nơi, hỷ nhạc rộ lên rộn rã, át cả câu hỏi của Xi Vưu.
Hai ả thị nữ vén rèm xe, nữ tử áo đỏ rực ngồi ngay ngắn bên trong, dung mạo thanh tú, mày mắt đoan trang, áo cưới nàng vận cũng chiết eo hẹp tay hệt như phục trang cưỡi ngựa bắn cung, càng làm nổi bật vẻ hiên ngang hào sảng.
Hỷ nương đặt một đầu dải lụa hồng vào tay tân nương, đầu kia do Xương Ý cầm, ra hiệu cho tân nương đi theo Xương Ý. Chỉ cần xuống khỏi xe đưa dâu theo Xương Ý lên xe loan, nàng đã trở thành con dâu của Hiên Viên.
Nào ngờ tân nương nắm lấy dải lụa nhưng chẳng hề bước xuống, trái lại còn đứng lên càng xe, ngạo nghễ đưa mắt nhìn chúng nhân bên dưới. Bị khí thế của nàng chấn nhiếp, tiếng nói cười xôn xao chợt ngưng bặt.
Xương Ý đang căng thẳng lo lắng nên vẫn chưa phát hiện ra, chỉ nắm chặt lấy dải lụa hồng cắm cúi đi, đột nhiên dải lụa căng ra khiến y suýt chút ngã lăn quay, bèn quay phắt lại, trông thấy tân nương đang ngạo nghễ đứng trên xe, toàn thân hỷ phục rực rỡ lóa mắt.
Trọc Sơn Xương Phó giơ tay làm hiệu, lập tức đoàn đưa dâu phía sau ngưng tấu nhạc, cả đám người dũng mãnh như hổ báo đều ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng thẳng tắp nghiêm trang.
Đoàn rước dâu của Hiên Viên thấy đối phương như vậy cũng từ từ ngưng tấu nhạc, một trời rộn rã tiếng kèn sáo chợt trở nên tĩnh lặng trang nghiêm lạ thường.
Trọc Sơn Xương Phó cao giọng: “Hôm nay, Trọc Sơn Xương Phó của Nhược Thủy tộc ta được gả cho Hiên Viên Xương Ý của Hiên Viên tộc, cảm ơn các vị chẳng quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ, xin các vị làm chứng cho chúng ta.”
Khách khứa khắp nơi đều dồn mắt về phía Trọc Sơn Xương Phó, không đoán ra nàng định làm gì.
Xương Phó nhìn thẳng vào mắt Xương Ý, “Nữ nhi Nhược Thủy tộc bọn thiếp suốt đời chung thủy với một chồng, đời này kiếp này thiếp nguyện theo chàng đến răng long đầu bạc, chàng có bằng lòng cả đời chỉ có mình thiếp là vợ không?”
Thế này là muốn Xương Ý thề không nạp phi trước bàn dân thiên hạ, Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, định bước ra lên tiếng nhưng A Hành đã níu lấy tay y, ánh mắt lộ vẻ khẩn cầu: “Đại ca!”
Thanh Dương giật mạnh tay A Hành ra, bước tới trước mặt Xương Phó định lên tiếng, nào ngờ Xương Ý đã định thần lại, chẳng chút do dự đáp ngay: “Ta bằng lòng!”
Tiếng xôn xao rộ lên khắp nơi, Thanh Dương giận tím mặt, trừng mắt nhìn Xương Ý, ánh mắt vô cùng phức tạp.
Xương Phó lại hỏi tiếp: “Tương lai thiếp trở thành tộc trưởng Nhược Thủy, người trong tộc sẽ liều mình chiến đấu đến người cuối cùng vì thiếp, thiếp cũng phải bảo vệ bọn họ đến hơi thở cuối cùng, nếu lấy thiếp, chàng phải cùng thiếp bảo vệ cho nhược mộc của Nhược Thủy năm năm đều nở hoa, chàng có bằng lòng không?”
Xương Ý mỉm cười bình thản đáp: “Ta chỉ biết rằng từ nay về sau ta là phu quân của nàng, ta sẽ dùng tính mạng mình để bảo vệ cho nàng.”
Xương Phó nhoẻn miệng cười tươi tắn, hạnh phúc càng khiến nhan sắc của nàng thêm rạng rỡ, còn đẹp hơn cả những đóa nhược mộc hoa đỏ thắm rợp trời kia. Nàng nắm chặt dải lụa hồng bước xuống xe, chạy vụt tới trước mặt Xương Ý, tươi cười tuyên bố với tộc nhân: “Từ nay về sau, Xương Phó sẽ chung họa phúc, cùng sống chết với Xương Ý.”
Sau lưng nàng, tất cả phụ nữ Nhược Thủy đều rộ lên hoan hô vang trời dậy đất. Còn Hiên Viên tộc bên này thì ngượng ngùng im lặng, mọi người đều nhìn về phía Thanh Dương, chẳng biết nên phản ứng ra sao.
Thấy A Hành tươi cười cất tiếng hoan hô, Chu Du liếc trộm Thanh Dương đang tái mặt vì giận rồi cũng ra sức vỗ tay, vừa vỗ tay vừa hoan hô theo A Hành, Hiên Viên tộc thấy vương cơ như vậy mới rộ lên hoan hô cười nói, chẳng chút e dè.
Nam nhi Nhược Thủy thổi kèn, nữ nhi rung chuông Nhược Mộc Hoa, vừa ca hát vừa nhảy múa, lại khiêng ra từng vò lớn rượu ngon, rót cho mỗi vị khách một bát thật lớn. Mọi người cũng vui lây cùng những nàng con gái Nhược Thủy chân thành thẳng thắn, tất cả nghi lễ ban đầu loạn hết lên, đành hùa theo bọn họ nâng chén chúc mừng.
Xương Ý dắt Xương Phó lại trước mặt Thanh Dương và A Hành, giới thiệu: “Đây là Đại ca ta, đây là tiểu muội của ta, còn đây là muội phu Thiếu Hạo.”
Vừa nãy trước bao nhiêu khách khứa đại hoang, Xương Phó hào sảng hiên ngang, dõng dạc thẳng thắn nhường ấy, vậy mà lúc này lại đỏ mặt thẹn thùng, hồi hộp hành lễ chào hỏi Thanh Dương, như sợ Thanh Dương ghét bỏ mình.
Thật lòng A Hành rất thích vị Tứ tẩu này, vội rút ngay lễ vật đã chuẩn bị sẵn, hai tay đưa cho Xương Phó, “Tẩu tẩu, thanh chủy thủ này là muội và Thiếu Hạo rèn cho tẩu đấy.” A Hành vẽ kiểu, Thiếu Hạo dùng sắt Hàn sơn, nước Thang cốc, lửa mặt trời, rèn suốt một năm mới xong.
“Là binh khí do Cao Tân Thiếu Hạo rèn ư?” Đây quả là món quà mà mọi kẻ học võ đều khao khát, Xương Phó không nén nổi kinh ngạc, liền nhận lấy xem thật kỹ. Chuôi và vỏ đều bằng gỗ phù tang, bên trên khắc hoa văn nhược mộc hoa, Xương Phó từ từ rút chủy thủ ra, thấy lưỡi dao lấp loáng như nước, soi gương được. Nàng thích thú không rời tay, vội cảm ơn A Hành và Thiếu Hạo.
Để đáp lễ, nàng tháo chiếc vòng bằng nhược mộc trên tay xuống, đeo vào tay A Hành, “Chiếc vòng này chỉ làm bằng gỗ thường, nhưng có khắc lời thề của nhi nữ Nhược Thủy chúng ta trên đó, bất kể lúc nào muội có gặp khó khăn, nhi nữ Nhược Thủy chúng ta sẽ đeo cung tên che chắn cho muội.”
A Hành ung dung hành lễ, “Đa tạ tẩu tẩu.”
Xương Ý đăm đăm nhìn thê tử, ánh mắt ngập tràn niềm vui cùng hạnh phúc khiến Xương Phó đỏ mặt cúi đầu, chẳng dám ngẩng lên.
Thấy tình cảnh đó, Thanh Dương chỉ biết than thầm, bất lực bảo Xương Ý: “Nghi lễ loạn hết lên rồi, thôi hai người lên núi luôn đi, phụ vương và mẫu hậu đang ở Triêu Vân điện chờ bọn đệ tới dập đầu hành lễ đó.”
Chu Du vội gọi xe ngọc lại.
A Hành tiễn hai người lên xe rồi ngơ ngẩn trông theo, cỗ xe đã khuất sau làn mây mà vẫn chưa định thần lại được.
Bên tai chợt vang lên tiếng Xi Vưu, “Cô rõ những ân ân ái ái như của bọn họ lắm nhỉ? Duyên mới đã là châu là ngọc, tình xưa chỉ là mắt cá, còn đoái hoài tới làm gì, sai A Tệ đến đưa áo làm chi?”
A Hành giật thót người, vội lách mình né ra mấy bước mới kịp trấn tĩnh quay lại đáp: “Ta cùng Thiếu Hạo tình đầu ý hợp, đầm ấm hạnh phúc, chẳng hiểu Đại tướng quân đang nói gì nữa.”
Căm hận và bất lực ngập đầy trong mắt Xi Vưu, hắn đau đớn thốt, “Cô không hiểu ta coi cô là gì thật ư? Cô đúng là đồ ong bướm lả lơi, nhu nhược hèn nhát, ích kỷ tàn nhẫn, vậy mà ta vẫn không sao quên nổi.”
Thấy Thanh Dương và Thiếu Hạo đều đang nhìn mình, A Hành sầm mặt, “Có lẽ trước đây ta đã làm gì đó khiến Đại tướng quân hiểu lầm, nhưng giờ ta đã là vương tử phi của Cao Tân, xin ngài hãy tự trọng.” Dứt lời, nàng đi thẳng về phía Thiếu Hạo, đứng bên cạnh y, bấy giờ Thanh Dương mới dời mắt đi nơi khác.
Xi Vưu phá lên cười ha hả, vừa cười vừa bưng bát rượu lên tu ừng ực uống cạn.
A Hành nghe lòng lạnh buốt, đành ráng giữ nụ cười trên môi, đờ đẫn nhìn thẳng phía trước.
Thiếu nữ Nhược Thủy bưng vò rượu tới chúc mừng, Thiếu Hạo liền đưa A Hành một bát, “Nhược tửu của Nhược Thủy rất có phong vị riêng, nàng nếm thử xem.”
A Hành mỉm cười bưng lên uống, chỉ thấy đắng chát trong miệng, “Ừm, ngon lắm.”
Hậu Thổ bưng hai bát rượu tiến lại, A Hành ngỡ gã định kính rượu trò chuyện với Thiếu Hạo nên khéo léo tránh đi, nào ngờ gã bước tới đưa một bát cho nàng, chăm chú nhìn nàng cười cười không nói, A Hành đành ngượng nghịu cười đáp lễ, “Đa tạ Tướng quân” rồi ngửa cổ dốc cạn bát rượu.
Ánh mắt Hậu Thổ không giấu nổi thất vọng, “Vương tử phi không nhận ra tôi ư?”
A Hành sững người, mấy năm nay, Hậu Thổ nổi danh ngang với Xi Vưu, đều là anh tài mới nổi xuất sắc nhất Thần Nông tộc gần đây, đương nhiên nàng đã nghe tiếng từ lâu nhưng mới chỉ gặp mặt một lần duy nhất lúc cùng Xi Vưu lên Thần Nông sơn tìm Viêm Đế xin thuốc giải, đúng lúc gã phụng mệnh trấn giữ Thần Nông sơn. Lần đó nàng lại dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo nên nói đúng ra A Hành đã gặp Hậu Thổ nhưng Hậu Thổ chưa từng gặp A Hành. Có điều, vẻ thất vọng hằn rõ trong mắt gã khiến A Hành hơi cảm động, toan hỏi rõ tại sao thì Xích điểu đã đậu xuống vai Hậu Thổ, thả tấm thẻ ngọc nho nhỏ vào tay gã, Hậu Thổ liền nghiêm mặt, nhìn A Hành định nói gì đó nhưng lại thôi, sau cùng chỉ hành lễ rồi vội vã đi khỏi.
Lòng A Hành trăm mối ngổn ngang, lại chẳng bụng dạ nào mà nghĩ ngợi nhiều, bèn tìm một góc yên tĩnh, ừng ực nốc Nhược tửu như uống nước.
Vân Tang lặng lẽ tới gần nhưng thấy Chu Du đứng hầu bên A Hành, nàng chỉ cười nói mấy lời khách sáo rồi quay mình định đi, nào ngờ A Hành bỗng níu lại, “Không sao đâu, Chu Du là thị nữ của Đại ca muội, có thể tin được.” Đoạn quay sang nửa năn nỉ, nửa ra lệnh cho Chu Du: “Tỷ tỷ tốt bụng ơi, muội muốn nói riêng với Vân Tang mấy câu, tỷ canh chừng giùm bọn muội với.”
Trước khi đi, Thanh Dương chỉ dặn Chu Du chông trừng A Hành, không được để A Hành cùng Xi Vưu gặp riêng nhau chứ không dặn không cho A Hành cùng Vân Tang nói chuyện riêng, nên Chu Du mau mắn nhận lời, bước sang một bên canh chừng.
Vân Tang ngồi xuống cạnh A Hành, chăm chú nhìn nàng, “Nghe nói muội cùng Thiếu Hạo ân ái mặn nồng, keo sơn khăng khít?”
A Hành gượng cười, ngửa cổ ừng ực dốc cạn bát rượu.
Vân Tang hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết thở dài, “Xương Phó thật đáng ngưỡng mộ! Có thể tự do thoải mái, muốn yêu thì yêu, không chịu chung chồng cùng kẻ khác liền buộc Tứ ca muội lập lời thề trước mặt mọi người. Tứ ca muội cũng rất chân thành, biết rõ phụ vương muội sẽ nổi giận, vậy mà vẫn lập lời thề không chút do dự.”
A Hành liếc nàng, “Tỷ cần gì phải ngưỡng mộ người khác? Viêm Đế Du Võng là em trai tỷ, đâu thể ép buộc được tỷ, nếu tỷ chịu hạ giá[3] thì Nặc Nại cũng chẳng ngần ngại lập lời thề, suốt đời suốt kiếp ở bên tỷ.”
[3] Hạ giá: chỉ việc công chúa (trong tác phẩm này là “vương cơ”) kết hôn với người có địa vị thấp hơn mình, ví như tướng quân, quan lại…
“Nha đầu chết tiệt, ăn nói càng lúc càng không ra thể thống gì cả.” Vân Tang đỏ bừng mặt, trong vẻ ngượng ngùng lại toát lên bao ngọt ngào êm dịu không lời.
Trông bộ dạng Vân Tang, A Hành bật cười, xem ra lần trước Nặc Nại lên Thần Nông sơn cũng chẳng uổng công, mọi hiềm khích giữa đôi bên đã hóa giải cả rồi, “Chừng nào đến tỷ và Nặc Nại?”
“Chừng nào cái gì?” Vân Tang giả vờ không hiểu.
“Chừng nào thành hôn đó! Tỷ là Trưởng vương cơ của Thần Nông, hạ giá lấy Nặc Nại cũng có phần thiệt thòi, có điều đèn nhà ai nhà nấy rạng, cần gì quan tâm kẻ khác nói gì, chỉ cần Nặc Nại kiên trì nhẫn nại, nhất định Thiếu Hạo sẽ giúp y.”
Vân Tang gật đầu, “Nặc Nại chẳng nhẫn nại thận trọng được thế đâu, y chưa từng coi ta là vương cơ, chỉ cần ta đồng ý, y sẽ chính thức lên đỉnh Tử Kim cầu hôn.”
“Vậy tại sao…”
“Du Võng là đệ đệ ngoan của ta, chuyện gì nó cũng nghĩ cho ta, lẽ nào ta có thể ích kỷ không nghĩ cho nó ư? Tính tình Du Võng muội biết rồi đấy, ngai vị này nó ngồi chật vật vô cùng, bọn Chúc Dung lúc nào cũng chòng chọc nhìn vào nó, hiện giờ Xi Vưu chưa đủ lông đủ cánh, chỉ có ta mới miễn cưỡng trấn áp được chúng đôi phần, nếu bây giờ ta thành hôn, lại gả cho một tướng quân ngoại tộc thì sẽ rất bất lợi cho Du Võng, nên ta đành nói Nặc Nại đợi ta hai trăm năm. Hai trăm năm nữa, Xi Vưu đủ khả năng nắm giữ quân đội Thần Nông, có hắn phụ tá Du Võng, ta mới có thể yên tâm xuất giá.” Vân Tang cười, đoạn thở phào nhẹ nhõm, “Lúc đó ta cũng có thể thật sự từ bỏ thân phận Trưởng vương cơ, làm một người phụ nữ bình thường, kiến thức nông cạn, bụng dạ hẹp hòi, chỉ lo toan về gạo dầu mắm muối, ngày ngày nấu canh bồi bổ cho chồng.”
A Hành vui vẻ nói, “Chúc mừng tỷ tỷ! Bao năm nay tỷ đã phải nghĩ cho cha, cho muội muội đệ đệ, cũng đến lúc nên nghĩ cho chính mình rồi.”
Vâng Tang cười hỏi lại: “Thế còn muội? Từ nhỏ muội đã ngang ngược quật cường, ta chẳng tin muội chịu nghe phụ vương muội sắp xếp đâu.”
“Muội tự có tính toán của mình.” A Hành rót hai bát rượu, đưa một bát cho Vân Tang, “Tỷ thấy hôm nay Tứ ca muội hạnh phúc nhường nào rồi đấy, thuở nhỏ, bất kể chuyện gì Tứ ca cũng nhường nhịn muội, bảo vệ cho muội, bây giờ muội cũng nên nhường Tứ ca, bảo vệ Tứ ca để Tứ ca có thể yên ổn ở bên người Tứ ca thật lòng yêu thương. Chỉ cần mẹ và Tứ ca được bình yên, dù có thiệt thòi đến mấy muội cũng vẫn vui vẻ.”
Vân Tang lắc đầu cảm thán, “A Hành, muội lớn thật rồi!” Nhưng tự đáy lòng, Vân Tang lại mong mỏi A Hành có thể mãi mãi như khi trước xiết bao.
“Cạn!” A Hành chạm bát với Vân Tang, Vân Tang vốn không thích uống rượu nhưng hôm nay bất luận ra sao, nàng cũng phải uống cùng A Hành.
Hai người cứ thế chuốc hết bát này sang bát khác, chẳng bao lâu Vân Tang đã say lăn ra không biết trời trăng gì, để lại một mình A Hành tự rót tự uống, mãi đến lúc mê man mất hết ý thức.
Bình luận facebook