-
Chương 17
Ngày hôm sau tỉnh dậy thấy chỉ có mình mình nằm trên giường, ta gọi lớn, Tố Khiết nhẹ nhàng chạy vào phòng bẩm báo rằng, Hoàng thượng sáng sớm đã vào triều, dặn dò để cho ta ngủ thêm một lát, không cần hầu hạ người rửa mặt.
Ta vừa chải đầu vừa hồi tưởng đêm hôm trước, xem ra hai bên đã ngầm thống nhất được cách hành xử với nhau. Mới đầu biểu hiện của ta có vẻ khiến hắn kinh ngạc, nhưng đã là người cùng hội cùng thuyền, vì muốn áp chế thế lực của nhà họ Thời, kích động Hoàng hậu, nên đành người hát kẻ múa, hợp diễn một vở kịch sinh động mỹ mãn.
“Nương nương, người xem, viên trân châu màu thúy lục này lấp lánh tỏa hào quang, càng tôn thêm vẻ rạng ngời của nương nương lúc này.”
“Vậy ư?” Ta cảm thấy hơi lạ, con a đầu này trước nay tính dè dặt rón rén thành quen, mấy lần trước Hạ Hầu Thần đến nghỉ, chưa bao giờ nghe nó mở miệng tán tụng, vậy mà hôm nay lại học thói nói vuốt? Tình cờ nhìn vào gương, quả thật thấy nữ nhân trong đó nét xuân rạo rực, sóng mắt long lanh, vẻ mặt phơi phới. Ta giật mình, những lần trước mỗi khi xong việc phải đến mấy ngày sau tinh thần ta hãy còn suy sụp, son phấn chẳng che nổi sắc mặt xanh xao, lần này sao lạ ghê?
“Nhờ ơn mưa móc của Hoàng thượng, sắc mặt nương nương rạng rỡ hồng hào cũng là chuyện đương nhiên…”
Ta thót tim, chẳng lẽ ta diễn quá nhập tâm, giả thành thật rồi? Nghĩ đến đây, ta cố trấn tĩnh lại, trầm sắc mặt: “Không đeo đôi khuyên phỉ thúy này nữa, mang đôi ngọc lưu ly lại đây!”
Tố Khiết chẳng hiểu gì, lật đật mang đôi khuyên tai kia đến.
Tố Khiết tuy có lòng tơ tưởng Hạ Hầu Thần, nhưng bản tính thuần lương, chẳng dám làm gì táo tợn, hết lần này đến lần khác bỏ lỡ thời cơ, chẳng bằng cô em gái của ta vốn giỏi tài luồn cúi… Ta nghĩ ngợi một lát, bèn nói: “Tố Khiết, ngươi đi theo ta đã lâu, nếu cứ thế này cũng chẳng có tiền đồ gì, bản cung nếu cho cơ hội, ngươi có muốn mạo hiểm không?”
Tố Khiết rối rít quỳ xuống nói: “Nương nương, chẳng hay nô tỳ đã làm sai điều gì? Nương nương xin cứ chỉ rõ, nô tỳ nhất định sẽ sửa đổi.”
Ta lắc lắc đầu, cho nó đứng dậy, hỏi tiếp: “Bản cung từng nói rồi, nếu ngươi được Hoàng thượng để mắt đến là cái may, có điều xem ra Hoàng thượng…”
Tố Khiết buồn bã cúi đầu, khẽ nói: “Nương nương, nô tỳ là ai mà mong được Hoàng thượng để mắt, nô tỳ sớm đã từ bỏ ý định rồi.”
Ta khẽ than một tiếng: “Thực ra trong cung mỹ nhân vô số, người mới hết lượt này đến lượt khác xuất hiện, ngươi từ bỏ cũng tốt, đỡ phải chịu nỗi khổ hợp tan… Tố Khiết, ta biết ngươi xuất thân từ phường thêu, tay nghề chắc chắn hơn người thường, nếu bản phi cho ngươi quản lý Thượng Cung cục, không biết ngươi…”
Tố Khiết trợn mắt nhìn ta, có vẻ không dám tin vào tai mình, nghi ngại cắt lời: “Nương nương, người định cho nô tỳ quản lý Ty Chế Phòng ư?”
Ta xua xua tay, cười nhạt: “Người của ta sao lại chỉ quản một phòng, nếu đã quản, phải là cả Thượng Cung cục mới xứng!”
Tố Khiết càng nghi ngờ tợn, lắp bắp hỏi lại: “Nương nương, nô… nô tỳ sao đáng nhận trọng trách ấy, hơn nữa, Thượng Cung còn tại nhiệm ở đó…”
Ta cắt lời: “Chỉ cần ngươi muốn, bản cung tự sẽ có cách. Ngươi theo ta đã lâu, ít nhiều gì cũng học được đôi chút chứ…”
Gương mặt Tố Khiết hơi đỏ lên, bắt đầu hưng phấn, bất chợt lại trắng bệch, ánh mắt càng lúc càng rạo rực. Ta biết nó vào cung đã lâu, quả có đôi chút si mê Hạ Hầu Thần, nhưng vẫn đặt ta lên hàng đầu. Chuyện này không vì thân phận của ta ngày một cao quý, mà đều vì một thân tuyệt nghệ ta có được từ thời làm ở Thượng Cung cục. Đam mê làm trâm tết vòng của nó đã ăn sâu vào xương tủy, ta sao nỡ không giúp nó toại nguyện?
Khổng Văn Trân, ngươi đã phản bội ta, thì chức Thượng Cung cũng hết duyên với ngươi rồi.
Chỉ cần khống chế được Thượng Cung cục, thì cũng khống chế được toàn bộ cung nữ cấp thấp trong hậu cung, ta coi như ngang phân với Hoàng hậu.
Ta cầm cái lược ngà trên bàn đưa cho Tố Khiết. Đang lúc bối rối, Tố Khiết đưa tay ra mà không nắm chắc, chiếc lược rơi xuống đất kêu lên một tiếng “cách”, nó giật nảy mình như vừa sực tỉnh khỏi giấc mộng, vội nhặt lược lên, thuận thế quỳ xuống, nói: “Nương nương, nếu quả được như thế, nô tỳ có làm trâu làm ngựa cũng phải báo đáp ân này.”
Hai mắt nó ngấn lệ, vẻ mặt tha thiết. Ta thầm than trong bụng, quyền thế quả nhiên có cái mãnh lực khiến người ta phát cuồng, ngay như Tố Khiết, nay chỉ mấp mé đứng trước ngưỡng cửa quyền lực, mới chỉ được trao cho một tia hy vọng, mà cả con người nó bừng dậy, như thể vừa tìm được lẽ sống của đời mình.
Ta đưa tay ra hiệu cho nó bình thân, rồi quay người nhìn vào gương: “Chuyện này rất hệ trọng, nên thế nào, ta nghĩ ngươi hiểu.”
Nó đứng bật dậy, nắm chặt cái lược ngà trong tay đến độ các đầu ngón tay trắng buốt: “Nương nương, xin người yên tâm.”
Ta nói: “Thôi, xem ra hôm nay ngươi chẳng thể chải đầu cho ra hồn được đâu, gọi Tố Linh vào đây chải thay vậy, ngươi về phòng tĩnh tâm một lát đi.”
Tố Khiết biết tâm trạng mình đang lúc rối loạn, cũng sợ hầu hạ sai sót, bèn cố nhịn niềm vui sướng, ra cửa gọi Tố Linh vào.
Những việc quan trọng như chải đầu rửa mặt trước nay vốn do Tố Khiết đảm nhiệm, Tố Linh nhận được vinh hạnh như vậy, bèn hớn hở vào phòng. Nếu kế hoạch này thành công, Tố Khiết phải sang ở Thượng Cung cục, ta cũng nên huấn luyện lấy một người thay thế. Tố Linh tuy nhanh nhẹn tháo vát, nhưng ngầm nuôi tham vọng, thế nào cũng có ngày được Hoàng thượng tấn phong, ta phải tìm một ai khác mới được. Bất giác ta nhớ đến Tố Hoàn, không biết bây giờ nó sống ở cung Chiêu Thuần ra sao?
Ta bất giác mỉm cười, Hoàng hậu có con mắt nhìn người sắc bén, vậy mà lại nhìn lầm nó, còn ta, liệu có nhìn lầm?
Rửa mặt chải đầu xong, ra đến cửa ta chạm mặt Túc nương. Túc nương cúi mình hành lễ một cách cung kính, nhưng không hiểu sao cả người ta bỗng cảm thấy khó chịu. Vốn dĩ ta chưa bao giờ hối hận mỗi lần dùng kế lừa người. Vậy nhưng hễ nghĩ đến Túc nương, điều duy nhất ta nhớ được là nụ cười hiền hậu chân thật nở ra vào lúc ta khó khăn nhất. Túc nương chắc không thể ngờ ta lại lợi dụng ngay lòng chân thành, đánh cắp bảo bối của cô ta đem ra uy hiếp. Dĩ nhiên ta chẳng bao giờ ngỏ lời xin lỗi, chỉ coi như chẳng hay biết, chẳng nhìn thấy gì.
Không cần cô ta dìu, ta tự mình xăm xăm bước vào vườn hoa.
Túc nương đột nhiên xoay người nói với theo: “Hoàng thượng lệnh cho nô tỳ bất cứ lúc nào cũng phải theo nương nương. Nếu người muốn đi Ngự Hoa viên, nô tỳ cũng sẽ đến đó.”
Ta đành sải bước đi trước, dáng vẻ chẳng lấy gì làm tự nhiên, cô ta lẽo đẽo theo sau, giữ một khoảng cách khá xa.
Rẽ qua vài lần, thi thoảng ngó về sau, đến khi không thấy bóng dáng Túc nương nữa, ta mới thầm thở ra một hơi.
Tố Linh thấy ta như vậy, khó hiểu nói: “Nương nương, người sao vậy? Phải chăng Túc nương làm gì khiến người không hài lòng? Để nô tỳ từ từ bảo tỷ ấy có được chăng?”
Ta bèn đáp: “Không có gì, trâm cài hôm nay hơi nặng, ta thấy da đầu nhưng nhức, trở về đổi cái khác nhẹ hơn là được.”
Mấy lời này nói ra, Tố Linh sợ hãi vừa quỳ lạy vừa xin tội rối rít. Có Túc nương ở bên cạnh thật là phiền toái.
Có điều là người Hạ Hầu Thần phái đến, ta không tiện đuổi đi, nếu như là người lạ, ta có hàng trăm cách đẩy cô ta đi nơi khác. Nghĩ đến biết bao ân tình trong ngục, cảm giác khó chịu không tên kia lại ập đến.
Hôm nay thời tiết đẹp, xuân đến trăm hoa đua nở, Ngự Hoa viên muôn tía ngàn hồng, nghiêng mình đón gió, ngoài có sắc tím ve vẫy, trong còn ngọc lan tím đọng tuyết lấp lánh; những đóa hoa nở lớn mà e ấp như mời gọi người đến ngắm; Thụy hương vàng như kim, xanh như ngọc, hương vẩn trong không khí; Kim tước dáng vẻ như con chim dát vàng rộ cành… Cảnh vườn đẹp không tả xiết, như trăm ngàn mỹ nữ nở nụ cười vây quanh chân, khiến con người ta không khỏi thấy lòng phơi phới. Chợt có ai cất giọng: “Nương nương, người xem bông hoa này trông có giống Tiểu Nam Tiểu Bắc không?”
Có tiếng người cười đáp: “Sao mà giống, hoa này vàng rực, hai con chim tước của bản phi ở lông đuôi có đốm xanh.”
Tố Linh kề tai nói thầm: “Nương nương, nghe giọng này dường như là chủ nhân của Tiêm Vũ các.”
Ta mỉm cười không đáp, lòng nghĩ Hạ Hầu Thần quả nhiên chu đáo, thấy ái phi thích nuôi chim, liền đặt tên nơi ở là Tiêm Vũ các[1].
[1] Tiêm Vũ: có nghĩa là sợi lông tơ mềm mịn.
Ta đứng ngay cạnh khóm hoa Kim tước nở rộ nhất, nhìn Khánh Mỹ nhân dẫn theo hai cung tỳ đi ra từ hòn giả sơn. Dung mạo Khánh Mỹ nhân rất đỗi ngọt ngào đáng yêu, hễ mỉm cười là trên má hiện hai lúm đồng tiền, lại thêm hôm nay mặc chiếc áo màu vàng nhạt, đai lưng màu xanh ngọc, trông càng thêm mỏng manh yểu điệu như cành dương liễu, tươi non vô ngần.
Khánh Mỹ nhân thấy ta đứng đó, thốt nhiên sững người, sau đó bèn tiến lên hành lễ, cười nói: “Ninh tỷ tỷ cũng đến đây thưởng hoa ạ? Hôm nay trời đẹp, mấy loại hoa trước mới đơm nụ nay đã nở rộ cả, Ninh tỷ tỷ đến thật đúng lúc.”
Vừa nói vừa đưa tay vuốt một cánh hoa Kim tước, bàn tay mềm mại trắng trong nâng niu mấy cánh hoa, cảnh ấy đẹp đến mức người ta không thể rời mắt, chẳng trách Hạ Hầu Thần dành cho cô ta không ít tình cảm.
Ta cười đáp: “Khánh muội muội vẫn chưa biết hoa này tên gọi là gì đúng không?”
Khánh Mỹ nhân bán tín bán nghi nhìn ta, lắc lắc đầu.
Ta cười tiếp: “Hoa này có thể nở trong vườn, chắc đám nghệ nhân phải mất nhiều công sức lắm. Vốn dĩ nó mọc hai bên bờ Trường Giang, chỉ có thể sống ở nơi đó thôi, trồng ở nơi khác đều không được, rõ ràng là loại hoa quý. Hoa này có cái tên rất đẹp, gọi là hoa Kim tước.”
Khánh Mỹ nhân nghe xong, gương mặt liền chuyển mừng: “Quả là cái tên nghe đã khiến người ta vui lòng.”
Ta nói: “Hoa Kim tước tuy không có lông vũ, nhưng hình dáng trông như con chim, rất được người ta yêu thích. Linh Phi của tiền triều có một thời gian được tiên hoàng sủng ái, nàng ta sinh ra bên bờ Trường Giang, cả thời thơ ấu lớn lên cùng loài hoa này, liền cầu xin tiên hoàng cấy trồng. Tiên Hoàng hạ lệnh phải trồng cho bằng được, mặc kệ nó có phù hợp với thổ nhưỡng trong Ngự Hoa viên hay không, khiến các nghệ nhân vắt óc suy nghĩ, phí bao tâm sức mới trồng được hai cây.”
Khánh Mỹ nhân chưa nghe câu chuyện này bao giờ, vô cùng thích thú: “Sao hoa này lại khó trồng đến thế?”
Ta bật cười bảo: “Kỳ thực hoa trong Ngự Hoa viên có loài nào là không tốn trăm gian vạn khổ để cấy trồng. Trong cung có bao nhiêu phi tử, sợ rằng ở đây có bấy nhiêu gốc hoa. Nữ nhân hầu hết đều yêu hoa, Khánh muội muội lại thích chim chóc, mỗi lần múa hát khiến chúng cất cánh vây quanh, khi mới nghe Hoàng thượng kể lại, ta còn không dám tin.”
Khánh Mỹ nhân nghe ta nhắc chuyện đêm trước, vẻ mặt đâm lúng túng, nói: “Chỉ cần Hoàng thượng thích thì có gì mà không được?”
Ta vuốt ve bông hoa Kim tước vàng rực chói mắt, cười hỏi: “Muội muội có biết hoa Kim tước ngoài vẻ đẹp khiến người ta mê say còn có công dụng gì khác không?”
Khánh Mỹ nhân đáp lạnh: “Tỷ tỷ hiểu nhiều biết rộng, thần thiếp sao sánh kịp.”
Ta cười đáp: “Hoa Kim tước rất được yêu thích, nhưng bản thân nó còn có thể làm thuốc, có tác dụng kiện tỳ bổ thận, sáng mắt thính tai, cho nên thi thoảng bản phi hay sai Ngự Thiện Phòng hái hoa đem hầm với thịt lợn, ăn vào bụng quả công hiệu. Khánh muội muội có muốn thử không, để ta sai người ninh lấy một hũ?”
Đã vào được hậu cung tất không phải kẻ tầm thường, Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên nhận ra ý tứ trong lời ta nói. Cô ta xám mặt, miễn cưỡng đáp: “Ánh nắng càng lúc càng gay gắt, thần thiếp vốn chịu nắng kém, xin nương nương cho được cáo lui.”
Ta bèn gật đầu, cô ta hành lễ xong bèn quay người xăm xăm bỏ đi.
Ta cười hỏi Tố Linh: “Ngươi xem Khánh Mỹ nhân hôm nay bận áo vàng tươi tắn, có giống hoa Kim tước không kìa?”
Cô ta đi tuy gấp, nhưng vẫn kịp nghe mấy câu ta vừa nói, cả người chợt sững lại, sau đó càng bước nhanh hơn, chớp mắt đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Tố Linh nhìn ta khó hiểu. Nó biết chủ nhân rất ít khi dùng lời nói khích bác các phi tần khác, cho rằng đây là cách làm hạ cấp nhất, hôm nay không hiểu vì sao lại…
Ta hỏi Tố Linh: “Nghe nói Tiêm Tử ở Tiêm Vũ các và ngươi qua lại rất thân thiết?”
Tố Linh vội quỳ xuống tâu: “Nương nương, Tố Linh tuyệt không dám cấu kết với người ở Tiêm Vũ các làm điều gì có lỗi với nương nương. Tiêm Tử là đồng hương của nô tỳ, làm việc ở Tiêm Vũ các chẳng sung sướng gì. Có một lần Tiêm Tử đệm đàn cho Khánh nương nương, được Hoàng thượng khen tặng vài câu, Hoàng thượng đi rồi, Tiêm Tử liền bị phạt đánh gẫy cả xương tay. Bây giờ tay không duỗi thẳng được, không bao giờ đàn được nữa, bị bắt đi làm việc nặng. Nô tỳ thấy thương, nên thường đến thăm nom thôi ạ.”
Ta nói: “Ngươi lẳng lặng gọi Tiêm Tử sang đây cho ta xem. Nếu có cơ hội sẽ giúp thoát khỏi chốn ấy.”
Tố Linh dĩ nhiên cảm kích vô tận, tâu: “Nếu Tiêm Tử được hầu hạ cho nương nương thì tốt quá. Nương nương không bao giờ trách phạt hạ nhân, đối xử với đám nô tỳ cũng rất hiền từ khoan dung. Nương nương, Tiêm Tử tuy bị phế mất một cánh tay, nhưng dung mạo xuất chúng, xinh đẹp hơn nô tỳ nhiều…”
Ta không tiện phủ nhận, trong lòng lại nghĩ, khi còn ở Tiêm Vũ các con bé ấy không lọt được vào mắt Hạ Hầu Thần, sang đây liệu có… Tuy ta không chấp chuyện cũ, trong đám nô tỳ đứa nào có thể trèo được lên cành vàng, ta đều thầm mừng cho, nhưng vết xưa còn rõ, sợ rằng Hạ Hầu Thần lại nổi cơn quạu thì không hay.
“Cứ gọi nó sang xem sao đã.”
Nói xong, ta bèn men theo những bồn hoa muôn tía ngàn hồng tiến về phía trước, quả xứng là khu vườn hoàng tộc, hoa ở đây sợ rằng không dưới trăm ngàn loại, có loài mọc thành khóm thành cụm, có loài cành lá khẳng khiu đứng một mình. Mẫu đơn, loài hoa được xưng tụng là vua hoa, do được chúng phi tần yêu thích nhất, nên được trồng nhiều nhất, nở đẹp nhất. Trong Ngự Hoa viên có một mảnh đất nhỏ chuyên trồng hoa mẫu đơn, có nhiều màu sắc khác nhau, nào màu hồng phấn đáng yêu, nào màu đỏ tươi, đỏ thẫm… Tính riêng mẫu đơn đỏ có không dưới mười loại, nếu xét theo kiểu dáng cánh hoa thì không biết bao nhiêu mà kể: Cánh đơn, cánh xếp lớp như hoa sen, như hoa cúc, như tường vi, như đài hoa quế, hình kim hoàn, hình mão vua, hình tú cầu…
Ta đứng lại bên một cây mẫu đơn có hoa nở tròn như tú cầu, màu đỏ rực tựa nắng mùa hạ, đang ngắm nghía những lớp hoa trùng trùng điệp điệp rực rỡ kiêu sa của nó, bỗng thấy Tố Linh len lén kéo tay áo mình, thấy từ cây cầu chín đoạn phía đối diện có một đám nữ nhân đi lại, ai nấy áo quần xúng xính, dáng vẻ yêu kiều, tiếng yến oanh theo gió truyền đi khắp nơi. Người đi đầu chải tóc Triều phượng, cài trâm ngọc cánh phượng, đầu đội mão lớn phỏng dáng mẫu đơn đang nở, chẳng phải Hoàng hậu thì là ai?
Hóa ra không chỉ có một người nhân ngày nắng đẹp nổi hứng ra ngoài thưởng hoa, tình cờ làm sao, lại gặp đám tỷ muội ở đây.
Thấy Khánh Mỹ nhân vừa bị mình đuổi đi cũng đứng lẫn trong đám đó, ta không kìm được bật cười, cứ ung dung đứng một chỗ, đợi cho bọn họ thướt tha chậm chạp bước qua cầu. Hoàng hậu làm bộ tình cờ trông thấy ta, bèn dẫn đám tỷ muội tới gần, cười nói: “Muội muội cũng vào vườn thưởng hoa ư? Hôm nay ánh nắng ấm áp, ra ngoài đi lại một chút, cả người cảm thấy khỏe khoắn hơn nhiều.”
Ta mỉm cười hành lễ với Hoàng hậu, các phi tần khác lũ lượt cúi người hành lễ với ta. Đôi bên dềnh dang mất một lúc, ta mới lên tiếng: “Thần thiếp có lẽ vì ở ngoài cung một thời gian, lại thêm bị thương, ở trong phòng lâu quá nên mình mẩy khó chịu, muốn ra ngoài dạo quanh một chút, không ngờ Ngự Hoa viên hôm nay tấp nập quá.”
Ninh Tích Văn đứng bên cạnh Hoàng hậu, sau khi lẳng lặng hành lễ với ta xong bèn quay về chỗ của mình, bây giờ mới cất giọng: “Sao hôm nay tỷ tỷ chỉ đi có một mình, chẳng bằng nhập bọn với chúng muội, càng đông càng vui!”
Chúng phi tần nghe thấy câu này, ai nấy đều bụm miệng nén cười. Ta liếc nó một cái, thản nhiên đáp: “Bản phi trước nay vốn quen độc lai độc vãng, đông người chỉ tổ sinh lắm chuyện. Hoa thì khác, không vì những tâm tư vẩn đục của đám người phàm chúng ta làm nhiễm bẩn vẻ đẹp của mình. Hoàng hậu tỷ tỷ thích náo nhiệt, cũng nên đề phòng mấy kẻ đến vườn không phải để thưởng hoa. Chân bước không cẩn thận giẫm lên một hai cành gai thì không hay.”
Ta ngoảnh lại nói với Tố Linh: “À đúng rồi, cũng không còn sớm nữa, Hoàng thượng nói hôm nay sẽ sang Chiêu Tường các dùng bữa tối, bản phi phải về chuẩn bị cho kịp. Hoàng hậu nương nương, các tỷ muội, bản phi không làm phiền mọi người thưởng hoa nữa.”
Nói xong bèn dẫn Tố Linh theo đường cũ quay về, không cần nhìn cũng tưởng tượng ra sắc mặt đám người phía Hoàng hậu lúc ấy khó coi đến chừng nào.
Hai ngày sau, Tố Linh quả tình nhân lúc rảnh rỗi đưa Tiêm Tử về Chiêu Tường các cho ta nhìn mặt. Con bé này mi thanh mục tú, mặt hoa da phấn, nhan sắc quả không tầm thường, sờ thử hai cánh tay thấy vẫn mềm mại, chỉ nhìn bề ngoài thì không rõ là có tật, đáng tiếc khớp tay không thể nào duỗi thẳng được nữa, mà sau trận ấy, thần tình con bé cứ như một hồ nước chết, chẳng còn chút sinh khí nào, không dám nhìn thẳng vào mắt ai, rón rén như con chim sợ cành cong.
Ta tỉ mỉ hỏi chuyện xảy ra ở Tiêm Vũ các ngày trước, nghe chừng không khác mấy so với những gì Tố Linh nói. Một mỹ nhân thế này nếu biết dùng thủ đoạn thì chẳng mấy chốc có thể soán chỗ chủ, leo lên cành cao, ngược lại nếu rủi ro… Như người ở trước mắt đây, bị làm cho tàn phế, cả đời không thể ngóc đầu lên được nữa. Khánh Mỹ nhân phi phẩm thấp, dĩ nhiên hết sức dè chừng lũ nô tài xung quanh. Ta thì khác, dưới ta còn vô số phi phẩm chờ được sắc phong, chỉ cần những kẻ đó có thể giúp ích khi cần là được. Ta rất hy vọng kiếm được chút lợi ích từ mấy phi phẩm này. Kỳ thực trong cung và triều đình không khác là bao, kẻ chức cao lấy bổng lộc chức tước để quyến rũ kẻ dưới, khiến họ nghe theo mình, thực chất chính là mua bán quyền lực. Ta cũng vậy mà thôi, chỉ khác rằng muốn có được sự đồng thuận từ phía Hạ Hầu Thần có hơi khó một chút. Từ lần lập mưu đưa Ninh Tích Văn lên trong Ngự Hoa viên đến nay, ta biết được Hạ Hầu Thần không thích những trò sắp đặt như vậy, không hiểu sao đến tay Hoàng hậu thì Ninh Tích Văn lại đắc thủ?
Thấy Tiêm Tử đáng thương, ta bèn sai người mang mười hai lạng bạc thưởng cho, khuyên nó đến nhờ Ty Thiện Phòng nấu những món bổ gân cốt để ăn. Nghe nói Khánh Mỹ nhân thích tắm cho chim vào buổi sáng sớm, từ khi tay bị tật Tiêm Tử liền được giao cho đảm trách công việc này. Ta khuyên: “Bản phi tuy có lòng thương, nhưng dẫu sao hiện tại ngươi vẫn là nô tỳ của Khánh Mỹ nhân, tốt nhất không làm gì phật ý cô ta. Khánh Mỹ nhân thích hoa Kim tước trong Ngự Hoa viên, hoa này hình dáng giống y như con chim, nếu ngươi hái lấy vài bông mang vào cắm trong phòng, lũ chim tưởng là đồng loại cất tiếng hót véo von, chẳng thú vị lắm sao?”
Ta lại bày cho nó mấy cách để hồi phục cánh tay, còn tự mình làm mẫu, phải bấm huyệt chỗ nào khiến cho thương tật ở cánh tay nóng lên, làm liên tục trong thời gian dài sẽ khiến tay bớt cứng nhắc. Tiêm Tử bị thương chưa lâu, nói không chừng có thể hồi phục như cũ.
Tiêm Tử dĩ nhiên vô cùng cảm kích, còn Tố Linh về sau hễ có cơ hội là đưa nó đến Chiêu Tường các, nếu ta có ở đấy, thế nào chủ tớ cũng tỉ tê chuyện nhà, sai người xoa bóp tay cho.
Túc nương theo hầu được một thời gian, dĩ nhiên không hồn nhiên nói chuyện với ta như hồi còn trong ngục. Nghe Tố Linh nói, một ngày cô ta nói không quá mười câu, trừ khi ta chủ động gọi, nếu không cũng chẳng buồn nói với ta điều gì. Lúc này Túc nương đứng cách ta không xa, thấy Tiêm Tử đi khuất, trong phòng không còn ai, bèn nói: “Kỹ năng chinh phục lòng người của nương nương quả thật ngày càng điêu luyện, nói vài ba câu mà khiến cho người ta khoan khoái như tắm dưới gió xuân.”
Ta liếc nhìn, thấy ánh mắt Túc nương dán xuống mặt sàn, cứ như lời vừa nãy chẳng phải do cô ta nói, đành miễn cưỡng đáp: “Túc nương, chuyện lần trước là việc bất đắc dĩ ta phải làm, ngươi chớ nên để trong lòng.”
Túc nương lúc này mới ngước mắt lên: “Kỹ năng xin thứ lỗi của nương nương cũng chẳng kém kỹ năng lấy lòng, chắc phải rèn luyện công phu lắm.”
Cô ta quay người một cái bước ra cửa, đứng canh ngoài hành lang.
Ta chết lặng, bụng bảo dạ bản thân chưa bao giờ nghĩ sẽ xin lỗi người ta, bây giờ khó khăn lắm mới nói nên lời, đối phương còn kén cá chọn canh? Ta là chủ nhân cơ mà?
Tối hôm ấy Hạ Hầu Thần đến, ta hiện giờ đương là sủng phi, dĩ nhiên tự cho mình cái quyền được cưng chiều hơn, bèn ngập ngừng đem chuyện Túc nương ra kể, hắn cất giọng cười lớn: “Cũng có kẻ khiến ái phi phải bất lực cơ à? Nhưng người này không thể không giữ bên mình…”
Cho dù ta mè nheo ăn vạ thế nào, hắn cũng mặc kệ, ngược lại còn thích thú ngắm nhìn vẻ làm nũng của ta cứ như xem kịch. Thật đúng là đem dây buộc mình, đêm ấy lại bị hắn giày vò quấn quýt, về cuối quả thực mệt lả, ta bèn mặc hắn muốn làm gì thì làm, cứ thế ngủ thiếp đi.
Thi thoảng nghĩ đến, ta đều cảm thấy sở thích của Hạ Hầu Thần rất kỳ quặc, chẳng hiểu hắn thích loại nữ nhân thế nào. Những phi tử từng được sủng hạnh có người đoan trang, hoạt bát, nhu mì… loại nào cũng có, nhưng chẳng ai được lâu dài, thường chỉ qua vài ba lần là bị hắn lãng quên. Còn ta chẳng qua vì có chút bản lĩnh, chuyện trốn thoát khỏi cung lần trước dù gì đã làm hắn bất ngờ, nhờ thế mà sinh lòng thích thú, muốn ta đứng về phe hắn. Nếu không nhờ điểm này, sợ rằng ta sớm cũng bị lãng quên.
Chuyện thấy trăng quên đèn là tâm lý bình thường của con người, huống chi hắn là Hoàng thượng? Dung mạo như hoa như ngọc cũng phải có ngày phai tàn, chỉ có bản lĩnh chống chọi được thủ đoạn kẻ khác mới giúp bản thân mình đứng vững.
Chuyện ong bướm mấy hôm nay tuy là giả vờ, nhưng xem ra Hạ Hầu Thần có vẻ hài lòng, cứ tiếp tục thế này mối quan hệ giữa ta và Hạ Hầu Thần sẽ thực sự được cải thiện, chẳng biết đây có phải điềm mừng hay không?
Trong cung thời gian này tiệc lớn tiệc nhỏ tiếp nhau không ngừng, hôm nay là sinh nhật của phi tần này, ngày mai lại là mỹ nhân nọ, có ba phi tần sinh nhằm ba ngày liên tiếp, Hoàng hậu bèn hạ ý chỉ cùng tổ chức yến tiệc cho họ vào một ngày, lại gửi thiệp mời ta đến cùng vui với các tỷ muội.
Từ lần bái kiến Hoàng hậu nhân dịp được sắc phong đến nay đã hơn mười mấy ngày, tuy ta mang cái danh trợ giúp Hoàng hậu quản lý hậu cung, nhưng mọi thứ vẫn do Thời Phượng Cần quyết định, ta không hề phản đối bất cứ điều nào cô ta mang ra bàn bạc, càng không bộc lộ ý kiến gì về việc lớn việc nhỏ trong cung, có ai đến tìm đều khuyên sang cung Hoàng hậu thỉnh ý, có lẽ chúng phi tần đều tưởng ta đã biết khó mà lui.
Thật ra ta hiểu, với tình thế hiện tại, cho dù có đưa ra kiến nghị nào cũng chẳng được ai tiếp nhận, việc gì phải tự bôi tro trát trấu lên mặt mình? Trước khi mọi việc chưa chuẩn bị xong, ta sẽ không để bản thân rơi vào thế hiểm, phải một kích trúng đích ta mới có thể đường hoàng mà hiển lộ uy vũ, khiến những kẻ khác phải dè chừng.
Lần yến tiệc mừng sinh nhật chung này, trong số ba phi tần có một chính là Khánh Mỹ nhân, hai người kia đều là phi tần cấp nhỏ, một là Lâm Tuyển thị, người kia là Lí Tu dung, đều mới nhập cung, được Hạ Hầu Thần sủng hạnh vài ba lần, so với những phi tần chưa từng được nhìn mặt Hạ Hầu Thần dù sao cũng may mắn hơn nhiều.
Ta theo lệ chuẩn bị ba món lễ vật, chỉ đợi đến yến tiệc là đem tặng.
Tố Linh cho ta biết: “Khánh Mỹ nhân định biểu diễn điệu múa Bách Tước trứ danh của cô ta vào buổi yến tiệc, còn mang cả lồng chim đến, mấy ngày nay luôn miệng nhắc Tiêm Tử phải cho lũ chim ăn thức ăn thượng hạng nhất đấy ạ.”
Ta nói: “Nếu đã thế, hãy để thêm một bông hoa Kim tước vào phần lễ vật của Khánh Mỹ nhân cho cân xứng.”
Ta lại hỏi Tố Khiết gần đây bận việc gì mà suốt mấy ngày chẳng thấy mặt mũi đâu, Tố Linh bèn nói, Tố Khiết bị cảm phong hàn, sợ lây cho nương nương nên trốn trong phòng suốt, lại bảo đã mang nước thuốc sang bên ấy rồi. Tố Khiết có truyền lại rằng, nương nương đừng lo lắng, bệnh của Tố Khiết sẽ chóng khỏi thôi.
Ta hài lòng gật đầu, nói: “Bảo Tố Khiết yên tâm dưỡng bệnh, khi nào khỏi hãy ra ngoài.”
Tố Linh tưởng ta sợ bị lây bệnh, bèn nhanh nhảu nói: “Tố Khiết tỷ tỷ rất hiểu chuyện, thế nào cũng khỏi bệnh rồi mới ra ngoài.”
Đến ngày tổ chức yến tiệc, ta đợi cho gần sát giờ mới đủng đỉnh rời đi. Đến cung Chiêu Thuần, các phi tần khác đều đã đủ mặt, hai cột trụ lớn trong điện treo hai chiếc đèn lồng chuyển mã ngũ sắc cực lớn, sáng trưng cả cung điện, chúng phi tần ai nấy trang điểm phục sức rạng rỡ, làn thu thủy, nét xuân sơn, dưới ánh đèn trông cứ như một rừng hoa đua nở.
Ta lần lượt đem lễ vật tặng cho Khánh Mỹ nhân, Lâm Tuyển thị và Lí Tu dung. Khánh Mỹ nhân thấy trên hộp lễ vật của mình có gài một bông hoa Kim tước đang nở rộ, sắc mặt hơi biến, liếc nhìn ta một cái rồi hành lễ như thường, sai đám cung tỳ cất đi.
Hoàng hậu hôm nay ăn mặc cũng khác hẳn ngày thường, ngoài khoác áo trường bào tím khói, đai lưng thắt cao, chiếc váy dài quét đất cùng màu, ngực đôn cao đầy đặn hết mức có thể, phía trước thêu một đóa mẫu đơn Hoàng quan nở lớn, khiến cả con người toát ra một khí chất khác hẳn chúng nhân.
Ba phi tần được tổ chức sinh nhật hôm nay được sắp xếp ngồi ngay phía dưới Hoàng hậu, vị trí của ta bị lùi xuống hàng thứ tư. Hoàng hậu bèn tỏ ra hối lỗi mà giải thích, riêng ta đã đoán trước được chuyện này, chỉ cười đáp: “Hôm nay ai có sinh nhật thì được ưu tiên, quan tâm làm gì lễ nghi phép tắc.”
Ba phi tần kia đứng dậy hành lễ cáo lỗi, thay đổi chỗ ngồi xong, trong điện vừa lắng dịu đã nghe bên ngoài có người hô: “Hoàng thượng giá đáo…”
Chúng phi tần rạng ngời nét mặt, gương xuân càng thêm phấp phới, đặc biệt là ba nhân vật chính, ánh mắt đều ngập tràn hy vọng. Hôm nay là lễ mừng sinh nhật của họ, biết đâu Hạ Hầu Thần mềm lòng, sẽ đến nghỉ tại chỗ của một trong ba. Nhưng người như Hạ Hầu Thần sao có thể mềm lòng? Ta giữ nụ cười trên môi, cùng đám phi tần đứng dậy xếp hàng phía sau Hoàng hậu hành lễ với Hạ Hầu Thần, lúc này đang sải bước vào điện.
Hạ Hầu Thần trước tiên hàn huyên với Hoàng hậu mấy câu, sau đó nhìn sang ba nhân vật chính, gật đầu liền mấy cái: “Quả nhiên là nhân vật chính, phục sức so với mọi người đặc biệt hơn hẳn.”
Lời khen này khiến cho nụ cười ba người càng ngọt, các phi tần khác đều hùa theo, khen đến độ cả ba tranh nhau sán lại chỗ Hạ Hầu Thần, đua nhau khoe bày dáng vẻ quyến rũ, đặc biệt là Khánh Mỹ nhân, giọng cô ta thánh thót vui tai như chuông đồng, trong điện chỉ nghe tiếng cô ta: “Hoàng thượng, người xem này…” liên miên bất tuyệt.
“Phải rồi, Khánh Nhi, Hoa Phu nhân nghe nói điệu múa của nàng có thể khiến đàn chim vây quanh thì không tin, trách trẫm nói quá lời. Hôm nay Khánh Nhi hãy biểu diễn cho nàng ấy xem tận mắt.”
Ta bị dạt hẳn về phía sau, điềm nhiên đứng tựa bên trụ son nhìn bọn họ tranh nhau khoe bày xiêm áo, Hạ Hầu Thần bỗng nói gì đó, khiến ánh mắt chúng phi tần đều hướng về phía ta. Ta cười nói: “Thần thiếp hiểu biết nông cạn, đã bao giờ được nhìn thấy cảnh tượng kỳ thú kia, lần trước nghe Hoàng thượng kể lại thần thiếp không dám tin. Cách đây không lâu tình cờ gặp Khánh muội muội trong Ngự Hoa viên, có vui miệng nhắc lại chuyện ấy mà đến giờ chưa được xem cho no mắt. Nhân hôm nay mọi người đều vui vẻ, chi bằng Khánh muội muội hãy biểu diễn một bài, để Hoàng thượng cũng là để chúng tỷ muội được chiêm ngưỡng?”
Ta đã có lời, Hoàng thượng cùng Hoàng hậu sánh vai ngồi trên bảo tọa, ba vị cung tần chủ nhân bữa tiệc lần lượt ngồi gần Hoàng hậu, dĩ nhiên chốc chốc lại dâng miếng hoa quả, mớm cái bánh… lên, Hạ Hầu Thần đều vui vẻ ăn hết.
Xem ra sự nhẫn nhịn của Hoàng hậu đã luyện đến độ chín muồi, chỉ coi như chẳng hề trông thấy những hành vi cử chỉ của ba người kia. Hôm nay quả nhiên ai có sinh nhật người ấy được ưu tiên, ba người kia càng được thể tươi cười như hoa nở trước gió xuân, giở đủ mọi chiêu trò.
Một lát sau, Khánh Mỹ nhân lui xuống chuẩn bị xiêm áo cho tiết mục của mình, Tiêm Tử cùng hai cung tỳ khác mang ba chiếc lồng chim vào, bỗng chốc trong điện tràn ngập tiếng hót véo von. Ba chiếc lồng này nhốt ba loại chim khác nhau: Lồng thứ nhất là họa mi mình nhỏ nhắn; lồng thứ hai nhốt yểng lông đen mỏ vàng, cái còn lại nuôi vẹt màu sắc sặc sỡ, mỗi lồng có khoảng hai ba cặp, nếu khi nhảy múa mà tất cả những con chim này được thả ra, vây lấy thân mình người múa, thì quả đúng là cảnh tượng kỳ ảo.
Chúng phi tần rõ ràng đều chưa được chứng kiến ngón nghề này của Khánh Mỹ nhân, ai nấy tròn mắt hồi hộp dõi nhìn. Mất một lúc lâu mới thấy Khánh Mỹ nhân bước ra từ ché bên, vừa bước vào đã thu hút mọi con mắt trong điện. Cô ta mặc chiếc váy bảy sắc bằng lụa mỏng, kiểu tóc Vọng Sơn cao vút ngập mây, trên búi tóc không có vật nào khác tô điểm, chỉ cài độc một chiếc lông vũ nhuộm bảy sắc, khẽ khàng lay động theo bước chân, màu sắc chiếc váy cứ như cầu vồng bắc ngang trời, đẹp không kể xiết.
Cái eo cô ta nhỏ xíu, đeo một viên ngọc bội có tua rua lụa lạc, chân đi hài châu, lưng thắt dải lụa, duyên dáng như thiên nga. Tiếng nhạc vừa nổi lên, ống tay áo dài thoắt bay, mắt mày chớp động, ánh mắt đượm tình, dập dìu như có như không, tiến lại chỗ Hạ Hầu Thần. Váy lụa bảy sắc theo đó khi tụ khi tỏa, mỗi lần nếp váy dãn ra bên trong phảng phất ánh lên sắc vàng lộng lẫy, rõ ràng trong nếp váy dùng tơ vàng điểm xuyết, chất lụa mỏng như cánh ve lại có thể thêu tơ vàng lên, xem ra Ty Chế Phòng phí không ít công phu chế tác mới làm nên váy này.
Khánh Mỹ nhân vốn dĩ dung mạo yêu kiều nay lại thêm vài phần phiêu dật uyển chuyển, tuy ngồi cách xa vài ba lớp bàn, nhưng thi thoảng ta nhìn sang, xung quanh muôn vàn mỹ nữ, mà Hạ Hầu Thần chỉ chăm chăm nhìn có một mình cô ta, dáng vẻ rõ ràng vô cùng hào hứng.
Đến phần cao trào, tiếng nhạc trống đột nhiên thúc mạnh, dải tay áo của Khánh Mỹ nhân bay lượn không ngớt, phối cùng tiếng nhạc. Mấy cung tỳ lẳng lặng mở cửa lồng chim, lũ chim kỳ lạ kia theo nhịp phách ùa đến chỗ Khánh Mỹ nhân đứng, trước tiên là chao liệng quanh thân, sau đó thì véo von cất tiếng hót, hòa cùng tiếng nhạc, ta chưa từng nhìn thấy khung cảnh kỳ lạ như vậy, bèn tiên phong vỗ tay tán thưởng, tiếng vỗ tay theo đó rộ lên tứ phía, Hạ Hầu Thần gật đầu liên tục, nghiêng người hướng về phía ta nói: “Ái phi, trẫm từng kể cho nàng nghe bản lĩnh tuyệt diệu này của Khánh Nhi, nàng chưa tin. Nàng là người phàm, dĩ nhiên không thể làm được, Khánh Nhi thì khác.”
Ta bèn đáp phải lia lịa.
Điệu múa đã đến hồi kết, theo lý sau khi trình diễn màn múa cùng đàn chim ban nãy, vũ điệu sẽ kết thúc. Có vài phi tần trên mặt đã hơi lộ lòng ghen, lần này Khánh Mỹ nhân hiển lộ tài năng, trở nên nổi trội hẳn so với hai vị phi tần còn lại, xem ra đêm nay Hạ Hầu Thần chắc sẽ đến nghỉ ở chỗ cô ta.
Đúng lúc ấy, nhạc sư chợt lướt nhanh ngón tay trên phím đàn, tiếng nhạc ngân dài, tay trái Khánh Mỹ nhân khẽ vươn ra, uốn mình tựa bông hoa lan, có lẽ chờ cho con chim khéo nghe lời nhất đàn đậu trên tay. Đàn chim đột nhiên bay vòng trên đỉnh đầu cô ta không chịu đậu, nhạc tiếp tục tấu sang đoạn khác, Khánh Mỹ nhân đành thu tay lại, tiếp tục động tác của đoạn sau, chuyển biến này vô cùng chớp nhoáng, chẳng ai hay biết. Ta thầm nghĩ, bắt đầu rồi đây.
Hai ống tay áo của Khánh Mỹ nhân uyển chuyển phất lên, áo lụa như sương, trong mờ ảo lẩn khuất ánh vàng, cứ như mặt trời chiếu lộ qua tầng mây. Chiếc áo này đích thực được may rất khéo.
Khánh Mỹ nhân xoay tròn, tiếng đệm gõ ngày một gấp gáp, cô ta cũng xoay tròn ngày một nhanh, theo lý mà nói, đàn chim cũng phải bay quanh mình cô ta theo tiết tấu, nhưng chẳng rõ vì sao chúng bỗng nổi loạn, có con lao đầu vào mình cô ta, có con lại đậu trên búi tóc, mọi người chẳng ai hay biết có điềm lạ, tưởng rằng điệu múa vốn dĩ là vậy. Đôi mắt đẹp của Khánh Mỹ nhân nãy giờ chỉ nhìn Hạ Hầu Thần đắm đuối, cuối cùng phải hốt hoảng chuyển sang đàn chim đang bắt đầu mổ lia lịa lên người mình.
Lúc này mọi người trong điện rốt cuộc đã chú ý đến điểm khác thường, có phi tần nhát gan ré lên kinh hãi, bởi có hai con trong đàn đã gỡ bung hai búi tóc giả của Khánh Mỹ nhân, chiếc lông vũ bảy sắc gài trên đầu cô ta rớt xuống đất, vũ đạo biến thành nhảy nhót loạn xạ xen lẫn tiếng kêu thất thanh, cứ như con ruồi bị mất đầu. Khánh Mỹ nhân đâm thẳng vào bàn tiệc, khiến chúng phi tần nhao nhao tránh, tiếng la hét sợ hãi cất lên không ngớt.
Cũng lạ, lũ chim tuy “nổi điên”, nhưng chỉ bâu lấy người Khánh Mỹ nhân mà phá rối, không quấy nhiễu ai khác, có điều chúng phi tần chưa từng trải qua chuyện tương tự, ai nấy hoảng hốt tán loạn.
Hạ Hầu Thần tái mặt, vội quát: “Người đâu, sao còn chưa bắt mấy con chim kia lại?”
Mấy tên thị vệ cao thủ đứng bên Hoàng thượng lúc này mới sực tỉnh, Khang Đại Vi vội đuổi theo Khánh Mỹ nhân lúc này đang kêu cứu thảm thiết, hoa tay một cái, đã bóp chết được một con, lại túm lấy một con đang bấu trên người cô ta, bóp chết, cứ thế liên tiếp mấy lần, đến khi xung quanh la liệt xác chim, Khánh Mỹ nhân mới thôi la hét, co ro dưới đài run rẩy không ngừng.
Còn đâu phong thái thần tiên tài nghệ xuất quần ban nãy, giờ đây Khánh Mỹ nhân đầu tóc rối bù, trâm ngọc dập nát, áo quần bị lũ chim mổ thủng thành mấy lỗ to, có những nơi còn lẫn cả vết máu. May mà lũ chim còn nương tình, hoặc nhờ cô ta lấy tay bưng kín mặt nên dung mạo không bị tổn hại, có thể coi là cái phúc lớn trong đại nạn.
Các phi tần khác trong lúc hoảng sợ đều cố tránh cho thật xa, ta đứng tương đối gần Khánh Mỹ nhân, lúc ấy bèn bước lại, đưa tay dìu cô ta dậy: “Khánh muội muội, đừng sợ, mấy con súc sinh kia đều chết cả rồi.”
Khánh Mỹ nhân lúc ấy mới bỏ tay khỏi mặt, nhìn thấy dưới đất la liệt xác chim, mấy vết thương bị chim mổ chợt nhói đau, cô ta bật khóc nức nở.
Ta nhỏ giọng khuyên: “Khánh muội muội, tin tưởng đám súc sinh ấy quá làm gì?”
Khánh Mỹ nhân nín khóc, chợt liếc ta một cái, gằn giọng: “Có phải cô không, có phải cô dùng kế làm chúng nó phát điên không, chính là cô rồi!”
Cô ta đầu tóc rối bời, phấn son nhoe nhoét, thần tình như điên như loạn, mở mắt trừng trừng, ta sợ quá lùi về sau, vội nói: “Khánh muội muội, muội sao thế?”
Lúc ấy Khang Đại Vi đang bận sai người dọn dẹp trong điện, Hạ Hầu Thần bị sự biến làm cho cụt hứng, sầm mặt ngồi trên bảo tọa, Hoàng hậu không dám mở miệng khuyên gì, các phi tần khác lặng lẽ ngồi về chỗ cũ.
Khánh Mỹ nhân líu ríu bước lên mấy bước, quỳ xuống trước mặt Hoàng thượng Hoàng hậu, dập đầu liên tục: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, hai người phải làm chủ cho thần thiếp, thần thiếp bị người ta mưu hại!”
Hạ Hầu Thần trầm giọng: “Mưu hại thế nào, ai mưu hại?” Hắn chẳng thèm nhìn cô ta lấy một cái, cầm chén trà lên hớp một ngụm lớn.
Hoàng hậu vội nói đỡ: “Khánh muội muội, chuyện lần này đến chính muội còn không ngờ tới, ai mà biết được đám súc sinh lông lá ấy lại đột nhiên phát cuồng?”
Các phi tần khác nhỏ to nghị luận, ta chậm rãi lướt qua người Khánh Mỹ nhân, định về chỗ của mình, ai ngờ Khánh Mỹ nhân đang khấu đầu sát đất đột nhiên ngẩng lên, trỏ tay vào ta mà nói: “Chính cô ta, chính cô ta khiến lũ chim của thần thiếp phát điên, khiến thần thiếp phải xấu mặt trước mặt Hoàng thượng. Hoàng thượng, người phải làm chủ cho thần thiếp!”
Bộ dạng thảm hại lúc này của Khánh Mỹ nhân nào khiến Hạ Hầu Thần mảy may thương xót, trông hắn rõ ràng vô cùng chán ngán, vẫn chẳng thèm nhìn, chỉ nói: “Chuyện lần này chẳng qua là ngoài ý muốn, nàng đừng tùy tiện đổ tội cho ai.”
Ta đủng đỉnh về chỗ của mình rồi ngồi xuống, mới quay ra Hoàng thượng mà mỉm cười: “Đa tạ Hoàng thượng nói đỡ cho thần thiếp, thần thiếp có tệ hại thế nào cũng chẳng hơn thua với mấy con chim.”
Thần thái an nhiên của ta càng khiến Khánh Mỹ nhân tức tối, cô ta nói: “Lần trước Hoa nương nương gặp thần thiếp, đã lấy thần thiếp ra ví với hoa Kim tước, bảo rằng thần thiếp thể nào cũng bị người ta hầm lên rồi ăn vào bụng như hoa kia, hôm nay đàn chim đột nhiên dở chứng, chẳng cô ta làm thì là ai?”
Ta ung dung tâu: “Thần thiếp quả có tình cờ gặp muội ấy, thấy muội ấy thích hoa Kim tước, nên đã đem những ích lợi của loài hoa này giảng giải cho muội ấy nghe, sao muội lại hiểu nhầm ý tốt? Nếu quý danh của vị nào đó có chữ trùng với tên thức ăn, thần thiếp không cẩn thận nhờ Ngự Thiện Phòng nấu thứ đó lên ăn, chẳng lẽ lại cho rằng thần thiếp muốn nấu người đó mà ăn? Tội danh quái ác thế này, thần thiếp không thể nhận.”
Rất nhiều phi tần có tên gọi liên quan đến tên của loài hoa hay rau quả nào đó, ví dụ tên của Hoàng hậu có chữ “Cần”. Ta nói xong, chúng phi tần lập tức xôn xao bàn tán, thấy rõ lời cáo buộc của Khánh Mỹ nhân không đủ sức thuyết phục.
Có điều trước nay ta không thân thiết với ai, nay bị cáo tội, tuy tự bào chữa có lý có tình, cũng không ai cất tiếng bênh vực.
Khánh Mỹ nhân cứng họng, thấy Hạ Hầu Thần bỏ mặc, bèn quay sang Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương, người là người khoan dung công bằng nhất, xin hãy nói một lời công đạo. Thần thiếp biểu diễn điệu múa này biết bao lần, lũ chim chưa bao giờ làm loạn, sao đúng lúc có Hoàng thượng dự khán thì lại xảy ra chuyện? Rõ ràng là có người ngầm ra tay ám toán.”
Mái tóc cô ta rũ rượi che kín nửa khuôn mặt, trừng mắt lườm ta, cứ như ma quỷ hiện hình. Ta nghĩ hình ảnh này chắc hẳn đã để lại ấn tượng sâu đậm trong Hạ Hầu Thần, bèn bật cười, cùng cô ta mắt đối mắt.
Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên tức điên, chỉ hận không xé xác ta ra.
Hoàng hậu nói: “Hoàng thượng người xem, đang lúc nhảy múa thì lũ chim có biểu hiện bất thường, Khánh Mỹ nhân nói là do Hoa Phu nhân mưu hại, dĩ nhiên đây chỉ là lời nói không bằng không chứng, nhưng chuyện này…”
Ta tiếp lời Thời Phượng Cần, khảng khái đứng dậy hành lễ với Hoàng thượng và Hoàng hậu: “Nếu Hoàng hậu đã nghi ngờ, thần thiếp chẳng có lời nào để nói. Dĩ nhiên cần sai người điều tra cho rõ ràng. Nếu Khánh muội muội đã tố tội, chắc hẳn phải có chứng cứ. Hoàng thượng xin cứ phái người nghiệm xác lũ chim, những con chim này dù gì cũng là vật sống, nếu có người hạ độc khiến chúng bộc phát tính hoang dã, dĩ nhiên phải lưu lại dấu tích. Việc này các ngự y trong cung chắc hẳn đều có thể làm được…”
Hoàng hậu sững người, không ngờ ta lại tự đòi được tra xét. Khánh Mỹ nhân thời chẳng còn ý kiến vào đâu được. Hoàng hậu bèn hỏi: “Khánh muội muội nghĩ thế nào?”
Khánh Mỹ nhân còn chưa kịp trả lời, ta đã nói: “Khánh muội muội bị đám súc sinh lông lá kia làm bị thương khắp người, mặt nhọ tóc rối, cần để muội ấy đi rửa mặt chải đầu rồi hẵng bàn.” Ta lại đánh mắt sang phía Hạ Hầu Thần, “Hoàng thượng thật là, sao chẳng hề thương hoa tiếc ngọc? Khánh muội muội thế kia còn dám gặp ai?”
Khánh Mỹ nhân lúc ấy mới nhớ ra đối tượng cần một mực lấy lòng đang ngồi trên bảo tọa, nhất thời quên hết tất cả, lấy tay xoa xoa gương mặt, lắp bắp nói: “Hoàng thượng, xin lượng thứ cho thần thiếp…”
Hạ Hầu Thần nói: “Lui xuống rửa mặt chải đầu rồi tính tiếp!”
Mấy câu hỏi ban nãy của Hoàng hậu coi như chẳng có tác dụng gì.
Hạ Hầu Thần nói: “Truyền hai thái y tới, nghiệm xác lũ chim trước mặt mọi người. Trẫm muốn xem xem là ai giở trò ma mãnh.”
Hoàng hậu há miệng định nói gì đó, rốt cuộc im bặt.
Xác chim dĩ nhiên do Khang Đại Vi coi giữ, không ai có thể động tới.
Nhằm tránh làm bẩn mắt các phi tần, thái y đem xác chim ra sau bình phong kiểm nghiệm. Một lúc sau, Từ lão thái y, người được coi là danh y hàng đầu thiên hạ bước lên trước bẩm tấu, sắc mặt nặng nề: “Bẩm Hoàng thượng, mấy con chim này đích thực đã bị trúng độc…”
Vừa nghe đến đây, Khánh Mỹ nhân vốn dĩ đã chỉnh trang đầu tóc, thay áo sạch ngồi một bên lập tức chửi đổng một tiếng thống thiết, quay sang lườm ta, mắt long sòng sọc, cứ như định ăn tươi nuốt sống.
Hoàng hậu lạc giọng hỏi: “Có chuyện đó thật sao?”
Hoàng thượng nhíu mày: “Là độc gì?”
Lão Ngự y bèn đáp: “Bẩm cáo Hoàng thượng, lão thần chỉ đem những gì mình khám nghiệm được thành thật tâu rõ, mọi chuyện còn lại xin Hoàng thượng phán quyết. Lão thần phanh diều con chim ra, đầu tiên dùng kim bạc để thử, phát hiện máu ở trong diều hơi có độc, bèn cẩn thận dùng nước sạch rửa lớp màng bao ruột…”
Nghe đến đây, không ít những phi tần hay tỏ vẻ điệu đà duyên dáng trước mặt Hạ Hầu Thần bụm miệng muốn nôn, ta chậm rãi hớp một ngụm trà, nói: “Từ ngự y, không cần miêu tả chi tiết quá, cứ nói kết luận là được rồi.”
Từ ngự y bèn tâu: “Lão thần phát hiện trong xác chim hàm chứa một lượng thạch anh tím, thạch anh trắng, xích thạch chỉ, thạch nhũ, thạch lưu huỳnh, tất cả năm loại, hơn nữa lớp da tiếp giáp với móng vả mỏ trở nên rất giòn, chỉ khẽ chạm vào là rụng lông, thần khẳng định lũ chim trúng độc đã lâu, phải đến một hai tháng, tuyệt không phải chuyện một sớm một chiều.”
Đám phi tần ngơ ngác không hiểu Từ ngự y định nói tới loại độc gì, còn Hoàng hậu Hoàng thượng thì hiểu rõ. Sắc mặt Hoàng hậu trở nên nặng nề, lặng lẽ lườm Khánh Mỹ nhân một cái, Hoàng thượng lạnh nhạt nói: “Từ ngự y, ngươi cứ lui xuống trước, chuyện này không được truyền ra ngoài, hoàng cung bản triều chưa từng xảy ra chuyện thế này, ngươi nhớ chưa?”
Khánh Mỹ nhân vẫn chưa hiểu ra, vội nói: “Hoàng thượng người xem, có người hạ độc lũ chim của thần thiếp từ vài tháng trước, lúc ấy thần thiếp…”
Vừa nhắc đến thời gian, cô ta chợt sững lại, vài tháng trước là thời gian Khánh Mỹ nhân mới nhập cung, còn chưa được Hạ Hầu Thần sủng hạnh lần nào.
Từ ngự y lui đi rồi, Hoàng hậu cùng Hoàng thượng chẳng ai lên tiếng. Trong đám phi tần có người hiểu thì im thin thít, kẻ không hiểu bèn quay trái quay phải hỏi han, cái tên “Ngũ thạch tán”, vốn là thứ độc bị bản triều cấm lưu hành, dần dần loan ra khắp điện.
Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên nghe rõ mấy lời thì thầm lao xao kia, đa số mọi người không biết cách điều chế, nhưng cái tên “Ngũ thạch tán” thì ai nấy đều từng nghe qua. Tiền triều từng có vô số người do phục dụng thứ thuốc này mà táng mạng, về sau tiên hoàng ra lệnh liệt vào thuốc cấm. Khi tiên hoàng tuổi già lâm bệnh, nghe trong cung đồn thổi rằng, lại bị người ta ngầm đầu độc bằng chính Ngũ thạch tán đến chết. Chuyện này tuy chỉ là lời đồn bâng quơ vô căn cứ, nhưng từ đó đủ thấy mầm họa của Ngũ thạch tán rất sâu bền, giờ đây bỗng dưng tung tích thứ độc dược huyền thoại xuất hiện, chẳng không khiến người ta kinh sợ?
Sắc mặt Khánh Mỹ nhân thoắt chuyển sang trắng bệch, còn đâu dáng vẻ sừng sộ ban nãy, cô ta lập cập quỳ xuống: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, thần thiếp tuyệt không có gan dùng thứ ấy, thần thiếp bị người ta ám hại…”
Ta lạnh nhạt nói: “Khánh muội muội, lúc thì muội nói ta hãm hại muội, lúc lại nói người nào đó hãm hại muội, dẫu sao muội cũng phải rũ sạch bằng được tội danh trên mình? Muốn đổ tội cho người khác thì nên lấy ra chút chứng cứ mới coi được.”
Khánh Mỹ nhân dập đầu lia lịa, nói: “Thần thiếp không dám, thần thiếp không dám, thần thiếp xin tâu thật, mấy con chim này là thần thiếp nhờ Khổng Thượng Cung mang giúp vào cung, tất cả thức ăn của chúng do Khổng Thượng Cung cho thần thiếp. Y phục thần thiếp đang mặc cũng là nhờ Khổng Thượng Cung thiết kế rồi may cho…”
Chúng phi tần bỗng chốc huyên náo hẳn lên, không ngờ cô ta lại dám lôi cả Khổng Thượng Cung vào cuộc. Ta hơi trầm tư, lẳng lặng không nói gì, liếc thấy Hoàng hậu, thấy ánh mắt cô ta như tro tàn, vẻ mặt âm độc, nhìn Khánh Mỹ nhân đầy hậm hực.
Hạ Hầu Thần nói: “Khang Đại Vi, sai người đến Thượng Cung cục truyền những người có liên quan đến hỏi chuyện, chú ý đừng làm náo loạn lên.”
Khang Đại Vi dẫn theo hai tên thuộc hạ xăm xăm đi ra ngoài.
Trong khi chờ đợi, Khánh Mỹ nhân biết đã chuốc phải tai họa lớn, bèn luôn miệng phân trần: “Thần thiếp vinh hạnh lọt vào mắt xanh của nương nương, được tuyển vào hậu cung, mãi mà chưa được Hoàng thượng để ý, có một ngày nhân lúc nhàn rỗi bèn đến Thượng Cung cục chọn nữ trang, muốn làm mình thêm đẹp. Khổng Thượng Cung lén lút đến mách cho thần thiếp một cách… Hoàng thượng, thần thiếp xin nhà mẹ vay mượn không ít ngân lượng mới có được chiếc áo và đàn chim này, thần thiếp thật sự không biết mấy con chim đó lại được nuôi bằng thứ độc dược kia…”
Cô ta một mình lải nhải, có bao nhiêu chuyện tiền nhân hậu quả tồng tộc kể ra hết, Hoàng thượng lạnh mặt ngồi ở chính giữa đại điện, Hoàng hậu thấy thế nào dám khuyên ngăn. Chẳng cần Khổng Văn Trân đến đối chất, tất cả chân tướng đã phơi bày.
Khang Đại Vi sớm đã mang bộ áo bảy sắc đến, lại cho Từ thái y vốn chờ sẵn ngoài điện đến kiểm nghiệm, loay hoay một hồi, Từ thái y phát hiện ở những chỗ mép áo mép váy đều có tẩm Ngũ thạch tán, mọi người ồ lên, hóa ra lũ chim vờn quanh thân Khánh Mỹ nhân là vì thế.
Không khí trong đại điện vô cùng nặng nề, đám phi tần không ai dám thở mạnh, chỉ có tiếng Khánh Mỹ nhân huyên thuyên mãi không dứt.
Một lát sau, Khang Đại Vi dẫn Khổng Văn Trân vào, cô ta ăn vận rất chỉnh tề, người khoác lễ phục Thượng Cung, đầu vấn kiểu Đại Thù không rối một sợi tóc, nhìn thấy tình cảnh trong điện, cô ta đoán ngay có việc biến xảy ra. Vừa đặt chân vào điện, chưa kịp hành lễ với Hoàng thượng và Hoàng hậu mà chân cô ta đã nhũn ra, suýt nữa thì trượt ngã, phải nhờ hai tên tiểu thái giám vừa dìu vừa lôi vào. Đến trước mặt Hoàng thượng Hoàng hậu, cô ta ngã ra đất, khấu đầu lia lịa, chỉ biết luôn mồm nói: “Nô tỳ đáng chết, nô tỳ đáng chết.”
Vậy là không cần thẩm vấn mà mọi việc đã hai năm rõ mười. Lời Khánh Mỹ nhân nói ra đều là thực, Khổng Văn Trân dùng nhiều thủ đoạn giúp các phi tần tranh sủng, hòng ăn của đút lót, dám mang thuốc cấm vào hoàng cung đại nội, làm ô uế sự thanh tịnh chốn thâm cung. Hạ Hầu Thần nổi giận đùng đùng, sai tống ả vào Tông Nhân Phủ tra hỏi, những kẻ có liên đới đều phải xử phạt thật nặng.
Khánh Mỹ nhân bị tuyên dùng cách thức bàng môn tà đạo để tranh sủng, đày vào lãnh cung vĩnh viễn, làm tấm gương cảnh tỉnh mọi người.
Yến tiệc do Hoàng hậu dày công sắp đặt phút chốc tan tành, hai vị phi tử được ăn mừng sinh nhật tuy không bị liên lụy, nhưng trong cung chẳng ai dám nghĩ đến việc mở tiệc mừng sinh nhật nữa. Trải qua cái hạn này, Hoàng hậu mất đi hai trợ thủ đắc lực là Khánh Mỹ nhân và Khổng Thượng Cung, bèn cáo bệnh ở lỳ trong cung Chiêu Thuần không ra ngoài. Ta danh chính ngôn thuận tiếp quản công việc của Hoàng hậu. Sau cuộc đại biến, các phi tần đều cẩn trọng từng li từng tí, tuy phải chịu ta quản chế, nhưng không ai dám ho he nửa lời.
Vị trí Thượng Cung đột nhiên bị bỏ trống, cần phải tìm một người thích hợp thế vào. Ta biết đây lại là một cái cớ cho cuộc tranh giành quyền lực mới giữa ta và Hoàng hậu, chuyện này Hạ Hầu Thần chẳng thể nhúng tay vào. Những chính sách mới hắn đưa ra trong triều đã ngày một khiến sự bất mãn của nhà họ Thời gia tăng, Thời gia tài thế bậc nhất trong thiên hạ, nếu Hạ Hầu Thần để lộ chút nào bất mãn với Thời Phượng Cần, ngọn lửa mâu thuẫn lập tức bị thổi bùng, nhà họ Thời mà làm liều, sẽ khiến tài chính quốc gia chao đảo.
Ta hiểu suy nghĩ của Hạ Hầu Thần, hắn muốn không động binh đao mà vẫn bình ổn được thế cục. Dẫu sao ngày mới xưng đế, ngai vàng còn chưa vững, ngân khố đã bị họ Thượng Quan vơ vét, từ đó đến nay chưa thể bù đắp kịp, nếu lại động binh đao, chỉ sợ sẽ càng hao tổn nguyên khí quốc gia.
Ánh nắng mai trong veo, bầu trời xanh không vẩn đục, từ khung cửa sổ nhìn ra, thấy sương sớm còn đang lăn dài trên cỏ non, ta nhìn kẻ đang quỳ trước mặt, khẽ nói: “Vết thương ở tay ngươi vẫn còn hy vọng, ngươi đã giúp bản phi làm việc, bản phi tất sẽ sai người ngày ngày đến xoa bóp, lại truyền ngự y dùng kim vàng đả thông huyệt, qua một thời gian chắc sẽ lành hẳn.”
Tiêm Tử ngẩng đầu lên, bờ môi khẽ run, dập đầu hành đại lễ mà nói: “Đa tạ nương nương.”
Ta cười nói: “Ngươi giúp bản phi một việc lớn, bản phi sẽ không bạc đãi người từng giúp mình. À phải, cái tên Tiêm Tử chỉ hợp khi ở Tiêm Vũ các, giờ không nên dùng nữa, nay ngươi theo hội Tố Linh làm việc thì gọi là Tố Tú đi.”
Tiêm Tử lại dập đầu mấy cái: “Nô tỳ đa tạ nương nương thưởng tên, nô tỳ chắc chắn không để nương nương thất vọng.”
Tố Linh dẫn Tiêm Tử lui xuống, nhìn bóng lưng hai đứa biến mất sau màn son, ta chậm rãi mở cái ngăn kéo chạm khắc tinh xảo, cởi nút một túi lụa, lụa này được xén ra từ một tấm vải mỏng, bên trong đựng cám chim, một thứ hạt khô nhỏ li ti hơi ẩn hiện sắc xanh, đưa lên mũi khẽ ngửi, so với mùi tanh tưởi của cám chim bình thường còn lẫn tạp một mùi hương lạ, chính là thứ cám Tiêm Tử tráo mang về.
Đàn chim kia đã quen với thứ độc vật nọ, cách mấy ngày không được ăn liền như người nghiện đói thuốc, tuy vẫn nghe lời người huấn luyện chao liệng quanh người Khánh Mỹ nhân, nhưng bị ép bỏ thuốc một thời gian, nghe thấy trong áo váy phả ra mùi Ngũ thạch tán, làm sao mà nhịn cho nổi?
Khánh Mỹ nhân dùng loại cám đặc biệt để nuôi chim, tẩm Ngũ thạch tán vào áo quần để dẫn dụ chúng, dùng âm nhạc vũ điệu để khống chế, nhưng nếu có người ngầm cắt đứt nguồn thuốc thì… đến người còn khó kìm lòng huống hồ lũ chim?
Khánh Mỹ nhân đã sai, ta không hạ độc lũ chim, chẳng qua chỉ tráo đổi thức ăn của chúng. Khi ở Ngự Hoa viên ta dùng lời lẽ khiêu khích, khiến lòng cô ta sinh ra bất mãn, lúc tặng lễ vật lại đính kèm một bông hoa Kim tước, như mồi lửa làm cháy bùng cơn giận. Đến khi đàn chim gây đại họa, cô ta bèn đem tất cả lửa giận trút lên người ta, khiến Hoàng hậu sinh lòng nghi, tưởng ta ngầm mưu toan điều gì đó, vì đó không ngăn cản việc ngự y khám nghiệm, mọi chuyện từ đó vỡ toạc.
Ta gọi Tố Linh vào, đưa túi lụa cho nó: “Đem thứ này rửa trôi hay vùi đất thật sâu cũng được, đừng để nó hại người nữa.”
Tố Linh gật đầu đi ra lo liệu.
Hạ Hầu Thần đêm đó tới, mặt mày vẫn cứ nặng trình trịch, vẻ như cơn giận vẫn chưa tan, nhưng ta cảm thấy kỳ thực trong lòng hắn đang rất vui mừng. Ta chưa vội thỉnh công, sai người chuẩn bị hai món điểm tâm, rót rượu mời hắn uống hai ly. Cả hai chẳng buồn nhắc đến chuyện ngày hôm trước, xem ra Khánh Mỹ nhân chỉ là một bản nhạc đệm nhỏ bé trong cuộc đời hắn, sợ rằng hắn sớm đã quên rồi. Kỳ thực đôi khi nhìn vào gương mặt thản nhiên của Hạ Hầu Thần, ta tự hỏi chúng phi tần đang tranh giành thứ gì? Tranh giành sự sủng ái như ánh chớp vụt lóe vụt tắt? Hay là quyền lực tối thượng Quân vương đang nắm trong tay? Phần ta, xin trả lời thẳng thắn rằng mình chọn vế thứ hai. Thứ cảm giác khi đứng từ trên cao mà nhìn mọi người đó, chỉ hắn có thể cho ta. Nay hai bên đã thỏa thuận, hắn cho ta những thứ ta muốn, ta giúp hắn làm những việc hắn cần, chẳng liên quan gì đến tình nghĩa.
Cho nên khi ta vờ vịt ghen bóng ghen gió, hắn liền hợp diễn màn tình nghĩa mặn nồng. Cả hai đều là những kẻ có khiếu diễn kịch, đôi khi ánh mắt hắn dạt dào tình ý cứ như sông xuân cuồn cuộn phá băng mà chảy, ta còn tưởng bản thân mình thực sự đang được sủng ái.
Ta cầm cái chén lưu ly trên bàn lên, nói với Hạ Hầu Thần: “Chúc Hoàng thượng đạt thành tâm nguyện.”
Hắn cụng ly mình vào ly của ta, cười liêu xiêu: “Ái phi chúc trẫm gì cơ?”
Ta uống cạn chén ấy, cười không đáp, chỉ vào bóng Tố Tú vừa bước ra, hỏi: “Cung tỳ này thần thiếp vừa thu nhận, Hoàng thượng xem có vừa mắt không?”
Hắn đặt chén rượu xuống, không buồn uống nữa, nói: “Ái phi biết trẫm hận nhất điều gì không? Trẫm muốn người đẹp, thì trẫm tự sẽ chọn theo ý mình, có người cứ nhất quyết không chịu biết điều, đưa cho trẫm người này người nọ…”
Ta hờn dỗi cười đáp: “Hoàng thượng, sao người phải giận, thần thiếp đâu có ý ấy, chỉ muốn Hoàng thượng nhìn xem cung tỳ mới thu nhận có được không thôi!” Ta kéo tay áo hắn, “Hoàng thượng, trước đây người chưa thấy cung tỳ này bao giờ thật ư?”
Hắn nhíu mày ngẫm ngợi, đáp: “Gặp thì có vẻ gặp rồi, nhưng chẳng nhớ gặp cô ta ở cung nào…”
Ta bèn thả tay áo hắn ra, nói: “Hoàng thượng thật vô tình, mấy ngày trước còn huyên thuyên với thần thiếp nào là đàn ca sáo nhị, người vừa đi Hoàng thượng đã quên mất rồi?”
Hắn nhìn kỹ một lúc mới nói: “Hóa ra là cung tỳ giỏi ngón đàn ở Tiêm Vũ các ngày trước. Trẫm chỉ gặp một lần rồi không thấy đâu nữa, sao mà nhớ được?”
Hắn không ngờ rằng chỉ một lần gặp mặt ấy mà Tố Tú suýt phế cả hai tay. Hậu cung chính là như vậy, nữ nhân trong cung bất kể thân phận phú quý hay ti tiện, chỉ cần được Hoàng thượng yêu thích sẽ có được tất cả. Bao người kỳ vọng là có bấy nhiêu người sợ hãi, đối với một kẻ được cung phượng nhất thiên hạ như hắn, làm sao có thể hiểu sự chua chát khổ đau bên trong?
Hắn thấy ta trầm ngâm không nói, chỉ nhấm nháp ly rượu ngọt, bèn nổi hứng tranh cái ly trên tay ta, liếm bờ môi ta một cái: “Rượu ngọt của ái phi ngon thật.”
Ta vội cười né tránh, tình cờ ngước nhìn, thấy ánh mắt hắn như say, lim dim trộm nhìn mình, trông rõ vẻ uể oải lẫn hứng thú. Thần thái của hắn lúc này quả thực đẹp đẽ không lời nào hình dung, ta như bị đầu độc, thoáng chốc đầu óc chợt trống rỗng, chỉ biết ngây người mà ngắm nhìn. Hắn bất chợt đặt một nụ hôn lên môi ta, đè ta xuống giường, cái lưỡi linh hoạt ngọ nguậy không thôi, tay trái sớm đã thò vào cổ áo, vuốt ve nửa thân trên của ta. Đang lúc bị nụ hôn làm cho mê mệt, hắn chợt dừng lại, ánh mắt sâu thẳm như thể muốn nhấn chìm người khác trong ấy. Hắn chuyển hướng cái lưỡi sang cổ, rồi lướt nhẹ vùng da phía sau tai…
Hắn chưa từng làm thế này trước đây, những lần trong quá khứ hắn chỉ chăm chăm vào việc chính. Lúc này ta cảm thấy toàn thân như bốc hỏa, như một hòn than không dễ dàng dập tắt, cứ râm ran, hừng hực, bộ y phục trên người vỗn dĩ rộng, hắn muốn “công thành chiếm đất” không mất sức xé bỏ, tháo gỡ, cứ thế lấn sâu xuống dưới. Hắn khiêu khích đùa giỡn, khiến cơ thể ta phát sinh biến hóa dị thường, dường như càng lúc càng mong muốn được xâm chiếm. Vốn dĩ ta rất chán ghét chuyện này, chưa bao giờ có hảo cảm với nó, nhưng ý nghĩ vừa thoáng qua trong khối óc làm ta ngạc nhiên sững sờ, cơ thể bất giác né tránh những ngón tay hắn. Hạ Hầu Thần liền dùng cánh tay còn lại giữ cho ta không thể động đậy, lại dùng cả cơ thể áp chặt phía trên, mơ màng nói: “Đừng, trẫm biết lòng ái phi muốn gì, thực ra chuyện này rất vui đấy chứ, trẫm sẽ làm ái phi cảm thấy khoan khoái.”
Ta mềm lòng, dù biết thừa hắn “sẽ làm” thế nào để khiến mình “khoan khoái”. Mấy lần trước ta hết sức nhẫn nhịn, vậy mà vẫn bị hắn nhìn ra vẻ khó chịu chán ghét, hắn tưởng lần này cũng đang nhìn ra ham muốn trong ta.
Nhưng phải làm sao nói ra được rằng, suy nghĩ trong ta lúc này hoàn toàn ngược lại?
Lần này y phục trên người không bị hắn xé ra một cách thô bạo, mà được cởi ra từ tốn. Da mặt y ửng hồng, ánh nhìn sâu thẳm, nhưng từ đầu chí cuối vẫn gắng nhịn, thăm dò từ từ, đến khi thấy trên mặt ta không còn vẻ sợ hãi, mới bắt đầu hành sự. Lần này quả đúng như mong đợi, ta không còn đờ ra như trước, ngược lại cảm giác cả cơ thể bay lên chín tầng mây, cứ như ngọn cỏ mùa xuân khát mưa nay được tưới tắm, dễ chịu và khoan khoái khó tả. Có lẽ nhận ra cảm xúc trên mặt ta, hắn cử động càng nhanh dần, đầu óc ta theo đó dần trống rỗng, lúc lâu sau lại có cảm giác như nhìn thấy pháo hoa nở trên nền trời đen kịt, đẹp đẽ kinh ngạc.
Ta chưa bao giờ nghĩ việc này lại tuyệt mỹ đến vậy, cơ thể trong phút chốc như giãn ra, tiếp nhận nhiều đợt công kích liên tiếp của hắn mà không hề đau đớn, ngược lại càng lúc càng mong mỏi, muốn hắn đừng bao giờ dừng lại.
Bầu trời ngoài cửa sổ ló ra một tia hừng đông, cả hai mới chịu rời nhau. Hắn nằm bên ta, lớn tiếng nói: “Báo cho Ngự Thư phòng, hôm nay trẫm không lên chầu sớm.”
Ta bỗng thấy xấu hổ, nói: “Hoàng thượng, sao có thể như vậy, thần thiếp mang tội với quốc gia mất thôi.”
Hắn vỗ vỗ vào mông ta mấy cái, cười quái dị nói: “Nàng tưởng trẫm là người sắt, đánh một trận tơi bời xong còn sức mà dậy sao.”
Ta thẹn cúi gằm mặt: “Hoàng thượng, thần thiếp nào dám?”
Hắn nói một cách mơ hồ: “Ngủ đi, trẫm cũng mệt rồi. Ngày nào thượng triều cũng phải nghe mấy lão hủ kia tranh cãi, cãi chán chê mà chẳng phân rõ được thị phi ngay thẳng, trẫm cũng cần tránh xa họ để tự mình ngẫm nghĩ một chút.”
Nghe hắn nói vậy, không hiểu vì sao trong lòng ta dậy lên một tia thương cảm. Hắn thân là thiên tử, nhưng không phải con ruột của Thái hậu, thuở nhỏ thiếu vắng tình mẫu tử, luôn tồn tại mấp mé bờ vực thẳm, mấy lần suýt bị phế truất, dựa vào mưu lược và sự nhẫn nhịn của bản thân hết lần này đến lần khác thoát chết khỏi trùng trùng mưu sâu kế hiểm. Sau khi đăng cơ, vì triều chính hủ bại từ tiền triều, lại bị các phiên vương uy hiếp. Hắn làm hoàng đế thật quá mệt mỏi, chẳng khác gì ta, luôn khổ sở tìm kế sinh tồn.
Ta nói: “Hoàng thượng, người hãy yên tâm cai quản triều chính, thần thiếp ở hậu cung tất sẽ không để ai làm phiền đến người.”
Lời này ta nói ra vô cùng chân thành, vậy mà chỉ đổi lại cơn ngáy của hắn. Chắc hắn chẳng nghe thấy gì cả?
Cơ thể ta rã rời cùng cực, tuy không đau đớn như mấy lần trước, nhưng cứ uể oải lười biếng hệt như khi vừa được no nê, chẳng bao lâu cũng thiếp đi.
Hạ Hầu Thần hôm ấy quả thật không thiết triều, cả ngày chỉ quanh quẩn bên ta, buổi chiều đến Ngự Hoa viên thưởng hoa xuân, dĩ nhiên “tình cờ” gặp phải không ít phi tần, hắn hơi cụt hứng, nói: “Hoàng hậu lòng dạ hiền từ, chân yếu tay mềm, nàng cần phải giúp đỡ Hoàng hậu nhiều một chút, đừng để bọn họ được nước càn rỡ quá.”
Ta nhân cơ hội bèn nói: “Hoàng thượng, trong tay thần thiếp chẳng có người sai khiến cũng chẳng có quyền hành gì, sao có thể giúp được Hoàng hậu? Hiện nay vị trí Thượng Cung đang bỏ trống, chức vị này vô cùng quan trọng, nếu bất cẩn chọn không kỹ, sợ rằng lại thêm một kẻ chỉ biết giờ tay nhón lấy ngân lượng rồi nhắm mắt làm càn đem những vật dơ bẩn vào cung như Khổng Văn Trân không chừng. Ý thiếp không trách Hoàng hậu dùng nhầm người, nhưng lòng người khó đoán, Hoàng hậu quản lý hậu cung chưa lâu, nhất thời khinh suất cũng là lẽ thường. Chi bằng việc chọn Thượng Cung mới hãy để thần thiếp cùng thương lượng với Hoàng hậu, xem nên dùng cách thức gì để tìm ra một người vừa trung thành vừa có tay nghề xuất chúng.”
Hạ Hầu Thần liếc ta: “Nghe ái phi nói vậy dường như đã có lựa chọn của riêng mình?”
Ta thản nhiên đáp: “Hoàng thượng, tục ngữ có câu ‘chọn người hiền không hiềm thân thích’, thần thiếp quả thực đã tự chọn ra một người thích hợp, chính là Tố Khiết đã theo hầu từ ngày xưa, Tố Khiết xuất thân từ phường thêu, tay nghề vốn đã cao siêu, tính tình lại trung thành chính trực, chính là một lựa chọn thỏa đáng. Nhưng để tránh Hoàng hậu phật lòng, trách cứ Hoàng thượng thiên lệch, thần thiếp không dám xin người cho Tố Khiết nhậm chức ngay. Tốt nhất cứ để Thượng Cung cục tiến cử ra vài vị cùng tham gia tuyển chọn, do Hoàng thượng làm chủ, xem xét từ tài nghệ cho đến phẩm cách. Làm như vậy vừa không mất đi sự công bằng, mà Hoàng hậu cũng không thể nói vào đâu được.”
Con ngươi Hạ Hầu Thần chợt sáng lên: “Cách này của ái phi rất giống với chính sách khoa cử tân triều trẫm đề ra. Trẫm mới lên ngôi tuy khó khăn trùng trùng, sớm bị đám lão thần trói chặt tay chân, nhưng nếu có thể tổ chức một cuộc khảo thí quy mô nhỏ thì cũng khiến tâm trạng buồn chán lúc này của trẫm được giải tỏa.”
Ta biết Hạ Hầu Thần đã hoàn toàn nghiêng về phía mình, cho dù trước đây giữa hắn và Hoàng hậu có bao nhiêu ân tình đi nữa, Hoàng hậu là con cháu nhà họ Thời, mà gia tộc này vô số lần uy hiếp đến thiên uy, Hạ Hầu Thần nhìn thấy Hoàng hậu ít nhiều sẽ liên tưởng tới cuộc tranh giành trong triều, tình ý có sâu đậm hơn nữa cũng dần phai nhạt mà thôi.
Có nhà ngoại thế to của nhiều không rõ là lợi hay hại nữa đây?
Mấy ngày sau, nhân lúc Hoàng thượng ở cung Chiêu Thuần, ta bèn tìm tới thỉnh an Hoàng hậu, trong lúc chuyện phiếm nhắc đến vị trí Thượng Cung còn bỏ trống, mời Hoàng hậu đề bạt một người đáng tin cậy để Thượng Cung cục có người lãnh đạo.
Trải qua chuyện Khánh Mỹ nhân, Hoàng hậu chịu đả kích không nhẹ, tuy biết cái ghế Thượng Cung quan trọng nhưng nào dám đề cử ai, bèn nói cứ để Thượng Cung cục tự bầu lên là phải lẽ nhất. Ta nói: “Thần thiếp trước từng làm qua chức Thượng Cung, hiểu sâu xa ngọn nguồn công việc ở Thượng Cung cục, trong tay lại đang có một người thông minh trung hậu, tay nghề thủ công thuộc hàng cao siêu, nhưng nếu do thần thiếp phái đến, sợ rằng người dưới không phục. Thần thiếp tuy trong sáng vô tư nhưng không thể để Hoàng thượng và Hoàng hậu phải chịu dị nghị, chi bằng để người đó cùng các ứng viên từ Thượng Cung cục cùng thi tài, ai hơn ai kém sẽ rõ mười mươi.”
Hoàng hậu nghe ta nói vậy lòng sinh cảnh giác, nhưng lời này rất mực quang minh chính đại, khiến cô ta không tìm được cách phản bác. Hạ Hầu Thần sớm đã thông đồng với ta, bèn nói: “Cách ái phi nghĩ ra rất tốt, Hoàng hậu, nếu nàng không có ý kiến gì khác, thì cứ theo đó mà tiến hành thôi?”
Hoàng hậu không biết nói sao, ta biết cô ta chưa chịu thua, nhất định sẽ dùng mọi thủ đoạn có thể ngăn trở Tố Khiết chiến thắng. Tuy nhà mẹ Thời Phượng Cần có tiền có thế, nhưng nơi đây là hậu cung, Thượng Cung cục lại là chốn ta rất đỗi quen thuộc, người trong ấy phàm là cung nữ phụ trách thêu thùa hay làm trâm chẳng ai ta không biết, nhược điểm từng người thế nào ta rõ như lòng bàn tay. Dùng cách thức quang minh chính đại mà thi đấu chọn lựa, cô ta tìm đâu ra người đủ sức đọ tài với ta được?
Sau khi hồi cung, ta sai Tố Linh gọi Tố Khiết ra. Tố Khiết trốn trong phòng dưỡng bệnh đã được một thời gian, người ngoài chỉ nghe nói là cảm thương hàn, đâu biết ta cho nó ở trong phòng ngày ngày rèn luyện đường kim mũi chỉ, dạy cách phân biệt các kiểu dáng hoa văn, phương pháp chế tác theo bản mẫu.
Tố Khiết vào phòng thỉnh an xong, ta bảo nó ngước mặt lên, thấy dung mạo Tố Khiết tuy hơi tiều tụy nhưng tinh thần rất minh mẫn, hai mắt hơi vằn đỏ vì mệt mỏi, nhưng vẻ mặt vô cùng phấn chấn. Ta nói: “Tố Khiết, nay bản phi đã tạo cho ngươi cơ hội, có thành hay không đều phụ thuộc cả vào ngươi, đến đây ta không thể giúp gì được nữa, nếu chuyện bất thành lại quay về hầu hạ, bản phi vẫn đối đãi với ngươi như xưa tuyệt không trách cứ.”
Tố Khiết nghe xong nghẹn ngào không nói lên lời, quỳ xuống tâu: “Nương nương, nô tỳ sao dám oán trách nửa lời, nương nương đã cho nô tỳ một cơ hội lớn như vậy, nô tỳ đến nghĩ còn chẳng dám. Nếu lần này có thể thành công, ắt sẽ mang hết tài hèn sức mọn báo đáp nương nương…”
Nói xong bèn dập đầu mấy cái, đầu cụng xuống sàn phát ra tiếng “binh binh”. Ta vội sai Tố Linh lôi nó đứng lên, nói: “Tuy nói bản phi đã trải sẵn đường cho ngươi đi, nhưng vẫn còn ngổn ngang việc cần chuẩn bị. Cuốn sổ tay ta giao cho chắc ngươi đã nắm được cả, tuy nhiên vẫn cần nhớ rằng, cuốn sổ ấy tuy là tâm huyết mấy đời Thượng Cung, là tinh hoa của Thượng Cung cục, nhưng kết quả cuối cùng ra sao chỉ có thể trông chờ vào chính mình. Ngươi ở trong phòng nghiền ngẫm mấy ngày, chắc đã hiểu?”
Tố Khiết thấy ta hỏi tới việc chính, bèn nín khóc, đọc lại vanh vách từ đầu chí cuối nội dung bí kíp. Ta thầm phấn khởi trong lòng, con mắt nhìn người của ta quả không đến nỗi, Tố Khiết thích thêu thùa, về phương diện này vô cùng chuyên tâm trui rèn, so với việc ganh đua tranh sủng, thà rằng cứ để nó tự mình đi hẳn sang đường khác vẫn hơn. Quan trọng nhất là Thượng Cung cục có nó trấn giữ cũng tức đã trở thành vật trong tay ta, xem như vươn được tai mắt tới khắp hang cùng ngõ hẻm ở nội cung, đến bên từng cung tỳ thân cận của các phi tần. Tố Khiết tuy không quá nhạy bén, nhưng được cái nghe lời, sau này dạy dỗ thêm, chắc chắn có thể trở thành cánh tay đắc lực.
Tố Khiết được ta chỉ điểm, lại trốn vào phòng nghiên cứu cuốn bí kíp Thượng Cung ta tặng. Tố Khiết vừa đi khỏi, Túc nương bèn bước vào hành lễ, nói: “Nương nương, nô tỳ lục soát trong phòng Khổng Văn Trân ra mấy tờ giấy, người xem này.”
Ta đón lấy xem kỹ một hồi, thấy những giấy này màu sắc ố vàng, chính là mấy trang ta xé ra trong bí kíp Thượng Cung. Ta cẩn thận gập lại cất đi, hỏi Túc nương: “Không có ai nhìn thấy ngươi chứ?”
Túc nương lãnh đạm chắp tay nói: “Xin nương nương yên tâm, thân thủ của nô tỳ vẫn còn đủ nhanh nhẹn.”
Khác hẳn so với hồi trong ngục, từ khi đến đây chưa bao giờ cô ta nở nụ cười khi đáp lời ta, lúc nào cũng lạnh lùng nghiêm cẩn, có vài phần giống dáng vẻ Hạ Hầu Thần ngày trước, tuy không như Hạ Hầu Thần hay buông lời mỉa mai cay nghiệt, nhưng cứ khiến ta thấy không được thoải mái. Thấy không còn lời gì để nói thêm, ta bèn bảo: “Ngươi lui xuống nghỉ ngơi một lát đi.”
Túc nương quay người bước ra cửa, đến bậc thềm thì nói thêm: “Nương nương vẫn nên kiểm tra lại kỹ càng, đừng để cuốn bí kíp đó rò rỉ ra ngoài. Khánh Mỹ nhân mặc bộ xiêm y bảy sắc kia, không rõ là lộng lẫy át người đến mức nào?”
Ta giật mình, mấy tờ giấy cũ kỹ trong tay rớt xuống đất, đến khi ngẩng lên nhìn, chỉ thấy vạt áo Túc nương vút khỏi cạnh cửa, chỉ còn cái bóng mờ trên đất.
Trong mấy tờ giấy rơi dưới đất, đập ngay vào mắt chính là mẫu vẽ áo bảy sắc, xung quanh viết chi chít những hàng chữ nhỏ, có một vài hàng hơi lớn hơn một chút, từ trên ghế nhìn xuống ta có thể đọc rõ mồn một: “Thân như thân phượng, một dải bảy sắc, chim chóc liệng quanh, mê mẩn xuất thần, đẹp tận sâu thẳm, đây chính là công dụng của mẫu y phục này…”
Ta chậm rãi nhặt mấy tờ giấy lên, rút cuốn bí kíp Thượng Cung từ chiếc ngăn kéo ở đầu giường ra, lật giở đến mấy trang cuối, mấy tờ giấy kia ướm vào vừa vặn với chỗ bị khuyết thiếu, lại giở phần lời dẫn của mấy trang này ra đọc, thấy viết: “Những cách sau đây tuy có thể khiến một nữ nhân nổi bật xuất quần, thu hút mọi ánh nhìn, nhưng nhìn cách khác là trò gian lận, có thể dẫn đến họa sát thân, mong người dùng cân nhắc cho kỹ.”
Ta gấp cuốn sổ lại, hồi tưởng những hàng chữ theo thể Liễu[2] bay bướm bên trong, không biết là vị Thượng Cung tiền nhiệm nào đã lưu lại bút tích? Không sai, mấy trang bí kíp kia là do ta tặng cho Khổng Văn Trân. Một lần cô ả lập công, ta bèn dùng bí kíp để tưởng thưởng. Ta từng nói rằng chỉ cần tiếp tục giúp đỡ, dần dần cô ta sẽ có trong tay cả cuốn bí kíp, nhưng vì quá nóng ruột mà ả cả gan dám bán đứng ta. May mà ta giữ lại một trang lời dẫn quan trọng, Khổng Văn Trân không hề hay biết vận dụng nó sẽ dẫn đến họa sát thân. Ai bảo cô ta vì quá tham lam đâm bộp chộp làm liều?
[2] Phỏng theo cách viết của Liễu Công Quyền, một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đường, Trung Quốc.
Ta vốn không có lòng hại người, nhưng người cứ bức ta phải ra tay.
Đặt cuốn sổ trở lại hộc tủ, ta khẽ mỉm cười, người biết dùng ắt sẽ nhận vô vàn lợi ích, người không biết dùng sẽ tự chuốc tội lụy, Khổng Văn Trân, ngươi và ta quen biết đã lâu, đột nhiên muốn phản bội thì nên thận trọng một chút mới phải.
Sáng sớm, ánh nắng còn chiếu lên đỉnh đầu, đến giữa trưa, mặt trời bỗng đâu núp vào mây xám, đường đi âm u mịt mờ. Nhiều ngày trước, ta từng bị áp tải đến Tông Nhân Phủ trên con đường này, còn hôm nay lại đang men theo nó đến thăm cố nhân trong ngục. Trong cung tình người bạc bẽo, nay Khổng Văn Trân rơi vào vòng lao lý, kẻ khác tránh còn không kịp. Người thân ở ngoài cung từ lâu chẳng có tung tích, cô ta không có người thăm viếng, vò võ một mình, sợ rằng so với ta ngày trước càng thê lương gấp bội.
Vốn dĩ Tông Nhân Phủ không cho người vào thăm, nhưng ta xin Hạ Hầu Thần cho phép, mang theo thánh chỉ mới được bước chân vào. Trong nhà ngục vẫn ẩm ướt lạnh lẽo như xưa, nay nhằm tiết xuân, trên các vách tường loang lổ vết nước ngấm, trông càng âm u buồn bã. Nghe nói ta định vào thăm Khổng Văn Trân, Túc nương bèn đi trước dẫn đường, ta bất đắc dĩ phải đi theo.
Rảo bước tới phòng giam sâu tận cùng trong nhà ngục, vốn là nơi giam ta ngày trước, nay dĩ nhiên chẳng còn chăn gấm bàn ăn, chỉ có những thứ vật dụng dành cho khâm phạm thông thường.
Khổng Văn Trân trút bỏ trâm vòng áo đẹp, xõa tóc ngồi trong xó tường, mới nhìn sơ hầu như không thể nhận ra. Thấy ta đến gần, cô ta lao tới song sắt, chỗ kim loại rỉ sét lâu ngày phát ra tiếng kèn kẹt ghê rợn: “Nương nương, xin cứu lấy nô tỳ, xin cứu lấy nô tỳ, nô tỳ không khai gì hết, không làm liên lụy đến nương nương, người nhất định phải cứu nô tỳ ra ngoài…”
Ta ra hiệu cho Túc nương đứng ngoài cửa trông chừng không cho người khác lại gần, tự mình lại gần song sắt, nói: “Khổng Thượng Cung, xem bộ dạng ngươi kìa, mấy tên cai ngục sao lại đối xử với ngươi như vậy? Nhớ ngày trước bản phi bị bắt giam, lũ cai ngục ấy còn nể mặt, đổi cho chăn bông, ngày đông rét mướt có lò sưởi, ngoài việc có vị cố nhân chẳng buồn ghé thăm, lại còn nhân lúc bản phi té giếng đứng trên bờ ném đá, thì bản phi vẫn được sống tương đối thoải mái…”
Khổng Văn Trân nói: “Không, nương nương phải tin nô tỳ chưa bao giờ dám nói nửa lời xuyên tạc về người…”
Ta kề sát song sắt, lạnh lùng nhìn cô ta, hỏi: “Vậy ngươi nói đi, sao Hoàng hậu lại biết rõ việc bản phi mang canh thuốc đến cung Tinh Huy đêm đó, thậm chí giờ giấc cũng chính xác không chệch đi đâu, nếu không phải ngươi chỉ điểm, làm sao Hoàng hậu biết được? Xem ra hôm ấy tình cờ gặp nhau ở Ngự Hoa viên, vẻ mặt ngươi hoảng hốt là bởi đang định phản bội ta đúng chứ?”
Khổng Văn Trân nói: “Là Hoàng hậu ép nô tỳ, Hoàng hậu là chủ hậu cung, tay nắm đại quyền, áp chế Thượng Cung cục, Hoàng hậu nói với nô tỳ, nếu không chịu ngoan ngoãn nghe lời, cái chức Thượng Cung chẳng đến phiên nô tỳ làm, hơn nữa Hoàng hậu còn đảm bảo rằng thân phận trước khi nhập cung của nô tỳ sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị vạch trần. Nô tỳ biết làm sao, ở Thượng Cung cục nô tỳ cai quản trên dưới cả thảy gần ba trăm con người, nhưng trước mặt Hoàng hậu cũng chỉ là một tên nô tài, sao làm khác được?”
Ta sớm đã đoán ra sự việc là như vậy, lúc này bèn khẽ thở dài: “Khổng Văn Trân, ngươi muốn bản phi cứu ngươi ra là chuyện không tưởng, tội ngươi quá lớn, sao dám mang thứ tai hại ấy vào hậu cung? Nên biết, mấy trang bí kíp Thượng Cung ta tặng ngươi tuy là để trả ơn, nhưng Ngũ thạch tán là thứ không được phép dây vào, nếu có hãy trách mình không kìm nổi lòng tham, nhưng ta cũng thông cảm với ngươi, để cứu em gái thoát khỏi kỹ viện, đúng là việc gì ngươi cũng dám làm…”
Ban đầu Khổng Văn Trân vô cùng hổ thẹn, nghe đến câu cuối cùng, đôi mắt bỗng trợn tròn, kinh ngạc nhìn ta. Ta rút trong tay áo ra một miếng ngọc bội, đưa cho cô ta: “Điểm đáng khen duy nhất của ngươi đó là toàn tâm toàn ý chăm lo cho em gái, bản phi rất ngưỡng mộ. Bản phi chỉ có thể giúp ngươi, em ngươi sắc đẹp kiều mị, tiền chuộc phải đến vạn kim, nhưng món tiền ấy bản phi vẫn lo liệu nổi…”
Trong tay ta ngoài viên ngọc bội còn có một cái khăn lụa bé con, bên trên viết đầy những chữ Khải nhỏ, Khổng Văn Trân vừa trông đã nhận ra lá thư ấy do ai viết, không nén được bưng mặt khóc lạc cả tiếng.
Ta nói: “Khổng Văn Trân, nếu ngươi không chịu nổi cực hình, cứ nói ra bản mẫu áo bảy sắc do bản phi cho cũng không sao, sẽ chẳng tổn hại gì đến ta. Bản mẫu rốt cuộc chỉ là bản mẫu, hại người là từ tâm. Bản phi sẽ chăm sóc em gái ngươi chu đáo.”
Khổng Văn Trân quỳ xuống đất, ngẩng đầu lên, nước mắt như mưa, gọi một tiếng “Nương nương…” rồi im bặt, chỉ dập đầu lia lịa.
Ta quay mình rời khỏi, đi xa rồi vẫn nghe thấy tiếng cô ta dập đầu xuống đất “binh binh” lạnh lẽo.
Đang từ nhà ngục tối tăm đi ra, ánh nắng mặt trời chói chang khiến ta khẽ nhíu mắt, Túc nương lẳng lặng theo sau. Ta bỗng nói: “Túc nương, xin lỗi…”
Ta nói rất bé, chẳng kịp để ý cô ta có nghe được rõ không, bèn xăm xăm bước nhanh về phía trước, Túc nương im lặng hồi lâu, chợt nói: “Nương nương, thực ra người không chỉ có một muội muội ruột thịt.”
Ta vừa chải đầu vừa hồi tưởng đêm hôm trước, xem ra hai bên đã ngầm thống nhất được cách hành xử với nhau. Mới đầu biểu hiện của ta có vẻ khiến hắn kinh ngạc, nhưng đã là người cùng hội cùng thuyền, vì muốn áp chế thế lực của nhà họ Thời, kích động Hoàng hậu, nên đành người hát kẻ múa, hợp diễn một vở kịch sinh động mỹ mãn.
“Nương nương, người xem, viên trân châu màu thúy lục này lấp lánh tỏa hào quang, càng tôn thêm vẻ rạng ngời của nương nương lúc này.”
“Vậy ư?” Ta cảm thấy hơi lạ, con a đầu này trước nay tính dè dặt rón rén thành quen, mấy lần trước Hạ Hầu Thần đến nghỉ, chưa bao giờ nghe nó mở miệng tán tụng, vậy mà hôm nay lại học thói nói vuốt? Tình cờ nhìn vào gương, quả thật thấy nữ nhân trong đó nét xuân rạo rực, sóng mắt long lanh, vẻ mặt phơi phới. Ta giật mình, những lần trước mỗi khi xong việc phải đến mấy ngày sau tinh thần ta hãy còn suy sụp, son phấn chẳng che nổi sắc mặt xanh xao, lần này sao lạ ghê?
“Nhờ ơn mưa móc của Hoàng thượng, sắc mặt nương nương rạng rỡ hồng hào cũng là chuyện đương nhiên…”
Ta thót tim, chẳng lẽ ta diễn quá nhập tâm, giả thành thật rồi? Nghĩ đến đây, ta cố trấn tĩnh lại, trầm sắc mặt: “Không đeo đôi khuyên phỉ thúy này nữa, mang đôi ngọc lưu ly lại đây!”
Tố Khiết chẳng hiểu gì, lật đật mang đôi khuyên tai kia đến.
Tố Khiết tuy có lòng tơ tưởng Hạ Hầu Thần, nhưng bản tính thuần lương, chẳng dám làm gì táo tợn, hết lần này đến lần khác bỏ lỡ thời cơ, chẳng bằng cô em gái của ta vốn giỏi tài luồn cúi… Ta nghĩ ngợi một lát, bèn nói: “Tố Khiết, ngươi đi theo ta đã lâu, nếu cứ thế này cũng chẳng có tiền đồ gì, bản cung nếu cho cơ hội, ngươi có muốn mạo hiểm không?”
Tố Khiết rối rít quỳ xuống nói: “Nương nương, chẳng hay nô tỳ đã làm sai điều gì? Nương nương xin cứ chỉ rõ, nô tỳ nhất định sẽ sửa đổi.”
Ta lắc lắc đầu, cho nó đứng dậy, hỏi tiếp: “Bản cung từng nói rồi, nếu ngươi được Hoàng thượng để mắt đến là cái may, có điều xem ra Hoàng thượng…”
Tố Khiết buồn bã cúi đầu, khẽ nói: “Nương nương, nô tỳ là ai mà mong được Hoàng thượng để mắt, nô tỳ sớm đã từ bỏ ý định rồi.”
Ta khẽ than một tiếng: “Thực ra trong cung mỹ nhân vô số, người mới hết lượt này đến lượt khác xuất hiện, ngươi từ bỏ cũng tốt, đỡ phải chịu nỗi khổ hợp tan… Tố Khiết, ta biết ngươi xuất thân từ phường thêu, tay nghề chắc chắn hơn người thường, nếu bản phi cho ngươi quản lý Thượng Cung cục, không biết ngươi…”
Tố Khiết trợn mắt nhìn ta, có vẻ không dám tin vào tai mình, nghi ngại cắt lời: “Nương nương, người định cho nô tỳ quản lý Ty Chế Phòng ư?”
Ta xua xua tay, cười nhạt: “Người của ta sao lại chỉ quản một phòng, nếu đã quản, phải là cả Thượng Cung cục mới xứng!”
Tố Khiết càng nghi ngờ tợn, lắp bắp hỏi lại: “Nương nương, nô… nô tỳ sao đáng nhận trọng trách ấy, hơn nữa, Thượng Cung còn tại nhiệm ở đó…”
Ta cắt lời: “Chỉ cần ngươi muốn, bản cung tự sẽ có cách. Ngươi theo ta đã lâu, ít nhiều gì cũng học được đôi chút chứ…”
Gương mặt Tố Khiết hơi đỏ lên, bắt đầu hưng phấn, bất chợt lại trắng bệch, ánh mắt càng lúc càng rạo rực. Ta biết nó vào cung đã lâu, quả có đôi chút si mê Hạ Hầu Thần, nhưng vẫn đặt ta lên hàng đầu. Chuyện này không vì thân phận của ta ngày một cao quý, mà đều vì một thân tuyệt nghệ ta có được từ thời làm ở Thượng Cung cục. Đam mê làm trâm tết vòng của nó đã ăn sâu vào xương tủy, ta sao nỡ không giúp nó toại nguyện?
Khổng Văn Trân, ngươi đã phản bội ta, thì chức Thượng Cung cũng hết duyên với ngươi rồi.
Chỉ cần khống chế được Thượng Cung cục, thì cũng khống chế được toàn bộ cung nữ cấp thấp trong hậu cung, ta coi như ngang phân với Hoàng hậu.
Ta cầm cái lược ngà trên bàn đưa cho Tố Khiết. Đang lúc bối rối, Tố Khiết đưa tay ra mà không nắm chắc, chiếc lược rơi xuống đất kêu lên một tiếng “cách”, nó giật nảy mình như vừa sực tỉnh khỏi giấc mộng, vội nhặt lược lên, thuận thế quỳ xuống, nói: “Nương nương, nếu quả được như thế, nô tỳ có làm trâu làm ngựa cũng phải báo đáp ân này.”
Hai mắt nó ngấn lệ, vẻ mặt tha thiết. Ta thầm than trong bụng, quyền thế quả nhiên có cái mãnh lực khiến người ta phát cuồng, ngay như Tố Khiết, nay chỉ mấp mé đứng trước ngưỡng cửa quyền lực, mới chỉ được trao cho một tia hy vọng, mà cả con người nó bừng dậy, như thể vừa tìm được lẽ sống của đời mình.
Ta đưa tay ra hiệu cho nó bình thân, rồi quay người nhìn vào gương: “Chuyện này rất hệ trọng, nên thế nào, ta nghĩ ngươi hiểu.”
Nó đứng bật dậy, nắm chặt cái lược ngà trong tay đến độ các đầu ngón tay trắng buốt: “Nương nương, xin người yên tâm.”
Ta nói: “Thôi, xem ra hôm nay ngươi chẳng thể chải đầu cho ra hồn được đâu, gọi Tố Linh vào đây chải thay vậy, ngươi về phòng tĩnh tâm một lát đi.”
Tố Khiết biết tâm trạng mình đang lúc rối loạn, cũng sợ hầu hạ sai sót, bèn cố nhịn niềm vui sướng, ra cửa gọi Tố Linh vào.
Những việc quan trọng như chải đầu rửa mặt trước nay vốn do Tố Khiết đảm nhiệm, Tố Linh nhận được vinh hạnh như vậy, bèn hớn hở vào phòng. Nếu kế hoạch này thành công, Tố Khiết phải sang ở Thượng Cung cục, ta cũng nên huấn luyện lấy một người thay thế. Tố Linh tuy nhanh nhẹn tháo vát, nhưng ngầm nuôi tham vọng, thế nào cũng có ngày được Hoàng thượng tấn phong, ta phải tìm một ai khác mới được. Bất giác ta nhớ đến Tố Hoàn, không biết bây giờ nó sống ở cung Chiêu Thuần ra sao?
Ta bất giác mỉm cười, Hoàng hậu có con mắt nhìn người sắc bén, vậy mà lại nhìn lầm nó, còn ta, liệu có nhìn lầm?
Rửa mặt chải đầu xong, ra đến cửa ta chạm mặt Túc nương. Túc nương cúi mình hành lễ một cách cung kính, nhưng không hiểu sao cả người ta bỗng cảm thấy khó chịu. Vốn dĩ ta chưa bao giờ hối hận mỗi lần dùng kế lừa người. Vậy nhưng hễ nghĩ đến Túc nương, điều duy nhất ta nhớ được là nụ cười hiền hậu chân thật nở ra vào lúc ta khó khăn nhất. Túc nương chắc không thể ngờ ta lại lợi dụng ngay lòng chân thành, đánh cắp bảo bối của cô ta đem ra uy hiếp. Dĩ nhiên ta chẳng bao giờ ngỏ lời xin lỗi, chỉ coi như chẳng hay biết, chẳng nhìn thấy gì.
Không cần cô ta dìu, ta tự mình xăm xăm bước vào vườn hoa.
Túc nương đột nhiên xoay người nói với theo: “Hoàng thượng lệnh cho nô tỳ bất cứ lúc nào cũng phải theo nương nương. Nếu người muốn đi Ngự Hoa viên, nô tỳ cũng sẽ đến đó.”
Ta đành sải bước đi trước, dáng vẻ chẳng lấy gì làm tự nhiên, cô ta lẽo đẽo theo sau, giữ một khoảng cách khá xa.
Rẽ qua vài lần, thi thoảng ngó về sau, đến khi không thấy bóng dáng Túc nương nữa, ta mới thầm thở ra một hơi.
Tố Linh thấy ta như vậy, khó hiểu nói: “Nương nương, người sao vậy? Phải chăng Túc nương làm gì khiến người không hài lòng? Để nô tỳ từ từ bảo tỷ ấy có được chăng?”
Ta bèn đáp: “Không có gì, trâm cài hôm nay hơi nặng, ta thấy da đầu nhưng nhức, trở về đổi cái khác nhẹ hơn là được.”
Mấy lời này nói ra, Tố Linh sợ hãi vừa quỳ lạy vừa xin tội rối rít. Có Túc nương ở bên cạnh thật là phiền toái.
Có điều là người Hạ Hầu Thần phái đến, ta không tiện đuổi đi, nếu như là người lạ, ta có hàng trăm cách đẩy cô ta đi nơi khác. Nghĩ đến biết bao ân tình trong ngục, cảm giác khó chịu không tên kia lại ập đến.
Hôm nay thời tiết đẹp, xuân đến trăm hoa đua nở, Ngự Hoa viên muôn tía ngàn hồng, nghiêng mình đón gió, ngoài có sắc tím ve vẫy, trong còn ngọc lan tím đọng tuyết lấp lánh; những đóa hoa nở lớn mà e ấp như mời gọi người đến ngắm; Thụy hương vàng như kim, xanh như ngọc, hương vẩn trong không khí; Kim tước dáng vẻ như con chim dát vàng rộ cành… Cảnh vườn đẹp không tả xiết, như trăm ngàn mỹ nữ nở nụ cười vây quanh chân, khiến con người ta không khỏi thấy lòng phơi phới. Chợt có ai cất giọng: “Nương nương, người xem bông hoa này trông có giống Tiểu Nam Tiểu Bắc không?”
Có tiếng người cười đáp: “Sao mà giống, hoa này vàng rực, hai con chim tước của bản phi ở lông đuôi có đốm xanh.”
Tố Linh kề tai nói thầm: “Nương nương, nghe giọng này dường như là chủ nhân của Tiêm Vũ các.”
Ta mỉm cười không đáp, lòng nghĩ Hạ Hầu Thần quả nhiên chu đáo, thấy ái phi thích nuôi chim, liền đặt tên nơi ở là Tiêm Vũ các[1].
[1] Tiêm Vũ: có nghĩa là sợi lông tơ mềm mịn.
Ta đứng ngay cạnh khóm hoa Kim tước nở rộ nhất, nhìn Khánh Mỹ nhân dẫn theo hai cung tỳ đi ra từ hòn giả sơn. Dung mạo Khánh Mỹ nhân rất đỗi ngọt ngào đáng yêu, hễ mỉm cười là trên má hiện hai lúm đồng tiền, lại thêm hôm nay mặc chiếc áo màu vàng nhạt, đai lưng màu xanh ngọc, trông càng thêm mỏng manh yểu điệu như cành dương liễu, tươi non vô ngần.
Khánh Mỹ nhân thấy ta đứng đó, thốt nhiên sững người, sau đó bèn tiến lên hành lễ, cười nói: “Ninh tỷ tỷ cũng đến đây thưởng hoa ạ? Hôm nay trời đẹp, mấy loại hoa trước mới đơm nụ nay đã nở rộ cả, Ninh tỷ tỷ đến thật đúng lúc.”
Vừa nói vừa đưa tay vuốt một cánh hoa Kim tước, bàn tay mềm mại trắng trong nâng niu mấy cánh hoa, cảnh ấy đẹp đến mức người ta không thể rời mắt, chẳng trách Hạ Hầu Thần dành cho cô ta không ít tình cảm.
Ta cười đáp: “Khánh muội muội vẫn chưa biết hoa này tên gọi là gì đúng không?”
Khánh Mỹ nhân bán tín bán nghi nhìn ta, lắc lắc đầu.
Ta cười tiếp: “Hoa này có thể nở trong vườn, chắc đám nghệ nhân phải mất nhiều công sức lắm. Vốn dĩ nó mọc hai bên bờ Trường Giang, chỉ có thể sống ở nơi đó thôi, trồng ở nơi khác đều không được, rõ ràng là loại hoa quý. Hoa này có cái tên rất đẹp, gọi là hoa Kim tước.”
Khánh Mỹ nhân nghe xong, gương mặt liền chuyển mừng: “Quả là cái tên nghe đã khiến người ta vui lòng.”
Ta nói: “Hoa Kim tước tuy không có lông vũ, nhưng hình dáng trông như con chim, rất được người ta yêu thích. Linh Phi của tiền triều có một thời gian được tiên hoàng sủng ái, nàng ta sinh ra bên bờ Trường Giang, cả thời thơ ấu lớn lên cùng loài hoa này, liền cầu xin tiên hoàng cấy trồng. Tiên Hoàng hạ lệnh phải trồng cho bằng được, mặc kệ nó có phù hợp với thổ nhưỡng trong Ngự Hoa viên hay không, khiến các nghệ nhân vắt óc suy nghĩ, phí bao tâm sức mới trồng được hai cây.”
Khánh Mỹ nhân chưa nghe câu chuyện này bao giờ, vô cùng thích thú: “Sao hoa này lại khó trồng đến thế?”
Ta bật cười bảo: “Kỳ thực hoa trong Ngự Hoa viên có loài nào là không tốn trăm gian vạn khổ để cấy trồng. Trong cung có bao nhiêu phi tử, sợ rằng ở đây có bấy nhiêu gốc hoa. Nữ nhân hầu hết đều yêu hoa, Khánh muội muội lại thích chim chóc, mỗi lần múa hát khiến chúng cất cánh vây quanh, khi mới nghe Hoàng thượng kể lại, ta còn không dám tin.”
Khánh Mỹ nhân nghe ta nhắc chuyện đêm trước, vẻ mặt đâm lúng túng, nói: “Chỉ cần Hoàng thượng thích thì có gì mà không được?”
Ta vuốt ve bông hoa Kim tước vàng rực chói mắt, cười hỏi: “Muội muội có biết hoa Kim tước ngoài vẻ đẹp khiến người ta mê say còn có công dụng gì khác không?”
Khánh Mỹ nhân đáp lạnh: “Tỷ tỷ hiểu nhiều biết rộng, thần thiếp sao sánh kịp.”
Ta cười đáp: “Hoa Kim tước rất được yêu thích, nhưng bản thân nó còn có thể làm thuốc, có tác dụng kiện tỳ bổ thận, sáng mắt thính tai, cho nên thi thoảng bản phi hay sai Ngự Thiện Phòng hái hoa đem hầm với thịt lợn, ăn vào bụng quả công hiệu. Khánh muội muội có muốn thử không, để ta sai người ninh lấy một hũ?”
Đã vào được hậu cung tất không phải kẻ tầm thường, Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên nhận ra ý tứ trong lời ta nói. Cô ta xám mặt, miễn cưỡng đáp: “Ánh nắng càng lúc càng gay gắt, thần thiếp vốn chịu nắng kém, xin nương nương cho được cáo lui.”
Ta bèn gật đầu, cô ta hành lễ xong bèn quay người xăm xăm bỏ đi.
Ta cười hỏi Tố Linh: “Ngươi xem Khánh Mỹ nhân hôm nay bận áo vàng tươi tắn, có giống hoa Kim tước không kìa?”
Cô ta đi tuy gấp, nhưng vẫn kịp nghe mấy câu ta vừa nói, cả người chợt sững lại, sau đó càng bước nhanh hơn, chớp mắt đã không thấy bóng dáng đâu nữa.
Tố Linh nhìn ta khó hiểu. Nó biết chủ nhân rất ít khi dùng lời nói khích bác các phi tần khác, cho rằng đây là cách làm hạ cấp nhất, hôm nay không hiểu vì sao lại…
Ta hỏi Tố Linh: “Nghe nói Tiêm Tử ở Tiêm Vũ các và ngươi qua lại rất thân thiết?”
Tố Linh vội quỳ xuống tâu: “Nương nương, Tố Linh tuyệt không dám cấu kết với người ở Tiêm Vũ các làm điều gì có lỗi với nương nương. Tiêm Tử là đồng hương của nô tỳ, làm việc ở Tiêm Vũ các chẳng sung sướng gì. Có một lần Tiêm Tử đệm đàn cho Khánh nương nương, được Hoàng thượng khen tặng vài câu, Hoàng thượng đi rồi, Tiêm Tử liền bị phạt đánh gẫy cả xương tay. Bây giờ tay không duỗi thẳng được, không bao giờ đàn được nữa, bị bắt đi làm việc nặng. Nô tỳ thấy thương, nên thường đến thăm nom thôi ạ.”
Ta nói: “Ngươi lẳng lặng gọi Tiêm Tử sang đây cho ta xem. Nếu có cơ hội sẽ giúp thoát khỏi chốn ấy.”
Tố Linh dĩ nhiên cảm kích vô tận, tâu: “Nếu Tiêm Tử được hầu hạ cho nương nương thì tốt quá. Nương nương không bao giờ trách phạt hạ nhân, đối xử với đám nô tỳ cũng rất hiền từ khoan dung. Nương nương, Tiêm Tử tuy bị phế mất một cánh tay, nhưng dung mạo xuất chúng, xinh đẹp hơn nô tỳ nhiều…”
Ta không tiện phủ nhận, trong lòng lại nghĩ, khi còn ở Tiêm Vũ các con bé ấy không lọt được vào mắt Hạ Hầu Thần, sang đây liệu có… Tuy ta không chấp chuyện cũ, trong đám nô tỳ đứa nào có thể trèo được lên cành vàng, ta đều thầm mừng cho, nhưng vết xưa còn rõ, sợ rằng Hạ Hầu Thần lại nổi cơn quạu thì không hay.
“Cứ gọi nó sang xem sao đã.”
Nói xong, ta bèn men theo những bồn hoa muôn tía ngàn hồng tiến về phía trước, quả xứng là khu vườn hoàng tộc, hoa ở đây sợ rằng không dưới trăm ngàn loại, có loài mọc thành khóm thành cụm, có loài cành lá khẳng khiu đứng một mình. Mẫu đơn, loài hoa được xưng tụng là vua hoa, do được chúng phi tần yêu thích nhất, nên được trồng nhiều nhất, nở đẹp nhất. Trong Ngự Hoa viên có một mảnh đất nhỏ chuyên trồng hoa mẫu đơn, có nhiều màu sắc khác nhau, nào màu hồng phấn đáng yêu, nào màu đỏ tươi, đỏ thẫm… Tính riêng mẫu đơn đỏ có không dưới mười loại, nếu xét theo kiểu dáng cánh hoa thì không biết bao nhiêu mà kể: Cánh đơn, cánh xếp lớp như hoa sen, như hoa cúc, như tường vi, như đài hoa quế, hình kim hoàn, hình mão vua, hình tú cầu…
Ta đứng lại bên một cây mẫu đơn có hoa nở tròn như tú cầu, màu đỏ rực tựa nắng mùa hạ, đang ngắm nghía những lớp hoa trùng trùng điệp điệp rực rỡ kiêu sa của nó, bỗng thấy Tố Linh len lén kéo tay áo mình, thấy từ cây cầu chín đoạn phía đối diện có một đám nữ nhân đi lại, ai nấy áo quần xúng xính, dáng vẻ yêu kiều, tiếng yến oanh theo gió truyền đi khắp nơi. Người đi đầu chải tóc Triều phượng, cài trâm ngọc cánh phượng, đầu đội mão lớn phỏng dáng mẫu đơn đang nở, chẳng phải Hoàng hậu thì là ai?
Hóa ra không chỉ có một người nhân ngày nắng đẹp nổi hứng ra ngoài thưởng hoa, tình cờ làm sao, lại gặp đám tỷ muội ở đây.
Thấy Khánh Mỹ nhân vừa bị mình đuổi đi cũng đứng lẫn trong đám đó, ta không kìm được bật cười, cứ ung dung đứng một chỗ, đợi cho bọn họ thướt tha chậm chạp bước qua cầu. Hoàng hậu làm bộ tình cờ trông thấy ta, bèn dẫn đám tỷ muội tới gần, cười nói: “Muội muội cũng vào vườn thưởng hoa ư? Hôm nay ánh nắng ấm áp, ra ngoài đi lại một chút, cả người cảm thấy khỏe khoắn hơn nhiều.”
Ta mỉm cười hành lễ với Hoàng hậu, các phi tần khác lũ lượt cúi người hành lễ với ta. Đôi bên dềnh dang mất một lúc, ta mới lên tiếng: “Thần thiếp có lẽ vì ở ngoài cung một thời gian, lại thêm bị thương, ở trong phòng lâu quá nên mình mẩy khó chịu, muốn ra ngoài dạo quanh một chút, không ngờ Ngự Hoa viên hôm nay tấp nập quá.”
Ninh Tích Văn đứng bên cạnh Hoàng hậu, sau khi lẳng lặng hành lễ với ta xong bèn quay về chỗ của mình, bây giờ mới cất giọng: “Sao hôm nay tỷ tỷ chỉ đi có một mình, chẳng bằng nhập bọn với chúng muội, càng đông càng vui!”
Chúng phi tần nghe thấy câu này, ai nấy đều bụm miệng nén cười. Ta liếc nó một cái, thản nhiên đáp: “Bản phi trước nay vốn quen độc lai độc vãng, đông người chỉ tổ sinh lắm chuyện. Hoa thì khác, không vì những tâm tư vẩn đục của đám người phàm chúng ta làm nhiễm bẩn vẻ đẹp của mình. Hoàng hậu tỷ tỷ thích náo nhiệt, cũng nên đề phòng mấy kẻ đến vườn không phải để thưởng hoa. Chân bước không cẩn thận giẫm lên một hai cành gai thì không hay.”
Ta ngoảnh lại nói với Tố Linh: “À đúng rồi, cũng không còn sớm nữa, Hoàng thượng nói hôm nay sẽ sang Chiêu Tường các dùng bữa tối, bản phi phải về chuẩn bị cho kịp. Hoàng hậu nương nương, các tỷ muội, bản phi không làm phiền mọi người thưởng hoa nữa.”
Nói xong bèn dẫn Tố Linh theo đường cũ quay về, không cần nhìn cũng tưởng tượng ra sắc mặt đám người phía Hoàng hậu lúc ấy khó coi đến chừng nào.
Hai ngày sau, Tố Linh quả tình nhân lúc rảnh rỗi đưa Tiêm Tử về Chiêu Tường các cho ta nhìn mặt. Con bé này mi thanh mục tú, mặt hoa da phấn, nhan sắc quả không tầm thường, sờ thử hai cánh tay thấy vẫn mềm mại, chỉ nhìn bề ngoài thì không rõ là có tật, đáng tiếc khớp tay không thể nào duỗi thẳng được nữa, mà sau trận ấy, thần tình con bé cứ như một hồ nước chết, chẳng còn chút sinh khí nào, không dám nhìn thẳng vào mắt ai, rón rén như con chim sợ cành cong.
Ta tỉ mỉ hỏi chuyện xảy ra ở Tiêm Vũ các ngày trước, nghe chừng không khác mấy so với những gì Tố Linh nói. Một mỹ nhân thế này nếu biết dùng thủ đoạn thì chẳng mấy chốc có thể soán chỗ chủ, leo lên cành cao, ngược lại nếu rủi ro… Như người ở trước mắt đây, bị làm cho tàn phế, cả đời không thể ngóc đầu lên được nữa. Khánh Mỹ nhân phi phẩm thấp, dĩ nhiên hết sức dè chừng lũ nô tài xung quanh. Ta thì khác, dưới ta còn vô số phi phẩm chờ được sắc phong, chỉ cần những kẻ đó có thể giúp ích khi cần là được. Ta rất hy vọng kiếm được chút lợi ích từ mấy phi phẩm này. Kỳ thực trong cung và triều đình không khác là bao, kẻ chức cao lấy bổng lộc chức tước để quyến rũ kẻ dưới, khiến họ nghe theo mình, thực chất chính là mua bán quyền lực. Ta cũng vậy mà thôi, chỉ khác rằng muốn có được sự đồng thuận từ phía Hạ Hầu Thần có hơi khó một chút. Từ lần lập mưu đưa Ninh Tích Văn lên trong Ngự Hoa viên đến nay, ta biết được Hạ Hầu Thần không thích những trò sắp đặt như vậy, không hiểu sao đến tay Hoàng hậu thì Ninh Tích Văn lại đắc thủ?
Thấy Tiêm Tử đáng thương, ta bèn sai người mang mười hai lạng bạc thưởng cho, khuyên nó đến nhờ Ty Thiện Phòng nấu những món bổ gân cốt để ăn. Nghe nói Khánh Mỹ nhân thích tắm cho chim vào buổi sáng sớm, từ khi tay bị tật Tiêm Tử liền được giao cho đảm trách công việc này. Ta khuyên: “Bản phi tuy có lòng thương, nhưng dẫu sao hiện tại ngươi vẫn là nô tỳ của Khánh Mỹ nhân, tốt nhất không làm gì phật ý cô ta. Khánh Mỹ nhân thích hoa Kim tước trong Ngự Hoa viên, hoa này hình dáng giống y như con chim, nếu ngươi hái lấy vài bông mang vào cắm trong phòng, lũ chim tưởng là đồng loại cất tiếng hót véo von, chẳng thú vị lắm sao?”
Ta lại bày cho nó mấy cách để hồi phục cánh tay, còn tự mình làm mẫu, phải bấm huyệt chỗ nào khiến cho thương tật ở cánh tay nóng lên, làm liên tục trong thời gian dài sẽ khiến tay bớt cứng nhắc. Tiêm Tử bị thương chưa lâu, nói không chừng có thể hồi phục như cũ.
Tiêm Tử dĩ nhiên vô cùng cảm kích, còn Tố Linh về sau hễ có cơ hội là đưa nó đến Chiêu Tường các, nếu ta có ở đấy, thế nào chủ tớ cũng tỉ tê chuyện nhà, sai người xoa bóp tay cho.
Túc nương theo hầu được một thời gian, dĩ nhiên không hồn nhiên nói chuyện với ta như hồi còn trong ngục. Nghe Tố Linh nói, một ngày cô ta nói không quá mười câu, trừ khi ta chủ động gọi, nếu không cũng chẳng buồn nói với ta điều gì. Lúc này Túc nương đứng cách ta không xa, thấy Tiêm Tử đi khuất, trong phòng không còn ai, bèn nói: “Kỹ năng chinh phục lòng người của nương nương quả thật ngày càng điêu luyện, nói vài ba câu mà khiến cho người ta khoan khoái như tắm dưới gió xuân.”
Ta liếc nhìn, thấy ánh mắt Túc nương dán xuống mặt sàn, cứ như lời vừa nãy chẳng phải do cô ta nói, đành miễn cưỡng đáp: “Túc nương, chuyện lần trước là việc bất đắc dĩ ta phải làm, ngươi chớ nên để trong lòng.”
Túc nương lúc này mới ngước mắt lên: “Kỹ năng xin thứ lỗi của nương nương cũng chẳng kém kỹ năng lấy lòng, chắc phải rèn luyện công phu lắm.”
Cô ta quay người một cái bước ra cửa, đứng canh ngoài hành lang.
Ta chết lặng, bụng bảo dạ bản thân chưa bao giờ nghĩ sẽ xin lỗi người ta, bây giờ khó khăn lắm mới nói nên lời, đối phương còn kén cá chọn canh? Ta là chủ nhân cơ mà?
Tối hôm ấy Hạ Hầu Thần đến, ta hiện giờ đương là sủng phi, dĩ nhiên tự cho mình cái quyền được cưng chiều hơn, bèn ngập ngừng đem chuyện Túc nương ra kể, hắn cất giọng cười lớn: “Cũng có kẻ khiến ái phi phải bất lực cơ à? Nhưng người này không thể không giữ bên mình…”
Cho dù ta mè nheo ăn vạ thế nào, hắn cũng mặc kệ, ngược lại còn thích thú ngắm nhìn vẻ làm nũng của ta cứ như xem kịch. Thật đúng là đem dây buộc mình, đêm ấy lại bị hắn giày vò quấn quýt, về cuối quả thực mệt lả, ta bèn mặc hắn muốn làm gì thì làm, cứ thế ngủ thiếp đi.
Thi thoảng nghĩ đến, ta đều cảm thấy sở thích của Hạ Hầu Thần rất kỳ quặc, chẳng hiểu hắn thích loại nữ nhân thế nào. Những phi tử từng được sủng hạnh có người đoan trang, hoạt bát, nhu mì… loại nào cũng có, nhưng chẳng ai được lâu dài, thường chỉ qua vài ba lần là bị hắn lãng quên. Còn ta chẳng qua vì có chút bản lĩnh, chuyện trốn thoát khỏi cung lần trước dù gì đã làm hắn bất ngờ, nhờ thế mà sinh lòng thích thú, muốn ta đứng về phe hắn. Nếu không nhờ điểm này, sợ rằng ta sớm cũng bị lãng quên.
Chuyện thấy trăng quên đèn là tâm lý bình thường của con người, huống chi hắn là Hoàng thượng? Dung mạo như hoa như ngọc cũng phải có ngày phai tàn, chỉ có bản lĩnh chống chọi được thủ đoạn kẻ khác mới giúp bản thân mình đứng vững.
Chuyện ong bướm mấy hôm nay tuy là giả vờ, nhưng xem ra Hạ Hầu Thần có vẻ hài lòng, cứ tiếp tục thế này mối quan hệ giữa ta và Hạ Hầu Thần sẽ thực sự được cải thiện, chẳng biết đây có phải điềm mừng hay không?
Trong cung thời gian này tiệc lớn tiệc nhỏ tiếp nhau không ngừng, hôm nay là sinh nhật của phi tần này, ngày mai lại là mỹ nhân nọ, có ba phi tần sinh nhằm ba ngày liên tiếp, Hoàng hậu bèn hạ ý chỉ cùng tổ chức yến tiệc cho họ vào một ngày, lại gửi thiệp mời ta đến cùng vui với các tỷ muội.
Từ lần bái kiến Hoàng hậu nhân dịp được sắc phong đến nay đã hơn mười mấy ngày, tuy ta mang cái danh trợ giúp Hoàng hậu quản lý hậu cung, nhưng mọi thứ vẫn do Thời Phượng Cần quyết định, ta không hề phản đối bất cứ điều nào cô ta mang ra bàn bạc, càng không bộc lộ ý kiến gì về việc lớn việc nhỏ trong cung, có ai đến tìm đều khuyên sang cung Hoàng hậu thỉnh ý, có lẽ chúng phi tần đều tưởng ta đã biết khó mà lui.
Thật ra ta hiểu, với tình thế hiện tại, cho dù có đưa ra kiến nghị nào cũng chẳng được ai tiếp nhận, việc gì phải tự bôi tro trát trấu lên mặt mình? Trước khi mọi việc chưa chuẩn bị xong, ta sẽ không để bản thân rơi vào thế hiểm, phải một kích trúng đích ta mới có thể đường hoàng mà hiển lộ uy vũ, khiến những kẻ khác phải dè chừng.
Lần yến tiệc mừng sinh nhật chung này, trong số ba phi tần có một chính là Khánh Mỹ nhân, hai người kia đều là phi tần cấp nhỏ, một là Lâm Tuyển thị, người kia là Lí Tu dung, đều mới nhập cung, được Hạ Hầu Thần sủng hạnh vài ba lần, so với những phi tần chưa từng được nhìn mặt Hạ Hầu Thần dù sao cũng may mắn hơn nhiều.
Ta theo lệ chuẩn bị ba món lễ vật, chỉ đợi đến yến tiệc là đem tặng.
Tố Linh cho ta biết: “Khánh Mỹ nhân định biểu diễn điệu múa Bách Tước trứ danh của cô ta vào buổi yến tiệc, còn mang cả lồng chim đến, mấy ngày nay luôn miệng nhắc Tiêm Tử phải cho lũ chim ăn thức ăn thượng hạng nhất đấy ạ.”
Ta nói: “Nếu đã thế, hãy để thêm một bông hoa Kim tước vào phần lễ vật của Khánh Mỹ nhân cho cân xứng.”
Ta lại hỏi Tố Khiết gần đây bận việc gì mà suốt mấy ngày chẳng thấy mặt mũi đâu, Tố Linh bèn nói, Tố Khiết bị cảm phong hàn, sợ lây cho nương nương nên trốn trong phòng suốt, lại bảo đã mang nước thuốc sang bên ấy rồi. Tố Khiết có truyền lại rằng, nương nương đừng lo lắng, bệnh của Tố Khiết sẽ chóng khỏi thôi.
Ta hài lòng gật đầu, nói: “Bảo Tố Khiết yên tâm dưỡng bệnh, khi nào khỏi hãy ra ngoài.”
Tố Linh tưởng ta sợ bị lây bệnh, bèn nhanh nhảu nói: “Tố Khiết tỷ tỷ rất hiểu chuyện, thế nào cũng khỏi bệnh rồi mới ra ngoài.”
Đến ngày tổ chức yến tiệc, ta đợi cho gần sát giờ mới đủng đỉnh rời đi. Đến cung Chiêu Thuần, các phi tần khác đều đã đủ mặt, hai cột trụ lớn trong điện treo hai chiếc đèn lồng chuyển mã ngũ sắc cực lớn, sáng trưng cả cung điện, chúng phi tần ai nấy trang điểm phục sức rạng rỡ, làn thu thủy, nét xuân sơn, dưới ánh đèn trông cứ như một rừng hoa đua nở.
Ta lần lượt đem lễ vật tặng cho Khánh Mỹ nhân, Lâm Tuyển thị và Lí Tu dung. Khánh Mỹ nhân thấy trên hộp lễ vật của mình có gài một bông hoa Kim tước đang nở rộ, sắc mặt hơi biến, liếc nhìn ta một cái rồi hành lễ như thường, sai đám cung tỳ cất đi.
Hoàng hậu hôm nay ăn mặc cũng khác hẳn ngày thường, ngoài khoác áo trường bào tím khói, đai lưng thắt cao, chiếc váy dài quét đất cùng màu, ngực đôn cao đầy đặn hết mức có thể, phía trước thêu một đóa mẫu đơn Hoàng quan nở lớn, khiến cả con người toát ra một khí chất khác hẳn chúng nhân.
Ba phi tần được tổ chức sinh nhật hôm nay được sắp xếp ngồi ngay phía dưới Hoàng hậu, vị trí của ta bị lùi xuống hàng thứ tư. Hoàng hậu bèn tỏ ra hối lỗi mà giải thích, riêng ta đã đoán trước được chuyện này, chỉ cười đáp: “Hôm nay ai có sinh nhật thì được ưu tiên, quan tâm làm gì lễ nghi phép tắc.”
Ba phi tần kia đứng dậy hành lễ cáo lỗi, thay đổi chỗ ngồi xong, trong điện vừa lắng dịu đã nghe bên ngoài có người hô: “Hoàng thượng giá đáo…”
Chúng phi tần rạng ngời nét mặt, gương xuân càng thêm phấp phới, đặc biệt là ba nhân vật chính, ánh mắt đều ngập tràn hy vọng. Hôm nay là lễ mừng sinh nhật của họ, biết đâu Hạ Hầu Thần mềm lòng, sẽ đến nghỉ tại chỗ của một trong ba. Nhưng người như Hạ Hầu Thần sao có thể mềm lòng? Ta giữ nụ cười trên môi, cùng đám phi tần đứng dậy xếp hàng phía sau Hoàng hậu hành lễ với Hạ Hầu Thần, lúc này đang sải bước vào điện.
Hạ Hầu Thần trước tiên hàn huyên với Hoàng hậu mấy câu, sau đó nhìn sang ba nhân vật chính, gật đầu liền mấy cái: “Quả nhiên là nhân vật chính, phục sức so với mọi người đặc biệt hơn hẳn.”
Lời khen này khiến cho nụ cười ba người càng ngọt, các phi tần khác đều hùa theo, khen đến độ cả ba tranh nhau sán lại chỗ Hạ Hầu Thần, đua nhau khoe bày dáng vẻ quyến rũ, đặc biệt là Khánh Mỹ nhân, giọng cô ta thánh thót vui tai như chuông đồng, trong điện chỉ nghe tiếng cô ta: “Hoàng thượng, người xem này…” liên miên bất tuyệt.
“Phải rồi, Khánh Nhi, Hoa Phu nhân nghe nói điệu múa của nàng có thể khiến đàn chim vây quanh thì không tin, trách trẫm nói quá lời. Hôm nay Khánh Nhi hãy biểu diễn cho nàng ấy xem tận mắt.”
Ta bị dạt hẳn về phía sau, điềm nhiên đứng tựa bên trụ son nhìn bọn họ tranh nhau khoe bày xiêm áo, Hạ Hầu Thần bỗng nói gì đó, khiến ánh mắt chúng phi tần đều hướng về phía ta. Ta cười nói: “Thần thiếp hiểu biết nông cạn, đã bao giờ được nhìn thấy cảnh tượng kỳ thú kia, lần trước nghe Hoàng thượng kể lại thần thiếp không dám tin. Cách đây không lâu tình cờ gặp Khánh muội muội trong Ngự Hoa viên, có vui miệng nhắc lại chuyện ấy mà đến giờ chưa được xem cho no mắt. Nhân hôm nay mọi người đều vui vẻ, chi bằng Khánh muội muội hãy biểu diễn một bài, để Hoàng thượng cũng là để chúng tỷ muội được chiêm ngưỡng?”
Ta đã có lời, Hoàng thượng cùng Hoàng hậu sánh vai ngồi trên bảo tọa, ba vị cung tần chủ nhân bữa tiệc lần lượt ngồi gần Hoàng hậu, dĩ nhiên chốc chốc lại dâng miếng hoa quả, mớm cái bánh… lên, Hạ Hầu Thần đều vui vẻ ăn hết.
Xem ra sự nhẫn nhịn của Hoàng hậu đã luyện đến độ chín muồi, chỉ coi như chẳng hề trông thấy những hành vi cử chỉ của ba người kia. Hôm nay quả nhiên ai có sinh nhật người ấy được ưu tiên, ba người kia càng được thể tươi cười như hoa nở trước gió xuân, giở đủ mọi chiêu trò.
Một lát sau, Khánh Mỹ nhân lui xuống chuẩn bị xiêm áo cho tiết mục của mình, Tiêm Tử cùng hai cung tỳ khác mang ba chiếc lồng chim vào, bỗng chốc trong điện tràn ngập tiếng hót véo von. Ba chiếc lồng này nhốt ba loại chim khác nhau: Lồng thứ nhất là họa mi mình nhỏ nhắn; lồng thứ hai nhốt yểng lông đen mỏ vàng, cái còn lại nuôi vẹt màu sắc sặc sỡ, mỗi lồng có khoảng hai ba cặp, nếu khi nhảy múa mà tất cả những con chim này được thả ra, vây lấy thân mình người múa, thì quả đúng là cảnh tượng kỳ ảo.
Chúng phi tần rõ ràng đều chưa được chứng kiến ngón nghề này của Khánh Mỹ nhân, ai nấy tròn mắt hồi hộp dõi nhìn. Mất một lúc lâu mới thấy Khánh Mỹ nhân bước ra từ ché bên, vừa bước vào đã thu hút mọi con mắt trong điện. Cô ta mặc chiếc váy bảy sắc bằng lụa mỏng, kiểu tóc Vọng Sơn cao vút ngập mây, trên búi tóc không có vật nào khác tô điểm, chỉ cài độc một chiếc lông vũ nhuộm bảy sắc, khẽ khàng lay động theo bước chân, màu sắc chiếc váy cứ như cầu vồng bắc ngang trời, đẹp không kể xiết.
Cái eo cô ta nhỏ xíu, đeo một viên ngọc bội có tua rua lụa lạc, chân đi hài châu, lưng thắt dải lụa, duyên dáng như thiên nga. Tiếng nhạc vừa nổi lên, ống tay áo dài thoắt bay, mắt mày chớp động, ánh mắt đượm tình, dập dìu như có như không, tiến lại chỗ Hạ Hầu Thần. Váy lụa bảy sắc theo đó khi tụ khi tỏa, mỗi lần nếp váy dãn ra bên trong phảng phất ánh lên sắc vàng lộng lẫy, rõ ràng trong nếp váy dùng tơ vàng điểm xuyết, chất lụa mỏng như cánh ve lại có thể thêu tơ vàng lên, xem ra Ty Chế Phòng phí không ít công phu chế tác mới làm nên váy này.
Khánh Mỹ nhân vốn dĩ dung mạo yêu kiều nay lại thêm vài phần phiêu dật uyển chuyển, tuy ngồi cách xa vài ba lớp bàn, nhưng thi thoảng ta nhìn sang, xung quanh muôn vàn mỹ nữ, mà Hạ Hầu Thần chỉ chăm chăm nhìn có một mình cô ta, dáng vẻ rõ ràng vô cùng hào hứng.
Đến phần cao trào, tiếng nhạc trống đột nhiên thúc mạnh, dải tay áo của Khánh Mỹ nhân bay lượn không ngớt, phối cùng tiếng nhạc. Mấy cung tỳ lẳng lặng mở cửa lồng chim, lũ chim kỳ lạ kia theo nhịp phách ùa đến chỗ Khánh Mỹ nhân đứng, trước tiên là chao liệng quanh thân, sau đó thì véo von cất tiếng hót, hòa cùng tiếng nhạc, ta chưa từng nhìn thấy khung cảnh kỳ lạ như vậy, bèn tiên phong vỗ tay tán thưởng, tiếng vỗ tay theo đó rộ lên tứ phía, Hạ Hầu Thần gật đầu liên tục, nghiêng người hướng về phía ta nói: “Ái phi, trẫm từng kể cho nàng nghe bản lĩnh tuyệt diệu này của Khánh Nhi, nàng chưa tin. Nàng là người phàm, dĩ nhiên không thể làm được, Khánh Nhi thì khác.”
Ta bèn đáp phải lia lịa.
Điệu múa đã đến hồi kết, theo lý sau khi trình diễn màn múa cùng đàn chim ban nãy, vũ điệu sẽ kết thúc. Có vài phi tần trên mặt đã hơi lộ lòng ghen, lần này Khánh Mỹ nhân hiển lộ tài năng, trở nên nổi trội hẳn so với hai vị phi tần còn lại, xem ra đêm nay Hạ Hầu Thần chắc sẽ đến nghỉ ở chỗ cô ta.
Đúng lúc ấy, nhạc sư chợt lướt nhanh ngón tay trên phím đàn, tiếng nhạc ngân dài, tay trái Khánh Mỹ nhân khẽ vươn ra, uốn mình tựa bông hoa lan, có lẽ chờ cho con chim khéo nghe lời nhất đàn đậu trên tay. Đàn chim đột nhiên bay vòng trên đỉnh đầu cô ta không chịu đậu, nhạc tiếp tục tấu sang đoạn khác, Khánh Mỹ nhân đành thu tay lại, tiếp tục động tác của đoạn sau, chuyển biến này vô cùng chớp nhoáng, chẳng ai hay biết. Ta thầm nghĩ, bắt đầu rồi đây.
Hai ống tay áo của Khánh Mỹ nhân uyển chuyển phất lên, áo lụa như sương, trong mờ ảo lẩn khuất ánh vàng, cứ như mặt trời chiếu lộ qua tầng mây. Chiếc áo này đích thực được may rất khéo.
Khánh Mỹ nhân xoay tròn, tiếng đệm gõ ngày một gấp gáp, cô ta cũng xoay tròn ngày một nhanh, theo lý mà nói, đàn chim cũng phải bay quanh mình cô ta theo tiết tấu, nhưng chẳng rõ vì sao chúng bỗng nổi loạn, có con lao đầu vào mình cô ta, có con lại đậu trên búi tóc, mọi người chẳng ai hay biết có điềm lạ, tưởng rằng điệu múa vốn dĩ là vậy. Đôi mắt đẹp của Khánh Mỹ nhân nãy giờ chỉ nhìn Hạ Hầu Thần đắm đuối, cuối cùng phải hốt hoảng chuyển sang đàn chim đang bắt đầu mổ lia lịa lên người mình.
Lúc này mọi người trong điện rốt cuộc đã chú ý đến điểm khác thường, có phi tần nhát gan ré lên kinh hãi, bởi có hai con trong đàn đã gỡ bung hai búi tóc giả của Khánh Mỹ nhân, chiếc lông vũ bảy sắc gài trên đầu cô ta rớt xuống đất, vũ đạo biến thành nhảy nhót loạn xạ xen lẫn tiếng kêu thất thanh, cứ như con ruồi bị mất đầu. Khánh Mỹ nhân đâm thẳng vào bàn tiệc, khiến chúng phi tần nhao nhao tránh, tiếng la hét sợ hãi cất lên không ngớt.
Cũng lạ, lũ chim tuy “nổi điên”, nhưng chỉ bâu lấy người Khánh Mỹ nhân mà phá rối, không quấy nhiễu ai khác, có điều chúng phi tần chưa từng trải qua chuyện tương tự, ai nấy hoảng hốt tán loạn.
Hạ Hầu Thần tái mặt, vội quát: “Người đâu, sao còn chưa bắt mấy con chim kia lại?”
Mấy tên thị vệ cao thủ đứng bên Hoàng thượng lúc này mới sực tỉnh, Khang Đại Vi vội đuổi theo Khánh Mỹ nhân lúc này đang kêu cứu thảm thiết, hoa tay một cái, đã bóp chết được một con, lại túm lấy một con đang bấu trên người cô ta, bóp chết, cứ thế liên tiếp mấy lần, đến khi xung quanh la liệt xác chim, Khánh Mỹ nhân mới thôi la hét, co ro dưới đài run rẩy không ngừng.
Còn đâu phong thái thần tiên tài nghệ xuất quần ban nãy, giờ đây Khánh Mỹ nhân đầu tóc rối bù, trâm ngọc dập nát, áo quần bị lũ chim mổ thủng thành mấy lỗ to, có những nơi còn lẫn cả vết máu. May mà lũ chim còn nương tình, hoặc nhờ cô ta lấy tay bưng kín mặt nên dung mạo không bị tổn hại, có thể coi là cái phúc lớn trong đại nạn.
Các phi tần khác trong lúc hoảng sợ đều cố tránh cho thật xa, ta đứng tương đối gần Khánh Mỹ nhân, lúc ấy bèn bước lại, đưa tay dìu cô ta dậy: “Khánh muội muội, đừng sợ, mấy con súc sinh kia đều chết cả rồi.”
Khánh Mỹ nhân lúc ấy mới bỏ tay khỏi mặt, nhìn thấy dưới đất la liệt xác chim, mấy vết thương bị chim mổ chợt nhói đau, cô ta bật khóc nức nở.
Ta nhỏ giọng khuyên: “Khánh muội muội, tin tưởng đám súc sinh ấy quá làm gì?”
Khánh Mỹ nhân nín khóc, chợt liếc ta một cái, gằn giọng: “Có phải cô không, có phải cô dùng kế làm chúng nó phát điên không, chính là cô rồi!”
Cô ta đầu tóc rối bời, phấn son nhoe nhoét, thần tình như điên như loạn, mở mắt trừng trừng, ta sợ quá lùi về sau, vội nói: “Khánh muội muội, muội sao thế?”
Lúc ấy Khang Đại Vi đang bận sai người dọn dẹp trong điện, Hạ Hầu Thần bị sự biến làm cho cụt hứng, sầm mặt ngồi trên bảo tọa, Hoàng hậu không dám mở miệng khuyên gì, các phi tần khác lặng lẽ ngồi về chỗ cũ.
Khánh Mỹ nhân líu ríu bước lên mấy bước, quỳ xuống trước mặt Hoàng thượng Hoàng hậu, dập đầu liên tục: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, hai người phải làm chủ cho thần thiếp, thần thiếp bị người ta mưu hại!”
Hạ Hầu Thần trầm giọng: “Mưu hại thế nào, ai mưu hại?” Hắn chẳng thèm nhìn cô ta lấy một cái, cầm chén trà lên hớp một ngụm lớn.
Hoàng hậu vội nói đỡ: “Khánh muội muội, chuyện lần này đến chính muội còn không ngờ tới, ai mà biết được đám súc sinh lông lá ấy lại đột nhiên phát cuồng?”
Các phi tần khác nhỏ to nghị luận, ta chậm rãi lướt qua người Khánh Mỹ nhân, định về chỗ của mình, ai ngờ Khánh Mỹ nhân đang khấu đầu sát đất đột nhiên ngẩng lên, trỏ tay vào ta mà nói: “Chính cô ta, chính cô ta khiến lũ chim của thần thiếp phát điên, khiến thần thiếp phải xấu mặt trước mặt Hoàng thượng. Hoàng thượng, người phải làm chủ cho thần thiếp!”
Bộ dạng thảm hại lúc này của Khánh Mỹ nhân nào khiến Hạ Hầu Thần mảy may thương xót, trông hắn rõ ràng vô cùng chán ngán, vẫn chẳng thèm nhìn, chỉ nói: “Chuyện lần này chẳng qua là ngoài ý muốn, nàng đừng tùy tiện đổ tội cho ai.”
Ta đủng đỉnh về chỗ của mình rồi ngồi xuống, mới quay ra Hoàng thượng mà mỉm cười: “Đa tạ Hoàng thượng nói đỡ cho thần thiếp, thần thiếp có tệ hại thế nào cũng chẳng hơn thua với mấy con chim.”
Thần thái an nhiên của ta càng khiến Khánh Mỹ nhân tức tối, cô ta nói: “Lần trước Hoa nương nương gặp thần thiếp, đã lấy thần thiếp ra ví với hoa Kim tước, bảo rằng thần thiếp thể nào cũng bị người ta hầm lên rồi ăn vào bụng như hoa kia, hôm nay đàn chim đột nhiên dở chứng, chẳng cô ta làm thì là ai?”
Ta ung dung tâu: “Thần thiếp quả có tình cờ gặp muội ấy, thấy muội ấy thích hoa Kim tước, nên đã đem những ích lợi của loài hoa này giảng giải cho muội ấy nghe, sao muội lại hiểu nhầm ý tốt? Nếu quý danh của vị nào đó có chữ trùng với tên thức ăn, thần thiếp không cẩn thận nhờ Ngự Thiện Phòng nấu thứ đó lên ăn, chẳng lẽ lại cho rằng thần thiếp muốn nấu người đó mà ăn? Tội danh quái ác thế này, thần thiếp không thể nhận.”
Rất nhiều phi tần có tên gọi liên quan đến tên của loài hoa hay rau quả nào đó, ví dụ tên của Hoàng hậu có chữ “Cần”. Ta nói xong, chúng phi tần lập tức xôn xao bàn tán, thấy rõ lời cáo buộc của Khánh Mỹ nhân không đủ sức thuyết phục.
Có điều trước nay ta không thân thiết với ai, nay bị cáo tội, tuy tự bào chữa có lý có tình, cũng không ai cất tiếng bênh vực.
Khánh Mỹ nhân cứng họng, thấy Hạ Hầu Thần bỏ mặc, bèn quay sang Hoàng hậu: “Hoàng hậu nương nương, người là người khoan dung công bằng nhất, xin hãy nói một lời công đạo. Thần thiếp biểu diễn điệu múa này biết bao lần, lũ chim chưa bao giờ làm loạn, sao đúng lúc có Hoàng thượng dự khán thì lại xảy ra chuyện? Rõ ràng là có người ngầm ra tay ám toán.”
Mái tóc cô ta rũ rượi che kín nửa khuôn mặt, trừng mắt lườm ta, cứ như ma quỷ hiện hình. Ta nghĩ hình ảnh này chắc hẳn đã để lại ấn tượng sâu đậm trong Hạ Hầu Thần, bèn bật cười, cùng cô ta mắt đối mắt.
Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên tức điên, chỉ hận không xé xác ta ra.
Hoàng hậu nói: “Hoàng thượng người xem, đang lúc nhảy múa thì lũ chim có biểu hiện bất thường, Khánh Mỹ nhân nói là do Hoa Phu nhân mưu hại, dĩ nhiên đây chỉ là lời nói không bằng không chứng, nhưng chuyện này…”
Ta tiếp lời Thời Phượng Cần, khảng khái đứng dậy hành lễ với Hoàng thượng và Hoàng hậu: “Nếu Hoàng hậu đã nghi ngờ, thần thiếp chẳng có lời nào để nói. Dĩ nhiên cần sai người điều tra cho rõ ràng. Nếu Khánh muội muội đã tố tội, chắc hẳn phải có chứng cứ. Hoàng thượng xin cứ phái người nghiệm xác lũ chim, những con chim này dù gì cũng là vật sống, nếu có người hạ độc khiến chúng bộc phát tính hoang dã, dĩ nhiên phải lưu lại dấu tích. Việc này các ngự y trong cung chắc hẳn đều có thể làm được…”
Hoàng hậu sững người, không ngờ ta lại tự đòi được tra xét. Khánh Mỹ nhân thời chẳng còn ý kiến vào đâu được. Hoàng hậu bèn hỏi: “Khánh muội muội nghĩ thế nào?”
Khánh Mỹ nhân còn chưa kịp trả lời, ta đã nói: “Khánh muội muội bị đám súc sinh lông lá kia làm bị thương khắp người, mặt nhọ tóc rối, cần để muội ấy đi rửa mặt chải đầu rồi hẵng bàn.” Ta lại đánh mắt sang phía Hạ Hầu Thần, “Hoàng thượng thật là, sao chẳng hề thương hoa tiếc ngọc? Khánh muội muội thế kia còn dám gặp ai?”
Khánh Mỹ nhân lúc ấy mới nhớ ra đối tượng cần một mực lấy lòng đang ngồi trên bảo tọa, nhất thời quên hết tất cả, lấy tay xoa xoa gương mặt, lắp bắp nói: “Hoàng thượng, xin lượng thứ cho thần thiếp…”
Hạ Hầu Thần nói: “Lui xuống rửa mặt chải đầu rồi tính tiếp!”
Mấy câu hỏi ban nãy của Hoàng hậu coi như chẳng có tác dụng gì.
Hạ Hầu Thần nói: “Truyền hai thái y tới, nghiệm xác lũ chim trước mặt mọi người. Trẫm muốn xem xem là ai giở trò ma mãnh.”
Hoàng hậu há miệng định nói gì đó, rốt cuộc im bặt.
Xác chim dĩ nhiên do Khang Đại Vi coi giữ, không ai có thể động tới.
Nhằm tránh làm bẩn mắt các phi tần, thái y đem xác chim ra sau bình phong kiểm nghiệm. Một lúc sau, Từ lão thái y, người được coi là danh y hàng đầu thiên hạ bước lên trước bẩm tấu, sắc mặt nặng nề: “Bẩm Hoàng thượng, mấy con chim này đích thực đã bị trúng độc…”
Vừa nghe đến đây, Khánh Mỹ nhân vốn dĩ đã chỉnh trang đầu tóc, thay áo sạch ngồi một bên lập tức chửi đổng một tiếng thống thiết, quay sang lườm ta, mắt long sòng sọc, cứ như định ăn tươi nuốt sống.
Hoàng hậu lạc giọng hỏi: “Có chuyện đó thật sao?”
Hoàng thượng nhíu mày: “Là độc gì?”
Lão Ngự y bèn đáp: “Bẩm cáo Hoàng thượng, lão thần chỉ đem những gì mình khám nghiệm được thành thật tâu rõ, mọi chuyện còn lại xin Hoàng thượng phán quyết. Lão thần phanh diều con chim ra, đầu tiên dùng kim bạc để thử, phát hiện máu ở trong diều hơi có độc, bèn cẩn thận dùng nước sạch rửa lớp màng bao ruột…”
Nghe đến đây, không ít những phi tần hay tỏ vẻ điệu đà duyên dáng trước mặt Hạ Hầu Thần bụm miệng muốn nôn, ta chậm rãi hớp một ngụm trà, nói: “Từ ngự y, không cần miêu tả chi tiết quá, cứ nói kết luận là được rồi.”
Từ ngự y bèn tâu: “Lão thần phát hiện trong xác chim hàm chứa một lượng thạch anh tím, thạch anh trắng, xích thạch chỉ, thạch nhũ, thạch lưu huỳnh, tất cả năm loại, hơn nữa lớp da tiếp giáp với móng vả mỏ trở nên rất giòn, chỉ khẽ chạm vào là rụng lông, thần khẳng định lũ chim trúng độc đã lâu, phải đến một hai tháng, tuyệt không phải chuyện một sớm một chiều.”
Đám phi tần ngơ ngác không hiểu Từ ngự y định nói tới loại độc gì, còn Hoàng hậu Hoàng thượng thì hiểu rõ. Sắc mặt Hoàng hậu trở nên nặng nề, lặng lẽ lườm Khánh Mỹ nhân một cái, Hoàng thượng lạnh nhạt nói: “Từ ngự y, ngươi cứ lui xuống trước, chuyện này không được truyền ra ngoài, hoàng cung bản triều chưa từng xảy ra chuyện thế này, ngươi nhớ chưa?”
Khánh Mỹ nhân vẫn chưa hiểu ra, vội nói: “Hoàng thượng người xem, có người hạ độc lũ chim của thần thiếp từ vài tháng trước, lúc ấy thần thiếp…”
Vừa nhắc đến thời gian, cô ta chợt sững lại, vài tháng trước là thời gian Khánh Mỹ nhân mới nhập cung, còn chưa được Hạ Hầu Thần sủng hạnh lần nào.
Từ ngự y lui đi rồi, Hoàng hậu cùng Hoàng thượng chẳng ai lên tiếng. Trong đám phi tần có người hiểu thì im thin thít, kẻ không hiểu bèn quay trái quay phải hỏi han, cái tên “Ngũ thạch tán”, vốn là thứ độc bị bản triều cấm lưu hành, dần dần loan ra khắp điện.
Khánh Mỹ nhân dĩ nhiên nghe rõ mấy lời thì thầm lao xao kia, đa số mọi người không biết cách điều chế, nhưng cái tên “Ngũ thạch tán” thì ai nấy đều từng nghe qua. Tiền triều từng có vô số người do phục dụng thứ thuốc này mà táng mạng, về sau tiên hoàng ra lệnh liệt vào thuốc cấm. Khi tiên hoàng tuổi già lâm bệnh, nghe trong cung đồn thổi rằng, lại bị người ta ngầm đầu độc bằng chính Ngũ thạch tán đến chết. Chuyện này tuy chỉ là lời đồn bâng quơ vô căn cứ, nhưng từ đó đủ thấy mầm họa của Ngũ thạch tán rất sâu bền, giờ đây bỗng dưng tung tích thứ độc dược huyền thoại xuất hiện, chẳng không khiến người ta kinh sợ?
Sắc mặt Khánh Mỹ nhân thoắt chuyển sang trắng bệch, còn đâu dáng vẻ sừng sộ ban nãy, cô ta lập cập quỳ xuống: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, thần thiếp tuyệt không có gan dùng thứ ấy, thần thiếp bị người ta ám hại…”
Ta lạnh nhạt nói: “Khánh muội muội, lúc thì muội nói ta hãm hại muội, lúc lại nói người nào đó hãm hại muội, dẫu sao muội cũng phải rũ sạch bằng được tội danh trên mình? Muốn đổ tội cho người khác thì nên lấy ra chút chứng cứ mới coi được.”
Khánh Mỹ nhân dập đầu lia lịa, nói: “Thần thiếp không dám, thần thiếp không dám, thần thiếp xin tâu thật, mấy con chim này là thần thiếp nhờ Khổng Thượng Cung mang giúp vào cung, tất cả thức ăn của chúng do Khổng Thượng Cung cho thần thiếp. Y phục thần thiếp đang mặc cũng là nhờ Khổng Thượng Cung thiết kế rồi may cho…”
Chúng phi tần bỗng chốc huyên náo hẳn lên, không ngờ cô ta lại dám lôi cả Khổng Thượng Cung vào cuộc. Ta hơi trầm tư, lẳng lặng không nói gì, liếc thấy Hoàng hậu, thấy ánh mắt cô ta như tro tàn, vẻ mặt âm độc, nhìn Khánh Mỹ nhân đầy hậm hực.
Hạ Hầu Thần nói: “Khang Đại Vi, sai người đến Thượng Cung cục truyền những người có liên quan đến hỏi chuyện, chú ý đừng làm náo loạn lên.”
Khang Đại Vi dẫn theo hai tên thuộc hạ xăm xăm đi ra ngoài.
Trong khi chờ đợi, Khánh Mỹ nhân biết đã chuốc phải tai họa lớn, bèn luôn miệng phân trần: “Thần thiếp vinh hạnh lọt vào mắt xanh của nương nương, được tuyển vào hậu cung, mãi mà chưa được Hoàng thượng để ý, có một ngày nhân lúc nhàn rỗi bèn đến Thượng Cung cục chọn nữ trang, muốn làm mình thêm đẹp. Khổng Thượng Cung lén lút đến mách cho thần thiếp một cách… Hoàng thượng, thần thiếp xin nhà mẹ vay mượn không ít ngân lượng mới có được chiếc áo và đàn chim này, thần thiếp thật sự không biết mấy con chim đó lại được nuôi bằng thứ độc dược kia…”
Cô ta một mình lải nhải, có bao nhiêu chuyện tiền nhân hậu quả tồng tộc kể ra hết, Hoàng thượng lạnh mặt ngồi ở chính giữa đại điện, Hoàng hậu thấy thế nào dám khuyên ngăn. Chẳng cần Khổng Văn Trân đến đối chất, tất cả chân tướng đã phơi bày.
Khang Đại Vi sớm đã mang bộ áo bảy sắc đến, lại cho Từ thái y vốn chờ sẵn ngoài điện đến kiểm nghiệm, loay hoay một hồi, Từ thái y phát hiện ở những chỗ mép áo mép váy đều có tẩm Ngũ thạch tán, mọi người ồ lên, hóa ra lũ chim vờn quanh thân Khánh Mỹ nhân là vì thế.
Không khí trong đại điện vô cùng nặng nề, đám phi tần không ai dám thở mạnh, chỉ có tiếng Khánh Mỹ nhân huyên thuyên mãi không dứt.
Một lát sau, Khang Đại Vi dẫn Khổng Văn Trân vào, cô ta ăn vận rất chỉnh tề, người khoác lễ phục Thượng Cung, đầu vấn kiểu Đại Thù không rối một sợi tóc, nhìn thấy tình cảnh trong điện, cô ta đoán ngay có việc biến xảy ra. Vừa đặt chân vào điện, chưa kịp hành lễ với Hoàng thượng và Hoàng hậu mà chân cô ta đã nhũn ra, suýt nữa thì trượt ngã, phải nhờ hai tên tiểu thái giám vừa dìu vừa lôi vào. Đến trước mặt Hoàng thượng Hoàng hậu, cô ta ngã ra đất, khấu đầu lia lịa, chỉ biết luôn mồm nói: “Nô tỳ đáng chết, nô tỳ đáng chết.”
Vậy là không cần thẩm vấn mà mọi việc đã hai năm rõ mười. Lời Khánh Mỹ nhân nói ra đều là thực, Khổng Văn Trân dùng nhiều thủ đoạn giúp các phi tần tranh sủng, hòng ăn của đút lót, dám mang thuốc cấm vào hoàng cung đại nội, làm ô uế sự thanh tịnh chốn thâm cung. Hạ Hầu Thần nổi giận đùng đùng, sai tống ả vào Tông Nhân Phủ tra hỏi, những kẻ có liên đới đều phải xử phạt thật nặng.
Khánh Mỹ nhân bị tuyên dùng cách thức bàng môn tà đạo để tranh sủng, đày vào lãnh cung vĩnh viễn, làm tấm gương cảnh tỉnh mọi người.
Yến tiệc do Hoàng hậu dày công sắp đặt phút chốc tan tành, hai vị phi tử được ăn mừng sinh nhật tuy không bị liên lụy, nhưng trong cung chẳng ai dám nghĩ đến việc mở tiệc mừng sinh nhật nữa. Trải qua cái hạn này, Hoàng hậu mất đi hai trợ thủ đắc lực là Khánh Mỹ nhân và Khổng Thượng Cung, bèn cáo bệnh ở lỳ trong cung Chiêu Thuần không ra ngoài. Ta danh chính ngôn thuận tiếp quản công việc của Hoàng hậu. Sau cuộc đại biến, các phi tần đều cẩn trọng từng li từng tí, tuy phải chịu ta quản chế, nhưng không ai dám ho he nửa lời.
Vị trí Thượng Cung đột nhiên bị bỏ trống, cần phải tìm một người thích hợp thế vào. Ta biết đây lại là một cái cớ cho cuộc tranh giành quyền lực mới giữa ta và Hoàng hậu, chuyện này Hạ Hầu Thần chẳng thể nhúng tay vào. Những chính sách mới hắn đưa ra trong triều đã ngày một khiến sự bất mãn của nhà họ Thời gia tăng, Thời gia tài thế bậc nhất trong thiên hạ, nếu Hạ Hầu Thần để lộ chút nào bất mãn với Thời Phượng Cần, ngọn lửa mâu thuẫn lập tức bị thổi bùng, nhà họ Thời mà làm liều, sẽ khiến tài chính quốc gia chao đảo.
Ta hiểu suy nghĩ của Hạ Hầu Thần, hắn muốn không động binh đao mà vẫn bình ổn được thế cục. Dẫu sao ngày mới xưng đế, ngai vàng còn chưa vững, ngân khố đã bị họ Thượng Quan vơ vét, từ đó đến nay chưa thể bù đắp kịp, nếu lại động binh đao, chỉ sợ sẽ càng hao tổn nguyên khí quốc gia.
Ánh nắng mai trong veo, bầu trời xanh không vẩn đục, từ khung cửa sổ nhìn ra, thấy sương sớm còn đang lăn dài trên cỏ non, ta nhìn kẻ đang quỳ trước mặt, khẽ nói: “Vết thương ở tay ngươi vẫn còn hy vọng, ngươi đã giúp bản phi làm việc, bản phi tất sẽ sai người ngày ngày đến xoa bóp, lại truyền ngự y dùng kim vàng đả thông huyệt, qua một thời gian chắc sẽ lành hẳn.”
Tiêm Tử ngẩng đầu lên, bờ môi khẽ run, dập đầu hành đại lễ mà nói: “Đa tạ nương nương.”
Ta cười nói: “Ngươi giúp bản phi một việc lớn, bản phi sẽ không bạc đãi người từng giúp mình. À phải, cái tên Tiêm Tử chỉ hợp khi ở Tiêm Vũ các, giờ không nên dùng nữa, nay ngươi theo hội Tố Linh làm việc thì gọi là Tố Tú đi.”
Tiêm Tử lại dập đầu mấy cái: “Nô tỳ đa tạ nương nương thưởng tên, nô tỳ chắc chắn không để nương nương thất vọng.”
Tố Linh dẫn Tiêm Tử lui xuống, nhìn bóng lưng hai đứa biến mất sau màn son, ta chậm rãi mở cái ngăn kéo chạm khắc tinh xảo, cởi nút một túi lụa, lụa này được xén ra từ một tấm vải mỏng, bên trong đựng cám chim, một thứ hạt khô nhỏ li ti hơi ẩn hiện sắc xanh, đưa lên mũi khẽ ngửi, so với mùi tanh tưởi của cám chim bình thường còn lẫn tạp một mùi hương lạ, chính là thứ cám Tiêm Tử tráo mang về.
Đàn chim kia đã quen với thứ độc vật nọ, cách mấy ngày không được ăn liền như người nghiện đói thuốc, tuy vẫn nghe lời người huấn luyện chao liệng quanh người Khánh Mỹ nhân, nhưng bị ép bỏ thuốc một thời gian, nghe thấy trong áo váy phả ra mùi Ngũ thạch tán, làm sao mà nhịn cho nổi?
Khánh Mỹ nhân dùng loại cám đặc biệt để nuôi chim, tẩm Ngũ thạch tán vào áo quần để dẫn dụ chúng, dùng âm nhạc vũ điệu để khống chế, nhưng nếu có người ngầm cắt đứt nguồn thuốc thì… đến người còn khó kìm lòng huống hồ lũ chim?
Khánh Mỹ nhân đã sai, ta không hạ độc lũ chim, chẳng qua chỉ tráo đổi thức ăn của chúng. Khi ở Ngự Hoa viên ta dùng lời lẽ khiêu khích, khiến lòng cô ta sinh ra bất mãn, lúc tặng lễ vật lại đính kèm một bông hoa Kim tước, như mồi lửa làm cháy bùng cơn giận. Đến khi đàn chim gây đại họa, cô ta bèn đem tất cả lửa giận trút lên người ta, khiến Hoàng hậu sinh lòng nghi, tưởng ta ngầm mưu toan điều gì đó, vì đó không ngăn cản việc ngự y khám nghiệm, mọi chuyện từ đó vỡ toạc.
Ta gọi Tố Linh vào, đưa túi lụa cho nó: “Đem thứ này rửa trôi hay vùi đất thật sâu cũng được, đừng để nó hại người nữa.”
Tố Linh gật đầu đi ra lo liệu.
Hạ Hầu Thần đêm đó tới, mặt mày vẫn cứ nặng trình trịch, vẻ như cơn giận vẫn chưa tan, nhưng ta cảm thấy kỳ thực trong lòng hắn đang rất vui mừng. Ta chưa vội thỉnh công, sai người chuẩn bị hai món điểm tâm, rót rượu mời hắn uống hai ly. Cả hai chẳng buồn nhắc đến chuyện ngày hôm trước, xem ra Khánh Mỹ nhân chỉ là một bản nhạc đệm nhỏ bé trong cuộc đời hắn, sợ rằng hắn sớm đã quên rồi. Kỳ thực đôi khi nhìn vào gương mặt thản nhiên của Hạ Hầu Thần, ta tự hỏi chúng phi tần đang tranh giành thứ gì? Tranh giành sự sủng ái như ánh chớp vụt lóe vụt tắt? Hay là quyền lực tối thượng Quân vương đang nắm trong tay? Phần ta, xin trả lời thẳng thắn rằng mình chọn vế thứ hai. Thứ cảm giác khi đứng từ trên cao mà nhìn mọi người đó, chỉ hắn có thể cho ta. Nay hai bên đã thỏa thuận, hắn cho ta những thứ ta muốn, ta giúp hắn làm những việc hắn cần, chẳng liên quan gì đến tình nghĩa.
Cho nên khi ta vờ vịt ghen bóng ghen gió, hắn liền hợp diễn màn tình nghĩa mặn nồng. Cả hai đều là những kẻ có khiếu diễn kịch, đôi khi ánh mắt hắn dạt dào tình ý cứ như sông xuân cuồn cuộn phá băng mà chảy, ta còn tưởng bản thân mình thực sự đang được sủng ái.
Ta cầm cái chén lưu ly trên bàn lên, nói với Hạ Hầu Thần: “Chúc Hoàng thượng đạt thành tâm nguyện.”
Hắn cụng ly mình vào ly của ta, cười liêu xiêu: “Ái phi chúc trẫm gì cơ?”
Ta uống cạn chén ấy, cười không đáp, chỉ vào bóng Tố Tú vừa bước ra, hỏi: “Cung tỳ này thần thiếp vừa thu nhận, Hoàng thượng xem có vừa mắt không?”
Hắn đặt chén rượu xuống, không buồn uống nữa, nói: “Ái phi biết trẫm hận nhất điều gì không? Trẫm muốn người đẹp, thì trẫm tự sẽ chọn theo ý mình, có người cứ nhất quyết không chịu biết điều, đưa cho trẫm người này người nọ…”
Ta hờn dỗi cười đáp: “Hoàng thượng, sao người phải giận, thần thiếp đâu có ý ấy, chỉ muốn Hoàng thượng nhìn xem cung tỳ mới thu nhận có được không thôi!” Ta kéo tay áo hắn, “Hoàng thượng, trước đây người chưa thấy cung tỳ này bao giờ thật ư?”
Hắn nhíu mày ngẫm ngợi, đáp: “Gặp thì có vẻ gặp rồi, nhưng chẳng nhớ gặp cô ta ở cung nào…”
Ta bèn thả tay áo hắn ra, nói: “Hoàng thượng thật vô tình, mấy ngày trước còn huyên thuyên với thần thiếp nào là đàn ca sáo nhị, người vừa đi Hoàng thượng đã quên mất rồi?”
Hắn nhìn kỹ một lúc mới nói: “Hóa ra là cung tỳ giỏi ngón đàn ở Tiêm Vũ các ngày trước. Trẫm chỉ gặp một lần rồi không thấy đâu nữa, sao mà nhớ được?”
Hắn không ngờ rằng chỉ một lần gặp mặt ấy mà Tố Tú suýt phế cả hai tay. Hậu cung chính là như vậy, nữ nhân trong cung bất kể thân phận phú quý hay ti tiện, chỉ cần được Hoàng thượng yêu thích sẽ có được tất cả. Bao người kỳ vọng là có bấy nhiêu người sợ hãi, đối với một kẻ được cung phượng nhất thiên hạ như hắn, làm sao có thể hiểu sự chua chát khổ đau bên trong?
Hắn thấy ta trầm ngâm không nói, chỉ nhấm nháp ly rượu ngọt, bèn nổi hứng tranh cái ly trên tay ta, liếm bờ môi ta một cái: “Rượu ngọt của ái phi ngon thật.”
Ta vội cười né tránh, tình cờ ngước nhìn, thấy ánh mắt hắn như say, lim dim trộm nhìn mình, trông rõ vẻ uể oải lẫn hứng thú. Thần thái của hắn lúc này quả thực đẹp đẽ không lời nào hình dung, ta như bị đầu độc, thoáng chốc đầu óc chợt trống rỗng, chỉ biết ngây người mà ngắm nhìn. Hắn bất chợt đặt một nụ hôn lên môi ta, đè ta xuống giường, cái lưỡi linh hoạt ngọ nguậy không thôi, tay trái sớm đã thò vào cổ áo, vuốt ve nửa thân trên của ta. Đang lúc bị nụ hôn làm cho mê mệt, hắn chợt dừng lại, ánh mắt sâu thẳm như thể muốn nhấn chìm người khác trong ấy. Hắn chuyển hướng cái lưỡi sang cổ, rồi lướt nhẹ vùng da phía sau tai…
Hắn chưa từng làm thế này trước đây, những lần trong quá khứ hắn chỉ chăm chăm vào việc chính. Lúc này ta cảm thấy toàn thân như bốc hỏa, như một hòn than không dễ dàng dập tắt, cứ râm ran, hừng hực, bộ y phục trên người vỗn dĩ rộng, hắn muốn “công thành chiếm đất” không mất sức xé bỏ, tháo gỡ, cứ thế lấn sâu xuống dưới. Hắn khiêu khích đùa giỡn, khiến cơ thể ta phát sinh biến hóa dị thường, dường như càng lúc càng mong muốn được xâm chiếm. Vốn dĩ ta rất chán ghét chuyện này, chưa bao giờ có hảo cảm với nó, nhưng ý nghĩ vừa thoáng qua trong khối óc làm ta ngạc nhiên sững sờ, cơ thể bất giác né tránh những ngón tay hắn. Hạ Hầu Thần liền dùng cánh tay còn lại giữ cho ta không thể động đậy, lại dùng cả cơ thể áp chặt phía trên, mơ màng nói: “Đừng, trẫm biết lòng ái phi muốn gì, thực ra chuyện này rất vui đấy chứ, trẫm sẽ làm ái phi cảm thấy khoan khoái.”
Ta mềm lòng, dù biết thừa hắn “sẽ làm” thế nào để khiến mình “khoan khoái”. Mấy lần trước ta hết sức nhẫn nhịn, vậy mà vẫn bị hắn nhìn ra vẻ khó chịu chán ghét, hắn tưởng lần này cũng đang nhìn ra ham muốn trong ta.
Nhưng phải làm sao nói ra được rằng, suy nghĩ trong ta lúc này hoàn toàn ngược lại?
Lần này y phục trên người không bị hắn xé ra một cách thô bạo, mà được cởi ra từ tốn. Da mặt y ửng hồng, ánh nhìn sâu thẳm, nhưng từ đầu chí cuối vẫn gắng nhịn, thăm dò từ từ, đến khi thấy trên mặt ta không còn vẻ sợ hãi, mới bắt đầu hành sự. Lần này quả đúng như mong đợi, ta không còn đờ ra như trước, ngược lại cảm giác cả cơ thể bay lên chín tầng mây, cứ như ngọn cỏ mùa xuân khát mưa nay được tưới tắm, dễ chịu và khoan khoái khó tả. Có lẽ nhận ra cảm xúc trên mặt ta, hắn cử động càng nhanh dần, đầu óc ta theo đó dần trống rỗng, lúc lâu sau lại có cảm giác như nhìn thấy pháo hoa nở trên nền trời đen kịt, đẹp đẽ kinh ngạc.
Ta chưa bao giờ nghĩ việc này lại tuyệt mỹ đến vậy, cơ thể trong phút chốc như giãn ra, tiếp nhận nhiều đợt công kích liên tiếp của hắn mà không hề đau đớn, ngược lại càng lúc càng mong mỏi, muốn hắn đừng bao giờ dừng lại.
Bầu trời ngoài cửa sổ ló ra một tia hừng đông, cả hai mới chịu rời nhau. Hắn nằm bên ta, lớn tiếng nói: “Báo cho Ngự Thư phòng, hôm nay trẫm không lên chầu sớm.”
Ta bỗng thấy xấu hổ, nói: “Hoàng thượng, sao có thể như vậy, thần thiếp mang tội với quốc gia mất thôi.”
Hắn vỗ vỗ vào mông ta mấy cái, cười quái dị nói: “Nàng tưởng trẫm là người sắt, đánh một trận tơi bời xong còn sức mà dậy sao.”
Ta thẹn cúi gằm mặt: “Hoàng thượng, thần thiếp nào dám?”
Hắn nói một cách mơ hồ: “Ngủ đi, trẫm cũng mệt rồi. Ngày nào thượng triều cũng phải nghe mấy lão hủ kia tranh cãi, cãi chán chê mà chẳng phân rõ được thị phi ngay thẳng, trẫm cũng cần tránh xa họ để tự mình ngẫm nghĩ một chút.”
Nghe hắn nói vậy, không hiểu vì sao trong lòng ta dậy lên một tia thương cảm. Hắn thân là thiên tử, nhưng không phải con ruột của Thái hậu, thuở nhỏ thiếu vắng tình mẫu tử, luôn tồn tại mấp mé bờ vực thẳm, mấy lần suýt bị phế truất, dựa vào mưu lược và sự nhẫn nhịn của bản thân hết lần này đến lần khác thoát chết khỏi trùng trùng mưu sâu kế hiểm. Sau khi đăng cơ, vì triều chính hủ bại từ tiền triều, lại bị các phiên vương uy hiếp. Hắn làm hoàng đế thật quá mệt mỏi, chẳng khác gì ta, luôn khổ sở tìm kế sinh tồn.
Ta nói: “Hoàng thượng, người hãy yên tâm cai quản triều chính, thần thiếp ở hậu cung tất sẽ không để ai làm phiền đến người.”
Lời này ta nói ra vô cùng chân thành, vậy mà chỉ đổi lại cơn ngáy của hắn. Chắc hắn chẳng nghe thấy gì cả?
Cơ thể ta rã rời cùng cực, tuy không đau đớn như mấy lần trước, nhưng cứ uể oải lười biếng hệt như khi vừa được no nê, chẳng bao lâu cũng thiếp đi.
Hạ Hầu Thần hôm ấy quả thật không thiết triều, cả ngày chỉ quanh quẩn bên ta, buổi chiều đến Ngự Hoa viên thưởng hoa xuân, dĩ nhiên “tình cờ” gặp phải không ít phi tần, hắn hơi cụt hứng, nói: “Hoàng hậu lòng dạ hiền từ, chân yếu tay mềm, nàng cần phải giúp đỡ Hoàng hậu nhiều một chút, đừng để bọn họ được nước càn rỡ quá.”
Ta nhân cơ hội bèn nói: “Hoàng thượng, trong tay thần thiếp chẳng có người sai khiến cũng chẳng có quyền hành gì, sao có thể giúp được Hoàng hậu? Hiện nay vị trí Thượng Cung đang bỏ trống, chức vị này vô cùng quan trọng, nếu bất cẩn chọn không kỹ, sợ rằng lại thêm một kẻ chỉ biết giờ tay nhón lấy ngân lượng rồi nhắm mắt làm càn đem những vật dơ bẩn vào cung như Khổng Văn Trân không chừng. Ý thiếp không trách Hoàng hậu dùng nhầm người, nhưng lòng người khó đoán, Hoàng hậu quản lý hậu cung chưa lâu, nhất thời khinh suất cũng là lẽ thường. Chi bằng việc chọn Thượng Cung mới hãy để thần thiếp cùng thương lượng với Hoàng hậu, xem nên dùng cách thức gì để tìm ra một người vừa trung thành vừa có tay nghề xuất chúng.”
Hạ Hầu Thần liếc ta: “Nghe ái phi nói vậy dường như đã có lựa chọn của riêng mình?”
Ta thản nhiên đáp: “Hoàng thượng, tục ngữ có câu ‘chọn người hiền không hiềm thân thích’, thần thiếp quả thực đã tự chọn ra một người thích hợp, chính là Tố Khiết đã theo hầu từ ngày xưa, Tố Khiết xuất thân từ phường thêu, tay nghề vốn đã cao siêu, tính tình lại trung thành chính trực, chính là một lựa chọn thỏa đáng. Nhưng để tránh Hoàng hậu phật lòng, trách cứ Hoàng thượng thiên lệch, thần thiếp không dám xin người cho Tố Khiết nhậm chức ngay. Tốt nhất cứ để Thượng Cung cục tiến cử ra vài vị cùng tham gia tuyển chọn, do Hoàng thượng làm chủ, xem xét từ tài nghệ cho đến phẩm cách. Làm như vậy vừa không mất đi sự công bằng, mà Hoàng hậu cũng không thể nói vào đâu được.”
Con ngươi Hạ Hầu Thần chợt sáng lên: “Cách này của ái phi rất giống với chính sách khoa cử tân triều trẫm đề ra. Trẫm mới lên ngôi tuy khó khăn trùng trùng, sớm bị đám lão thần trói chặt tay chân, nhưng nếu có thể tổ chức một cuộc khảo thí quy mô nhỏ thì cũng khiến tâm trạng buồn chán lúc này của trẫm được giải tỏa.”
Ta biết Hạ Hầu Thần đã hoàn toàn nghiêng về phía mình, cho dù trước đây giữa hắn và Hoàng hậu có bao nhiêu ân tình đi nữa, Hoàng hậu là con cháu nhà họ Thời, mà gia tộc này vô số lần uy hiếp đến thiên uy, Hạ Hầu Thần nhìn thấy Hoàng hậu ít nhiều sẽ liên tưởng tới cuộc tranh giành trong triều, tình ý có sâu đậm hơn nữa cũng dần phai nhạt mà thôi.
Có nhà ngoại thế to của nhiều không rõ là lợi hay hại nữa đây?
Mấy ngày sau, nhân lúc Hoàng thượng ở cung Chiêu Thuần, ta bèn tìm tới thỉnh an Hoàng hậu, trong lúc chuyện phiếm nhắc đến vị trí Thượng Cung còn bỏ trống, mời Hoàng hậu đề bạt một người đáng tin cậy để Thượng Cung cục có người lãnh đạo.
Trải qua chuyện Khánh Mỹ nhân, Hoàng hậu chịu đả kích không nhẹ, tuy biết cái ghế Thượng Cung quan trọng nhưng nào dám đề cử ai, bèn nói cứ để Thượng Cung cục tự bầu lên là phải lẽ nhất. Ta nói: “Thần thiếp trước từng làm qua chức Thượng Cung, hiểu sâu xa ngọn nguồn công việc ở Thượng Cung cục, trong tay lại đang có một người thông minh trung hậu, tay nghề thủ công thuộc hàng cao siêu, nhưng nếu do thần thiếp phái đến, sợ rằng người dưới không phục. Thần thiếp tuy trong sáng vô tư nhưng không thể để Hoàng thượng và Hoàng hậu phải chịu dị nghị, chi bằng để người đó cùng các ứng viên từ Thượng Cung cục cùng thi tài, ai hơn ai kém sẽ rõ mười mươi.”
Hoàng hậu nghe ta nói vậy lòng sinh cảnh giác, nhưng lời này rất mực quang minh chính đại, khiến cô ta không tìm được cách phản bác. Hạ Hầu Thần sớm đã thông đồng với ta, bèn nói: “Cách ái phi nghĩ ra rất tốt, Hoàng hậu, nếu nàng không có ý kiến gì khác, thì cứ theo đó mà tiến hành thôi?”
Hoàng hậu không biết nói sao, ta biết cô ta chưa chịu thua, nhất định sẽ dùng mọi thủ đoạn có thể ngăn trở Tố Khiết chiến thắng. Tuy nhà mẹ Thời Phượng Cần có tiền có thế, nhưng nơi đây là hậu cung, Thượng Cung cục lại là chốn ta rất đỗi quen thuộc, người trong ấy phàm là cung nữ phụ trách thêu thùa hay làm trâm chẳng ai ta không biết, nhược điểm từng người thế nào ta rõ như lòng bàn tay. Dùng cách thức quang minh chính đại mà thi đấu chọn lựa, cô ta tìm đâu ra người đủ sức đọ tài với ta được?
Sau khi hồi cung, ta sai Tố Linh gọi Tố Khiết ra. Tố Khiết trốn trong phòng dưỡng bệnh đã được một thời gian, người ngoài chỉ nghe nói là cảm thương hàn, đâu biết ta cho nó ở trong phòng ngày ngày rèn luyện đường kim mũi chỉ, dạy cách phân biệt các kiểu dáng hoa văn, phương pháp chế tác theo bản mẫu.
Tố Khiết vào phòng thỉnh an xong, ta bảo nó ngước mặt lên, thấy dung mạo Tố Khiết tuy hơi tiều tụy nhưng tinh thần rất minh mẫn, hai mắt hơi vằn đỏ vì mệt mỏi, nhưng vẻ mặt vô cùng phấn chấn. Ta nói: “Tố Khiết, nay bản phi đã tạo cho ngươi cơ hội, có thành hay không đều phụ thuộc cả vào ngươi, đến đây ta không thể giúp gì được nữa, nếu chuyện bất thành lại quay về hầu hạ, bản phi vẫn đối đãi với ngươi như xưa tuyệt không trách cứ.”
Tố Khiết nghe xong nghẹn ngào không nói lên lời, quỳ xuống tâu: “Nương nương, nô tỳ sao dám oán trách nửa lời, nương nương đã cho nô tỳ một cơ hội lớn như vậy, nô tỳ đến nghĩ còn chẳng dám. Nếu lần này có thể thành công, ắt sẽ mang hết tài hèn sức mọn báo đáp nương nương…”
Nói xong bèn dập đầu mấy cái, đầu cụng xuống sàn phát ra tiếng “binh binh”. Ta vội sai Tố Linh lôi nó đứng lên, nói: “Tuy nói bản phi đã trải sẵn đường cho ngươi đi, nhưng vẫn còn ngổn ngang việc cần chuẩn bị. Cuốn sổ tay ta giao cho chắc ngươi đã nắm được cả, tuy nhiên vẫn cần nhớ rằng, cuốn sổ ấy tuy là tâm huyết mấy đời Thượng Cung, là tinh hoa của Thượng Cung cục, nhưng kết quả cuối cùng ra sao chỉ có thể trông chờ vào chính mình. Ngươi ở trong phòng nghiền ngẫm mấy ngày, chắc đã hiểu?”
Tố Khiết thấy ta hỏi tới việc chính, bèn nín khóc, đọc lại vanh vách từ đầu chí cuối nội dung bí kíp. Ta thầm phấn khởi trong lòng, con mắt nhìn người của ta quả không đến nỗi, Tố Khiết thích thêu thùa, về phương diện này vô cùng chuyên tâm trui rèn, so với việc ganh đua tranh sủng, thà rằng cứ để nó tự mình đi hẳn sang đường khác vẫn hơn. Quan trọng nhất là Thượng Cung cục có nó trấn giữ cũng tức đã trở thành vật trong tay ta, xem như vươn được tai mắt tới khắp hang cùng ngõ hẻm ở nội cung, đến bên từng cung tỳ thân cận của các phi tần. Tố Khiết tuy không quá nhạy bén, nhưng được cái nghe lời, sau này dạy dỗ thêm, chắc chắn có thể trở thành cánh tay đắc lực.
Tố Khiết được ta chỉ điểm, lại trốn vào phòng nghiên cứu cuốn bí kíp Thượng Cung ta tặng. Tố Khiết vừa đi khỏi, Túc nương bèn bước vào hành lễ, nói: “Nương nương, nô tỳ lục soát trong phòng Khổng Văn Trân ra mấy tờ giấy, người xem này.”
Ta đón lấy xem kỹ một hồi, thấy những giấy này màu sắc ố vàng, chính là mấy trang ta xé ra trong bí kíp Thượng Cung. Ta cẩn thận gập lại cất đi, hỏi Túc nương: “Không có ai nhìn thấy ngươi chứ?”
Túc nương lãnh đạm chắp tay nói: “Xin nương nương yên tâm, thân thủ của nô tỳ vẫn còn đủ nhanh nhẹn.”
Khác hẳn so với hồi trong ngục, từ khi đến đây chưa bao giờ cô ta nở nụ cười khi đáp lời ta, lúc nào cũng lạnh lùng nghiêm cẩn, có vài phần giống dáng vẻ Hạ Hầu Thần ngày trước, tuy không như Hạ Hầu Thần hay buông lời mỉa mai cay nghiệt, nhưng cứ khiến ta thấy không được thoải mái. Thấy không còn lời gì để nói thêm, ta bèn bảo: “Ngươi lui xuống nghỉ ngơi một lát đi.”
Túc nương quay người bước ra cửa, đến bậc thềm thì nói thêm: “Nương nương vẫn nên kiểm tra lại kỹ càng, đừng để cuốn bí kíp đó rò rỉ ra ngoài. Khánh Mỹ nhân mặc bộ xiêm y bảy sắc kia, không rõ là lộng lẫy át người đến mức nào?”
Ta giật mình, mấy tờ giấy cũ kỹ trong tay rớt xuống đất, đến khi ngẩng lên nhìn, chỉ thấy vạt áo Túc nương vút khỏi cạnh cửa, chỉ còn cái bóng mờ trên đất.
Trong mấy tờ giấy rơi dưới đất, đập ngay vào mắt chính là mẫu vẽ áo bảy sắc, xung quanh viết chi chít những hàng chữ nhỏ, có một vài hàng hơi lớn hơn một chút, từ trên ghế nhìn xuống ta có thể đọc rõ mồn một: “Thân như thân phượng, một dải bảy sắc, chim chóc liệng quanh, mê mẩn xuất thần, đẹp tận sâu thẳm, đây chính là công dụng của mẫu y phục này…”
Ta chậm rãi nhặt mấy tờ giấy lên, rút cuốn bí kíp Thượng Cung từ chiếc ngăn kéo ở đầu giường ra, lật giở đến mấy trang cuối, mấy tờ giấy kia ướm vào vừa vặn với chỗ bị khuyết thiếu, lại giở phần lời dẫn của mấy trang này ra đọc, thấy viết: “Những cách sau đây tuy có thể khiến một nữ nhân nổi bật xuất quần, thu hút mọi ánh nhìn, nhưng nhìn cách khác là trò gian lận, có thể dẫn đến họa sát thân, mong người dùng cân nhắc cho kỹ.”
Ta gấp cuốn sổ lại, hồi tưởng những hàng chữ theo thể Liễu[2] bay bướm bên trong, không biết là vị Thượng Cung tiền nhiệm nào đã lưu lại bút tích? Không sai, mấy trang bí kíp kia là do ta tặng cho Khổng Văn Trân. Một lần cô ả lập công, ta bèn dùng bí kíp để tưởng thưởng. Ta từng nói rằng chỉ cần tiếp tục giúp đỡ, dần dần cô ta sẽ có trong tay cả cuốn bí kíp, nhưng vì quá nóng ruột mà ả cả gan dám bán đứng ta. May mà ta giữ lại một trang lời dẫn quan trọng, Khổng Văn Trân không hề hay biết vận dụng nó sẽ dẫn đến họa sát thân. Ai bảo cô ta vì quá tham lam đâm bộp chộp làm liều?
[2] Phỏng theo cách viết của Liễu Công Quyền, một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đường, Trung Quốc.
Ta vốn không có lòng hại người, nhưng người cứ bức ta phải ra tay.
Đặt cuốn sổ trở lại hộc tủ, ta khẽ mỉm cười, người biết dùng ắt sẽ nhận vô vàn lợi ích, người không biết dùng sẽ tự chuốc tội lụy, Khổng Văn Trân, ngươi và ta quen biết đã lâu, đột nhiên muốn phản bội thì nên thận trọng một chút mới phải.
Sáng sớm, ánh nắng còn chiếu lên đỉnh đầu, đến giữa trưa, mặt trời bỗng đâu núp vào mây xám, đường đi âm u mịt mờ. Nhiều ngày trước, ta từng bị áp tải đến Tông Nhân Phủ trên con đường này, còn hôm nay lại đang men theo nó đến thăm cố nhân trong ngục. Trong cung tình người bạc bẽo, nay Khổng Văn Trân rơi vào vòng lao lý, kẻ khác tránh còn không kịp. Người thân ở ngoài cung từ lâu chẳng có tung tích, cô ta không có người thăm viếng, vò võ một mình, sợ rằng so với ta ngày trước càng thê lương gấp bội.
Vốn dĩ Tông Nhân Phủ không cho người vào thăm, nhưng ta xin Hạ Hầu Thần cho phép, mang theo thánh chỉ mới được bước chân vào. Trong nhà ngục vẫn ẩm ướt lạnh lẽo như xưa, nay nhằm tiết xuân, trên các vách tường loang lổ vết nước ngấm, trông càng âm u buồn bã. Nghe nói ta định vào thăm Khổng Văn Trân, Túc nương bèn đi trước dẫn đường, ta bất đắc dĩ phải đi theo.
Rảo bước tới phòng giam sâu tận cùng trong nhà ngục, vốn là nơi giam ta ngày trước, nay dĩ nhiên chẳng còn chăn gấm bàn ăn, chỉ có những thứ vật dụng dành cho khâm phạm thông thường.
Khổng Văn Trân trút bỏ trâm vòng áo đẹp, xõa tóc ngồi trong xó tường, mới nhìn sơ hầu như không thể nhận ra. Thấy ta đến gần, cô ta lao tới song sắt, chỗ kim loại rỉ sét lâu ngày phát ra tiếng kèn kẹt ghê rợn: “Nương nương, xin cứu lấy nô tỳ, xin cứu lấy nô tỳ, nô tỳ không khai gì hết, không làm liên lụy đến nương nương, người nhất định phải cứu nô tỳ ra ngoài…”
Ta ra hiệu cho Túc nương đứng ngoài cửa trông chừng không cho người khác lại gần, tự mình lại gần song sắt, nói: “Khổng Thượng Cung, xem bộ dạng ngươi kìa, mấy tên cai ngục sao lại đối xử với ngươi như vậy? Nhớ ngày trước bản phi bị bắt giam, lũ cai ngục ấy còn nể mặt, đổi cho chăn bông, ngày đông rét mướt có lò sưởi, ngoài việc có vị cố nhân chẳng buồn ghé thăm, lại còn nhân lúc bản phi té giếng đứng trên bờ ném đá, thì bản phi vẫn được sống tương đối thoải mái…”
Khổng Văn Trân nói: “Không, nương nương phải tin nô tỳ chưa bao giờ dám nói nửa lời xuyên tạc về người…”
Ta kề sát song sắt, lạnh lùng nhìn cô ta, hỏi: “Vậy ngươi nói đi, sao Hoàng hậu lại biết rõ việc bản phi mang canh thuốc đến cung Tinh Huy đêm đó, thậm chí giờ giấc cũng chính xác không chệch đi đâu, nếu không phải ngươi chỉ điểm, làm sao Hoàng hậu biết được? Xem ra hôm ấy tình cờ gặp nhau ở Ngự Hoa viên, vẻ mặt ngươi hoảng hốt là bởi đang định phản bội ta đúng chứ?”
Khổng Văn Trân nói: “Là Hoàng hậu ép nô tỳ, Hoàng hậu là chủ hậu cung, tay nắm đại quyền, áp chế Thượng Cung cục, Hoàng hậu nói với nô tỳ, nếu không chịu ngoan ngoãn nghe lời, cái chức Thượng Cung chẳng đến phiên nô tỳ làm, hơn nữa Hoàng hậu còn đảm bảo rằng thân phận trước khi nhập cung của nô tỳ sẽ vĩnh viễn không bao giờ bị vạch trần. Nô tỳ biết làm sao, ở Thượng Cung cục nô tỳ cai quản trên dưới cả thảy gần ba trăm con người, nhưng trước mặt Hoàng hậu cũng chỉ là một tên nô tài, sao làm khác được?”
Ta sớm đã đoán ra sự việc là như vậy, lúc này bèn khẽ thở dài: “Khổng Văn Trân, ngươi muốn bản phi cứu ngươi ra là chuyện không tưởng, tội ngươi quá lớn, sao dám mang thứ tai hại ấy vào hậu cung? Nên biết, mấy trang bí kíp Thượng Cung ta tặng ngươi tuy là để trả ơn, nhưng Ngũ thạch tán là thứ không được phép dây vào, nếu có hãy trách mình không kìm nổi lòng tham, nhưng ta cũng thông cảm với ngươi, để cứu em gái thoát khỏi kỹ viện, đúng là việc gì ngươi cũng dám làm…”
Ban đầu Khổng Văn Trân vô cùng hổ thẹn, nghe đến câu cuối cùng, đôi mắt bỗng trợn tròn, kinh ngạc nhìn ta. Ta rút trong tay áo ra một miếng ngọc bội, đưa cho cô ta: “Điểm đáng khen duy nhất của ngươi đó là toàn tâm toàn ý chăm lo cho em gái, bản phi rất ngưỡng mộ. Bản phi chỉ có thể giúp ngươi, em ngươi sắc đẹp kiều mị, tiền chuộc phải đến vạn kim, nhưng món tiền ấy bản phi vẫn lo liệu nổi…”
Trong tay ta ngoài viên ngọc bội còn có một cái khăn lụa bé con, bên trên viết đầy những chữ Khải nhỏ, Khổng Văn Trân vừa trông đã nhận ra lá thư ấy do ai viết, không nén được bưng mặt khóc lạc cả tiếng.
Ta nói: “Khổng Văn Trân, nếu ngươi không chịu nổi cực hình, cứ nói ra bản mẫu áo bảy sắc do bản phi cho cũng không sao, sẽ chẳng tổn hại gì đến ta. Bản mẫu rốt cuộc chỉ là bản mẫu, hại người là từ tâm. Bản phi sẽ chăm sóc em gái ngươi chu đáo.”
Khổng Văn Trân quỳ xuống đất, ngẩng đầu lên, nước mắt như mưa, gọi một tiếng “Nương nương…” rồi im bặt, chỉ dập đầu lia lịa.
Ta quay mình rời khỏi, đi xa rồi vẫn nghe thấy tiếng cô ta dập đầu xuống đất “binh binh” lạnh lẽo.
Đang từ nhà ngục tối tăm đi ra, ánh nắng mặt trời chói chang khiến ta khẽ nhíu mắt, Túc nương lẳng lặng theo sau. Ta bỗng nói: “Túc nương, xin lỗi…”
Ta nói rất bé, chẳng kịp để ý cô ta có nghe được rõ không, bèn xăm xăm bước nhanh về phía trước, Túc nương im lặng hồi lâu, chợt nói: “Nương nương, thực ra người không chỉ có một muội muội ruột thịt.”