• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG vietwriter.co TỪ NGÀY 18/11

New TỪNG THỀ ƯỚC (3 Viewers)

  • Chương 7-8

Quyển 1 – Chương 7: Một Đời Đẹp Nhất Khắc Này Thôi


Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi.


Hiên Viên sơn gồm bốn đỉnh Đông Tây Nam Bắc. Chính thất của Hoàng Đế là Luy Tổ, Nhị phi Ngôn Luy thị, Tam phi Đổng Ngư thị, Tứ phi Mô Mẫu thị mỗi người ngụ trên một đỉnh. Cao nhất là Triêu Vân phong ở phía Đông, nơi ở của Luy Tổ, đỉnh nút chót vót vươn tận mây xanh, cũng là nơi đầu tiên ở Hiên Viên được đón mặt trời lên.


A Hành chưa bước xuống xe mây đã thấy Tứ ca Xương Ý đứng đón trước điện Triêu Vân, cứ ngong ngóng nhìn xuống núi. Sự quan tâm và trông đợi y dành cho nàng còn ấm áp hơn cả ánh mặt trời ban sớm.


Chẳng đợi xe dừng hẳn, A Hành đã nhảy phóc xuống, lớn tiếng gọi “Tứ ca” rồi nhào vào lòng y.


Xương Ý tươi cười vỗ vỗ lưng em gái, “Ta tưởng muội được Vương Mẫu rèn cặp, hẳn đã phải điềm đạm hơn rồi, sao vẫn lanh chanh thế?”


A Hành cười hỏi: “Đại ca đâu? Mẹ đâu rồi?”


“Mẹ đang quay xa trong điện còn Đại ca chẳng hiểu sao hôm trước vừa mới tới đã giam mình trong rừng dâu sau núi, không cho ai quấy rầy.”


A Hành cười thầm, vừa theo Tứ ca vào điện vừa khẽ rỉ tai y: “Đại ca bị thương đó.”


“Gì cơ?” Xương Ý kinh ngạc hỏi.


“Để nhờ Thiếu Hạo đi cứu muội, chẳng hiểu Đại ca đã đánh cược gì với y khiến cả hai bên đều bị thương, tuy Đại ca thắng nhưng thương thế còn nặng hơn y nữa.”


Nghe nói vậy, nét mặt Xương Ý mới giãn ra, y lắc đầu cười: “Hai bọn họ kẻ khôn khéo, người điềm đạm, thế mà mỗi lần gặp nhau cứ đánh lộn như con nít, đánh suốt mấy ngàn năm nay vẫn chưa chịu thôi.”


Chính điện rộng thênh thang ngập tràn ánh sáng nhưng lặng ngắt như tờ. Tiếng chân hai người cứ vang vang trong điện khiến cả hai phải thu bớt khí tức, bước đi thật khẽ.


Băng qua chính điện là tới thiên điện tranh tối tranh sáng, duy có song cửa rực nắng mai, một bà lão tóc bạc trắng đang ngồi đó quay xa dệt lụa, ánh nắng càng làm lộ rõ vẻ già nua.


Nhìn mẹ rồi lại nhớ tới Vương Mẫu phơi phới múa giữa rừng đào, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, liền quỳ xuống cất tiếng: “Mẹ, con về rồi đây.”


Luy Tổ dệt xong tấm vải, gác lại xa quay bảy sắc, đoạn ngẩng lên nhìn con gái. A Hành đột ngột lê gối lại bên bà, khẽ gọi: “Mẹ.”


Luy Tổ thản nhiên hỏi: “Ta dệt cho con mấy bộ đồ để trong phòng con ấy, mấy hôm nữa chừng nào xuống núi nhớ đem theo.”


“Cảm ơn mẹ.” A Hành cúi đầu nghĩ ngợi rồi nói: “Lần này con chưa định xuống núi, con định ở lại đây mấy năm.”


Luy Tổ hỏi: “Sao thế?”


“Con thấy mệt mỏi, muốn ở lại trên núi mấy năm.” Từ nhỏ tới lớn, lúc nào A Hành cũng nghĩ cách chuồn xuống núi, nhưng sống trên Ngọc sơn sáu mươi năm, nàng chợt nhận ra Triêu Vân phong cũng vắng vẻ quạnh hiu chẳng khác gì Ngọc sơn, một mình Luy Tổ sống ở đây hẳn rất cô độc, nên muốn ở lại bầu bạn bên bà.


Luy Tổ quay sang bảo Xương Ý: “Con đi pha trà giùm ta.”


Xương Ý thi lễ lui xuống.


Luy Tổ đứng dậy bước ra ngoài điện. A Hành lặng lẽ theo sau.


Phía sau Triêu Vân phong trồng đầy những dâu, cành lá xum xuê tươi tốt, dưới ánh nắng chói chang càng căng tràn nhựa sống, thoạt nhìn đã thấy tâm tình khoan khoái.


Đột nhiên, Luy Tổ lên tiếng hỏi: “Suốt mấy trăm năm ta chưa từng tức giận, vậy mà sáu mươi năm trước lại nổi trận lôi đình, đến nỗi định xông lên Ngọc sơn đòi Vương Mẫu thả con ra, con có hiểu tại sao ta giận bà ta đến thế không?”


A Hành đáp: “Vì người tin con không lấy thần binh của Vương Mẫu.”


Gương mặt lạnh băng của Luy Tổ thoáng hiện nụ cười: “Không phải, đấy là Thanh Dương tưởng thế thôi, nó nói tầm mắt của con đời nào trộm được thần binh, giỏi lắm chỉ ăn cắp mấy quả đào là cùng.”


A Hành đoán chắc hẳn mẹ mình có thù oán gì đó với Vương Mẫu, nhưng chẳng dám nói ra miệng, chỉ lễ phép đáp: “Thế thì con chịu.”


Luy Tổ dừng bước, ngoảnh đầu trông về phía điện Triêu Vân, “Con là vương cơ Hiên Viên, sớm muộn gì cũng có ngày phải dọn tới sống trong một tòa cung điện thế kia, nhưng trước đó, ta muốn con được tận hưởng hết mọi tự do dưới gầm trời này cái đã. Ấy vậy mà Vương Mẫu lại ngang nhiên đoạt đi một trăm hai mươi năm quý giá nhất của con. Bà ta ở cái xó Ngọc sơn quỷ quái đó mấy ngàn năm nay, còn hiểu rõ hơn ta thứ trân quý nhất trên đời này là gì. Chính là niềm vui và tự do trong suốt một trăm hai mươi năm! Trên đời này có báu vật nào đổi lại được không? Hơn ai hết, bà ta thừa biết hình phạt đó tàn khốc thế nào, rành rành đã cướp đi thứ quý giá nhất của con, vậy mà còn làm bộ làm tịch nói là nể mặt ta.”


Triêu Vân điện lầu son gác tía, bệ ngọc thềm lan, đẹp như tranh vẽ chìm giữa một vùng khói mây bảng lảng, nhưng A Hành nhìn mãi nhìn mãi lại thấy mắt cay cay.


Luy Tổ quay sang nhìn con gái: “A Hành, nhân lúc tuổi còn trẻ; con hãy mau xuống núi mà thỏa sức cười khóc, làm ẩu làm càn, tận hưởng cuộc sống đi. Sau này con còn nhiều thời gian giam mình trong cung điện, những ngày tháng được rong ruổi bên ngoài sẽ chẳng có bao nhiêu, chớ nên phí hoài chúng trong điện Triêu Vân nữa. Ta không cần con ở bên bầu bạn, ta chỉ cần con sống thật vui vẻ thôi. Có thể bây giờ con chưa hiểu được điều này, nhưng một khi làm mẹ, con sẽ hiểu ra rằng chỉ cần các con hạnh phúc thì người mẹ đã đủ mãn nguyện rồi.”


Giờ đây rốt cuộc A Hành đã hiểu tại sao mỗi lần nàng chuồn xuống núi mẹ đều không biết, vậy mà nàng còn hả hê cho rằng mình rất thông minh; tại sao nàng có thể trốn nhà trót lọt mà phụ vương cùng Đại ca chẳng phái thị vệ đuổi theo; tại sao nàng có thể tự do rong ruổi khắp đại hoang, khác hẳn những vương cơ khác.


“Mẹ.” Nàng nghẹn ngào thốt lên.


Xương Ý bưng trà tới, kính cẩn dâng lên Luy Tổ.


Luy Tổ khoan thai uống cạn chén trà rồi lạnh nhạt ra lệnh: “A Hành, sáng mai con xuống núi, thích đi đâu thì đi, miễn đừng để ta thấy mặt con là được.” Nói rồi bà đặt chén trà xuống đi thẳng.


Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý tươi cười véo mũi nàng rồi nắm tay kéo đi hệt như hồi nhỏ: “Đi nào, mình đi tìm Đại ca.”


Xương Ý và A Hành rón rén lẻn vào sâu trong rừng dâu, đang đi, bỗng hai người đụng phải cấm chế chặn đường, có điều cấm chế này chỉ là chuyện vặt với bọn họ, cả hai ung dung xuyên qua cấm chế, liền trông thấy một cảnh tượng lạ lùng.


Dâu trong rừng chỉ cao chừng ba thước nhưng đều là giống hiếm gặp, từ gốc đến ngọn xanh mướt như tạc bằng ngọc thạch. Trên những cành dâu ngọc ngà san sát so le nhau, từng đóa mẫu đơn trắng muốt to bằng miệng bát do băng tuyết ngưng tụ thành đang khoe sắc, còn thanh khiết hơn cả hoa thật.


Rừng dâu long lanh ngà ngọc, mẫu đơn băng lấp lánh trong suốt, đằng sau cấm chế là cả một thế giới thuần khiết như thiên đường bằng thủy tinh, chẳng nhiễm bụi trần.


Ngay chính giữa thiên đường thủy tinh đó, trong bầu không từng đóa mẫu đơn trắng muốt bừng nở, chồng chất lên nhau tầng tầng lớp lớp tạo thành một tòa tháp mẫu đơn bảy tầng. Phía sau tòa tháp thấp thoáng bóng một nam tử không rõ diện mạo, chỉ thấy một tà áo lam không ra đậm không ra nhạt, toát lên vẻ ấm áp thanh khiết vô cùng, đồng thời cũng lạnh lùng xa cách khôn tả, tựa bầu trời xanh nhạt trên đỉnh núi tuyết ngàn xưa, dù băng tuyết buốt giá đến đâu vẫn luôn luôn ấm áp, nhưng cũng vĩnh viễn xa vời không sao với tới, xa vời hơn cả băng tuyết.


A Hành cùng Xương Ý nhìn nhau rồi dừng bước cách đó xa xa, mỗi người đặt tay lên một gốc dâu, khai mở mệnh môn để linh lực cuồn cuộn chảy vào thân cây, giúp Đại ca trị thương. Thoắt chốc, gốc dâu bỗng xanh biếc lên như thể sắp phát sáng, mẫu đơn trắng trong lưu ly giới càng nở càng nhiều, hàn khí cũng mỗi lúc một thêm lạnh buốt.


Tiếc rằng Thanh Dương chẳng những không tiếp nhận ý tốt của hai em mà còn trách bọn họ lắm chuyện, mấy đóa mẫu đơn đột ngột bay vút lên, đập thẳng vào mặt A Hành cùng Xương Ý, khiến hai người chưa kịp trở tay đã bị đông cứng, biến thành hai trụ băng.


Bỗng nhiên, tất cả mẫu đơn trắng đều bay lên vây quanh bóng áo lam đó, đồng thời ngàn vạn đóa mẫu đơn to bằng miệng bát cũng đua nhau bừng nở giữa bầu không, liên miên bất tuyệt, rực rỡ vô ngần khiến cả đất trời như hóa thành lưu ly hoa giới, đẹp đến ngỡ ngàng.


Hồi lâu Thanh Dương mới từ từ mở mắt, những đóa mẫu đơn trắng kia cũng tan đi hết, hóa thành bông tuyết lả tả rơi xuống, trắng xóa cả đất trời.


Thanh Dương chắp tay đứng dậy, ngẩng đầu ngắm tuyết bay đầy trời, y đứng hồi lâu mà cả người chẳng bám một bông tuyết, trong khi Xương Ý và A Hành đã bị tuyết đóng trắng toát mày mi.


Ngắm tuyết chán chê, Thanh Dương mới ung dung tiến lại giải khai pháp thuật cho hai em, lập tức băng tuyết trên mình Xương Ý và A Hành tan biến. Xương Ý đã lạnh đến tím tái, A Hành cũng răng đập lập cập, phải liên tục nhảy lên cho đỡ rét. Thanh Dương lạnh lùng nhìn nàng: “Muội ở Ngọc sơn sáu mươi năm mà chẳng khá lên chút nào, đến lợn mang lên đó chăn lâu như vậy cũng phải tu thành nội đan rồi chứ.”


Mắng A Hành xong, Thanh Dương quay sang nhìn Xương Ý, khiến y vội cúi gằm mặt xuống.


A Hành không dám cãi, chỉ biết luồn ra sau lưng Thanh Dương tay đấm chân đá với bóng lưng y một hồi, vừa đánh vừa mắng không ra tiếng. Thình lình Thanh Dương ngoảnh phắt lại trừng mắt nhìn A Hành, nàng lập tức làm bộ vận động thân thể, vung tay duỗi chân, vờ vịt nói: “Tay chân muội đông cứng cả rồi, phải vận động một chút kẻo thành tật thì gay.”


Nói rồi nàng nhảy tới bên cạnh Xương Ý: “Hiếm lắm mới được một lần trời đổ tuyết vào tháng Sáu, mình đi bắt hươu về nướng để trục hàn đi.” Đoạn nắm tay Xương Ý định kéo đi.


Xương Ý gọi to: “Đại ca, đi cùng bọn đệ đi! Khó khăn lắm huynh muội mới tụ họp thế này, mai phải chia tay rồi, biết bao giờ lại tề tựu nữa?”


Thanh Dương chỉ lạnh nhạt buông một câu: “Ta còn công chuyện phải xử lý.” Vừa dứt lời, y đã bay vụt lên cao cả trượng.


Xương Ý lặng lẽ nhìn theo bóng Đại ca, ánh mắt vừa nể phục, vừa âm thầm xót xa.


A Hành giật giật tay áo Tứ ca: “Thôi, Đại ca lúc nào mà chẳng thế, mình cứ đi chơi đi. Đại ca đi cùng lại mắng muội lười tu tập rồi quay sang chỉ trích huynh chẳng tạo dựng được thành tích gì trên đất phong, mất hết cả hứng.”


Xương Ý mở miệng như thể định nói gì đó nhưng lại nén xuống.


A Hành cùng Xương Ý lấy cung tên hồi nhỏ quen dùng, đi sâu vào núi săn hươu. Hai người giao hẹn không được dùng linh lực ra soát mà phải tự mình lần theo dấu vết để săn tìm.


Sục sạo suốt mấy canh giờ chẳng thấy tăm tích hươu nai đâu cả, cả hai không lấy thế làm điều, cứ vừa tìm quanh quẩn vừa trò chuyện.


Xương Ý dò hỏi: “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?”


A Hành nhìn quanh, thuận miệng đáp: “Còn thế nào nữa? Chẳng phải cũng có một cái mũi hai con mắt sao? Có điều muội cứ thắc mắc hoài, nếu có bảng xếp hạng anh hùng thiên hạ thì Đại ca đứng hàng thứ mấy nhỉ? Ở trên Ngọc sơn muội mới biết Đại ca cũng từng tham dự tiệc Bàn Đào, thật chẳng giống tính tình huynh ấy gì cả!”


Xương Ý cười nói: “Chuyện này còn có ẩn tình, dạo đó Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân nắm được thuật Âm Tập, có thể hủy hoại thiên quân vạn mã trong chốc lát, đừng nói Cao Tân mà khắp đại hoang đều sùng bái trọng nể y, cho tới một lần Đại ca đột nhiên tới dự tiệc Bàn Đào, đánh cho Yến Long thảm bại, từ đó cả đại hoang bắt đầu tôn kính e sợ cái tên Hiên Viên Thanh Dương.”


“Đánh bại là được rồi, sao còn phải đánh cho thảm bại? Yến Long đắc tội với Đại ca ư?”


“Ta không biết nữa, Đại ca có bao giờ tâm sự chuyện của mình đâu. Theo ta đoán, chắc hẳn chuyện có liên quan tới Thiếu Hạo. Có lần ta đi sứ sang Cao Tân, thấy Yến Long đang lên như diều gặp gió, lại được Tuấn Đế sủng ái, dám ngang nhiên sỉ nhục Thiếu Hạo ngay trước mặt bá quan văn võ mà Thiếu Hạo vẫn làm thinh cam chịu, thật chẳng hiểu y nghĩ cái gì nữa. Lúc về Đại ca hỏi han những điều tai nghe mắt thấy ở đó, ta bèn thật thà kể lại chuyện bất hòa giữa Thiếu Hạo và Yến Long, bấy giờ Đại ca chẳng tỏ vẻ gì, nhưng năm sau liền đi dự tiệc Bàn Đào, khiến Yến Long bị một phen bẽ mặt trước cả đại hoang. Giải thưởng năm đó là một cây ngũ huyền cầm làm từ xương phượng hoàng. Đại ca đoạt được bảo cầm liền trao cho sứ giả Cao Tân ngay trước mặt mọi người trong Thần tộc, nhờ chuyển tới Thiếu Hạo, nói rằng mình từng bại dưới tay Thiếu Hạo, đã hứa sẽ tặng y một cây danh cầm.”


A Hành chép miệng, “Vậy chẳng phải tuyên cáo toàn thiên hạ rằng Yến Long không đáng xách dép cho Thiếu Hạo sao?”


Xương Ý phụ họa: “Chứ còn gì nữa!”


A Hành rầu rĩ: “Sao Đại ca thân thiết với Thiếu Hạo thế nhỉ?”


“Lúc Đại ca quen y, phụ vương mới là tộc trưởng một tộc nhỏ trong Thần tộc, Đại ca chỉ là một thiếu niên Thần tộc bình thường, mà Thiếu Hạo cũng chỉ là một gã thợ rèn lành nghề thôi.” Xương Ý thở dài, “Có lẽ tình bạn khi đó mới là tình bạn thuần túy nhất, giống như trong truyền thuyết vậy, một lời đã hứa là phó thác cả sống chết.”


A Hành tiếp lời: “Nghe hay quá, Tứ ca kể tiếp đi.”


“Bọn họ quen nhau mấy trăm năm ta mới ra đời nên chỉ biết đến thế thôi, sau này muội thử hỏi Thiếu Hạo mà xem, hy vọng y cởi mở hơn Đại ca.”


Sực nhớ lời Vân Tang kể, A Hành liền hỏi: “Tứ ca, huynh có quen Nặc Nại không?”


“Ở Cao Tân ta thân với Nặc Nại nhất, y thạo bố trí cơ quan, chế tạo binh khí rất độc đáo, giỏi vẽ tranh sơn thủy viên lâm, thường đem những họa đồ mình tâm đắc ra trao đổi cùng ta. Nghe Đại ca nói y sắp thành thân, ta cũng đã chuẩn bị xong quà mừng thì lại thấy Đại ca bảo hãy khoan đừng tặng vội.”


“Sao thế?”


“Quân đội Cao Tân chia ra năm chi, trong đó bốn chi là Thanh Long bộ, Hy Hòa bộ, Bạch Hổ bộ và Thường Hy bộ, còn lại một chi tập hợp hết tinh anh năm tộc, tên là Ngũ Thần quân, chỉ Tuấn Đế mới có thể điều động. Mẫu thân Thiếu Hạo xuất thân từ Thanh Long bộ nên đó cũng xem như là phe cánh của y. Tuấn Hậu hiện thời là người Thường Hy bộ, bởi thế bọn Yến Long, Trung Dung, mấy huynh đệ chung một mẹ nắm giữ hai bộ Thường Hy, Bạch Hổ, Hy Hòa bộ giữ thế trung lập nên cả Thiếu Hạo và Yến Long đều đang ra sức tranh giành, mà Nặc Nại lại là đại tướng quân của bộ này. Nghe Đại ca nói, vợ sắp cưới của y thuộc Thường Hy bộ, hình như còn có họ hàng với Yến Long, điều này rất bất lợi cho Thiếu Hạo, bởi vậy cuộc hôn nhân này có thành được hay không kể cũng khó nói…” Xương Ý sực nhận ra mình đã nhiều lời bèn cười cười vỗ đầu em gái, “Nghe lằng nhằng quá nhỉ? Thôi, không nói mấy chuyện chán ngắt đó nữa.”


Hóa ra là vậy, hèn chi Vân Tang nói chuyện nội bộ vương tộc rất phức tạp. A Hành chỉ thấy lòng nặng trĩu, trên tiệc Bàn Đào, Đại ca ra tay đánh bại Yến Long, thoạt nhìn có vẻ nghĩa khí, giành lại công bằng cho Thiếu Hạo, nhưng Hiên Viên thông gia cùng Thiếu Hạo, chung hưởng vinh nhục, biết đâu thứ mà Thanh Dương bảo vệ chính là lợi ích bản thân?


Thấy A Hành trầm ngâm hồi lâu, Xương Ý cười xoa dịu: “Mấy chuyện vớ vẩn đó muội nghe cho vui thôi, nghĩ nhiều mà làm gì.”


A Hành cũng cười theo, hỏi lảng sang chuyện khác: “Tứ ca, huynh đã để ý cô nào chưa?”


Xương Ý làm thinh không đáp nhưng mặt bỗng đỏ bừng lên rất đáng nghi.


Nhìn bộ dạng y, A Hành liền vỗ tay cười khanh khách khiến chim chóc trong rừng hoảng hốt bay lên rào rào.


“Người ta trông thế nào? Huynh đã thổ lộ với người ta chưa? Người ta có thích huynh không?”


Xương Ý nghiêm mặt mắng: “Con gái con đứa đừng có suốt ngày leo lẻo cái miệng nói thích với không thích.”


A Hành cười ngặt nghẽo, nhảy chân sáo mấy bước rồi khum tay làm loa, hô vang với cả núi rừng: “Ca ca ta có người trong mộng rồi!” Dứt lời nàng vội chạy vụt đi.


Tiếng vọng trong sơn cốc cứ vẳng đi vẳng lại, có người trong mộng rồi, có người trong mộng rồi…


A Hành vừa cười khoái chí vừa nhăn mặt hề trêu Xương Ý, huynh không cho nói thì muội cứ nói đấy, huynh làm gì được nào?


Xương Ý không nỡ mắng, càng chẳng nỡ đánh em gái, đành nghiêm mặt đi thẳng.


A Hành chắp tay sau lưng, nghiêng đầu ngoẹo cổ cười hì hì bám theo sau Xương Ý, thấy y đã nguôi giận mới sán lại kéo tay áo nũng nịu: “Người ta trông thế nào? Liệu người ta có thích muội không?”


Xương Ý cười hiền, “Nhất định nàng sẽ thích muội. Nàng thường hỏi han sở thích của muội và Đại ca, cứ lo lắng chẳng biết hai người có ưa nàng không?”


A Hành níu lấy tay Xương Ý cười: “Miễn là huynh thích người ta thì muội cũng thích, muội sẽ kính yêu người ta như tỷ tỷ vậy.”


Xương Ý không đáp, chỉ giơ tay xoa đầu em gái, vò cho tóc nàng rối tung rồi chẳng đợi A Hành kịp phản ứng, y cười phá lên, chuồn thẳng.


A Hành chỉ biết tức tối vừa réo gọi vừa đuổi theo y.


Lang thang trong núi suốt một ngày trời chẳng bắt được con hươu nào, A Hành cùng Xương Ý vẫn hớn hở quay về, cười cười nói nói, người này xô kẻ kia đẩy, ầm ĩ cả lên.


Luy Tổ đang dùng trà cùng Thanh Dương trong Triêu Vân điện, chợt tiếng cười nói xôn xao của hai người từ xa đưa lại, phá vỡ cả bầu không khí yên lặng.


Thấy Thanh Dương ngẩng lên nhìn mình, A Hành liền làm mặt hề với y rồi sán lại ngồi bên Luy Tổ, nũng nịu gọi “mẹ”, như thể ngầm ra vẻ: muội có mẹ bênh vực, không thèm sợ huynh!


Nàng vừa cười vừa mách: “Mẹ, nghe con kể bí mật này nè.”


Xương Ý lập tức đỏ mặt tía tai, “A Hành, không được nói!”


A Hành lờ tịt đi, “Mẹ, Tứ ca có…”


Xương Ý cuống quýt nhào tới toan bịt miệng nàng lại, A Hành vừa chạy vòng vòng quanh mẹ và Đại ca vừa cười khanh khách, mấy lần mở miệng đều bị Xương Ý đuổi đánh, linh lực nàng không bì được với y, rượt đuổi một hồi mệt lả cả người liền giở trò rúc ngay vào lòng mẹ trốn: “Mẹ, mẹ giúp con với, Tứ ca ỷ lớn ăn hiếp con.”


Luy Tổ vốn lạnh lùng nghiêm khắc cũng phải bật cười ôm con gái vào lòng mắng yêu: “Hai đứa bay nghịch như quỷ, vừa đến đã làm loạn cả điện Triêu Vân lên rồi.”


A Hành rúc vào lòng mẹ cười khúc khích, hai tay ôm lấy cổ bà, thì thầm nói nhỏ vào tai, vừa nói vừa lườm Xương Ý, mẹ nàng cũng nghiêng đầu vừa nghe vừa tủm tỉm cười.


Thấy mẹ lộ vẻ tươi cười, Xương Ý quên khuấy cả bắt A Hành, lúc này đây ánh mắt Luy Tổ chỉ chan hòa những vui mừng, chẳng bợn một tia u ám. Bất giác y ngoảnh sang nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương cũng đang chăm chú nhìn mẹ và em gái, mặt thấp thoáng nét cười.


Xương Ý cốc cho A Hành một cái đau điếng: “Đồ hớt lẻo nhà muội, về sau đừng hòng ta kể cho nghe chuyện gì nữa nhé.”


A Hành lè lưỡi với Xương Ý, chẳng chút sợ hãi, trong khi Luy Tổ tươi cười nhìn con trai, “Con lựa lúc nào thích hợp dắt cô ấy đến gặp ta.” Nghĩ ngợi một lát, bà lại nói, “Như vậy không ổn, chúng ta là đằng trai, có lẽ nên tới thăm trước để tỏ ý tôn trọng nhà gái thì hơn, con xem chừng nào thích hợp để ta đích thân đi Nhược Thủy một chuyến, tới thăm cha mẹ cô ấy. Con trở về nhớ lưu tâm xem cha mẹ cô ấy thích ăn gì rồi viết thư cho ta biết để chuẩn bị cho tốt.”


Nhược Thủy là đất phong của Xương Ý, non xanh nước biếc, người dân thuần phác, người trong mộng của Xương Ý cũng là một cô gái Nhược Thủy tộc.


Xương Ý nghe nói liền đỏ mặt tía tai cúi đầu thấp khẽ đáp: “Bây giờ con và cô ấy mới chỉ là bạn bè bình thường thôi.”


Luy Tổ lắc đầu cười: “Con là đàn ông con trai, lẽ nào còn đợi cô nương nhà người ta thổ lộ trước ư? Đã có lòng với cô ấy thì mọi chuyện phải nghĩ cho cô ấy nhiều hơn nữa, đừng để lỡ làng tình cảm của người ta.”


“Dạ, con hiểu rồi.”


A Hành rúc trong lòng mẹ cười toe toét: “May mà mẹ nhắc nhở, bằng không cứ cái tính lề dề của Tứ ca, không làm cô nương nhà người ta sốt ruột đến chết thì cũng khiến tẩu tẩu tương lai của con phải đêm đêm thao thức dứt cánh hoa bói xem rốt cuộc Tứ ca có ý tứ gì với mình hay không!” Nói rồi A Hành vẫy tay, một đóa hoa trong bình bay tới, nàng bắt đầu làm bộ dứt cánh hoa bói, “Có tình ý, không có tình ý, có tình ý, không có tình ý…”


Xương Ý tức tối lại định cốc nàng, “Mẹ cũng phải bảo ban A Hành để nó biết tôn kính các ca ca chứ.”


Luy Tổ ôm con gái trong tay, nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang Thanh Dương, lòng mãn nguyện khôn xiết, bèn tươi cười quay sang bảo thị nữ: “Đem rượu cùng dâu lạnh mới hái ban ngày tới đây. Xương Ý và A Hành thích ăn thứ đó, nhớ mang nhiều vào, còn nữa, trong vò có bánh băng trà, đừng đem tới một lượt, cứ ăn hết rồi lại lấy thêm, Thanh Dương thích ăn đồ mới lấy ra kia.”


Đám thị nữ mau mắn dạ ran rồi thoăn thoắt đi lấy, chỉ trong chốc lát đã bưng tới.


A Hành ngồi tựa vào lòng mẹ tươi cười nhìn các anh, đoạn bốc một vốc dâu lạnh đưa lên miệng, thấy vị ngọt mát thấm vào tận ruột gan, nàng tủm tỉm cười thầm nghĩ, mình nhầm to rồi, điện Triêu Vân đâu có như trên Ngọc sơn!


Bốn mẹ con vừa uống rượu vừa nói chuyện nhà đến tận hết giờ Tý.


Thanh Dương sai Xương Ý đưa Luy Tổ về phòng còn mình phụ trách A Hành. Về tới cửa, A Hành cười tiễn khách: “Muội đi nghỉ đây, Đại ca cũng nghỉ ngơi đi.”


Nào ngờ Thanh Dương theo chân nàng vào phòng rồi xoay tay đóng cửa lại, như thể có chuyện cần nói.


A Hành than thầm trong bụng nhưng không dám lộ ra ngoài mặt, đành xốc lại tinh thần chuẩn bị nghe giáo huấn.


Thanh Dương thản nhiên hỏi: “Từ Ngọc sơn về, theo lý thì hôm qua đã đến rồi, sao sáng nay muội mới về tới?”


“Thiếu Hạo bị thương nên bọn muội về chậm mấy canh giờ.”


Đối diện ánh mắt lạnh lùng sắc sảo của Đại ca, A Hành biết mình không dối gạt nổi, đành nói tiếp: “Sau đó bọn muội cũng chưa lên đường ngay, còn chuyện phiếm một hồi nữa.”


“Một hồi ư?”


“Một đêm ạ.”


Thanh Dương chợt bước tới bên song, nhìn ra rừng dâu ngoài cửa sổ, “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?”


Hồi sáng Tứ ca cũng đã hỏi qua nàng chuyện này, nhưng giờ nàng không thể trả lời Đại ca qua quýt như với Tứ ca được, đành trầm ngâm nghĩ cách đáp lại, tiếc rằng càng nghĩ càng bối rối.


Thanh Dương đợi mãi không thấy em gái trả lời, có điều, như vậy cũng là một đáp án. Y khẽ cười, “Thiếu Hạo rất tốt, chỉ cần y muốn thì chẳng cô gái nào trên đời nỡ từ chối y đâu.” Mặt A Hành dần đỏ ửng lên, đột nhiên Thanh Dương quay lại nhìn nàng, nói tiếp, “Nhưng muội sẽ là người duy nhất trên đời phải từ chối y, muội không thể thích y được.”


A Hành quá đỗi ngạc nhiên, buột miệng hỏi: “Sao lại thế? Chẳng phải hai người là bạn thân ư?”


“Thanh Dương và Thiếu Hạo là bạn thân nhưng Hiên Viên Thanh Dương và Cao Tân Thiếu Hạo thì chưa chắc. Hẳn muội cũng biết phụ vương luôn ôm mộng thống nhất Trung nguyên, thậm chí là thống nhất cả thiên hạ, nói không chừng một ngày nào đó ta và Thiếu Hạo sẽ gặp nhau trên chiến trường, đôi bên đều phải dốc hết tinh lực dồn đối phương vào tử địa.” Thanh Dương vừa nói vừa mỉm cười hờ hững, tựa hồ đang kể một mẩu chuyện vu vơ kiểu “Ôi, e rằng mai thời tiết xấu” vậy.


Sắc hồng trên mặt A Hành tan dần, chuyển thành tái nhợt, “Nhưng muội vẫn phải lấy y, bởi vì muội là Hiên Viên Bạt, còn y là Cao Tân Thiếu Hạo.”


“Đúng, muội vẫn phải lấy y, thế nên điều duy nhất muội có thể làm là đừng động lòng trước y.” Thanh Dương hừ mũi, ánh mắt chợt lạnh buốt, “Ta ngỡ rằng Thiếu Hạo sẽ nể mặt ta mà hạ thủ lưu tình, nào ngờ y lại hao phí tâm tư cả một đêm vì muội.”


A Hành cúi đầu khẽ thanh minh: “Không liên quan tới y, là muội muốn hiểu y hơn nên chủ động làm thân thôi, biết y mê rượu, muội mới dốc sức mượn rượu để khơi gợi hứng thú trò chuyện của y.”


Thanh Dương bước đến gần nâng cằm em gái lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Muội ngàn vạn lần đừng làm chuyện dại dột như vậy nữa! Y là Cao Tân Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà ngay cả ta còn phải kiêng dè! Chẳng phải lúc nào y cũng nể giao tình giữa ta và y mà nhân từ nhắc nhở bản thân không biến muội thành con cờ trong tay y đâu…”


A Hành bắt đầu rơm rớm nước mắt nhưng vẫn quật cường cắn môi nén khóc.


Thanh Dương nói tiếp: “Trong lòng ta và Thiếu Hạo đều có quá nhiều thứ, ví như nước nhà, thiên hạ, trách nhiệm, quyền lực… chẳng biết phải xếp phụ nữ vào đâu nữa. Thế nên, vì chính bản thân mình, muội cứ coi y như người dưng là tốt nhất.”


A Hành lạnh lùng giễu cợt: “Đúng là phải cảm tạ Đại ca đã nghĩ chu toàn cho muội đến vậy. Chẳng hay rốt cuộc huynh lo Thiếu Hạo biến muội thành quân cờ hay lo rằng muội không thể làm quân cờ cho huynh và phụ vương?”


Thanh Dương trầm ngâm hồi lâu mới đáp: “Dù muội có chấp nhận hay không thì đây cũng là sự thật, ai bảo muội mang họ Hiên Viên chứ?” Nói rồi y xô cửa đi thẳng.


A Hành uể oải tựa vào thành giường, lòng ngập những bi thương. Mẹ và Tứ ca luôn giữ nàng tránh xa mọi đấu tranh đen tối, chỉ mong sao nàng mãi mãi là một Tây Lăng Hành tự do tự tại, nhưng Đại ca lại không ngừng nhắc nhở từng giây từng phút rằng nàng họ Hiên Viên, tên Bạt, là vương cơ của Hiên Viên.


A Hành mệt nhoài dựa vào giường rồi mơ mơ màng màng thiếp đi, chẳng buồn cởi bỏ y phục, mãi đến khi những tiếng động bên ngoài khiến nàng bừng tỉnh, vội mở cửa hỏi thị nữ: “Sao ồn ào thế?”


“Bẩm vương cơ, nửa đêm có trộm lẻn vào điện Triêu Vân.” Thị nữ đáp mà vẻ mặt vẫn ngỡ ngàng như đang mê ngủ, tựa hồ còn chưa dám tin.


A Hành cũng vô cùng kinh ngạc, “Tên trộm này xui thật, ngày nào không tới, lại tới đúng hôm nay để dâng đầu dưới kiếm Đại ca, đúng là tự tìm đường chết mà!”


Thị nữ gật đầu, vẻ mặt đầy ngạc nhiên, “Phải ạ, đi ăn trộm cũng chẳng nên thân, sao hắn lại chọn đúng ngày thế chứ? Quả là gan to bằng trời!”


Gan to bằng trời ư? A Hành bỗng giật thót mình, vội hỏi, “Trông tên trộm đó thế nào?”


“Tâu vương cơ, hắn đeo mặt nạ gỗ nên không trông rõ dung mạo.”


“Hắn đang ở đâu?”


“Ở Tả Sương điện, chỗ Đại điện hạ và Tứ điện hạ.”


Thấy A Hành tức tốc chạy ngay tới đó, thị nữ cuống quýt gọi với theo, “Xin vương cơ chậm lại một chút, điện hạ đã dặn bọn nô tỳ phải bảo vệ vương cơ.”


A Hành chạy thẳng một mạch tới Tả Sương điện, túm lấy một tên thị vệ hỏi thăm: “Kẻ trộm đâu rồi?”


Tên thị vệ vội đáp: “Tên trộm đó xông vào phòng của Tứ điện hạ, bắt giữ Tứ điện hạ.”


A Hành giận dữ mắng, “Đúng là khốn kiếp!”


Nghe nàng mắng mỏ, gã thị vệ liền quỳ xuống hốt hoảng van xin: “Thuộc hạ biết tội.”


Thấy vậy, A Hành mệt mỏi xua tay: “Không phải ta nói ngươi đâu.”


A Hành xông thẳng vào, thấy chỉ có mình Thanh Dương đứng khoanh tay giữa Tả Sương điện, vẻ mặt bình thản, nghe tiếng chân nàng, y liền nạt: “Ai cho muội vào? Ra ngay!”


A Hành liếc về phía phòng Tứ ca, thấy cửa đóng im ỉm, nàng toan dùng linh thức dò xét xem sao, có điều linh lực của nàng quá yếu, không vượt qua nổi cấm chế.


Thanh Dương đứng ngay trước cửa, chậm rãi rút trường kiếm, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi tự mình bước ra, ta sẽ để ngươi chết toàn thây.”


Trong phòng liền vọng ra tiếng cười biếng nhác, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi dám xông vào thì là đồ ba ba, nếu ngươi không dám xông vào thì là đồ rùa đen.”


Trên đời còn ai dám nói cái giọng đó với Hiên Viên Thanh Dương nữa? Tuy Xi Vưu đã thay đổi giọng nói nhưng khẩu khí này trừ hắn ra chẳng còn kẻ thứ hai nào cả. A Hành cắn môi nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương vẫn bình thản, mặt không đổi sắc, hắn nhẹ nhàng vung kiếm lên, chẳng gây ra bất cứ tiếng động nào nhưng căn phòng trước mắt cứ nứt ra từng mảng rồi tan rã hệt như gỗ mục, chỉ trong nháy mắt, trước mặt Thanh Dương đã chẳng còn phòng ốc, chỉ còn trơ lại một mảnh đất trống.


Mặt đất phủ đầy cây cối vâm váp xanh um, lan mãi vào tận rừng dâu. Xương Ý bị treo lủng lẳng trên cành giữa lưng chừng trời, đầu gục xuống, cả người bê bết máu, tử khí tràn ngập xung quanh, chẳng chút sinh cơ.


“Tứ ca…” A Hành tan nát cả cõi lòng, thét lên một tiếng nhào tới.


Kiếm của Thanh Dương cũng run lên, tuy chỉ thoáng run rẩy nhưng Xi Vưu nấp sau đám cây đã chớp ngay được thời cơ ngàn năm có một đó, hắn dốc toàn lực nhảy bật lên, tay nắm chặt thanh đao đẫm máu, cười ha hả nói, “Thanh đao này đã giết chết đệ đệ ngươi đấy.”


Thanh Dương nổi giận vung kiếm, chỉ trong nháy mắt, cả đất trời phủ rợp kiếm quang loang loáng. Sau mười mấy chiêu, kiếm của Thanh Dương đã đâm vào ngực Xi Vưu, sát khí chạy thẳng vào tim, đúng lúc Xi Vưu sắp mất mạng, Thanh Dương chợt ngừng tay lại, truyền mấy tia linh lực vào tim Xi Vưu, khiến cả người hắn run bắn lên vì đau đớn.


Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt nhưng chẳng hề tỏ vẻ sợ hãi, trái lại hắn còn gật đầu cười, “Thật không hổ là Hiên Viên Thanh Dương! Ta đã bố trí hết mê chướng này đến mê chướng khác nhằm chọc giận ngươi, chỉ mong ngươi nổi giận để lộ sơ hở, nào ngờ hết thảy đều vô ích, ngược lại còn mắc mưu ngươi, vừa nãy ngươi run tay là để gạt ta, để ta ngỡ rằng mình có cơ hội mà tự chui đầu vào miệng cọp chứ gì!”


Thanh Dương mỉm cười lạnh nhạt thốt: “Sao lại vô ích? Ta không giết ngươi đâu, để ngươi sống mà ăn năn.”


Xi Vưu nhếch miệng cười, mặt nạ gỗ chỉ che được nửa trên mặt, vừa cười đã lộ ra hàm răng trắng bóng, hắn nhơn nhơn nói, như thể kẻ ngực bị kiếm đâm, tim bị kiếm khí bóp nghẹt kia chẳng liên quan gì tới mình, “Vậy chắc ngươi đã phạm phải sai lầm lớn rồi.”


Đột nhiên hắn vung đao lên dụng lực chém một đao, ngọn đao mang theo lực đạo sấm sét, lấp loáng như sao băng chém xuống, nhưng mục tiêu chẳng phải Thanh Dương mà lại là chính bản thân hắn.


Thanh Dương thoáng sững người, tới chừng y kịp định thần lại thì đã muộn, lưỡi đao đã chém vào ngực Xi Vưu, chặt gãy thanh kiếm của y, đổi lại Xi Vưu cũng phải trả giá đắt, từ một vết kiếm thương trên ngực giờ lại thành một vành trăng non kéo dài từ ngực xuống bụng, máu phun như suối.


Trong tiếng cười khanh khách, Xi Vưu tung mình nhảy vào rừng dâu, nhanh chóng khuất sau ngàn dâu xanh ngắt.


Thanh Dương cầm thanh kiếm gãy đuổi theo, nhưng trong rừng cây lá dập dờn, khuất trời rợp đất, chẳng nhìn thấy gì cả, y đành dừng bước cao giọng nói, “Nể tình ngươi gan dạ như vậy, ta sẽ chôn cất ngươi tử tế.”


Chẳng nghe tiếng đáp, chỉ có lá dâu rợp trời xào xạc.


Thanh Dương giơ thanh kiếm gãy lên soi dưới ánh trăng vằng vặc, thanh kiếm này đã theo y cả ngàn năm, nào ngờ đêm nay lại bị hủy. Thanh Dương thu kiếm quay lại, trông thấy A Hành đang ngồi bệt dưới đất, ôm trong tay tấm thân bất động bê bết máu của Xương Ý.


A Hành kinh hoàng trân trân nhìn về phía trước, tròng mắt đờ dại.


Thanh Dương vội bước lại ngồi xuống bên cạnh, vỗ về nàng, “Không sao cả, muội đừng sợ, Xương Ý không bị thương thật đâu, đó chỉ là mê chướng mà tên trộm tạo ra để chọc giận ta thôi.” Thanh Dương chỉ phẩy tay qua người Xương Ý, lập tức máu me trên mình y đều biến mất.


Bấy giờ máu huyết trong người A Hành dường như mới lưu thông trở lại, nàng buột miệng “A, a…” mấy tiếng, cả người run bần bật, không cất nổi thành lời, nước mắt lã chã, thình lình nàng vung tay đấm Thanh Dương một quyền.


Thanh Dương không hề tránh né, vừa nãy y biết rõ Xương Ý còn sống nhưng vẫn để mặc A Hành đau đớn chết cả cõi lòng, chẳng khác nào gián tiếp lợi dụng nàng dẫn dụ kẻ địch.


Xương Ý mơ màng mở mắt hỏi, “Sao thế?”


Thanh Dương chạy thẳng vào rừng dâu, nói vọng lại, “Xương Ý, đệ đưa A Hành về Hữu Sương điện nghỉ ngơi. Tên trộm kia bị thương rất nặng, hắn đã liều chết phá cấm chế ở Triêu Vân điệu bỏ chạy rồi, nhưng ta vẫn phải đi kiểm tra một vòng xem sao.” Vừa dứt lời, y đã mất dạng.


Thấy A Hành vẫn khóc lóc thảm thiết, Xương Ý chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, chỉ biết ôm lấy muội muội dỗ dành: “Không sao đâu, đừng khóc, nín đi. Không sao mà, muội ngoan nào…”


A Hành cứ khóc hoài khóc mãi, đột nhiên ngẩng lên hỏi: “Vừa rồi đại ca nói gì thế?”


Xương Ý đáp: “Đại ca bảo phải tra xét một vòng xem sao.”


Nghe vậy A Hành lập tức đứng phắt dậy, vén quần định chạy, Xương Ý vội đuổi theo sau: “Muội định làm gì?”


A Hành khựng lại, cúi đầu nghĩ ngợi rồi lên tiếng: “Chúng ta về nghỉ ngơi đi.”


Xương Ý lẩm bẩm một mình: “Tên trộm này cả gan xông vào tận Triêu Vân điện, vậy mà lại thoát được tay Đại ca, hẳn chẳng phải phường vô danh tiểu tốt, nhưng kẻ nào làm ra chuyện này mới được chứ? Trên Triêu Vân phong đâu có báu vật gì đâu.”


Về tới phòng mình, A Hành rút Trụ Nhan hoa ra, biến thành một cành đào cắm vào bình. Đoạn nàng để nguyên quần áo nằm xuống giường ngủ tiếp.


Chỉ lát sau đã nghe thấy tiếng cửa sổ lạch cạch rồi một bóng người lần tới bên giường. A Hành bật ngay dậy, chủy thủ trên tay kề vào cổ kẻ đột nhập.


Xi Vưu gỡ mặt nạ ra, để lộ gương mặt tái nhợt, nụ cười nhơn nhơn vẫn nguyên vẹn trên môi.


A Hành căm hận vẻ nhơn nhơn này của hắn khôn xiết, bèn ấn chủy thủ vào thêm mấy phân để lưỡi dao đâm vào da thịt hắn, máu ri rỉ ứa ra, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì đây?”


“Ta tới gặp cô mà!”


A Hành đâm sâu thêm một phân, máu tươi nhỏ xuống, “Sao không đàng hoàng cầu kiến mà nửa đêm nửa hôm lại xông vào Triêu Vân điện?”


“Nếu ta trực tiếp cầu kiến Hiên Viên Bạt, liệu Hiên Viên Bạt có chịu gặp ta không? Mẫu hậu của Hiên Viên Bạt chịu cho phép ta lên núi sao? Hơn nữa, người ta muốn gặp là Tây Lăng Hành chứ không phải Hiên Viên Bạt.” Xi Vưu nắm lấy bàn tay cầm chủy thủ của nàng, “Cô muốn làm Tây Lăng Hành hơn phải không?”


A Hành không đáp, chỉ có bàn tay từ từ lỏng ra, thanh chủy thủ rơi xuống chân Xi Vưu, hắn cười cười liếc nàng, “Thế này càng hay, ta chẳng những xông vào Triêu Vân điện mà còn xông cả vào khuê phòng của cô nữa. Vợ yêu, nếu cô chịu để ta ôm cô nằm xuống giường một lát, coi như ta đi không uổng chuyến này.”


A Hành giận đến nỗi chỉ muốn đập chết hắn, nghiến răng nghiến lợi đáp: “Cũng phải xem ngươi còn mạng mà nằm không!”


Đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng trò chuyện, là giọng của Xương Ý: “Đại ca, huynh tìm thấy rồi à?”


A Hành hốt hoảng đẩy Xi Vưu vào giường, buông màn xuống rồi trùm chăn che kín người hắn đoạn áp mình vào khe rèm, dỏng tai nghe ngóng, căng thẳng nhìn chằm chằm cánh cửa.


“Chưa thấy. Tên trộm này hình như từng lớn lên giữa núi rừng như dã thú, hoặc đã được huấn luyện đặc biệt như dã thú nên rất giỏi che giấu tung tích, có điều ta luôn cảm thấy hắn chỉ ở quanh đây chứ chưa chạy xa được, đệ mau dẫn thị vệ lục soát kỹ Triêu Vân điện một lần xem. Phải tra xét tất cả phòng ốc.”


Chỉ nghe Xương Ý đáp “dạ”, sau đó tiếng trò chuyện ngưng bặt.


Tim A Hành nhảy thót lên tới cổ họng bấy giờ mới trôi trở xuống, nàng vừa ôm ngực quay lại đã thấy Xi Vưu gối bằng gối của mình, ôm chăn của mình, toe toét cười còn đắc ý hơn cả cáo bắt được gà.


A Hành chỉ muốn cho Xi Vưu một bạt tai để hắn dẹp nụ cười đó đi.


Xi Vưu chớt nhả: “Giường cũng nằm rồi, chỉ thiếu chưa ôm được cô thôi.”


A Hành cười nhạt: “Ngươi đừng mơ!”


“Mơ á?” Xi Vưu cười toe toét, chớp chớp mắt nhìn A Hành khiến nàng sởn cả gai ốc, đang định nghiêm khắc cảnh cáo hắn không được làm bậy thì nghe thấy tiếng chân gấp gáp bên ngoài, rồi tiếng đập cửa ầm ầm của Xương Ý: “A Hành, A Hành…”


A Hành vội lên tiếng: “Sao thế? Muội ở đây!”


Xương Ý hỏi: “Huynh cảm thấy trong phòng muội có một luồng linh khí lạ, muội không sao chứ?”


“Muội có sao đâu.”


Xương Ý đời nào chịu tin, đột ngột đẩy cửa xông vào, A Hành thấy vậy lập tức chui ngay vào chăn, tiện tay ấn luôn đầu Xi Vưu xuống, hắn liền thừa cơ ôm chầm lấy nàng.


A Hành nào dám vùng vẫy, chỉ biết rủa thầm trong bụng, nàng vén màn lên, làm bộ ngái ngủ nhìn Xương Ý: “Tứ ca, rốt cuộc làm sao thế?”


Xương Ý nhắm nghiền mắt, dùng linh thức rà soát kỹ một hồi rồi nghi hoặc lắc đầu, “Không sao, có lẽ cảm giác của ta nhầm.”


A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm đã bị Xương Ý nhìn chằm chằm, hỏi: “Mọi khi muội thích góp vui lắm kia mà, sao hôm nay lại ngoan ngoãn hiền hòa thế?”


A Hành cười trừ, cố giữ vẻ thản nhiên đáp, “Muội mệt quá đó mà! Tứ ca, hay là huynh ngồi đây với muội một lát đi?”


Nàng ngỡ rằng Tứ ca nhận lệnh của Đại ca, nhất định sẽ nôn nóng hoàn thành nhiệm vụ, nào ngờ Xương Ý lại ngồi xuống thật, còn vẫy tay ra hiệu cho thị vệ lui ra.


Y cứ lặng lẽ nhìn A Hành, dần dần khiến nàng tắt hẳn nụ cười.


Xương Ý khẽ hỏi: “Muội muốn ta ở lại đây với muội thật sao?”


A Hành cắn môi lắc đầu.


“Muội có hiểu mình đang làm gì không đấy?”


A Hành nghĩ ngợi rồi gật đầu.


Xương Ý thở dài, “Ta lục soát hết Triêu Vân điện sẽ dẫn tất cả thị vệ tập trung lục soát trong rừng dâu.”


Thấy Xương Ý đứng dậy toan cất bước, A Hành vội phân trần, “Tứ ca, muội chỉ là… hắn không có ý xấu, cũng không muốn đả thương huynh đâu…”


Xương Ý ngoảnh lại nhìn nàng, “Ta biết. Dù muội làm gì đi nữa, ta cũng sẽ giúp đỡ muội, ai bảo muội là muội muội của ta chứ?” Dứt lời y liền bước ra ngoài, còn cẩn thận khép cửa phòng lại.


Chỉ đợi có vậy, A Hành lập tức tung chăn nhảy xuống giường, Xi Vưu cười hì hì nhìn nàng, vẻ mặt đầy đắc ý.


Lúc này đây A Hành chẳng hơi đâu mà nổi giận với hắn nữa, nàng chỉ muốn tống khứ tên ôn thần không biết sống chết này đi cho mau.


Nàng vừa gói ghém tay nải vừa dặn: “Chúng ta đợi đám thị vệ vào rừng rồi xuống núi, có Tứ ca yểm trợ, tốt nhất là ngươi đừng sinh sự nữa, may mà vừa nãy là Tứ ca ta, nếu là Đại ca thì ngươi chỉ còn đường chết thôi!”


A Hành gói ghém xong tay nải bèn viết vội một bức thư để lại cho mẹ, thưa rằng mình nhân lúc tối trời đã xuống núi luôn. Nàng cũng không dám chắc sẽ qua mặt được vị Đại ca tinh minh mẫn tiệp của mình, chi bằng chuồn trước để giữ mạng còn hơn.


Thấy mọi sự đã sẵn sàng, nàng quay sang hỏi gã Xi Vưu đang nằm ườn trên giường: “Chúng ta đi thôi, linh lực của ngươi còn đủ chứ? Liệu có che giấu được khí tức của mình không?”


Xi Vưu gật đầu: “Chỉ cần cách Đại ca cô hơn ba trượng và thời gian không quá lâu thì không vấn đề gì.”


A Hành đáp: “Vậy ngươi đành cầu trời phù hộ thôi!”


Tuy cấm chế ngoài Triêu Vân điện rất lợi hại nhưng chẳng có tác dụng gì với A Hành, nàng dẫn Xi Vưu ra khỏi điện êm thấm, hai người men theo đường mòn mà chỉ mình nàng cùng Tứ ca biết để xuống núi.


Đi được nửa đường, đột nhiên một con thú lớn đen trùi trũi ở đâu xông ra, lao thẳng về phía A Hành, nàng giật thót mình, đang định nấp thì nhận ra A Tệ, bèn mừng rỡ ôm lấy nó hôn chùn chụt mấy cái, “A Tệ, mày đến đúng lúc quá, chở chúng ta xuống núi đi.”


A Tệ cọ cọ vào má A Hành, khẽ gừ gừ hớn hở.


Liệt Dương ngạo nghễ đậu trên cành nhìn xuống, thấy A Tệ nũng nịu như trẻ nhỏ, không giấu vẻ khinh miệt.


Liệt Dương bay trước dẫn đường, A Tệ cõng hai người bay xa khỏi Hiên Viên sơn.


Xi Vưu đắc ý bảo A Hành: “A Hành, rốt cuộc cô vẫn xuống núi cùng ta.”


Nàng lạnh lùng đáp: “Nể tình ngươi bị thương nên ta tiễn ngươi một đoạn thôi, sáng sớm mai chúng ta đường ai nấy đi.”


Bỗng nhiên nàng có cảm giác không ổn, thấy linh lực của Xi Vưu đột ngột tiết ra ngoài, nàng vội túm lấy tay hắn: “Ngươi đừng giấu nữa, nói thật cho ta nghe vết thương của ngươi sao rồi? Thua trong tay Hiên Viên Thanh Dương có gì mà mất mặt, cả đám cao thủ Thần tộc trên đại hoang chắc chỉ mình ngươi có thể thoát chết dưới kiếm của Đại ca thôi.”


Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi.


Lúc hôn mê, trông Xi Vưu chẳng còn vẻ ngông nghênh tùy tiện hôm qua nữa, thay vào đó là nụ cười thực sự mãn nguyện, nụ cười ấy hầu như rất hiếm thấy ở những nam tử thành niên, bởi con người ta càng trưởng thành thì càng nhiều ham muốn, chỉ có những đứa trẻ thuần khiết thẳng thắn mới dễ dàng thỏa mãn mà thôi.


Trời khuya tối đen như mực, chỉ có vầng trăng tròn vành vạnh dịu dàng lơ lửng giữa tầng không, cả đất trời nhuốm đầy vẻ mỹ lệ mà tĩnh lặng, đôi cánh rộng của A Tệ dập dờn lặng lẽ, tư thế bay vô cùng ưu nhã, hệt như một con hồ ly lớn đang vờn múa dưới ánh trăng. A Tệ chở theo Xi Vưu và A Hành băng qua mây mù, vượt trên sao sáng bay về phía cuối trời, trong khi đó, A Hành vẫn đang hoang mang bối rối, chẳng biết bọn họ nên đi đâu về đâu.


Quyển 1 – Chương 8: Cây Cao Mây Quấn Mãi Chẳng Rời


Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…


Suốt đêm A Hành không sao chợp mắt, mãi đến gần sáng mới mệt quá ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy, nàng thấy mặt trời ngả về Tây, A Tệ đã đỗ xuống một sơn cốc tự lúc nào.


Nàng trở mình ngồi dậy, giơ tay chạm vào Xi Vưu bên cạnh, thấy người hắn nóng hầm hập, vết thương đã trở nên nặng thêm.


Nhìn quanh bốn bề đều là núi đồi trùng trùng điệp điệp xanh mướt một màu, A Hành ngỡ ngàng hỏi Liệt Dương đang đậu trên cành: “Xi Vưu có nói với mày là đi đâu không? Hay là mày lạc đường?”


Bị A Hành vặn hỏi, Liệt Dương vô cùng bực bội, bèn giơ một cánh lên hùng hổ ra hiệu với nàng rồi quay ngoắt đi.


A Hành lòng như lửa đốt, nàng không biết y thuật nên nhất định phải tìm một người hiểu y thuật để chẩn trị cho Xi Vưu, đột nhiên nghe loáng thoáng đằng xa có tiếng động, nàng bèn lại đó xem sao.


A Hành đi trước, A Tệ cõng Xi Vưu theo sau, còn Liệt Dương nghênh ngang đậu trên đầu A Tệ.


Vòng qua một khe núi, đột nhiên trước mắt nàng bừng sáng.


Một dòng sông rộng từ sơn cốc uốn mình chảy ra, đôi dải núi xanh bên bờ trải dài bất tận, ráng chiều rơi rớt chênh chếch rọi lại từ sườn núi thấp bên kia, nhuộm đỏ ối ngọn núi đối diện. Gió thổi xào xạc lá cây, cả ngọn núi đều lấp lánh ánh vàng.


Mặt nước mênh mông ngập đầy ráng chiều lấp loáng, mấy người dân chài đang chống thuyền giữa dòng đánh cá, vung mạnh tay tung tấm lưới lấp lánh ánh bạc lên cao, tấm lưới từ từ buông xuống dòng sông, rõ ràng chỉ là tấm lưới gai thông thường, vậy mà lúc này lung linh ánh bạc hòa cùng ráng vàng lấp loáng trên mặt sông, khiến người khác trông vào mà hoa cả mắt, còn đẹp hơn cả tơ Nguyệt Quang mà mẹ nàng dệt nữa.


Đám dân chài hô vang một tiếng, vừa hò dô vừa chung tay kéo lưới lên, cá trong lưới đua nhau búng khỏi mặt nước, quẫy đuôi uốn mình trên không làm nước bắn tung tóe, ráng chiều phản chiếu khiến cả mặt sông lung linh bảy sắc cầu vồng.


Vất vả bận bịu đến thế, mà cũng tràn đầy sức sống, sôi động nhường kia.


A Hành dừng sững lại, ngây người ra nhìn.


Nhìn bầy cá nhảy tanh tách, đám dân chài thảy đều mừng rỡ, một gã thanh niên vừa ra sức kéo lưới vừa cao giọng hát vang, tiếng ca ồm ồm mà phóng khoáng lan đi thật xa trong sơn cốc.


“Ơ… Trời ngả bóng, cá đầy khoang,


Ca vang ướm ý cô nàng xem sao?


Non cao nước đổ rì rào,


Cây cao tán rộng lao xao ong về.


Này cô em hái dâu kia,


Đeo gùi hái khắp bốn bề núi non,


Em yêu ơi có biết không,


Nhớ em ta những héo hon dạ này…”


Gã đánh cá còn chưa dứt lời đã nghe một giọng nữ lanh lảnh từ trên núi đưa sang.


“Chàng là cây lớn đỉnh non,


Em dây mây vấn vít sườn núi xanh,


Chàng cao em thấp vẫn tình,


Níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi,


Chừng nào chàng mệt rã rời,


Thời em đây mới buông lơi cho chàng…”


Núi rừng cách trở nên không trông thấy cô gái đâu cả, nhưng tình cảm nồng nàn như lửa mà cô giấu trong giọng hát đã lan theo tiếng ca trên núi đưa xuống, làm rạo rực cả mặt sông.


Đám dân chài cười rộ lên, gã trai vừa cất tiếng đắc ý khoái trá ra mặt.


“Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…” A Hành nghĩ một lát mới hiểu ra ẩn ý trong lời ca, liền đỏ mặt tía tai vì ngượng, đây là lần đầu tiên nàng thấy người ta ngang nhiên bày tỏ chuyện nam nữ thế này.


Thấy dân tình nguyên sơ thuần phác lại nhiệt tình thẳng thắn như vậy, nàng đã lờ mờ đoán ra mình đang ở đâu. Nghe đồn có một dải man hoang không theo giáo hóa, người trên đại hoang vẫn gọi là Cửu Lê, núi non ở đó rất cao, sông nước rất đẹp, thanh niên nơi đó đều cường tráng như non cao, thiếu nữ lại mỹ lệ như nước mát.


A Hành quay sang dặn A Tệ mấy câu để nó cõng Xi Vưu lánh đi, còn nàng men theo con đường mòn lên núi trong tiếng ca lảnh lót.


Trên sườn núi lúp xúp những nếp nhà sàn, lưng tựa vào núi, mặt quay ra sông, tầng trệt để lùa gia súc vào trú mưa tránh gió, còn tầng hai làm chỗ ở, có cả sân thượng nhô ra để trồng hoa cỏ hay phơi lưới. Bây giờ đang là lúc mọi người về nhà sau một ngày làm việc, khói bếp bắt đầu lững lờ bốc lên trên những nếp nhà.


Thấy A Hành ăn vận khác hẳn mọi người, ông lão dắt trâu nheo mắt cười quan sát nàng, chú nhỏ lấy rau lợn cũng cười hì hì liếc trộm nàng.


Ông lão râu bạc vai vác cuốc, tay dắt trâu còn cười cười hỏi nàng: “Cô nương là người nơi khác đến phải không?”


A Hành cũng gật đầu cười hỏi: “Nơi đây là Cửu Lê ư?”


Ông lão cười ha hả, “Đây là nơi ông bà tổ tiên ta đã sống hết đời này sang đời khác, bản này tên gọi Đứa Ngõa, có điều nghe nói người ngoài gọi chung cả trăm ngọn núi ở đây là Cửu Di hay Cửu Lê gì đó, cô nương tới đây là để…”


“Cháu nghe nói trong vùng rừng núi Cửu Lê có rất nhiều loại thảo dược nên tới đây tìm hái vài thứ đấy thôi.” Vùng man hoang này rất hiếm dấu chân người lai vãng, A Hành không muốn gây chú ý, đành giả làm người hái thuốc, thân phận tốt nhất dành cho những kẻ lãng du đây đó.


Ông lão nhiệt tình nói, “Cô nương chưa tìm được chỗ nghỉ ư? Con trai cùng cháu nội lão vào núi đi săn rồi, trong nhà có phòng trống, nếu cần cô cứ ghé nhà lão nghỉ chân.”


A Hành cười đáp lễ: “Tốt quá rồi, cảm ơn… cụ ạ.”


Ông lão nào hay A Hành đã sống mấy trăm năm, nghe nàng lễ phép xưng hô liền tươi cười lộ vẻ hài lòng, dắt nàng về nhà.


“Đây là Mễ Đóa, cháu gái lão, năm nay mới mười mấy tuổi thôi, không biết hai người ai nhiều tuổi hơn ai?” Ông lão ngồi xổm bên bếp lửa, vừa đun nước vừa cười cười quan sát nàng cùng Mễ Đóa.


A Hành vội đáp: “Cháu lớn hơn, cháu lớn hơn.”


Mễ Đóa đã nấu cơm xong lại thấy có khách đến nhà, liền vội vã đi ra ngoài, chỉ lát sau đã xách một chú cá tươi rói trở về.


A Hành cười cười, lựa lời hỏi thăm ông lão: “Chẳng hay ai quản lý việc trong cả bản? Có ai biết chữa bệnh không cụ?”


“Các bản đều chọn ra trưởng bản, muốn chữa bệnh thì đi cầu Vu sư, cả trăm sơn bản chúng ta ở đây mà các người gọi là Cửu Lê đó, đều mời Vu sư đến xem bệnh, thường thường muốn biết khi nào nên gieo hạt, lúc nào nên đi săn, chừng nào phải tế trời, trưởng bản đều đi hỏi Vu sư.”


“Thế ai chữa bệnh mát tay nhất?”


“Dĩ nhiên là Vu vương tinh thông bách nghệ chứ còn ai.” Ông lão vừa nói vừa đặt tay lên ngực, cúi đầu thật thấp, vô cùng cung kính và thành khẩn.


“Cháu muốn gặp Vu vương có được không?”


Nghe nàng hỏi, ông lão lộ vẻ áy náy: “E rằng không được đâu, nhưng lão có thể đi hỏi giùm cô.”


“Cụ biết Vu vương ở đâu ư?”


“Thường ngày Vu vương sống ở một bản khác, gọi là bản Xi Vưu, trong bản Xi Vưu có Tế Thiên đài, Vu vương phải bảo vệ thánh địa của chúng ta.”


“Bản Xi Vưu ư?”


Ông lão bật cười, vẻ mặt đầy kiêu hãnh: “Xi Vưu là đại anh hùng của tộc ta, nghe nói mấy trăm năm trước ngài đã cứu tất cả người trong tộc, thế nên bản vốn mang tên khác đã đổi thành bản Xi Vưu để tưởng niệm ngài.”


A Hành lại hỏi tiếp: “Bản Xi Vưu ở đâu thế ạ?”


Nghe nàng hỏi, ông lão liền cầm que cời lò vừa vẽ lên mặt đất vừa miêu tả bản Xi Vưu nằm trên ngọn núi nào.


A Hành nghe xong bèn tươi cười đứng dậy từ biệt ông lão.


Như đoán được ý định của nàng, ông lão bèn khuyên giải: “Lão nói cô nghe, bản Xi Vưu ở xa lắm, phải băng qua mấy ngọn núi nữa kia, cô cứ ăn uống rồi ngủ một giấc, sáng mai chúng ta dậy sớm chuẩn bị lương khô, lão sẽ dẫn cô đi.”


Mễ Đóa đứng ở cửa bếp vừa chùi tay vào áo vừa nhìn A Hành, có thể thấp thoáng thấy đồ ăn thịnh soạn bày đầy trong bếp, đối với một gia đình miền núi, thế này đã là dốc cả nhà cả cửa ra thết đãi rồi.


A Hành vội phân trần: “Thật không dám giấu, cháu có việc gấp phải đi một lát, mọi người cứ ăn trước đi, để phần cơm cho cháu là được, tối nay nhất định cháu sẽ về ăn cơm Mễ Đóa muội muội làm.”


Ông lão cười nói: “Vậy được, lão sẽ hâm mấy vò Ca tửu[1] đợi cô về.”


[1] Người Miêu tôn tộc Cửu Di của Xi Vưu là tổ tiên. Mỗi năm vào tháng Bảy Âm lịch, các phụ nữ trong bản người Miêu đều hái bảy loại thảo dược mà tổ tiên truyền lại đem ủ trong những chiếc cối giã gạo đặc biệt cho lên men, đến khoảng mùng chín tháng Chín lại dùng nếp trắng và nếp đen cất thành rượu, tiếng Miêu gọi là Ca tửu.


A Hành gật đầu tỏ ý cảm tạ.


Vừa ra khỏi nhà ông lão, nàng đã thấy Liệt Dương bay vù đến như chớp, luôn miệng kêu quang quác. A Hành cả kinh, nếu không có chuyện gì, Liệt Dương ắt chẳng thể cuống cuồng như thế, nghĩ vậy, nàng vội theo Liệt Dương bay đi.


Thoạt trông thấy nàng, A Tệ cũng cuống quýt chạy lại. A Hành đỡ Xi Vưu dậy, thấy mặt hắn tím tái, cả người lạnh ngắt, trong không khí thoang thoảng mùi hương kỳ dị. Nàng bèn vạch áo hắn ra, thấy vết thương đã đen bầm lại, mùi hương càng nồng nặc hơn.


Dẫu mù mờ về y thuật thế nào, A Hành cũng biết vết thương không thể bám đen, càng không thể tỏa hương nức mũi như vậy. Triệu chứng này chỉ có thể là trúng độc.


Vận linh lực thăm dò mạch tượng của Xi Vưu, A Hành lại phát hiện linh thể của hắn cũng đã bị ảnh hưởng, nàng hốt hoảng đến nỗi ngã sụp xuống đất.


Không thể là Đại ca hạ độc, tuy Đại ca tàn nhẫn nhưng tính rất kiêu ngạo, không đời nào thèm dùng tới cách này. Kẻ có thể hạ độc Xi Vưu chỉ có thể là người bên cạnh hắn. Nghe Vân Tang nói mấy chục năm nay, Viêm Đế rất coi trọng Xi Vưu, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng cho hắn tham dự, lần này lên Ngọc sơn cũng vậy, rõ ràng Vân Tang ở đó nhưng lại để Xi Vưu xử lý chính sự, đương nhiên hắn sẽ bị rơi vào thế một vai gánh lấy sơn hà. Tuy A Hành tâm tính đơn thuần nhưng từ nhỏ lớn lên trong vương tộc, nàng thừa hiểu nếu cứ tiếp diễn như vậy, tính tình quật cường của Xi Vưu nhất định sẽ đe dọa tới quyền thế lợi ích của kẻ khác, vì xung đột quyền lợi dẫn tới hãm hại ám sát là chuyện thường.


Kẻ nào muốn diệt trừ Xi Vưu nhỉ? Là Chúc Dung ư? Hay Du Võng? Cộng Công… Hay tất cả bọn họ đều góp phần?


A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa, lời cảnh cáo của Đại ca vẫn còn văng vẳng bên tai, phụ vương luôn muốn xưng bá Trung nguyên, nàng tuyệt đối không thể bị cuốn vào cuộc đấu tranh nội bộ của Thần Nông tộc.


Nghĩ vậy, nàng đành ôm lấy Xi Vưu ngồi lên lưng A Tệ, “Chúng ta đi thôi.”


Nhá nhem tối, nàng tới bản Xi Vưu.


Vừa bước vào bản, nàng đã hiểu tại sao nơi đây được chọn để đặt Tế Thiên đài, nếu coi hơn trăm ngọn núi của tộc Cửu Lê như những đốt sống của một con rồng thì chỗ này chính là đầu rồng, nơi hội tụ linh khí.


Chẳng cần phí công hỏi thăm chỗ ở của Vu vương, A Hành đã thấy một căn nhà xây toàn bằng đá trắng nổi bật giữa tất cả nhà sàn bằng tre nứa trong bản, hệt như một thành trì trấn giữ đỉnh núi dồi dào linh khí bậc nhất này.


Nàng bèn đi thẳng tới trước cửa căn nhà bằng đá trắng.


Mấy thiếu niên đang tíu tít trong sân đều để trần cánh tay, bên dưới mặc quần ống rộng, đi chân đất. Trông thấy A Hành, họ tò mò dán mắt vào nàng, chẳng hề e ngại bản thân ăn mặc lôi thôi.


Một gã thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi bước ra, “Cô hỏi ai?”


A Hành hành lễ với hắn, “Ta tới xin gặp Vu vương.”


Gã thanh niên nhìn nàng, thầm cảnh giác, “Vu vương không gặp người ngoài đâu.”


“Ta tới xin chữa bệnh.”


Gã trai bật cười, “Những kẻ từ nơi khác đến như các người, hễ nhắc tới chúng ta chỉ gọi là dã nhân, còn chẳng buồn kêu cái tên Cửu Di hàm ý khinh miệt kia nữa, đám dã nhân chúng ta ở đây làm sao biết y thuật gì được? Mời cô về đi thôi!”


A Hành biết các Vu sư ở đây khác hẳn những người dân cả đời quẩn quanh trong bản, rất có thể họ đã từng đi ra ngoài nên hiểu chuyện, chính vì hiểu lại càng đề phòng hơn.


Nàng bất đắc dĩ nói, “Ta nhất định phải gặp Vu vương, đành mạo phạm vậy!” Nói rồi, A Hành lướt qua gã thanh niên kia hệt như một con chạch, xông thẳng vào sân, chẳng đợi bọn họ kịp phản ứng, nàng đã cắm đầu chạy dọc theo con đường lát đá trắng.


“Bắt cô ta, mau bắt cô ta lại.”


Mặc cho cả đám người đuổi sau lưng, lại thêm bao nhiêu kẻ từ trong nhà ùn ùn xông ra chặn đường, A Hành vẫn nhanh nhẹn như một chú hươu non, né được hết mọi sự truy bắt, chạy thẳng tới hậu sơn, tại đây nàng trông thấy một đài tế trắng toát đứng sừng sững mộc mạc mà trang nghiêm.


A Hành chạy thẳng một mạch lên đài tế rồi nhoẻn cười ngoảnh lại nhìn, thấy tất cả Vu sư đều dừng lại không dám bước lên đài. Đây là thánh địa để tế trời đất, ngay đến Vu sư cũng chưa chắc đủ tư cách tiến vào.


Mặc bọn họ giận dữ trừng mắt nhìn mình, A Hành chỉ khoanh tay tủm tỉm hỏi: “Liệu bây giờ Vu vương có chịu gặp ta không đây?”


Một lão già râu tóc bạc phơ chống gậy bước tới, ánh mắt toát lên vẻ kiên định mà thông tuệ, “Cô nương, chúng ta kính sợ trời đất không phải vì ngu muội dốt nát, mà bởi chúng ta tin rằng con người phải có lòng biết ơn và kính sợ thì mới có thể hòa hợp với đất trời vạn vật được.”


A Hành đáp: “Vu vương, ta tới đây để tìm gặp ngài, chứ không phải để lăng nhục các người. Giờ thì ta yên tâm rồi, có chuyện này ta muốn cậy nhờ ngài, ngài bảo những người khác lui ra được không?”


“Đây đều là người trong tộc của ta, cô có chuyện gì cứ nói thẳng ra, đừng ngại.”


Nghe lão nói vậy, A Hành đành thở dài, ngoảnh mặt về phía núi huýt gọi một tiếng. Theo tiếng huýt của nàng, một bóng trắng bỗng xẹt ngang bầu trời như sao, rồi đỗ xuống đài tế. Đó là một con chim toàn thân trắng muốt, cao hơn một thước, cặp mắt ngạo nghễ màu lục bích lướt qua cả đám Vu sư như đánh giá.


Đám Vu sư thấy thế càng thêm tức giận, mấy Đại vu sư được quyền bước lên đài tế chỉ muốn xông tới bắt lấy A Hành, nhưng Vu vương lại giơ tay ngăn cản, tỏ ý bảo bọn họ hãy nghe kỹ đã.


Chẳng biết gió từ đâu bỗng nổi lên khiến những chiếc chuông gió bằng xương thú treo trên đài tế kêu leng keng, ban đầu chỉ là ngân nga khe khẽ, dần dà, tiếng chuông càng lúc càng to hơn, hòa cùng thế gió mỗi lúc một mạnh.


Trong tiếng lanh canh điên cuồng của chuông gió, giữa không trung bỗng hiện ra một bóng đen khổng lồ, là một con hồ ly to lớn, diễm lệ lạ thường, không ngừng bay vòng vòng xung quanh, cuốn theo cuồng phong cuồn cuộn thốc lên, bao bọc cả đài tế.


Giữa lúc đám Vu sư đang há hốc miệng kinh ngạc nhìn hồ ly bay, con chim trắng kia còn sợ họ chưa chịu đủ chấn động, liền há mỏ khạc ra lửa, lửa đỏ, lửa lam, lửa vàng… Từng cuộn lửa bảy sắc bùng lên giữa trời đêm như những đóa hoa tuyệt đẹp, tỏa ánh sáng rực khiến cả đài tế toát lên vẻ mỹ lệ trang nghiêm như cung điện của thần tiên, mà thiếu nữ áo xanh lại đứng ngay giữa khung cảnh kỳ ảo ấy.


Thấy vậy Vu vương bèn căn dặn mấy câu, lập tức đám người vây quanh đài tế tản cả ra, chỉ còn lại mấy Vu sư lớn tuổi.


Vu vương nghiêm trang hỏi: “Cô nương đến từ Thần tộc ư? Chẳng hay cô tới đây có chuyện gì vậy?”


A Tệ đỗ xuống bên cạnh A Hành, nàng liền đỡ Xi Vưu trên lưng nó xuống, hỏi ngược lại: “Không biết Vu vương có nhận ra hắn hay không?”


Trông rõ diện mạo Xi Vưu, Vu vương biến hẳn sắc mặt, lập tức quỳ sụp xuống đất, cả người run lên vì kích động, “Sao lão có thể không nhận ra kia chứ, Vu sư các đời mỗi khi bái sư, trước tiên phải quỳ lạy tượng gỗ của ngài, lập lời thề sẽ bảo vệ bình yên và tự do cho dải nước non này, có điều, có điều… lão thật sự chẳng dám mơ kiếp này mình lại được gặp Xi Vưu đại nhân.”


A Hành nói tiếp: “Hắn bị thương rồi.”


Vu vương vội lê bằng đầu gối tới cạnh Xi Vưu thăm khám vết thương, thận trọng rút một đoạn kiếm gãy ra khỏi người hắn, lại kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng trúng độc, vẻ mặt càng lúc càng khó coi.


A Hành nghiêng mình ngồi lên lưng A Tệ định rời đi. Nhận ra nàng lai lịch không tầm thường, Vu vương vội giữ nàng lại, khẩn thiết vật nài: “Cầu xin cô nương ra tay cứu giúp Xi Vưu đại nhân, vết thương của đại nhân nặng lắm, kiếm khí ngưng tụ trên kiếm này lại rất đặc biệt. Lão chưa từng thấy kiếm khí lợi hại như vậy bao giờ, còn tẩm cả độc nữa…”


A Hành cầm đoạn kiếm gãy lên xem, thấy trên rìa kiếm chạm nổi hoa văn Huyền điểu, chính là biểu tượng của vương thất Cao Tân, sực nhớ tới thân phận mình, nàng lạnh buốt cả cõi lòng, đưa mắt nhìn Vu vương: “Lão muốn ta giúp hắn ư? Lần đầu tiên giúp hắn, ta bị giam cầm sáu mươi năm, lần thứ hai, ta phải phản bội Đại ca mình.” Nói rồi nàng giơ đoạn kiếm gãy lên, “Thanh kiếm này do vị hôn phu của ta rèn ra, tay nghề rèn kiếm của y rất cao, hẳn vết thương của Xi Vưu khó mà lành được, đây cũng là bội kiếm bên mình Đại ca ta, chính Đại ca đã tự tay đâm kiếm vào ngực Xi Vưu đấy.”


Thấy Vu vương tái mặt, sững sờ nhìn mình, A Hành hỏi tiếp: “Giờ lão còn muốn ta cứu hắn nữa không?”


Vu vương lắc đầu quầy quậy, nàng buông một câu: “Tốt lắm,” rồi vỗ vỗ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh cõng nàng bay lên, khiến những chiếc chuông gió quanh đài tế lại được dịp rung lên leng keng một tràng.


Nghe tiếng chuông gió leng keng, A Hành thoáng ngẩn người, thuở còn ở Ngọc sơn, nàng cũng treo dưới hiên nhà một chiếc chuông gió như thế này, giờ đây hồi tưởng lại, dường như những bức thư của Xi Vưu chính là sắc màu duy nhất suốt sáu mươi năm đằng đẵng ấy.


Nhớ tới chuyện cũ, nàng vừa vuốt đầu A Tệ, vừa hỏi: “Ta không hiểu y thuật, ở lại cũng chẳng giúp được gì nhỉ. Người trên đại hoang vẫn lén gọi Vu vương của Cửu Lê tộc là Độc vương, nhất định lão sẽ cứu được Xi Vưu, mày bảo có phải không, A Tệ?”


Chẳng một ai đáp lời nàng, có điều, nàng cũng chỉ muốn thuyết phục bản thân mình mà thôi.


Lúc nàng về tới bản Đức Ngõa, ông lão Đức Ngõa và Mễ Đóa mới ăn xong cơm chưa lâu.


A Hành lên tiếng chào hỏi: “Cháu về ăn cơm rồi đây.”


Thấy nàng trở về, Mễ Đóa vui vẻ đi hâm lại thức ăn, trong khi ông lão cười khà bảo: “Sáng mai lão nói với trưởng bản một tiếng rồi sẽ đưa cô tới bản Xi Vưu.”


“Không cần đâu, cháu đã giải quyết xong việc rồi, khỏi cần tới bản Xi Vưu nữa.”


“À, thế thì hay quá.”


Người Cửu Lê nấu rượu rất ngon, Ca tửu của họ nồng nàn ngọt lịm khiến A Hành vừa uống đã mê, thấy nàng thích thú, ông lão càng thêm vui vẻ, cười đến rung cả râu.


Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn.


Trong lúc chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa chịu gả đi.


Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành.


Người Cửu Lê luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ, cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận.


Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc.


Vành trăng non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang ngân nga một khúc nhạc đồng quê.


Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo.


Bỗng cửa nhà cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc, A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau.


Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò.


“Khách ăn cá ta bắt có thích không?”


“Thích lắm, luôn miệng khen ngon.”


“Đó là tại muội nấu ăn ngon.”


Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi.


A Hành chợt nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn, thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít.


Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực.


Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ?


A Hành thấy hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên những nét ban sơ thuần phác mà thôi.


Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…


Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất.


Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy.


Bình minh ở đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong.


Sáng sớm ra mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác…


Rất ồn ào! Nhưng…


A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống!


Nàng còn gặp cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh.


A Hành cũng biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản, theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc, “Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?”


Mễ Đóa cười khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.”


“Vậy hai người phải chia tay sao?”


“Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp.


“Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc.


Mễ Đóa vô cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết sức mà gặp gỡ.”


A Hành không nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan điểm đó lại sai.


Nàng không muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ nữ cáng đáng gia đình.


Nàng đề nghị Mễ Đóa tìm Vu sư đến xem bệnh cho bà mẹ nhưng Mễ Đóa nói năm ngoái Kim Đan cùng mấy gã trai trong bản đã khiêng mẹ mình tới bản Xi Vưu, tiếc rằng Đại vu sư nói bệnh này sức người chẳng thể chữa nổi, đành phó mặc cho ý trời.


Nàng biết trên đời này có những căn bệnh không cách nào trị nổi, ngay cả Viêm Đế y thuật đứng đầu thiên hạ cũng đâu cứu được con gái Dao Cơ của mình.


Lòng đầy bực bội, nàng bèn chạy thẳng tới đỉnh núi vắng vẻ thăm A Tệ cùng Liệt Dương, trông thấy hai bọn chúng đang vờn nghịch chiếc tay nải lộn xộn cả lên, hại nàng phải sắp xếp lại. Đột nhiên giữa đống đồ đạc linh tinh, A Hành nhìn thấy một túi đào khô.


Đây là đào tiên mà nàng hái trên Ngọc sơn, đem phơi khô để A Tệ và Liệt Dương ăn vặt, nhưng chúng ăn suốt mấy chục năm đã chán ngấy, chẳng buồn đụng đến nữa.


A Hành liền cầm một miếng lên, tiện tay bỏ vào miệng nhai rồi nhảy dựng lên chạy xuống núi.


Nàng định dùng đào tiên để cứu mẹ Mễ Đóa nhưng đã có tiền lệ của A Tệ, nàng không dám trực tiếp cho bà ta ăn mà ngâm một miếng vào nước rồi cho bà uống thứ nước đó.


Ngày đầu tiên, A Hành vừa chữa vừa nơm nớp lo sợ, may sao mẹ Mễ Đóa chẳng xảy ra chuyện gì, đến ngày thứ hai, bà bắt đầu thấy đói muốn ăn cơm khiến Mễ Đóa kinh ngạc, nửa mừng nửa tủi bởi đã bốn năm nay, mẹ cô chưa hề chủ động đòi ăn cơm bao giờ.


Thấy có vẻ hiệu quả, A Hành lại tiếp tục ngâm đào khô với nước.


Sau ba ngày uống nước đào khô, mẹ Mễ Đóa dần ăn uống được, tuy vẫn chưa thể ngồi dậy nhưng rõ ràng bệnh tình đã có chuyển biến tốt, chỉ cần từ từ điều dưỡng, sớm muộn sẽ xuống đất đi lại được.


Trở về bản, nghe nói bệnh tình mẹ Mễ Đóa đã đỡ, Kim Đan liền khiêng ngay con dê béo nhất trong nhà hăm hở sải bước tới nhà Mễ Đóa, ngắc ngứ nói không nên lời, chỉ biết ấn con dê béo múp vào lòng A Hành.


A Hành hoảng hốt vội nhảy tót lên bàn gọi Mễ Đóa kêu cứu, nàng vừa trợn mắt vừa nhìn con dê vừa hú vía nhủ thầm: may mà không phải một con trâu.


Mễ Đóa từ trong phòng mẹ mình chạy ra, trông thấy Kim Đan, cô sững người rồi bưng mặt ngồi thụp xuống đất khóc òa lên, ông nội cô ngồi bên bếp lửa cũng phải quay đi, lấy tay che mặt lén lau nước mắt.


A Hành thấy vậy liền tụt xuống bàn, vỗ vỗ lưng Mễ Đóa an ủi, “Đừng khóc, đừng khóc mà, sao lúc Kim Đan ca ca của cô đi cô không khóc mà giờ y quay về lại khóc lóc thế này?”


Tin A Hành trị khỏi bệnh cho mẹ Mễ Đóa đã lan khắp bản, người bệnh trong bản bắt đầu lũ lượt kéo tới nhờ xem bệnh khiến nàng kinh hồn bạt vía, nhưng đã lỡ ăn cơm và uống Ca tửu khắp các nhà trong bản nên chẳng thể từ chối được, đành sao y bản chính, tiếp tục dùng nước ngâm đào khô mà chữa bệnh thôi. Vừa ngâm đào vào nước, nàng vừa thầm khấn Vương Mẫu, chỉ mong rằng mấy trái đào ngàn năm nở hoa, ngàn năm nữa mới ra quả này của bà thật sự lợi hại như người đại hoang vẫn đồn đại.


Trong lúc A Hành nơm nớp lo sợ, những người dùng nước của nàng dẫu bệnh chẳng lui thì cũng đỡ hẳn đau đớn, ít nhất có thể bình tĩnh thản nhiên mà chờ chết.


Mọi người mừng rỡ bèn mượn lời ca tiếng hát để tỏ lòng cảm kích đối với nàng, theo tiếng ca lanh lảnh, tiếng thơm về y thuật của A Hành cũng từ từ lan ra khắp trăm thôn bản lớn nhỏ của Cửu Lê tộc. Người mang bệnh nặng đều ấp ủ một tia hy vọng, tới cầu khẩn A Hành. Bọn họ trèo đèo lội suối, băng rừng vượt sông mà tới, dắt theo những con trâu đầu cơ nghiệp, những con gà mái mắn đẻ nhất trong nhà, thành khẩn quỳ xuống trước A Hành, gương mặt sạm đen vì sương gió đầy vẻ mong mỏi và van xin.


A Hành không sao cự tuyệt nổi, đành phải nhận lấy. Thực lòng nàng vẫn luôn muốn ra đi, nhưng chẳng rõ vì sao, hễ tới lúc định đi nàng lại lần lữa, nhủ lòng nấn ná thêm một ngày. Nàng cũng không rõ rốt cuộc thứ gì đã níu chân mình lại nữa, có lẽ là cảnh nước non hùng vĩ mỹ lệ của Cửu Lê, có lẽ là những gương mặt chất phác nhiệt tình của người dân bản Đức Ngõa, có lẽ là khúc ca phóng khoáng mà nồng nàn hay vò Ca tửu đậm đà sóng sánh, có lẽ là những quả dại ngọt lành mà các cô gái âm thầm để lại trước cửa nhà, có lẽ là những bàn tay trẻ nít nhỏ bé đen sạm nắm lấy chéo áo nàng, cũng có lẽ chỉ là tiếng hò trâu kéo cày ngoài ruộng cũng nên.


Bởi vô vàn lý do không sao nói rõ ấy, nàng cứ thế ở lại nơi này hết ngày này sang ngày khác.


Sáng sớm ra, A Hành vừa mở mắt đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, không biết hôm nay có nên đi hay không?


Nàng cứ một lát nghĩ lý do nên đi lại một lát nghĩ lý do nên ở, cuối cùng quên hết sạch mọi lý do, chỉ băn khoăn không biết bệnh tình Xi Vưu rốt cuộc ra sao, chẳng hiểu Vu vương đã giải được độc cho hắn hay chưa nữa? Liệu có phải hắn đã quay về Thần Nông sơn rồi không nhỉ?


Trằn trọc mãi, đột nhiên nàng cảm thấy buổi sáng hôm nay rất lạ, chẳng nghe thấy tiếng đàn ông gọi nhau đi làm, cũng không nghe thấy tiếng phụ nữ mắng con, tiếng trẻ nhỏ khóc lóc… cả bản đều im phăng phắc như tờ.


Nàng vội vã chạy xuống thang, liền trông thấy Vu vương đang quỳ trước cửa nhà, dập đầu sát đất, lưng cong tựa cánh cung, hệt như một bức tượng người thành tâm cầu khẩn.


Cả bản lặng phắc, mọi người đều lấp ló đằng xa, hoang mang nghi hoặc nhìn lại bên này, không hiểu sao vị Vu vương vĩ đại của họ lại quỳ sụp trước mặt A Hành.


A Hành vội cúi xuống đỡ lão dậy, hoảng hốt hỏi: “Xi Vưu vẫn chưa giải được độc ư?”


Thấy Vu vương lắc đầu, nàng nói ngay: “Chúng ta tới bản Xi Vưu đi.”


Đại vu sư dắt A Hành lên đài tế, trông thấy Xi Vưu đang nằm giữa đài, nàng bèn quỳ xuống xem xét vết thương của hắn.


Vu vương nói: “Tuy vết kiếm thương lợi hại thật, nhưng được linh khí núi sông Cửu Lê bảo hộ, vết thương của Xi Vưu đại nhân có thể từ từ lành lại.”


A Hành vội hỏi: “Vậy vấn đề trí mạng là chất độc kia ư?”


Vu vương gật đầu, “Tộc Cửu Lê rất giỏi sai sử độc vật, nổi tiếng khắp đại hoang về dùng độc, nhưng chúng ta thiên về trùng độc, còn đây lại là độc dược, lão nghĩ nát óc cũng không giải nổi.”


“Lão biết Xi Vưu bị Đại ca ta đả thương mà còn dám xin ta cứu hắn ư? Lão không sợ độc này là do chúng ta hạ à?”


“Lão sống trên đời đã chín mươi hai năm, chuyện khác có lẽ chẳng biết được bao nhiêu, nhưng lòng người thì đã thấy nhiều rồi,” Vu vương vuốt đoạn kiếm gãy trong tay, trầm giọng nói: “Kiếm là do thợ rèn dốc hết tâm huyết tạo nên, nếu lòng kẻ rèn kiếm không coi trời đất vào đâu thì chẳng thể rèn nổi thanh kiếm có khí thế nuốt trời diệt đất, kẻ rèn ra được thanh kiếm thế này nhất định sẽ không trao nó cho người tùy tiện dùng độc, xem thường kiếm hồn đâu.”


A Hành ngước mắt nhìn Vu vương, im lặng.


Vu vương lại nói tiếp: “Kẻ hạ độc này vô cùng tàn nhẫn, chất độc đã tiềm phục trong người Xi Vưu đại nhân từ lâu, ít ra cũng phải mấy chục năm rồi, hàng ngày chẳng có gì khác lạ, chỉ tới khi ngài bị thương nặng, phải vận linh lực trị thương thì mới phát tác. Độc tính sẽ theo linh lực vận hành mà lan đi khắp cơ thể, khiến đại nhân chẳng những không thể dùng linh lực trị thương mà còn chẳng thể vận linh lực bức độc nữa, chỉ đành bó tay chờ chết. Linh thể của Xi Vưu đại nhân đã không chống chọi nổi nữa rồi…” Sắc mặt Vu vương vô cùng buồn bã.


“Các Đại vu sư đề nghị lão tới Thần Nông sơn cầu cứu, nhưng lão đã khước từ.”


“Tại sao thế?”


“Nghe sư phụ nói Xi Vưu đại nhân lớn lên ở nơi hoang dã, nắm rõ mọi thứ độc trùng độc thảo, tuy lão được tôn làm Vu vương của Cửu Lê, lại nhờ giỏi dùng độc mà được người đại hoang gọi là Độc vương, ngay cao thủ Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần, nhưng lão chẳng cách nào hạ độc dược đại nhân, vậy kẻ có bản lĩnh hạ độc làm hại Xi Vưu đại nhân chỉ có thể là cao thủ Thần tộc am hiểu dược tính mà thôi. Trên đời này, Thần Nông vương tộc thông thạo y thuật nhất, kẻ hạ độc này có lẽ cũng xuất thân từ đó, làm sao lão dám đi cầu cứu bọn họ đây? Nếu Xi Vưu đại nhân phải chết, lão mong rằng ngài có thể yên nghỉ ở dải non nước Cửu Lê này.”


Nghe lão nói vậy, A Hành càng thêm phần kính trọng lão nhân cơ trí trước mặt.


Nhưng giờ phải làm sao đây? Không thể cầu cứu Thần Nông, không thể cầu cứu Cao Tân, càng không thể cầu cứu Hiên Viên được. Nghĩ đi nghĩ lại, A Hành cảm thấy mình đã cùng đường, chẳng có ai để trông chờ cả.


Thấy A Hành lộ vẻ lo lắng, Vu vương có phần bứt rứt, “Tây Lăng cô nương đừng quá tự trách mình. Tộc Cửu Lê chúng ta sùng bái trời đất, xem trọng hiện tại trước mắt, chỉ theo đuổi lạc thú tức thời, chuyện sống chết giao cả cho trời đất quyết định. Dù phải chết như thế này, lão nghĩ Xi Vưu đại nhân cũng chẳng có gì ân hận đâu.”


A Hành sầm mặt: “Xi Vưu nhất định không muốn chết tức tưởi thế này, dù có chết hắn cũng phải khiến tất cả những kẻ căm hận mình khốn đốn mới cam.” Nói rồi A Hành thoáng lộ nụ cười.


Vu vương không kìm được cũng cười theo, “Yêu bằng cả sinh mệnh, lại dùng cái chết mà trả hận, đó mới chính là người Cửu Lê, kẻ khác thấy chúng ta man rợ hung ác, thực ra chỉ chúng ta mới hiểu rõ sự trân quý của mạng sống, chúng ta sợ chết nhưng không khiếp nhược trước cái chết, bởi thế lão có thể dốc hết sức chữa trị cho Xi Vưu đại nhân, nhưng cũng có thể bình thản nhìn ngài ra đi.”


A Hành nói: “Cảm ơn lão đã giảng giải, có điều Xi Vưu còn nợ ơn cứu mạng của ta hai lần, ta chưa đòi lại, hắn đừng mơ quỵt nợ dễ dàng như vậy!”


A Hành ngẩng đầu huýt dài một tiếng, theo tiếng huýt, Liệt Dương và A Tệ từ trời bay xuống, đậu trên đài tế. Nàng xoa đầu A Tệ dỗ dành, “Xi Vưu bị bệnh, ta muốn xin ít máu của mày được không?” A Tệ lớn lên ở Ngọc sơn, ăn đào tiên uống ngọc tủy nên cơ thể cũng ngưng tụ linh khí đất trời của Ngọc sơn.


A Tệ nghe nói liền cúi đầu dịu dàng cọ cọ vào người A Hành như an ủi.


A Hành lại quay sang bảo Vu vương: “Làm phiền ngài rồi.”


Vu vương cầm bát ngọc cùng dao bạc vẫn dùng khi cúng tế bước tới bên A Tệ, A Tệ hiểu ý liền giơ chân trước lên để lão kề dao cắt một nhát, máu tươi trào ra, mùi hương lạ lùng cũng bốc lên sực nức.


A Hành quay lưng lại phía bọn họ, tự cắt cổ tay mình và Xi Vưu, đưa tay nắm lấy tay hắn để máu độc trong người Xi Vưu chảy sang cơ thể mình.


Thấy Vu vương bưng bát máu sóng sánh lại gần, A Hành liền bảo lão cho Xi Vưu uống, “Máu này không giải được độc nhưng cũng có thể trì hoãn độc tính khỏi lan ra, hàng ngày lão cắt một bát máu trên người A Tệ cho hắn uống, ta phải đi một thời gian, mấy ngày nữa sẽ cho Liệt Dương mang thuốc giải về.”


Dứt lời A Hành quay gót bỏ đi nhưng vừa đi được mấy bước, nàng bỗng thấy gấu váy bị thứ gì đó níu lại, không đi được, bèn ngoảnh lại nhìn, phát hiện Xi Vưu đang nắm chặt lấy gấu váy mình.


Vu vương nói: “Xi Vưu đại nhân không muốn để cô nương đi.”


A Hành đành dùng linh lực gỡ tay hắn ra rồi ghé tai nói nhỏ: “Ta không để ngươi chết đâu.” Nói rồi nàng rảo chân bước xuống đài tế.


Không có A Tệ để cưỡi, A Hành không đi nhanh được, lại thêm Liệt Dương cứ lởn vởn bay lòng vòng trên đầu nàng, chẳng hề có vẻ sốt ruột như hôm qua. A Hành dốc hết sức vận linh lực, vừa để đi lại cho nhanh, vừa để độc tính lan khắp toàn thân. Một người một chim đi suốt một ngày đường, xa khỏi Cửu Lê tộc.


Đến chập tối, khi mặt trời đã nhuốm sắc hoàng hôn lên khắp đất trời, sắc mặt A Hành bắt đầu tái dần, tim đập chậm lại, từ từ cảm thấy nghẹt thở. Nàng đành ngồi xuống dưới gốc cây nghỉ chân.


Liệt Dương đậu xuống trước mặt, lo lắng nhìn nàng rồi kêu lên quang quác khiến tất cả chim chóc trong rừng đều rớt cả xuống đất.


A Hành xé một mảnh tay áo buộc vào chân Liệt Dương, ra lệnh, “Tới Thần Nông sơn, tìm Vân Tang đi.” Nàng thở hổn hển, không sao nói tiếp được nữa, đành dựa vào thân cây, đưa tay chỉ lên trời.


Liệt Dương lại ngẩng đầu kêu quác quác, gọi tất cả chim chóc xung quanh run rẩy bay đến, con trước con sau tự động vây quanh A Hành. Nhanh như chớp, Liệt Dương dang cánh bay vút lên, thoáng chốc đã mất hút.


Nơi này đã nằm trong địa phận Thần Nông, với đà bay của Liệt Dương, ắt chẳng bao lâu sẽ đến nơi. Dẫu kẻ khác có trông thấy mảnh tay áo đó cũng chẳng hiểu là ý gì, càng không thể phát hiện tính mạng Xi Vưu chỉ còn trong sớm tối, nhưng Vân Tang đã theo mẹ nàng học nghệ mười năm, rất dễ nhận ra vải vóc do bà dệt thành, hễ nhìn qua là biết nàng đang cầu cứu, chắc hẳn sẽ đến ngay.


A Hành không gắng gượng nổi nữa, từ từ nhắm mắt lại.


Dưới bóng chiều tà, giữa nơi rừng vắng, bầy chim bị Liệt Dương uy hiếp từng con từng con lần lượt nằm xuống thành một tấm bình phong sặc sỡ đủ màu, bao bọc A Hành ở giữa.


A Hành lờ mờ thấy ánh vàng lấp lánh trước mắt mình, hình ảnh Xi Vưu hết lần này sang lần khác cứ hiện lên trong lòng, lại thêm cả những bức thư trao đi gửi lại suốt sáu mươi năm, thì ra, trí nhớ của nàng tốt đến mức chính nàng cũng kinh ngạc, bao nhiêu thư từ như thế mà vẫn nhớ rõ mồn một.


“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”


A Hành chợt nhoẻn miệng cười, mùa hoa năm nay đã qua rồi, để sang năm đi, sang năm nàng muốn ngắm hoa đào ở nhân gian, ắt hẳn còn đẹp hơn hoa đào trên Ngọc sơn nhiều. Thật ra nàng vẫn luôn muốn hỏi Xi Vưu tại sao là “lại nhớ”, lẽ nào ngươi thường nhớ tới ta ư?


A Hành từ từ mất đi ý thức nhưng khóe miệng vẫn giữ nụ cười, trong lòng còn đọng lại cảnh tượng bình yên mà tươi đẹp sau cùng: dải nước biếc Khâu Thương uốn lượn như một chiếc đai bích ngọc, Xi Vưu vận tấm áo đỏ rực đứng trước mũi thuyền thả trôi theo dòng, khắp vài dặm ven bờ hoa đào nở rộ, ngào ngạt hương đưa, đẹp tươi rạng rỡ.


A Hành tha thiết mong Vân Tang đến nhưng nàng không biết rằng bấy giờ Vân Tang không ở Thần Nông.


Sau khi từ biệt Thiếu Hạo và A Hành tại hẻm núi hoang, Vân Tang liền cải trang đi thẳng tới Cao Tân.


Trước nay nàng chỉ trăn trở với những âu lo của mình mà chẳng hề để tâm tới cảm nhận của Nặc Nại, y là thần tử, cũng là bạn của Thiếu Hạo nhưng đêm hôm mưa gió lại ôm ấp thê tử Thiếu Hạo suốt đêm, Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, Nặc Nại tính tình thanh cao, sau đêm đó, y đã bất lực, hoảng hốt, nhục nhã, hổ thẹn đến nhường nào?


Bất lực vì mình không kiềm chế nổi tình cảm, hoảng hốt sợ chuốc lấy đại họa cho gia tộc vì dám giành vợ của vương tử, nhục nhã vì sự đê hèn bỉ ổi của bản thân, hổ thẹn vì đã phản bội bạn bè. Có lẽ chỉ vùi đầu vào sa đọa suốt ngày, tự chà đạp bản thân, y mới có thể đối mặt với Thiếu Hạo, nhưng Thiếu Hạo lại chẳng hay chẳng biết, còn lo lắng quan tâm, khuyên nhủ y giữ mình trong sạch, hẳn mỗi sự quan tâm chân thành đó cũng chính là một lần lăng trì giày vò y, khiến y càng thêm căm ghét khinh bỉ bản thân mình.


Khi gặp gỡ trên Ngọc sơn, Vân Tang chỉ nhất thời xúc động mà thăm dò, nào ngờ có ngày sự vô tâm của nàng lại bị bè lũ Yến Long lợi dụng, đẩy Nặc Nại cùng cả gia tộc, thậm chí cả ngôi vị tương lai của Thiếu Hạo vào vòng nguy hiểm.


Vân Tang vô cùng căm hận bản thân, sống trong vương tộc, từ nhỏ tới lớn nàng chưa từng làm sai điều gì, vậy mà hôm đó giữa chốn núi cao sông sâu tình cờ gặp gỡ, nước như gương soi, lòng vừa xao xuyến, chợt giận chợt mừng khiến nàng quên bẵng thân phận của mình, ngỡ rằng có thể như một thiếu nữ bình thường, có rung động mãnh liệt, có thấp thỏm không yên, tự cho phép mình thăm dò, tiếp cận.


Một thân một mình đến Cao Tân thế này, nàng cũng không biết liệu mình có gặp được Nặc Nại đang bị giam trong thiên lao hay không, càng không biết nếu nói rõ thân phận với y, y sẽ đối xử với mình ra sao nữa, chắc hẳn, y không đời nào chịu tha thứ cho nàng.


Nhưng nàng nhất định phải gặp được y.


Giữa màn đêm thăm thẳm, muôn ngàn vì sao sáng như bảo thạch giăng khắp bầu trời, lấp lánh mỹ lệ khôn xiết, dù nơi đồng không mông quạnh hay chốn cung điện nguy nga, dù ở Thần Nông, Cao Tân hay nơi nào đi nữa cũng là một màn đêm như thế, một bầu trời sao như thế.


Đồng hoang tĩnh lặng, sao sáng đầy trời, A Hành thiêm thiếp ngủ giữa vòng vây bảo hộ của muôn chim, khóe môi còn ẩn hiện nụ cười, sinh mệnh của nàng cũng cứ thế vùn vụt trôi qua trong cơn mê ngủ.


Giữa phủ đệ nguy nga rường chạm cột khắc, Thiếu Hạo uể oải đặt văn thư trong tay xuống, bước tới bên song, cầm vò rượu lên thong thả uống, đột nhiên như sực nhớ điều gì, y bèn rút một mảnh khăn lụa trong ngực ra, bên trên là bí quyết nấu rượu mà A Hành chép lại cho mình. Y cúi đầu xem một lượt rồi ngẩng lên nhìn trời, thấy muôn sao lấp lánh tựa ngàn vạn ngọn đèn trong các gia đình ở nhân gian, chẳng rõ giờ này A Hành đang ngồi nghe chuyện dưới ngọn đèn nào, bất giác khóe môi Thiếu Hạo thấp thoáng nụ cười.


Kiếm vàng thương bạc, canh giữ nghiêm ngặt, bên ngoài thiên lao, Vân Tang đeo mặt nạ lên, cải trang thành một thiếu nữ dung mạo rất bình thường, mặt nạ này dùng tơ Nhân Diện dệt thành, mỏng như cánh ve, vì không dùng linh lực để thay đổi gương mặt nên dù đụng phải thần tiên linh lực cao hơn hẳn mình, nàng cũng không sợ bị lộ thân phận. Vân Tang ngẩng đầu nhìn trời vừa lúc một vì sao băng xẹt ngang qua, nàng lặng lẽ trông theo vệt sao khuất cuối chân trời, âm thầm cầu khấn.


Vân Tang định thần lại, tay trái xách một bình Triển Ti Ngọc Liên đựng đầy nước, tay phải cầm trường kiếm. Nàng đã bỏ viên thuốc mà Viêm Đế cho mình để chạy thoát phòng khi gặp nguy vào bình nước, từng làn khói xanh có công dụng mê hoặc tâm thần phơ phất bốc lên từ chiếc bình Ngọc Liên nơi tay trái, vấn vít quanh mình nàng, Vân Tang xách bình cầm kiếm bay vút vào thiên lao.


Núi cao sừng sững, gió mát hây hẩy, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đài tế cũng ngân lên leng keng không dứt, dịu dàng như một khúc ca dao ru người vào giấc ngủ.


Xi Vưu nằm giữa đài tế say ngủ, còn Vu vương và A Tệ ngồi canh bên dưới.


Vu vương tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật, A Tệ dường như cũng đang ngủ, có điều đôi tai hồ ly nhòn nhọn vẫn dỏng lên nghe ngóng, đầy cảnh giác.


Rất lâu rất lâu sau, Xi Vưu bỗng từ từ mở mắt, chăm chú nhìn bầu trời sao trên đầu rồi chầm chậm đưa tay lên, nhìn vết dao cắt nơi tay, hắn dần dần hiểu ra ngọn nguồn mọi chuyện, bèn hít vào một hơi, trở mình ngồi dậy. Ngay lập tức, A Tệ cũng đứng lên.


“A Tệ, chúng ta đi Thần Nông sơn.” Xi Vưu cưỡi lên lưng A Tệ, Vu vương bấy giờ mới sực tỉnh, vội nắm lấy vạt áo hắn. “Chất độc của ngài còn chưa giải, không thể cưỡi tọa kỵ bay đi thế này được.”


“Ngươi là Vu vương đời thứ mấy hả? Ngươi dám dạy ta phải làm thế nào sao?” Trước ánh mắt tàn nhẫn vô tình như dã thú, tựa hồ chẳng còn chút nhân tính của Xi Vưu, Vu vương đành sợ sệt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên.


Xi Vưu vỗ vỗ lên mình A Tệ, lập tức A Tệ vỗ cánh bay lên, một người một thú biến mất giữa bầu trời đêm thăm thẳm.
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom