-
Chương 15
Sau khi Hoàng hậu đến thăm, ngay ngày hôm sau Lí Sĩ Nguyên đã có mặt, chắc hẳn có người đã đem tình hình hôm đó mật báo, ông ta thấy không có manh mối gì, bèn đến thăm dò trực tiếp xem sao. Ta dĩ nhiên không nói hớ nửa lời, chỉ cầu ông ta cho gặp mặt mẹ già một lần.
Hết lần này đến lần khác ta xin được gặp người không khỏi khiến Lí Sĩ Nguyên sốt ruột, tuy vậy ông ta vẫn rộng lượng đồng ý. Nếu ông ta đã truy ra người chết ở am ni cô trước đây không phải mẹ ruột của ta, dĩ nhiên cũng sẽ biết mẹ ruột của ta sống ở đâu, không cần ta nói ra địa chỉ cụ thể. Tiến trình tra án của ông ta đang như lạc phải mê cung, mãi chưa tìm ra cách đột phá, nên cũng muốn khai thác ở những nơi khác nhau, phía Hoàng hậu đã không được gì, có khi tìm hiểu gia đình ta lại lóe lên điều gì thì sao?
Ngày hôm sau, nữ cai đến nói với ta: “Nương nương, có mẫu thân người đến thăm ạ.”
Ta chỉnh trang lại y phục, quay ra cười với cô ta rồi đáp: “Lâu lắm rồi bản cung không gặp mẫu thân, hai bên chỉ liên lạc với nhau qua thư tín mà thôi. Ngươi nhìn xem bản cung ăn mặc thế này có lôi thôi quá không?”
Cô ta nhìn trước ngó sau, phút chốc bỗng ngây ra, sau mới cảm khái mà nói: “Tuy đầu chẳng trâm vòng, mặt không son phấn, mà nương nương vẫn kiều mị mê hoặc lòng người. Nô tỳ làm việc trong ngục lâu năm, từ tiền triều đến nay, từng gặp không ít phi tần phạm tội bị tống giam, nói lời thật lòng, tuy phẩm vị nương nương không cao lắm, nhưng cái khí độ bình thản ung dung, gặp nghịch cảnh mà không hề nao núng như nương nương, nô tỳ chưa từng nhìn thấy ở bất kỳ ai khác.”
Ta vuốt lại mái tóc đen, nói: “Ngươi khéo nói lắm.”
“Nô tỳ biết nương nương không tin, cho rằng ấy chỉ là lời tâng bốc, nhưng nô tỳ không phải kẻ thích xu nịnh. Nô tỳ rất có hảo cảm với nương nương, những lời thốt ra toàn là moi từ gan ruột cả.”
Ta chợt nghĩ vị nữ cai này là người biết điều, cớ gì phải làm cô ta mất hứng, liền tươi nét mặt: “Nói như vậy, mẫu thân ta nhìn thấy chắc sẽ không quá đau buồn xót xa phải không?”
Nữ cai ngục kia thở dài: “Phàm là người mẹ, thấy con mình phải nằm nhà ngục, có ai mà không đau lòng rơi lệ? Nương nương dẫu hồng hào xinh đẹp, mẫu thân của người sợ rằng vẫn cười không nổi.”
Ta liền hỏi: “Nghe ngươi nói, dường như cũng đã làm mẹ rồi?”
Gương mặt cô ta lộ vẻ dịu dàng rạng rỡ hiếm hoi: “Nô tỳ đã có hai con rồi ạ.”
Ta nghe thấy liền than: “Chắc ngươi cũng như mẫu thân ta, xem con cái mình như ngọc ngà châu báu mà nâng niu.”
Ta chưa bao giờ dám nói những khổ sở phải chịu trong cung cho mẫu thân nghe, bởi ta hiểu nếu biết, nỗi đau trong lòng bà sẽ còn lớn hơn ta gấp mười lần. Từ khi ta còn bé, đã được mẫu thân dùng mọi cách để bảo vệ, thậm chí đang tâm từ bỏ cả tình nghĩa ân ái phu thê, chịu mang tiếng điêu ngoa xảo trá cũng không than vãn nửa lời. Nếu bà biết ta phải quỳ giữa đêm gió tuyết mà giặt y phục, bị người ta tát túi bụi trong Ngự Hoa viên, suốt chục năm trời giằng co vùng vẫy giữa ranh giới sống và chết, trong lòng không biết sẽ bi thương đến chừng nào.
Ta cứ để mẫu thân tưởng mình ở trong cung an hưởng phú quý, sống đời sung sướng là tốt nhất.
Từ xa nhìn thấy bóng dáng mẫu thân bước vào, trên người mặc váy lĩnh màu xanh thẫm, áo ngắn cân vạt gấm hoa, búi tóc đơn giản gọn gàng, đai trán dệt bằng sợi bạc sít sao, chính giữa đính một viên ngọc phỉ thúy to bằng ngón tay cái, y phục không rạng rỡ, nhưng món đồ nào cũng là vật quý nhà giàu. Từ xa nhìn lại, gương mặt bà có vẻ ưu tư, nhưng rất ít nếp nhăn, da dẻ không thể căng mịn như thiếu nữ, nhưng cũng không đến nỗi bủng beo. Bà và Thượng Quan Thái hậu có lẽ xấp xỉ tuổi nhau, tuy không được hưởng phú quý bằng Thái hậu, nhưng tinh thần vẫn vô cùng minh mẫn. Ta thầm an lòng, xem ra mẫu thâm sống rất an nhàn, y như trong thư có nói.
Nhìn thấy ta, bà loạng choạng đi nhanh đến, a hoàn hai bên vội đỡ lấy, líu ríu mất một hồi. Khi vào đến phòng giam, cửa sắt chưa mở, bà đã thò tay qua song kéo ta vào lòng: “Con ơi, con có khỏe không?”
Lời ngoài chưa dứt, lệ trong đã đầm đìa, ta không kìm được cũng ươn ướt khóe mi, nữ cai mở cửa phòng giam: “Phu nhân, Lí đại nhân cho phép bà được vào phòng.”
Hai a hoàn dìu mẫu thân đi, bước qua song sắt tiến vào bên trong.
Ta đỡ bà ngồi xuống, nghe thoang thoảng tóc bà có mùi bột hoa gỗ, nhìn kỹ mới thấy trên đầu mẫu thân có sợi bạc, trong lòng không khỏi chua xót. Hóa ra tóc mẹ đã bạc nhiều lắm, mới phải dùng bột hoa gỗ nhuộm đen, bà trước nay kiên cường, trước nay đã quen ngậm đắng nuốt cay, ta gây ra họa lớn này, phải chăng đã khiến bà trằn trọc trắng đêm?
Ta vờ như không biết, cười nói: “Trông mẫu thân khỏe mạnh, con gái yên tâm rồi…”
Viên nữ cai mang bộ ấm trà bằng sứ do Thượng Cung cục biếu vào, lại tự tay rót ra chén, bày trước mặt chúng ta, xong xuôi đâu đấy bèn đứng ngay gần chỗ cửa sắt.
Mẫu thân thấy thế biết ngay hoàn cảnh hiện tại của ta không mấy dễ chịu, lại rơi nước mắt. Cả đời bà hiếm khi phải khóc, vậy mà vừa nhìn thấy ta thì lệ tuôn ròng ròng. Ta nắm chặt tay bà mà khuyên: “Mẫu thân, hồi phụ thân bị bắt cũng không thấy mẫu thân thế này, con gái trước nay phước lớn mạng lớn, huống hồ vụ án còn chưa thẩm tra xong, vẫn chưa biết kết quả thế nào, mẫu thân đừng nên đau lòng.”
Mẫu thân nắm lấy tay ta: “Con ơi, nay ta chỉ còn mình con, nhỡ xảy ra chuyện gì, ta thật không biết phải làm sao. Ngày xưa khi ở nhà ta luôn muốn lo cho con chu toàn, bởi từ nhỏ, con đã tỏ ra khác người, khiến ta lo âu vô cùng. Ta tính khí nóng nảy, thấy con bị người ta hiếp đáp chỉ biết ngầm mỉa mai nhiếc móc, lúc nào cũng làm phụ thân con bực mình. Vậy mà con chỉ đùa một câu là ông lại cười to sảng khoái. Ta vì đó mà đâm hổ thẹn, đôi khi không hiểu là ta bảo vệ con, hay chính con đang phải che chở cho ta… Con ơi, lúc này thân vùi ngục tối, biết phải làm sao? Chỉ trách ta vô dụng…”
Bà khẽ thì thầm tiếp: “Con ơi, mẫu thân dành giụm được món tiền không nhỏ, nếu có cách thật thì táng gia bại sản ta cũng cứu con ra.”
Ta thầm thấy tức cười, sau lại thấy xót xa, mẫu thân tưởng đây là vụ án bình thường ư? Án này liên can đến vận mệnh quốc gia, tiền bạc phỏng có ích gì?
Ta nói: “Mẫu thân đừng hoảng hốt, con gái vô tội, người ta có vu oan thế nào cũng là vô ích. Lần này con gái muốn gặp mẫu thân, chỉ để xem người ở ngoài ăn ở có thoải mái không. Con ở trong cung ròng rã hơn chục năm trời, hoàn cảnh phức tạp, nên chưa thể phái người đón mẫu thân vào cung chơi, mẫu thân có trách con không?”
Mẫu thân nghe thế cảm khái: “Con đừng coi ta như bà già nhà quê, ta cũng hiểu những điều lắt léo uẩn khúc bên trong đấy.” Bà liếc ra chỗ cửa sắt, trầm giọng, “Mẫu thân đoán được kết cục của bà ấy từ lâu rồi.”
Ta nói: “Mẫu thân, mẫu thân đang trách con gái nhẫn tâm?”
Bà lắc lắc đầu: “Bà ấy sớm đã không coi mẹ con ta là người thân nữa.”
Ta hóng ra ngoài song sắt, thấy nữ cai tuy ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhưng hai tai vẫn dỏng lên nghe ngóng, liền nói: “Mẫu thân, con gái tuy bị giam trong ngục, nhưng vẫn còn nhiều người chăm sóc, vẫn ăn no mặc ấm, người đừng quá bận lòng.”
Mẫu thân nhíu mày, hếch hếch mũi ngửi: “Sống ở nơi thế này làm sao mà tốt cho được? Xem cái mùi này, chẳng kém gì chuồng lợn cả!”
“Mẫu thân, mẫu thân xem kìa, chỗ này dẫu sao cũng là nhà ngục, không thể yêu cầu cao quá được! Mẫu thân nhìn chăn gấm này, áo bông này, đều là do quý nhân trong cung biếu đấy. Con gái tuy mắc tội, nhưng được mọi người thương yêu, khổ sao nổi.”
Mẫu thân nhìn ta từ đầu đến chân, đoạn nói: “Con à, đừng nói dối ta nữa, tuy ta chưa sống trong cung bao giờ, nhưng đã từng nghe nói hậu cung là nơi thế nào. Chốn ấy nhiễu nhương gấp nhiều lần phủ họ Ninh ngày trước. Liệu có mấy người thật lòng với con? Mà thôi, đúng lúc ta mới thêu hai cái túi thơm, con để ở đầu giường cho khỏi mùi xú uế.”
Ta liếc nhìn nữ cai đứng ngoài song sắt, vẻ mặt hơi căng thẳng, đoạn mỉm cười đón lấy hai túi hương. Mẫu thân lại hỏi: “Lần trước con bảo mẫu thân thêu cho thứ này, còn dặn cho mấy loại hoa khô vào… Mấy thứ hoa ấy có tác dụng tránh ruồi tránh muỗi, nhưng chỉ nên đeo ở eo, chớ có đưa lên gần mũi, vì có mai ngũ sắc hơi độc đấy…”
Ta vội vã cắt ngang: “Mẫu thân, con gái tính vốn cẩn thận, sao có thể để hoa gây độc cho mình, người lo xa quá rồi.”
Nói đến đây, nước mắt bà lại ròng ròng: “Con ơi, biết làm thế nào bây giờ?”
Ta bèn khuyên: “Mẫu thân cứ an tâm ở nhà chờ tin, con gái thế nào cũng bình an thoát tội.”
Thấy hoa đăng đã thắp lên, trong phòng giam phải đốt đèn dầu mỡ trâu cho đỡ tối, nghe lời khuyên giải mấy hồi, bà mới lưu luyến rời đi.
Cầm trong tay hai chiếc túi thơm thủ công vô cùng tinh xảo, ta nghĩ thầm tay nghề của mẫu thân chẳng hề mai một chút nào. Thời thanh xuân, ngón nghề thêu thùa của bà nức tiếng đứng đầu Giang Nam, biết bao người bỏ ra vạn kim mà không mua nổi một món, vậy mà khi lấy chồng chỉ được làm thiếp, ánh huy hoàng thuở con gái dần trầm lắng như triều sớm. Ta từng hỏi bà, tại sao lại chọn gả cho cha, hai chị em cùng lấy một chống, phải chấp nhận làm lẽ là điều đương nhiên. Bà chỉ điềm đạm đáp: “Lúc ấy ta cứ như bị ma nhập, có biết gì đâu.”
Về sau ta nghe đám người dưới đồn đại mới biết vốn cha muốn cưới đại nương, nhưng mẫu thân ta vừa gặp đã yêu, sau nhiều lần tha thiết khẩn nài, ông mới đồng ý cưới cả hai chị em. Mẫu thân chẳng bao giờ nhắc về chuyện cũ, không biết có phải vì trong lòng đã hối hận tuổi trẻ nông nổi mà sai lầm cả đời?
Còn ta, chắc chắn sẽ không bao giờ để mình rơi vào tình thế ấy.
Mẫu thân đi rồi, mỗi lần cầm túi hương lên ngắm là mỗi lần ta lặng người ngẩn ngơ. Viên nữ cai thấy thế lấy làm cảm động, thường hay lựa lời khuyên nhủ. Dần dà hai bên nói chuyện thành quen, thi thoảng hỏi đến hai đứa con trai, gương mặt nữ cai liền trở nên dịu dàng khác lạ. Lòng ta thầm ngưỡng mộ, ta chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ sinh con trong cung, trước khi Hoàng hậu hoài thai long chủng, nếu ta lỡ có trước tất chỉ có đường chết. Ở tuổi ta, đám nữ nhân ngoài dân gian có người đã sinh bốn năm đứa trẻ, dẫu thích nhưng ta vẫn e sợ sẽ giẫm vào vết xe đổ của Sư Viên Viên. Trông đầu mày khóe mắt nữ cai rạng ngời hạnh phúc, ta không khỏi buồn bã thương tâm.
Nữ cai thấy thế vừa sợ vừa sực nhận ra điều gì, bèn khuyên: “Hoàng thượng rất mực thương yêu nương nương, nếu có thể thoát khỏi nhà ngục này, thế nào nương nương cũng được sủng ái trở lại, đến lúc đó còn lo gì chuyện con cái?”
Ta chỉ khẽ cười, không nói tiếp, uể oải nằm ra giường.
Đúng lúc ấy, có người đến báo: “Nương nương, Lí đại nhân xin được gặp.”
Ta ngồi dậy, hơi ngạc nhiên đáp: “Sao ông ta lại tới lúc này?”
Nữ cai nói: “Có lẽ vụ án có tiến triển gì nên đến báo cho nương nương mừng?”
Ta không màng tiếp lời, quay vào gương ngắm nghía lại mặt mũi rồi nói với kẻ kia: “Mời Lí đại nhân vào!”
Hôm nay Lí Sĩ Nguyên thần sắc có chút lo lắng, bước qua song sắt bèn hành lễ ngay, xong xuôi đang định cất tiếng, ta đã cướp lời: “Sao còn không mang ghế vào cho Lí đại nhân.”
Nữ cai đứng ngẩn ra một lúc mới chạy đem ghế đến.
Lí Sĩ Nguyên an tọa xong, thở ra một hơi nói: “Nương nương, hôm trước mẫu thân người đến thăm, đã nói những chuyện gì?”
Ta lấy làm khó hiểu đáp: “Ta được gặp mẫu thân là nhờ ơn Lí đại nhân phê chuẩn, chẳng lẽ đã xảy ra biến cố gì rồi?”
Lí Sĩ Nguyên vội nói: “Xin nương nương kể thật với hạ thần, người và mẫu thân đã nói với nhau những gì?”
Ta thấy vẻ mặt ông ta căng thẳng, cũng đâm sốt ruột: “Có gì đâu, chỉ hỏi thăm chuyện nhà. Mẫu thân ta sao rồi?”
Lí Sĩ Nguyên ngập ngừng một lát mới nói: “Nương nương, sau khi mẫu thân người ra khỏi ngục, trên đường về nhà đã bị người ta bắt mất, đến nay không rõ tung tích. Bản quan đã sai người lục soát toàn thành, nhưng không tìm ra manh mối gì.”
Mắt ta hoa lên, loạng choạng muốn ngã vật ra giường. Viên nữ cai vội chạy đến dìu, thì thầm khuyên nhủ: “Nương nương, không sao đâu, có Lí đại nhân ở đây, thể nào cũng đón được phu nhân trở về.”
Ta hoảng lên, bật dậy khỏi giường, nắm lấy ống tay áo của Lí Sĩ Nguyên: “Lí đại nhân, xin ông hãy mau mau tìm mẫu thân ta trở về, từ khi gia phụ qua đời, gia thế lụn bại, ta lại nhập hoàng cung, bà sống một mình bên ngoài, đơn độc khổ sở không nơi nương tựa, mới sung túc chưa được mấy ngày đã nghe tin ta gặp đại nạn. Lần này sợ rằng ta làm liên lụy mẫu thân mất rồi!”
Lí Sĩ Nguyên bị ta nắm lấy vạt áo, luống cuống không biết làm thế nào, càng không nỡ gạt ra: “Nương nương yên tâm, lão thần dù có liều cái mạng già, lật ngược cả kinh thành cũng phải giúp người cứu thoát mẫu thân, có điều…”
Ông ta nhẹ nhàng rút tay áo, ta chợt tỉnh ngộ, bèn buông ra, áy náy nói: “Bản cung thật là lỗ mãng… Ông nói có điều gì vậy?”
Lí Sĩ Nguyên nhìn ta, trong mắt lóe lên tia sáng: “Biết đâu khi gặp mặt nương nương và mẫu thân nói chuyện gì khả nghi, để ai đó nghe được nên mới…”
Ta hoảng quá, vội phủ nhận: “Không đâu, ta và mẫu thân chỉ thăm hỏi chuyện nhà, luôn luôn cẩn trọng giữ đúng phép tắc, không nhắc đến điều nào nhạy cảm. Huống hồ mẫu thân ta chỉ là một quả phụ bình thường, có biết gì đâu.”
Ánh mắt ông ta quét qua mặt ta, sắc bén như mắt diều hâu, rồi lập tức trở lại như thường, nói với ta bằng giọng điệu sốt ruột nóng như lửa đốt: “Nương nương, vậy lão thần xin cáo lui đến nha môn Đại Lý Tự xem xem đã có tin tức của lệnh tôn hay chưa.”
Ta bèn giục: “Lí đại nhân, nếu có tin gì xin hãy mau chóng báo cho ta ngay.”
Lí Sĩ Nguyên đi rồi, ta đi qua đi lại trong nhà giam chật hẹp, lòng như lửa đốt, sốt ruột ngóng chờ tin tức của ông ta. Mãi đến hoàng hôn, Lí Sĩ Nguyên vẫn bặt vô âm tín, nữ cai kia liền tới khuyên: “Nương nương, người hãy ăn gì đi đã, nếu có tin gì Lí đại nhân sẽ báo cho người ngay.”
Ta đáp: “Ngươi bảo làm sao ta nuốt được, nếu mẫu thân vì ta mà rơi vào nguy hiểm, ta có chết ngàn lần cũng không hết tội.”
Nữ cai rưng rưng cảm động, cứ quanh quẩn trong ngục chăm nom, gần như đêm ấy ta thức trắng, đầu vừa chạm gối là sực tỉnh, cho đến khi lỗ cửa sổ trên cao dần sáng tỏ, sắc hồng đánh tan màn đêm, ánh mặt trời từ ngoài song cửa sổ chiếu vào.
Ta gắng gượng ăn một ít cháo đặc, dẫu mệt lả ra, nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Đúng lúc ấy ngoài ngục có người hô: “Lí đại nhân tới.”
Ta ngồi bật dậy, lẩm bẩm: “Có tin rồi sao?”
Nữ cai thấy dáng vẻ vừa mừng vừa lo của ta, bèn nói: “Nương nương, chắc là Lí đại nhân mang tin tốt đến, lần này nương nương có thể yên tâm được rồi.”
Ta cảm kích đáp: “Nhờ có ngươi ở bên mà bản phi cầm cự được qua đêm dài, bản phi thật không biết lấy gì báo đáp.”
Nghe ta nói vậy, người nữ cai cảm thấy hơi bối rối, tay chân cứ như thừa thãi, hồi lâu mới đáp: “Nô tỳ đâu đáng để nương nương nói vậy, nương nương là quý nhân nhà trời, nô tỳ hầu hạ người là lẽ đương nhiên.”
Ta nắm lấy tay cô ta, bàn tay thô ráp nứt nẻ, chắc hẳn thường ngày phải làm nhiều việc nặng: “Bản phi từ khi vào ở trong ngục, may nhờ có ngươi tận tình chăm sóc. Lúc ở trong cung ta đã quen với sự bạc bẽo ghẻ lạnh, không ngờ khi bị giam ở nơi tệ hại nhất lại có người chị em tốt như ngươi…”
Nữ cai đỏ hai con mắt, rưng rưng lệ, ta càng cảm kích bội phần, đúng lúc ấy có tiếng người lao xao từ cửa ngục vọng vào, Lí Sĩ Nguyên xăm xăm bước lại, đang định hành lễ theo lệ, ta vội nói: “Lí đại nhân không cần đa lễ, đã tìm được mẫu thân ta hay chưa?”
Lí Sĩ Nguyên đáp: “Nương nương, không hay rồi, hạ quan đã tra ra tin tức, lệnh tôn sau khi rời khỏi Tông Nhân Phủ lập tức bị ai đó trong cung đón về, chỉ biết đang ở trong cung…”
Ta vội nói: “Tội danh của bản cung chưa định, vì sao lại dính líu đến người thân của ta? Không được, ta phải xin Hoàng thượng thả mẫu thân ra.”
Lí Sĩ Nguyên lắc đầu nói: “Nương nương chắc chưa biết chuyện Tín vương mượn cớ Thái hậu mới mất, mười ngày trước đã hồi kinh, tỏ ý nhất định phải nghiêm trị hung thủ hạ độc Thái hậu. Nghe nói nơi lệnh tôn bị giam chẳng đâu khác chính là ở chỗ Tín vương…”
Ông ta quan sát sắc mặt của ta một lát: “Nương nương đừng quá tuyệt vọng, sự tình chưa chắc không có cơ chuyển biến. Chỉ cần nương nương kể thật với vi thần lần trước lệnh tôn đến đây, hai người đã bàn với nhau những gì?”
Ta lẩm nhẩm như nói một mình: “Tất cả là tại bản cung làm liên lụy đến mẫu thân, thật là hại mình hại người…”
Lí Sĩ Nguyên chăm chú nhìn ta, hỏi: “Nương nương, nếu lệnh tôn có nói gì lạ, nương nương nên thuật lại cho vi thần biết để xem có giúp ích được gì không?”
Ta lắc lắc đầu, đầy tuyệt vọng: “Lí đại nhân, cảm tạ ý tốt của ngài, nếu mẫu thân ta gặp bất trắc gì, ta thật chết không đáng tiếc…”
Lí Sĩ Nguyên khuyên giải cả nửa ngày, ta vẫn chỉ trầm ngâm không nói gì, hết lần này đến lần khác xin ông ta nghĩ cách cứu mẫu thân. Không còn cách nào khác, ông ta đành khuyên thêm vài câu, sợ có tin tức gì mới, bèn xăm xăm rời khỏi.
Liên tiếp mấy ngày liền, ta ăn không ngon ngủ không yên, càng lúc càng gầy ốm.
Nữ cai nghĩ ra cách sai người làm đủ món ăn vặt đẹp đẽ dâng lên, ta chỉ gắp mấy cái rồi thôi, cô ta sốt ruột bèn nói thẳng: “Nương nương, người cứ thế này không phải cách hay, chưa cứu được lệnh tôn ra ngoài thì người đã gục trước rồi.”
Ta đáp: “Chẳng biết bọn họ sẽ hành hạ mẫu thân ta thế nào. Mẫu thân vốn tính cứng rắn, nếu không nhịn được oan ức sợ sẽ…”
Ta nhận thấy mắt mình rớm lệ, giọt nước khẽ rớt xuống chiếc áo bông trắng tinh, chớp mắt đã bị hút cạn, chỉ để lại một vệt nước mờ đục.
Nữ cai có vẻ đồng cảm sâu sắc, ngồi xuống bên ta mà khóc.
Suốt hai ba ngày không thể an giấc làm cơ thể ta mệt mỏi rã rời. Đêm ấy vừa quay người nhắm mắt, hơi thiếp đi, đột nhiên bị ai bên cạnh lay dậy. Ta mở trừng mắt ra nhìn, thấy trời đã sáng bạch, đảo mắt sang, nữ cai đứng bên đầu giường, ta ngồi bật dậy, lòng ôm đầy hy vọng: “Có tin tức gì chưa?”
Cô ta lắc lắc đầu, bảo: “Nương nương, muội muội người sai cung nhân mang đồ đến…”
“Nó không đến ư?”
“Không ạ, chỉ có một tiểu thái giám thay mặt đến, đồ đem biếu toàn là thức ăn, mời nương nương xem qua…”
Trong giỏ trúc có hai cái bánh hồ, vài đĩa dưa cải, đơn sơ chẳng có gì, chỉ liếc qua là thấy hết. Ta biết phàm là những thứ mang biếu đều đã được cai ngục kiểm tra cẩn thận, bèn giở qua giở lại trước mặt cô ta.
Nữ cai bỗng dưng bật cười: “Nương nương yên tâm, mấy thứ này nô tỳ đã xem cả rồi. Muội muội của người cũng thật lạ, tỷ tỷ bị giam trong ngục bao nhiêu ngày chẳng thấy đến thăm một lần, hôm nay mới sai người đem biếu đồ đến, lại toàn những thứ thô lậu…”
Ta nhếch miệng khẽ cười, thò tay cầm một miếng bánh hồ trong giỏ lên: “Ngươi ăn quen những món đạm bạc nên thấy chán chứ với ta thứ này là của lạ, bao nhiêu năm không ăn đến rồi, vẫn là muội muội hiểu lòng ta.”
Nữ cai thấy ta mỉm cười, đâm ra ngây người, ta cố nhịn cười nhìn thẳng vào cô ta, chậm rãi bẻ miếng mánh hồ được nướng vàng ruộm, thơm nức mũi ra, nhặt lấy thứ bên trong ruột bánh, khẽ lắc một cái, cái lục lạc bằng vàng nhỏ xíu reo lên một tràng âm thanh trong veo, vang vọng trong phòng giam vắng lặng. Ngó thấy sắc mặt viên nữ cai thoáng cái trở nên tái mét, ta bèn vuốt nhẹ cái khóa trường mệnh trên có khắc hình ngũ tử đăng khoa[1], khẽ nói: “Túc nương, ta nghe mọi người đều gọi ngươi là Túc nương nên ta gọi theo luôn nhé. Vật này từ khi một đứa bé ra đời, đã đeo vào là không được cởi ra. Bởi theo tục lệ trong dân gian, cho đến khi đứa bé khôn lớn thành người, vật này sẽ phù hộ cho nó sống lâu trăm tuổi, không bao giờ được cởi ra. Món đồ này chế tác tinh xảo, hoa văn chạm trổ sinh động như thật, có thể sánh với thủ công trong cung, chắc phải tốn rất nhiều tâm huyết mới nhờ được người làm ra nó.”
[1] Năm đứa con cùng đỗ đạt.
Thân mình nữ cai lảo đảo chực ngã, nhìn ta bằng ánh mắt kỳ lạ, cứ như nhìn một con rắn độc. Ta khẽ than một tiếng: “Túc nương, bản phi làm thế này là bất đắc dĩ. Ai bảo quan hệ giữa ngươi và Lí đại nhân khăng khít quá. Ta biết chính ông ấy bảo ngươi giám sát ta, mấy hôm nay khiến ngươi đêm ngày không nghỉ, bản phi quả không nỡ.”
Túc nương cười khổ: “Hóa ra dáng vẻ lo lắng ưu sầu, ngày đêm không ngủ được của nương nương là diễn cả. Để nô tỳ đem báo lại với Lí đại nhân, làm ông ta lơ là cảnh giác. Trộng nghĩ chắc nương nương đã sắp đặt xong cả rồi?”
Ta cười cười, khẽ lắc cái lục lạc bằng vàng. Âm thanh phát ra sao mà trong trẻo vui tai, nếu đeo thứ này lên mình một đứa trẻ mũm mĩm, thì đáng yêu phải biết.
Ta nói: “Mấy ngày nay ngươi không về nhà rồi phải không? Tiếc cho hai đứa trẻ… Bản phi nghe người ta nói, một người mẹ vì cứu con mình, chuyện gì cũng dám làm, chẳng biết ngươi thì sao?”
Gương mặt Túc nương xám lại, vẻ thê lương, chỉ nói: “Lí đại nhân đã lầm, ông ta sai nô tỳ bảo vệ nương nương, không để người khác làm hại. Theo nô tỳ thấy, nương nương đâu cần ai bảo vệ, bất cứ lúc nào ở đâu, nương nương đều có cách tự bảo vệ mình.”
Ta ủ rũ đáp: “Túc nương, sống ở trong cung, có giờ nào phút nào không gặp nguy hiểm? Chắc ngươi cũng biết, bị đâm lén sau lưng so với đao thương trước mặt ghê gớm hơn nhiều. Vết sẹo trên tay ngươi là do luyện đao phải không? Ngươi đâu phải một cai ngục bình thường.” Ta khẽ lắc cái lục lạc, “Bọn họ phải nghĩ đủ mọi cách, mãi mới tìm được đến nhà của ngươi.”
“Nương nương nói đúng, một người mẹ để bảo vệ con mình, đích thực có thể làm mọi thứ. Nương nương muốn nô tỳ làm gì?”
Ở trong cung nhiều năm, ta đã quen nhìn sắc mặt đoán biết tâm ý, tính tình kẻ khác, chỉ cần nắm chặt điểm yếu của họ trong tay, những người này sẽ cam nguyện mặc ta sai phái. Phải mất gần mười ngày tiếp cận, dùng đủ mọi thủ đoạn, mới khiến cô ta lơi lỏng đề phòng, bộc lộ tâm sự thực lòng. Kiểu người như cô ta rất đặc biệt, giống như Khang Đại Vi vậy, tận trung đến chết không từ, dẫu có đem vàng bạc đến cũng chỉ phí công vô ích, nhưng những người này lòng trắc ẩn quá lớn, chỉ có cách lựa chỗ yếu của họ mà tấn công mới chiếm được ưu thế. Theo ta quan sát, chức vị quyền lực của Túc nương so với diện mạo hiện tại dường như lớn hơn rất nhiều.
Ta nói: “Bản phi không định làm khó ngươi, nhưng quả tình không còn cách nào khác. Ta sẽ không ép ngươi làm gì quá đáng, ngày mai khi có người đến ép cung, ngươi đừng báo cáo với thượng cấp ngay là được.”
Túc nương không ngờ ta tốn bao công sức chỉ để yêu cầu mình làm một việc quá đỗi đơn giản, đôi mắt ánh lên tia nghi ngờ nói: “Chỉ cần thế thôi ư?”
Ta đặt cái khóa trường mệnh vào tay cô ta. Túc nương cận thận vuốt ve, ấp vào lòng. Ta đáp: “Chỉ cần thế thôi. Ngươi nghĩ bản phi sẽ bắt ngươi làm gì? Trong quyền hạn của ngươi, việc này chắc không có gì khó khăn.” Ta chầm chậm nói thêm, “Với quyền hạn của ngươi, cũng chỉ thể làm đến thế.”
Cô ta khum tay cúi người hành lễ: “Được, chuyện này thì nô tỳ làm được.” Dừng một lát cô ta tiếp: “Nô tỳ không hiểu, Lí đại nhân phượng mệnh Hoàng thượng điều tra vụ án này, nương nương có cần phải làm thế không?”
Ta đáp: “Túc nương, nếu vụ án này đích thực có liên quan tới ta, ngươi nghĩ ta sẽ làm gì?”
Túc nương thất kinh, ánh mắt nhanh như chớp quét qua người kẻ đối diện từ đầu đến chân: “Chuyện này… không phải chuyện nô tỳ vọng bàn. Có điều Hoàng thượng và nương nương thâm tình quyến luyến, nô tỳ tin Hoàng thượng sẽ không bẻ cong sự thật.”
“Hoàng thượng là hoàng thượng, có rất nhiều việc không thể không làm, sao lại để chuyện của ta làm bản thân phải phiền não?” Ta nhìn thẳng vào Túc nương, “Ngươi yên tâm, ngày mai ngươi chỉ cần làm có bấy nhiêu thôi, ta tuyệt không khiến người ngươi vấy họa.”
Ta ngồi xuống bên giường, bật cười: “Bản phi còn phải ngủ đã, ngươi đứng đó canh chừng, đừng để ai vào quấy quả. Ngày mai giờ này ngươi làm xong việc, về nhà sẽ lại thấy hai đứa con đáng yêu chạy ra đón.”
Lần này ta chỉ nhắm mắt là thiếp đi, trong lúc mơ hồ nghe thấy tiếng Túc nương nói: “Nữ nhân này thật là…”
Ta không nghe rõ cô ta nói gì, chỉ cảm thấy giấc này ngủ thật ngon.
Ngày hôm sau tỉnh dậy, tinh thần ta vô cùng sảng khoái, hóa ra đây chính là cảm giác tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon. Chẳng rõ làm thế nào mà ta vượt qua được mấy ngày mấy đêm không ngủ nghỉ nhỉ? Có lẽ vì biết mình sắp sổ khỏi lồng vàng, nên sức chịu đựng đột nhiên nhảy vọt.
Vừa qua giờ mão, ta chải đầu rửa mặt xong bắt đầu dùng bữa sáng. Đằng đông vừa hừng lên, từ lỗ cửa bé tẹo của phòng giam nhìn ra, thấy băng tuyết đóng dày đã bắt đầu tan, vài mảng băng dưới sức nóng của ánh mặt trời rụng xuống đất, đây đó nghe tiếng lạo xạo xôn xao.
Ta ngủ rất ngon, còn Túc nương xem ra không được yên giấc cho lắm, vừa lo lắng cho đàn con, vừa lo lắng chuyện hôm nay. Dung nhan vốn tươi tắn mạnh mẽ giờ trông tiều tụy hẳn đi, ta vờ như không biết. Có lẽ trong bụng Túc nương đã coi ta như phường rắn rết, tấm chân tình ngày vào ngục sợ rằng hóa ra tro cả.
Ta vốn không có bằng hữu, sau này chắc cũng không. Cô ta đối xử tử tế, chăm sóc ta như vậy, nhưng mất rồi ta chẳng hề nuối tiếc, cái gọi là tình cảm chẳng khác chi gánh nặng, nào có công dụng gì khác?
Giờ mão ba khắc, có tiếng mở cửa sắt văng vẳng vọng vào. Túc nương căng thẳng nhìn sang, ta cầm tách trà trên bàn lên nhấp một ngụm, chợt nghe có tiếng rầm rập loảng xoảng càng lúc càng gần, vẻ như tiếng vỏ kiếm đụng vào giáp sắt xen lẫn tiếng bước chân.
Đoàn quân khí thế bức người xâm chiếm nhà ngục, không một ai dám lên tiếng ngăn cản, bởi có ai đó đã lên tiếng: “Phượng ý chỉ của Hoàng hậu nương nương, giao cho Tín vương thẩm vấn Ninh Vũ Nhu, không ai được phép cản trở.”
Đám binh lính này hành quân vội vã, giáp mũ chạm phải song sắt phát ra âm thanh rin rít ghê răng. Phòng giam trống trải vang vọng tiếng bước chân, ngọn nến ngày đêm luôn thắp sáng giờ xôn xao lay động, phản chiếu lên bức tường loang lổ những hình thù dữ tợn, ghê sợ.
Túc nương định hỏi ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì, chợt nhớ lời hứa hôm trước, bèn ngậm miệng không nói gì.
Đoàn người nhanh như chớp đổ bộ vào phòng giam, cánh cửa sắt bị mở tung, giữa đám đông một người thân mang giáp nhẹ màu bạc, eo gài bảo kiếm, đầu đội giáp bạc, chính là phục sức của một vị phiên vương, những người xung quanh có lẽ là thủ hạ của ông ta.
Tay Tín vương cầm một thẻ giấy ngọc, chính là thứ Hoàng hậu ngày thường dùng để hạ chỉ. Y bước vào lồng sắt, những kẻ khác bèn vây lấy bốn phía, dĩ nhiên Túc nương bị ép ra khỏi phòng.
“Truyền ý chỉ của Hoàng hậu, Ninh Chiêu Hoa lập tức nhập cung…”
Ta quỳ xuống nhận chỉ, chờ y thu hồi cuộn giấy, mới đứng lên hỏi: “Mẫu thân của bản phi có phải đang ở chỗ các người không?”
Tay trái Tín vương đặt lên vỏ kiếm gài trước eo, nhìn ta lạnh lùng cười nhạt: “Ninh Chiêu Hoa phạm tội lớn như vậy, mà còn định mưu toan thoát thân? Ngươi không biết mẫu thân ngươi sớm đã khai nhận mọi chuyện, chỉ cần dẫn ngươi ra trước mặt Hoàng thượng đối chất, dù Hoàng thượng có lòng thiên vị sợ rằng cũng không giữ được tính mạng cho ngươi đâu.”
Ta thối lui mấy bước, người lảo đảo đứng không vững, nói: “Không thể nào, chắc chắn là các ngươi dùng nhục hình ép cung, mẫu thân ta chịu không nổi đau đớn mới phải khai khống.”
Tín vương sống lâu nơi biên ải, rất có khí chất của tướng lĩnh, thản nhiên nói tiếp: “Dĩ nhiên ngươi không nói với bà ta. Ngươi nhờ bà ta thêu túi hương để làm gì? Mẫu thân ngươi vì không hay biết gì nên mới khai ra tất cả. Bà ta còn tưởng làm thế có thể giúp ngươi thoát tội. Mai ngũ sắc có tác dụng xua đuổi côn trùng nhưng lại hơi độc, nghe nói sẽ khiến người ta mắc chứng tiêu chảy cấp tính… Bản vương nói vậy, ngươi đã rõ ràng cả chưa?”
Mặt ta xám như tro, nhìn Tín vương trân trối: “Nghe nói vương gia ở vùng biên cương phía đông nam ngày ngày trị quân nghiêm mật, rất được quân dân yêu mến, chắc sẽ không làm khó một bà quả phụ vô tri chứ?”
Tín vương lạnh lùng đáp: “Bản vương là hạng người gì, há lại làm như vậy? Mẫu thân ngươi giờ đang nghỉ ngơi trong cung, do muội muội ngươi chăm nom, ngươi còn gì chưa yên lòng nữa?”
Ta bèn gật gật đầu, y vẫy tay định phái người tiến tới trói lại áp tải đi, ta nói: “Vương gia việc gì phải lo sợ, bản phi trói gà không chặt, cứ để ta tự theo các người đi là được rồi.”
Tín vương hơi do dự, rồi cho đám quân lui ra.
Ta bước đến cạnh giường, như định với lấy cái áo bông vắt ở đó, bỗng dưng rút từ dưới chăn ra một con dao nhỏ sáng quắc, kề cổ họng, nhìn quanh một vòng, bắt gặp ánh mắt sắc lạnh của Tín vương, ta nói: “Vương gia, thần thiếp đã phạm tội lớn thế này, chẳng mặt mũi nào gặp Hoàng thượng, xin ngài chuyển lời với Hoàng thượng rằng, thần thiếp đa tạ hậu ân.”
Trong ngục những tiếng hô hoán vang lên không ngớt, ta thấy Túc nương đang luống cuống tìm cách ra ngoài, mấy lần đẩy đám thị vệ chen ra cửa mà không được.
Tín vương dù sống trong quân ngũ, đối diện với binh đao lửa đạn đã quen mà nhất thời cũng không biết làm sao, chỉ nhắc đi nhắc lại mỗi một câu: “Nương nương, sự việc chưa được làm rõ, người việc gì phải vậy?”
Ta nói với Tín vương: “Tín vương, chứng cứ đã rành rành như thế, thần thiếp còn lời nào để nói nữa.”
Con dao này đã được giấu trong chiếc bánh còn lại, một cái khóa trường mệnh đã khiến Túc nương mất ăn mất ngủ, quên bẵng việc tra xét cái bánh kia.
Dao đôi khi không cần lớn, chỉ cần bén nhọn là đủ.
Ta khẽ lắc cổ tay, cảm thấy một thứ chất lỏng nóng hổi từ cổ chảy xuống, có lẽ sắc đỏ tươi đã nhuộm đẫm áo quần. Trần nhà dần mơ hồ trong tầm mắt, chỉ nghe Túc nương gào lớn: “Mau gọi ngự y, nương nương, người không được chết! Hỏng rồi, không thấy mạch đâu nữa…”
Ý niệm cuối cùng còn lại trong tim ta chính là, mong mọi chuyện tiến hành thuận lợi.
Cứ thế mê man không biết bao lâu, đến một ngày, ta nghe thấy bên tai có tiếng gọi: “Con ơi! Sao nó vẫn chưa tỉnh, đáng lẽ phải tỉnh rồi chứ?”
Đó là giọng mẫu thân. Một niềm vui sướng tột độ bất giác len lỏi vào cái đầu còn đang u mê của ta: Thành công rồi sao?
Ta cố gắng mở mắt ra, gương mặt kinh ngạc xen lẫn vui mừng của mẹ hiện ra rõ dần: “Con ơi, con tỉnh rồi! Cuối cùng cũng tỉnh, con ngủ gần bảy ngày rồi đó.”
Ta định nói: Bảy ngày? Vậy hôm nay chẳng đúng ngày chúng ta đã hẹn trước? Nhưng mở miệng ra mới biết giọng mình khản đặc, cổ họng cứ như bị lấp đầy cát thô.
Mẫu thân vội đỡ ta lên: “Con cứ nằm đi đã, vừa dùng loại thuốc hại người như thế, nên tĩnh dưỡng từ từ mới hồi phục được, ta đã cho người băng bó vết thương trên cổ con lại, may mà chỉ bị thương nhẹ thôi.”
Hạ Hầu Thần tưởng rằng Lí Sĩ Nguyên đã phái thủ hạ giỏi nhất của mình canh chừng ta, các vật phẩm đem dâng đến đều kiểm tra nghiêm ngặt, mà không ngờ rằng trong các món đồ ăn mang vào có trộn lẫn thuốc. Hôm nay là cái bánh đường tẩm bạch kỳ[2], ngày mai là phần cơm sáng thêm thuốc tư âm bổ dương, có khi y phục đem đến được hun trầm từ trước, ta chỉ việc đến giờ bữa nào dùng thức ấy, khiến các loại thuốc dần phát huy tác dụng trong cơ thể. Bánh hồ bình thường tẩm vừng trên bề mặt, nhưng hai cái bánh hồ hôm đó mang đến cho ta lại bọc bằng hạt cà độc dược Tây Vực. Túc nương đã không còn đề phòng ta nữa, lại thân thiết đến độ sắp sửa gọi nhau là tỷ muội, vậy mà lại bất ngờ bị ta đâm một nhát trí mạng, cô ta hoàn toàn tuyệt vọng và sợ hãi, ngoài sự an nguy của hai đứa con ra không thể nghĩ thêm bất kỳ điều gì khác, cứ tưởng hai cái bánh hồ chỉ dùng để giấu khóa trường mệnh, từ đó bỏ qua những điểm đáng nghi khác. Kế dương đông kích tây này thời ở Thượng Cung cục ta thường xuyên sử dụng, đánh đâu trúng đó, lần này càng không ngoại lệ.
[2] Tên một vị thuốc trong đông y, có tên khác là thanh dương sâm, bạch bì kỳ có tác dụng bổ khí, lợi tiểu, tiêu độc, khép miệng vết thương, bài mủ.
Hạt cà độc dược chỉ lớn hơn hạt vừng một chút, hình dáng màu sắc cũng tương tự, thường khi dùng làm thuốc phải giã nát rồi mới trộn vào thức ăn, ai ngờ ta lại sai người để nguyên hạt phơi bày trước mắt như vậy?
Loại hạt này có tác dụng khiến người ta mê man, cơ thể rơi vào trạng thái chết giả, lại thêm các thuốc khác, hơi thở của ta nhờ đó ngưng hẳn trong mười mấy phút đồng hồ, đám đông quân lính cản trở tầm nhìn của Túc nương, nhưng đúng lúc đó như vô tình mở ra một con đường, để cô ta xông vào làm chứng việc hơi thở của ta đã đứt đoạn. Tín vương lập tức sai người bế thốc ta ra ngoài, chạy nhanh đến Thái y viện, Túc nương không thể ngăn cản được, ắt sẽ nghĩ đến lời ta căn dặn ngày hôm trước, chờ nửa canh giờ trôi qua mới đi báo cáo với thượng cấp. Cô ta nhất định sẽ làm thế, đúng thời điểm lý tưởng nhất để báo cáo.
Thấm thoát mà đã gần đến Tết, mỗi năm vào thời gian này, người đại diện các tỉnh mang đồ tiến cống ra vào cung không ngớt, đây là dịp bận rộn nhất của Thượng Cung cục trong năm. Mùa xuân, trong cung mở hết yến tiệc này tới yến tiệc khác, những món đồ cần dùng và đồ ăn thức uống rất nhiều, thứ nào cũng tinh xảo đẹp đẽ vô cùng, đều là cống phẩm từ các nơi đổ về.
Nhưng trận tuyết lớn mấy ngày trước làm tắc nghẽn khá nhiều con đường vào kinh, các đoàn thượng cống đa phần bị mắc lại. Hôm nay trời vừa nắng lên, để tránh bị quan nha trách phạt, họ lũ lượt kéo về kinh thành. Trên các ngả đổ vào kinh, đâu đâu cũng là người, bọn trộm cướp cả gan nhân cơ hội ra tay vơ vét, có thể nói là ầm ĩ hỗn độn vô cùng. Từ Tông Nhân Phủ đến Ngự Y Phòng bắt buộc phải đi qua một dải đường cái đông nghịt, đúng lúc ấy có tặc phỉ làm loạn, thời không quá lạ lùng.
Đoàn thuộc hạ của Tín vương tổng cộng chỉ có hơn mười người, làm sao địch lại với đám đông dân chúng xô đẩy như triều dâng? Trong lúc hỗn loạn, chiếc xe ngựa nhỏ chở ta đột nhiên mất tích, chuyện này Tín vương chẳng thể tính toán trước được.
Ta nghĩ lần này đến ông trời cũng giúp ta. Đêm hôm trước trời vừa dừng mưa tuyết, ngày sau thì hửng nắng, tất cả đều diễn tiến y như dự liệu, kế hoạch tiến hành thuận lợi vô cùng. Hoàng hậu theo đúng lời dặn, lệnh cho Tín vương vào ngục đưa ta đi, có điều ta không thể tin tưởng cô ta cùng đám tay chân này được. Ta nói với Hoàng hậu, chỉ cần chuyển ta từ Tông Nhân Phủ đến Thái y viện, rồi tìm một viên ngự y thân tín chứng thực cái chết, lấy một cái xác nào đó tráo đổi, đưa ta ra ngoài là được. Có điều nếu làm đúng như kế hoạch này, ta có nguy cơ thành người chết thật sự, lẽ dĩ nhiên phải có toan tính của riêng mình.
Hoàng hậu tưởng ta sẽ làm đúng kế hoạch, bèn thả mẫu thân ta ra trước nhằm chiếm lòng tin, chờ cơ hội đoạt mạng tử địch, sau đó bố cáo thiên hạ rằng ta sợ tội tự sát, vụ án Thái hậu từ đó vĩnh viễn khép lại, còn Hoàng thượng không thể không chấp nhận cách xử trí của cô ta. Hoàng hậu cho rằng ta bị giam trong ngục, chỉ nắm được một điểm yếu nho nhỏ của mình, nên không thể không dựa dẫm hoàn toàn vào ả. Nhưng Hoàng hậu không ngờ mẫu thân ta không tầm thường, đáo để chua ngoa nhưng thông minh tài trí. Ngân lượng ta gửi ra cho bà chỉ đủ để làm ăn nhỏ bên ngoài, nhưng càng buôn bán càng phát đạt, dưới sự giúp sức của ta, bà ngầm thu nhận thủ hạ riêng. Bà không đơn thuần là một phụ nhân tuổi xế chiều quen ăn ngon mặc đẹp. Hai xưởng thêu lớn nhất trong kinh thành, sản xuất ra các món đồ tinh mỹ hoa lệ bậc nhất đều do bà ngầm đứng sau cai quản, ngoài ra còn buôn ngọc ngà châu báu, cho người về các mỏ khai thác thu mua ngọc thô rồi gia công chế tác thành trâm vòng, có ta đứng sau cố vấn, kiểu dáng các món trang sức làm ra dĩ nhiên xuất chúng.
Ta sớm đã dặn dò mẹ để tránh người ta nhòm ngó, chỉ nên đứng bên trong chỉ đạo chứ đừng xuất đầu lộ diện.
Ta luôn cảm thấy nếu bản thân có thể xuất cung chắc chắn cuộc sống sẽ tốt hơn rất nhiều: Sẽ không còn bị Hạ Hầu Thần giày vò, không cần nghĩ cách lấy lòng các phi tần phẩm vị cao hơn mình.
Xem ra mọi việc đúng như ta mong đợi.
Lần hôn mê này tổn hại khá nhiều đến sức khỏe, bởi các vị thuốc uống vào đều có ít nhiều độc tố, lại thêm vết thương trên cổ, tuy thống nhất từ đầu chỉ cứa nhẹ rồi dùng máu gà đổ lên, nhưng để cho giống thật, khi Túc nương lao đến kiểm tra nhìn rõ vết cắt trên cổ máu thịt bầy nhầy, ta làm cho vết cắt khá sâu, máu gà lẫn máu thật hòa vào nhau chảy ra ròng ròng, chừng nào chưa rửa sạch vết thương, chừng đó không ai biết vết cắt sâu đến đâu.
Chuyện thi thể ta mất tích chắc chắn sẽ khiến Hoàng hậu và Tín vương vướng phải rắc rối. Tín vương chỉ biết phải giải ta vào cung, không hề biết âm mưu mà ta và Hoàng hậu ngầm ước định, chắc bây giờ vô cùng sốt ruột, chẳng khác gì con kiến rơi vào chảo nóng.
Nghĩ đến đây, ta cười khẽ một tiếng. Về phần Túc nương, ta không hề cho người làm gì hai đứa trẻ, chỉ lấy cái khóa trường mệnh mà thôi. Cô ta thường xuyên ở lại ngục mấy ngày mới về nhà một lần, lần này về phát hiện mọi sự vẫn như thường, biết có càng hận thêm?
Ta đã nói rồi, ta không có bằng hữu, và càng không cần. Tất cả những gì cô ta làm chỉ là để hoàn thành sứ mệnh Lí Sĩ Nguyên giao phó, còn tất cả những gì ta làm, là để cầu một con đường sống mà thôi.
Trong thời gian dưỡng thương, thi thoảng ta lại nhờ mẫu thân ra phố nghe ngóng xem có cáo thị quan phủ mới ban bố hay không, nếu có cáo thị bố cáo thiên hạ rằng hung thủ hạ độc Thái hậu tự sát vong mạng, ta còn có thể hơi yên lòng một chút. Đây là kết cục làm tất cả mọi người đều vui mừng, Tín vương tận mắt chứng kiến ta tự sát mà mất mạng, dưới sự chủ trì của Hoàng hậu, y chính tai nghe mắt thuật lại chuyện túi hương, chắc sẽ không nghi ngờ trong vụ việc còn có ẩn tình. Mà nếu nghi ngờ thì đã sao? Mọi việc đã rõ mười mươi, y lần này vô cớ mang binh về kinh, giờ chỉ còn nước trở lại biên cương. Hoàng hậu không còn “địch thủ” – vốn dĩ do cô ta tự tưởng tượng mà ra – là ta, chắc chắn sẽ ngủ thêm ngon giấc. Riêng Hạ Hầu Thần, ta đã giúp hắn một việc lớn, vừa trừ bỏ được Thái hậu, lại không khiến chính trường dậy sóng, hắn phải cảm tạ ta mới đúng.
Có điều trước nay có lệ, làm Thiên tử đương nhiên chẳng cần cảm tạ ai.
Đây quả thực là cái kết có hậu cho tất cả mọi người. Thi thoảng ta có dợm nghĩ, không biết Thái hậu thực sự là do ai hãm hại? Không phải ta, thì rốt cuộc là ai không chịu buông tha cho bà? Suy nghĩ lâm vào ngõ cụt, ta bèn buông xuôi. Kẻ địch của Thái hậu đầy rẫy khắp nơi, đến Hoàng đế do chính tay bà ta nuôi lớn cũng trở mặt, huống gì người khác? Ta chẳng việc gì phải tốn công tốn sức nghĩ ngợi chuyện ấy.
Vết thương trên cổ không quá sâu, chưa phạm vào động mạch, khoảng hơn mười ngày sau thì dần dần lành lại. Mẫu thân ngày nào cũng hầm canh bổ giúp ta bài trừ độc tố còn đọng trong người, độc giảm bớt thì dáng vẻ cũng mập mạp hẳn lên, tuy không béo lên quá nhiều nhưng bà vẫn vì đó mà cảm thấy hoan hỉ, bảo: “Trông con dạo này mũm mĩm đáng yêu chưa kìa, nhìn thích hơn hẳn hồi trước. Vào cung được ăn ngon mặc đẹp mà sao gầy xơ gầy xác!”
Ta chưa bao giờ kể với mẫu thân, rằng còn sống trong hậu cung ngày nào thì ngày đó chẳng thể béo lên được, những thức ăn đồ dùng tuy là loại tốt nhất, nhưng sớm khuya lo nghĩ không lúc nào ngơi, béo làm sao nổi?
Ta đã cắt đứt mọi liên hệ với hậu cung, những người và việc trong ấy giờ chẳng còn dính dáng gì đến ta. Thậm chí ta còn không muốn nhớ đến làm gì. Hơn mười ngày nữa trôi qua, những thứ trước đây từng cố công giành giật tranh đoạt, những người ngày xưa phải tính kế lấy lòng đều dần dần trở nên mờ nhạt. Có lẽ thời gian lâu dần, ta còn chẳng thể nhớ nổi những điều đó như thế nào nữa.
Kinh thành sóng yên bể lặng, nghe nói Tín vương đã dẫn quân trở về biên ải, vụ án Thái hậu không được phía quan phủ phát ra công văn chính thức. Ta không tránh khỏi lo phiền, sợ rằng bên trong còn có uẩn khúc mình chưa nắm rõ. Dịp xuất hành đầu xuân mỗi năm một lần lại tới, cứ đến ngày này, Hoàng thượng sẽ dẫn đầu đám triều thần hoặc phi tử được sủng ái tín nhiệm xuất cung, đầu tiên lên lầu cao ở cổng thành xem pháo hoa, cùng vui lễ hội với bá tính, sáng sớm ngày hôm sau đoàn diễu hành do đội danh dự đi đầu sẽ diễu qua con đường trải đá xanh to đẹp nhất kinh sư, đây chính là dịp Hoàng đế gần gũi với dân chúng nhất, để tỏ thành ý cùng nhân dân an hưởng thái bình.
Vụ án của ta dường như hoàn toàn chìm vào biển sâu mà chưa kịp làm sủi lên một vệt sóng bạc. Đáng lẽ không thể nào bình lặng như vậy, ta ngầm lo sợ.
Việc làm ăn do mẫu thân đứng sau ngầm quản lý không quá quy mô, ở kinh thành có hàng trăm gia đình kinh doanh cửa hiệu hạng trung như vậy, ngoại trừ việc thủ công ở chỗ mẫu thân tinh xảo hơn nơi khác một chút, thì chẳng có gì đáng chú ý. Bà cảm nhận được lo phiền của ta, bèn khuyên: “Hay chúng ta rời khỏi kinh thành, đến nơi khác sống cũng vậy thôi mà.”
Ta lắc lắc đầu: “Trước khi mọi chuyện được giải quyết hoàn toàn, chi bằng cứ án binh bất động là hơn. Trước cửa mỗi thành có không biết bao nhiêu mật thám đang truy tìm lùng sục chúng ta, hơn nữa mẹ con ta vốn không quen dầm mưa giãi nắng, thà cứ nấp ngay ở khóe mắt người ta, mới khiến đối phương không ngờ tới nhất.”
Mẫu thân nghe ta nói có lý, liền không khuyên nữa.
Sau khi vết thương khỏi hẳn, hằng ngày vì buồn chán quá, thi thoảng ta cũng cùng mẫu thân ra ngoài, dĩ nhiên phải đội mũ rộng phủ màn sa che kín mặt, chỉ đi những nơi hẻo lánh. Nhờ mạng che mặt nên không ai phát giác điều gì, dần dần dạn dĩ hơn, ta còn đến cửa tiệm giúp mẫu thân quản lý việc kinh doanh, nhưng chỉ ngồi ở trong phòng chỉ đạo người dưới thêu thùa chứ không ra ngoài.
Ta chỉ dạy vài câu, mà đám nghệ nhân ai nấy đều bội phục. Họ đâu có biết ngón nghề may vá của ta là thành quả mười mấy năm trui rèn mới có được?
Dù mọi việc vẫn trót lọt, nhưng ta luôn thận trọng cảnh giác, các họa tiết thêu không có cái nào dính dáng đến kiểu dáng trong cung, chủ yếu lấy hình tượng thiên nhiên là chính. Không nhận đơn đặt hàng của các nhà hào phú, chỉ gia công các đồ vật trung đẳng, ấy vậy mà lời lãi vẫn đủ để sống ấm no, tự do tự tại.
Đôi khi ta ngồi trong tiệm nhìn ra phố, thấy người người qua lại như con thoi, ánh mặt trời dát lên mặt đất một lớp phấn vàng, bụi bặm bay trong không gian cứ như ở chốn bồng lai tiên cảnh. Chuyện đấu đá sau bức tường đào giờ như một giấc mộng. Sau khi tỉnh lại, cuộc sống đâm bình đạm quá sức, liệu ta có cam lòng?
Ta là kẻ biết thời thế, cục diện trong cung vạn phần hung hiểm, sao muốn trở lại làm gì?
Nghĩ đến đây, ta liền chôn chặt suy nghĩ viển vông ấy vào lòng. Hậu cung tuy lấy quyền thế làm đầu, nhưng không giỏi giang ở một phương diện nào đó, thì lấy gì đứng vững được? So với thứ quyền lực ảo vọng đầy mê hoặc kia, mạng sống của bản thân vẫn quan trọng hơn một chút.
Thoắt cái một tháng đã trôi qua, ngày hôm ấy trời trong gió mát, đêm trước có mưa, trong không gian còn phảng phất mùi vị ẩm ướt, tươi mát thanh nhã. Nghĩ đến mấy ngày rồi không cùng mẫu thân ra ngoài đi dạo, ta liền khoác cái áo choàng lót lông cáo vào, phục sức chỉnh tề đâu đó, chuẩn bị sang nhà bên mời mẫu thân ra ngoài mua ít chỉ vàng chỉ bạc về nghiên cứu mẫu thêu mới. Các món đồ trong tiệm chúng ta không thể giống bất cứ loại vật dụng nào trong cung, đợi sau khi sự việc hoàn toàn lắng xuống, hai mẹ con ta cũng rời khỏi kinh đô. Đồ thủ công tiến cống của từng địa phương ta nắm rõ như lòng bàn tay, qua một thời gian nữa ta dẫn mẹ rời đi, trời đất bao la, thế nào cũng có chỗ để lập thân.
Đến phòng mẹ, ta phát hiện đêm trước người không hề về nhà nghỉ ngơi, chắc lại thức trắng, có lẽ tiệm vừa nhận đơn đặt hàng mới nên bà phải xuống đốc thúc, giúp đỡ thợ. Tính cách mẫu thân vẫn thế, cương cường háo thắng, không biết ngày xưa khi phải sống dưới cái bóng của người chị ruột, làm thế nào mà mẫu thân nhẫn nhịn được. Ta gọi a hoàn mang lên một tách trà, ngồi trong phòng chờ bà về. Gian phòng bày trí vô cùng hoa lệ, có mấy bức thêu do chính tay mẫu thân làm, đẹp đẽ không đâu sánh kịp.
Một bức bình phong ba mặt bằng gỗ lim chạm trổ bao bọc lấy khung giường, trên trướng xanh thêu bức chim trĩ giành ăn màu đỏ tươi như máu chực chảy trào, dát thêm kim tuyến, các chi tiết chạm khắc không theo những mẫu như tỳ bà ký ở các khuê phòng bình thường, mà đa số là hình những đứa trẻ ném bóng, thằng nhóc nghịch nước… Ta nhận ra trong sâu thẳm lòng mẫu thân rất tưởng nhớ mình, từng vật từng cảnh trong phòng không gửi gắm nỗi nhớ nhung con gái.
Đang lúc ngắm nhìn bốn phía, chợt nghe sau lưng có tiếng động, ta quay lại, hóa ra mẫu thân đã về, trên gương mặt thoáng nét mệt mỏi. Nhìn thấy ta, bà liền cười bảo: “Sớm thế này con đã dậy rồi ư, vị khách lần này khó tính quá, may mà ngón nghề của mẹ chưa thui chột, mất mấy ngày ròng rã cuối cùng cũng làm xong.”
Tiểu a hoàn đi sau lưng mẹ mang một cái hộp màu vàng làm bằng gỗ tử đàn vô cùng tinh mỹ đặt lên bàn trang điểm. Chiếc hộp này trông có vẻ cổ kính, do tay người cầm nắm nhiều nên bóng loáng cả lên, đặt gần bên giá thêu, cảm giác như hình ảnh tú nương tay cầm kim thêu bỗng chốc hiện ra. Đây là hộp thêu của mẹ, bên trong để mấy cây kim bà yêu quý không nỡ đem ra dùng, có cái lớn cái nhỏ. Ta hơi lấy làm lạ, bèn hỏi: “Đến những vật này mẹ cũng mang ra dùng, yêu cầu của vị khách kia xem ra khắt khe thật.”
Mẫu thân nói bằng giọng khá hài lòng: “Nhân dịp gia phụ tổ chức đại thọ, vị khách kia đến đặt một bức thêu Tùng Hạc Đồng Xuân, yêu cầu cành tùng lẫn lông ở chân hạc phải rõ tầng rõ lớp, muốn được như thế phải dùng thủ pháp thêu tầng, khiến tranh thêu nổi rõ như bức phù điêu, tạo cảm giác hình khối rõ nét. Vị khách này đã đến nhiều chỗ đặt làm nhưng vẫn chưa được ưng ý, hôm ông ta đến vừa đúng lúc ta ngồi sau rèm, nghe vậy nhất thời ngứa nghề, bèn nhận làm ngay. Người đó trả giá rất hậu, chỉ một bức ấy mà đủ cho chúng ta sống sung túc cả nửa đời sau.”
Ta nghi ngờ hỏi: “Ai mà phú quý đến thế ạ?”
Mẹ đáp: “Việc này ta không rõ, trông quần áo phục sức người đó chẳng khác nào người bình thường, nhưng có vẻ là người ở nơi khác đến. Con yên tâm, ta không hồ đồ làm lộ chút manh mối nào đâu, người ấy tuyệt đối không có liên hệ gì với quan nha cả.”
Ta hơi an tâm, bèn cười nói: “Ngón nghề thêu thùa của mẫu thân chẳng kém gì năm xưa, người khách khi ra về chắc chắn hài lòng lắm!”
Được lời như cởi tấm lòng, mẫu thân bật cười: “Nhiều năm không đụng gì đến kim chỉ, lúc mới đầu quả có hơi gượng tay…”
Ta che miệng cười, không nói gì nữa. Hiếm khi mẫu thân vui vẻ đến thế, việc gì ta phải làm mất nhã hứng của người. Có điều lần ngày bà hiển lộ tài năng, không biết có khiến ai chú ý không? Thân phận ta hèn mọn, chắc chẳng lấy làm quan trọng trong mắt ai kia. Đã hơn một tháng rồi, chẳng lẽ hắn còn sai người dùng cách thức rắm rối đó để tìm ta?
Cái chết của ta có lẽ lừa được những người bình thường, nhưng khẳng định không thể lừa được hắn.
Thời gian chầm chậm trôi đi, suốt mấy ngày liền, trước nhà người qua kẻ lại như thường, không có biểu hiện gì khác lạ. Nỗi lo trong ta ngầm được hóa giải, lại tự cười bản thân sống trong cung quá lâu, thần kinh mẫn cảm cực độ, mới hơi nổi gió động cỏ đã ngờ rằng có người nhắm vào mình.
Ta biếng nhác ngồi trên ghế hoàng đàn sưởi nắng chiều, cảm thấy cả người khoan khoái dễ chịu, ánh nắng từ các kẽ lá chiếu xuống mặt, dù đã nhắm hai mắt, vẫn có thể cảm thấy sắc vàng chói chang làm mí mắt bừng sáng. Có ai đó lại gần, che phủ mất ánh nắng trên mắt ta. Tưởng là tiểu a hoàn Kỳ Nguyệt, ta bèn nói: “Kỳ Nguyệt, cháo hạt sen trong bếp chắc là nhừ rồi, múc lên cho ta một chén đi.”
Hồi lâu không thấy con bé trả lời, ta khẽ hé mắt nhìn. Dưới bóng râm của cây cổ thụ, một dáng người cao lớn đứng đó, nhìn ta chăm chú. Vì hắn quay lưng lại phía mặt trời nên trong chốc lát ta không thể nhìn rõ được gương mặt, trong lúc kinh hoảng bèn nghiêm giọng quát: “Ngươi là ai? Sao lại ở đây?”
Người đó hơi quay người, bước một bước nhỏ sang bên. Ta lập tức nhìn rõ gương mặt hắn, làn da hơi tái xanh, thanh tú mà lạnh nhạt, khi chưa cất lời, dường như chất chứa đầy tâm sự, chẳng phải Hạ Hầu Thần thì là ai?
Ta sợ đến mức quên cả rời ghế hành lễ, chỉ lẩm bẩm trong miệng: “Không thể nào…”
Hắn khẽ cười, bóng nắng giữa những kẽ lá đổ loang lổ lên mặt rồng, cứ như một thứ ảo giác quái quỷ được chắp vá từ hàng ngàn mảnh ghép vỡ vụn. Hắn nói: “Ninh Vũ Nhu, ngươi có biết một tháng nay trẫm đã dùng bao nhiêu cách mới tìm ra ngươi hay không? Ngươi giảo hoạt như hồ ly, chỉ cần đánh hơi thấy một chút không ổn, lập tức sẽ biến mất chẳng còn dấu vết, khiến trẫm lao tâm khổ tứ vắt cạn suy nghĩ. Trẫm đã bảo rồi, chỉ có thứ trẫm cho phép ngươi mới được lấy…”, hắn dừng một lát, “… ngay cả cái mạng ngươi cũng vậy!”
Hắn nói bằng một giọng bình bình, còn ta nghe trong ấy ngầm nổi cuồng phong bão táp kinh động đất trời. Cả người ta run lên, như sực tỉnh khỏi giấc mộng, tụt mình khỏi ghế, quỳ sụp xuống đất: “Hoàng thượng, thần thiếp đáng chết.”
Nói xong lập tức dập đầu lia lịa. Ngoại trừ lời này, ta chẳng biết nên nói thêm điều gì.
Có lẽ bức thêu chạm nổi của mẹ đã làm lộ manh mối. Đúng là lưới trời thưa mà khó lọt, không cho ta bất kỳ cơ hội nào.
“Chắc ngươi đang nghĩ, mình đã chết một lần, có chết thêm vài lần cũng được phải không?”
Ta không kịp lựa lời, đáp: “Hoàng thượng, thần thiếp sao dám có ý nghĩ đó?”
“Ninh Vũ Nhu, còn có việc gì mà ngươi không dám làm?”
Ta dập đầu không dám ngẩng: “Hoàng thượng, thần thiếp không dám, trước mặt Hoàng thượng thần thiếp làm sao dám làm gì!”
Lời vừa nói ra ta đã hối hận chỉ muốn cắn lưỡi cho xong, sao lại có thể nói lời ngớ ngẩn như vậy trước mặt hắn?
Hắn lẳng lặng tìm đến nơi này không một ai hay biết, khiến ta chấn động tâm thần. Vừa nhìn thấy hắn, ta lập tức cảm thấy sợ hãi, một nỗi sợ không rõ lý do.
Gương mặt Hạ Hầu Thần chìm vào bóng cây dày đặc, ta không thể nhìn rõ biểu cảm trên gương mặt ấy. Sao hắn phải bỏ ra nhiều tâm tư, sức người lẫn sức của để truy tìm ta? Cuối cùng vì bức thêu chạm nổi của mẹ mới lần ra tung tích. Không biết hắn đã phải đi qua bao nhiêu tiệm thêu mới đến được tiệm của mẹ, ngần ấy tâm tư, ngần ấy công sức chỉ để bắt ta trở về ư?
Trong phút chốc, ta bỗng nảy ra một ý nghĩ táo bạo, ngày thường có nghĩ ta cũng không dám. Chẳng lẽ hắn thực sự có tình cảm với ta, nếu vậy liệu có nên nghĩ cách lợi dụng điểm này mà…
Nghĩ đến đây, ta bèn thử ngẩng đầu lên, nói với hắn: “Hoàng thượng, thần thiếp không nên bỏ Hoàng thượng mà đi, nhưng thần thiếp quả thực rất sợ chết, chỉ có cách trốn đi để bảo toàn tính mệnh. Sau khi ra ngoài thần thiếp vô cùng hối hận, mỗi lần nhớ đến Hoàng thượng là lại…”
Chỉ cần trên mặt hắn lộ ra nửa phần tình ý, ta sẽ nắm được tiên cơ, từ đây tìm ra cách chuyển bại thành thắng?
Hạ Hầu Thần bước ra khỏi bóng râm, gương mặt thấp thoáng vẻ chế giễu, con ngươi sắc lạnh như đá tảng, sắc mặt trắng xanh như tạc nên từ một phiến băng ngọc. Hắn như nhìn rõ ý đồ của ta, nói: “Ninh Vũ Nhu, nếu ngươi tưởng trẫm sẽ dung túng cho một phi tần trốn cung ra ngoài tiêu diêu tự tại, thì ngươi lầm rồi. Trẫm không ngờ một phi tần nhỏ bé mà lại có bản lĩnh lớn đến vậy, trước nay trẫm đã quá xem thường ngươi.” Khóe miệng hắn hơi nhếch lên, “Nếu không vì trẫm còn có việc cần đến, thì biết đâu người đứng trước mặt ngươi bây giờ là một tay sát thủ.”
Giọng điệu hắn lạnh lùng băng giá, ta thất vọng cúi mặt, chẳng thể tìm ra chút nào tình ý từ con người kia, đôi mắt đó nhìn ta cứ như băng vạn năm chưa tan. Ta bất giác hiểu rõ, Hạ Hầu Thần và ta giống nhau, sẽ không để thứ gọi là tình cảm trói chân. Hắn tìm ta không phải vì tình, mà là vì thứ khác, vì ta có thể giúp hắn làm được việc gì đó mà thôi.
Sau cơn thất vọng, đầu óc ta lại căng ra nghĩ ngợi, nếu muốn thoát khỏi nguy khốn trước mắt, phải xem bản thân có gì đáng để hắn xem trọng hay không. Hắn vén tà áo ngồi xuống ghế hoàng đàn, tư thế vô cùng thoải mái.
Trông thấy tà áo màu xanh nhạt của Hạ Hầu Thần chầm chậm lại gần, cảm giác sợ hãi trong lòng ta ngày một tăng. Đương quỳ trên đất, ta không thể lùi lại phía sau, chỉ đành trân trối nhìn đôi hài dừng ngay trước mặt, ngón tay thon dài đeo nhẫn ngọc vằn gõ đều đều lên tay vịn.
Hết lần này đến lần khác ta xin được gặp người không khỏi khiến Lí Sĩ Nguyên sốt ruột, tuy vậy ông ta vẫn rộng lượng đồng ý. Nếu ông ta đã truy ra người chết ở am ni cô trước đây không phải mẹ ruột của ta, dĩ nhiên cũng sẽ biết mẹ ruột của ta sống ở đâu, không cần ta nói ra địa chỉ cụ thể. Tiến trình tra án của ông ta đang như lạc phải mê cung, mãi chưa tìm ra cách đột phá, nên cũng muốn khai thác ở những nơi khác nhau, phía Hoàng hậu đã không được gì, có khi tìm hiểu gia đình ta lại lóe lên điều gì thì sao?
Ngày hôm sau, nữ cai đến nói với ta: “Nương nương, có mẫu thân người đến thăm ạ.”
Ta chỉnh trang lại y phục, quay ra cười với cô ta rồi đáp: “Lâu lắm rồi bản cung không gặp mẫu thân, hai bên chỉ liên lạc với nhau qua thư tín mà thôi. Ngươi nhìn xem bản cung ăn mặc thế này có lôi thôi quá không?”
Cô ta nhìn trước ngó sau, phút chốc bỗng ngây ra, sau mới cảm khái mà nói: “Tuy đầu chẳng trâm vòng, mặt không son phấn, mà nương nương vẫn kiều mị mê hoặc lòng người. Nô tỳ làm việc trong ngục lâu năm, từ tiền triều đến nay, từng gặp không ít phi tần phạm tội bị tống giam, nói lời thật lòng, tuy phẩm vị nương nương không cao lắm, nhưng cái khí độ bình thản ung dung, gặp nghịch cảnh mà không hề nao núng như nương nương, nô tỳ chưa từng nhìn thấy ở bất kỳ ai khác.”
Ta vuốt lại mái tóc đen, nói: “Ngươi khéo nói lắm.”
“Nô tỳ biết nương nương không tin, cho rằng ấy chỉ là lời tâng bốc, nhưng nô tỳ không phải kẻ thích xu nịnh. Nô tỳ rất có hảo cảm với nương nương, những lời thốt ra toàn là moi từ gan ruột cả.”
Ta chợt nghĩ vị nữ cai này là người biết điều, cớ gì phải làm cô ta mất hứng, liền tươi nét mặt: “Nói như vậy, mẫu thân ta nhìn thấy chắc sẽ không quá đau buồn xót xa phải không?”
Nữ cai ngục kia thở dài: “Phàm là người mẹ, thấy con mình phải nằm nhà ngục, có ai mà không đau lòng rơi lệ? Nương nương dẫu hồng hào xinh đẹp, mẫu thân của người sợ rằng vẫn cười không nổi.”
Ta liền hỏi: “Nghe ngươi nói, dường như cũng đã làm mẹ rồi?”
Gương mặt cô ta lộ vẻ dịu dàng rạng rỡ hiếm hoi: “Nô tỳ đã có hai con rồi ạ.”
Ta nghe thấy liền than: “Chắc ngươi cũng như mẫu thân ta, xem con cái mình như ngọc ngà châu báu mà nâng niu.”
Ta chưa bao giờ dám nói những khổ sở phải chịu trong cung cho mẫu thân nghe, bởi ta hiểu nếu biết, nỗi đau trong lòng bà sẽ còn lớn hơn ta gấp mười lần. Từ khi ta còn bé, đã được mẫu thân dùng mọi cách để bảo vệ, thậm chí đang tâm từ bỏ cả tình nghĩa ân ái phu thê, chịu mang tiếng điêu ngoa xảo trá cũng không than vãn nửa lời. Nếu bà biết ta phải quỳ giữa đêm gió tuyết mà giặt y phục, bị người ta tát túi bụi trong Ngự Hoa viên, suốt chục năm trời giằng co vùng vẫy giữa ranh giới sống và chết, trong lòng không biết sẽ bi thương đến chừng nào.
Ta cứ để mẫu thân tưởng mình ở trong cung an hưởng phú quý, sống đời sung sướng là tốt nhất.
Từ xa nhìn thấy bóng dáng mẫu thân bước vào, trên người mặc váy lĩnh màu xanh thẫm, áo ngắn cân vạt gấm hoa, búi tóc đơn giản gọn gàng, đai trán dệt bằng sợi bạc sít sao, chính giữa đính một viên ngọc phỉ thúy to bằng ngón tay cái, y phục không rạng rỡ, nhưng món đồ nào cũng là vật quý nhà giàu. Từ xa nhìn lại, gương mặt bà có vẻ ưu tư, nhưng rất ít nếp nhăn, da dẻ không thể căng mịn như thiếu nữ, nhưng cũng không đến nỗi bủng beo. Bà và Thượng Quan Thái hậu có lẽ xấp xỉ tuổi nhau, tuy không được hưởng phú quý bằng Thái hậu, nhưng tinh thần vẫn vô cùng minh mẫn. Ta thầm an lòng, xem ra mẫu thâm sống rất an nhàn, y như trong thư có nói.
Nhìn thấy ta, bà loạng choạng đi nhanh đến, a hoàn hai bên vội đỡ lấy, líu ríu mất một hồi. Khi vào đến phòng giam, cửa sắt chưa mở, bà đã thò tay qua song kéo ta vào lòng: “Con ơi, con có khỏe không?”
Lời ngoài chưa dứt, lệ trong đã đầm đìa, ta không kìm được cũng ươn ướt khóe mi, nữ cai mở cửa phòng giam: “Phu nhân, Lí đại nhân cho phép bà được vào phòng.”
Hai a hoàn dìu mẫu thân đi, bước qua song sắt tiến vào bên trong.
Ta đỡ bà ngồi xuống, nghe thoang thoảng tóc bà có mùi bột hoa gỗ, nhìn kỹ mới thấy trên đầu mẫu thân có sợi bạc, trong lòng không khỏi chua xót. Hóa ra tóc mẹ đã bạc nhiều lắm, mới phải dùng bột hoa gỗ nhuộm đen, bà trước nay kiên cường, trước nay đã quen ngậm đắng nuốt cay, ta gây ra họa lớn này, phải chăng đã khiến bà trằn trọc trắng đêm?
Ta vờ như không biết, cười nói: “Trông mẫu thân khỏe mạnh, con gái yên tâm rồi…”
Viên nữ cai mang bộ ấm trà bằng sứ do Thượng Cung cục biếu vào, lại tự tay rót ra chén, bày trước mặt chúng ta, xong xuôi đâu đấy bèn đứng ngay gần chỗ cửa sắt.
Mẫu thân thấy thế biết ngay hoàn cảnh hiện tại của ta không mấy dễ chịu, lại rơi nước mắt. Cả đời bà hiếm khi phải khóc, vậy mà vừa nhìn thấy ta thì lệ tuôn ròng ròng. Ta nắm chặt tay bà mà khuyên: “Mẫu thân, hồi phụ thân bị bắt cũng không thấy mẫu thân thế này, con gái trước nay phước lớn mạng lớn, huống hồ vụ án còn chưa thẩm tra xong, vẫn chưa biết kết quả thế nào, mẫu thân đừng nên đau lòng.”
Mẫu thân nắm lấy tay ta: “Con ơi, nay ta chỉ còn mình con, nhỡ xảy ra chuyện gì, ta thật không biết phải làm sao. Ngày xưa khi ở nhà ta luôn muốn lo cho con chu toàn, bởi từ nhỏ, con đã tỏ ra khác người, khiến ta lo âu vô cùng. Ta tính khí nóng nảy, thấy con bị người ta hiếp đáp chỉ biết ngầm mỉa mai nhiếc móc, lúc nào cũng làm phụ thân con bực mình. Vậy mà con chỉ đùa một câu là ông lại cười to sảng khoái. Ta vì đó mà đâm hổ thẹn, đôi khi không hiểu là ta bảo vệ con, hay chính con đang phải che chở cho ta… Con ơi, lúc này thân vùi ngục tối, biết phải làm sao? Chỉ trách ta vô dụng…”
Bà khẽ thì thầm tiếp: “Con ơi, mẫu thân dành giụm được món tiền không nhỏ, nếu có cách thật thì táng gia bại sản ta cũng cứu con ra.”
Ta thầm thấy tức cười, sau lại thấy xót xa, mẫu thân tưởng đây là vụ án bình thường ư? Án này liên can đến vận mệnh quốc gia, tiền bạc phỏng có ích gì?
Ta nói: “Mẫu thân đừng hoảng hốt, con gái vô tội, người ta có vu oan thế nào cũng là vô ích. Lần này con gái muốn gặp mẫu thân, chỉ để xem người ở ngoài ăn ở có thoải mái không. Con ở trong cung ròng rã hơn chục năm trời, hoàn cảnh phức tạp, nên chưa thể phái người đón mẫu thân vào cung chơi, mẫu thân có trách con không?”
Mẫu thân nghe thế cảm khái: “Con đừng coi ta như bà già nhà quê, ta cũng hiểu những điều lắt léo uẩn khúc bên trong đấy.” Bà liếc ra chỗ cửa sắt, trầm giọng, “Mẫu thân đoán được kết cục của bà ấy từ lâu rồi.”
Ta nói: “Mẫu thân, mẫu thân đang trách con gái nhẫn tâm?”
Bà lắc lắc đầu: “Bà ấy sớm đã không coi mẹ con ta là người thân nữa.”
Ta hóng ra ngoài song sắt, thấy nữ cai tuy ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhưng hai tai vẫn dỏng lên nghe ngóng, liền nói: “Mẫu thân, con gái tuy bị giam trong ngục, nhưng vẫn còn nhiều người chăm sóc, vẫn ăn no mặc ấm, người đừng quá bận lòng.”
Mẫu thân nhíu mày, hếch hếch mũi ngửi: “Sống ở nơi thế này làm sao mà tốt cho được? Xem cái mùi này, chẳng kém gì chuồng lợn cả!”
“Mẫu thân, mẫu thân xem kìa, chỗ này dẫu sao cũng là nhà ngục, không thể yêu cầu cao quá được! Mẫu thân nhìn chăn gấm này, áo bông này, đều là do quý nhân trong cung biếu đấy. Con gái tuy mắc tội, nhưng được mọi người thương yêu, khổ sao nổi.”
Mẫu thân nhìn ta từ đầu đến chân, đoạn nói: “Con à, đừng nói dối ta nữa, tuy ta chưa sống trong cung bao giờ, nhưng đã từng nghe nói hậu cung là nơi thế nào. Chốn ấy nhiễu nhương gấp nhiều lần phủ họ Ninh ngày trước. Liệu có mấy người thật lòng với con? Mà thôi, đúng lúc ta mới thêu hai cái túi thơm, con để ở đầu giường cho khỏi mùi xú uế.”
Ta liếc nhìn nữ cai đứng ngoài song sắt, vẻ mặt hơi căng thẳng, đoạn mỉm cười đón lấy hai túi hương. Mẫu thân lại hỏi: “Lần trước con bảo mẫu thân thêu cho thứ này, còn dặn cho mấy loại hoa khô vào… Mấy thứ hoa ấy có tác dụng tránh ruồi tránh muỗi, nhưng chỉ nên đeo ở eo, chớ có đưa lên gần mũi, vì có mai ngũ sắc hơi độc đấy…”
Ta vội vã cắt ngang: “Mẫu thân, con gái tính vốn cẩn thận, sao có thể để hoa gây độc cho mình, người lo xa quá rồi.”
Nói đến đây, nước mắt bà lại ròng ròng: “Con ơi, biết làm thế nào bây giờ?”
Ta bèn khuyên: “Mẫu thân cứ an tâm ở nhà chờ tin, con gái thế nào cũng bình an thoát tội.”
Thấy hoa đăng đã thắp lên, trong phòng giam phải đốt đèn dầu mỡ trâu cho đỡ tối, nghe lời khuyên giải mấy hồi, bà mới lưu luyến rời đi.
Cầm trong tay hai chiếc túi thơm thủ công vô cùng tinh xảo, ta nghĩ thầm tay nghề của mẫu thân chẳng hề mai một chút nào. Thời thanh xuân, ngón nghề thêu thùa của bà nức tiếng đứng đầu Giang Nam, biết bao người bỏ ra vạn kim mà không mua nổi một món, vậy mà khi lấy chồng chỉ được làm thiếp, ánh huy hoàng thuở con gái dần trầm lắng như triều sớm. Ta từng hỏi bà, tại sao lại chọn gả cho cha, hai chị em cùng lấy một chống, phải chấp nhận làm lẽ là điều đương nhiên. Bà chỉ điềm đạm đáp: “Lúc ấy ta cứ như bị ma nhập, có biết gì đâu.”
Về sau ta nghe đám người dưới đồn đại mới biết vốn cha muốn cưới đại nương, nhưng mẫu thân ta vừa gặp đã yêu, sau nhiều lần tha thiết khẩn nài, ông mới đồng ý cưới cả hai chị em. Mẫu thân chẳng bao giờ nhắc về chuyện cũ, không biết có phải vì trong lòng đã hối hận tuổi trẻ nông nổi mà sai lầm cả đời?
Còn ta, chắc chắn sẽ không bao giờ để mình rơi vào tình thế ấy.
Mẫu thân đi rồi, mỗi lần cầm túi hương lên ngắm là mỗi lần ta lặng người ngẩn ngơ. Viên nữ cai thấy thế lấy làm cảm động, thường hay lựa lời khuyên nhủ. Dần dà hai bên nói chuyện thành quen, thi thoảng hỏi đến hai đứa con trai, gương mặt nữ cai liền trở nên dịu dàng khác lạ. Lòng ta thầm ngưỡng mộ, ta chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ sinh con trong cung, trước khi Hoàng hậu hoài thai long chủng, nếu ta lỡ có trước tất chỉ có đường chết. Ở tuổi ta, đám nữ nhân ngoài dân gian có người đã sinh bốn năm đứa trẻ, dẫu thích nhưng ta vẫn e sợ sẽ giẫm vào vết xe đổ của Sư Viên Viên. Trông đầu mày khóe mắt nữ cai rạng ngời hạnh phúc, ta không khỏi buồn bã thương tâm.
Nữ cai thấy thế vừa sợ vừa sực nhận ra điều gì, bèn khuyên: “Hoàng thượng rất mực thương yêu nương nương, nếu có thể thoát khỏi nhà ngục này, thế nào nương nương cũng được sủng ái trở lại, đến lúc đó còn lo gì chuyện con cái?”
Ta chỉ khẽ cười, không nói tiếp, uể oải nằm ra giường.
Đúng lúc ấy, có người đến báo: “Nương nương, Lí đại nhân xin được gặp.”
Ta ngồi dậy, hơi ngạc nhiên đáp: “Sao ông ta lại tới lúc này?”
Nữ cai nói: “Có lẽ vụ án có tiến triển gì nên đến báo cho nương nương mừng?”
Ta không màng tiếp lời, quay vào gương ngắm nghía lại mặt mũi rồi nói với kẻ kia: “Mời Lí đại nhân vào!”
Hôm nay Lí Sĩ Nguyên thần sắc có chút lo lắng, bước qua song sắt bèn hành lễ ngay, xong xuôi đang định cất tiếng, ta đã cướp lời: “Sao còn không mang ghế vào cho Lí đại nhân.”
Nữ cai đứng ngẩn ra một lúc mới chạy đem ghế đến.
Lí Sĩ Nguyên an tọa xong, thở ra một hơi nói: “Nương nương, hôm trước mẫu thân người đến thăm, đã nói những chuyện gì?”
Ta lấy làm khó hiểu đáp: “Ta được gặp mẫu thân là nhờ ơn Lí đại nhân phê chuẩn, chẳng lẽ đã xảy ra biến cố gì rồi?”
Lí Sĩ Nguyên vội nói: “Xin nương nương kể thật với hạ thần, người và mẫu thân đã nói với nhau những gì?”
Ta thấy vẻ mặt ông ta căng thẳng, cũng đâm sốt ruột: “Có gì đâu, chỉ hỏi thăm chuyện nhà. Mẫu thân ta sao rồi?”
Lí Sĩ Nguyên ngập ngừng một lát mới nói: “Nương nương, sau khi mẫu thân người ra khỏi ngục, trên đường về nhà đã bị người ta bắt mất, đến nay không rõ tung tích. Bản quan đã sai người lục soát toàn thành, nhưng không tìm ra manh mối gì.”
Mắt ta hoa lên, loạng choạng muốn ngã vật ra giường. Viên nữ cai vội chạy đến dìu, thì thầm khuyên nhủ: “Nương nương, không sao đâu, có Lí đại nhân ở đây, thể nào cũng đón được phu nhân trở về.”
Ta hoảng lên, bật dậy khỏi giường, nắm lấy ống tay áo của Lí Sĩ Nguyên: “Lí đại nhân, xin ông hãy mau mau tìm mẫu thân ta trở về, từ khi gia phụ qua đời, gia thế lụn bại, ta lại nhập hoàng cung, bà sống một mình bên ngoài, đơn độc khổ sở không nơi nương tựa, mới sung túc chưa được mấy ngày đã nghe tin ta gặp đại nạn. Lần này sợ rằng ta làm liên lụy mẫu thân mất rồi!”
Lí Sĩ Nguyên bị ta nắm lấy vạt áo, luống cuống không biết làm thế nào, càng không nỡ gạt ra: “Nương nương yên tâm, lão thần dù có liều cái mạng già, lật ngược cả kinh thành cũng phải giúp người cứu thoát mẫu thân, có điều…”
Ông ta nhẹ nhàng rút tay áo, ta chợt tỉnh ngộ, bèn buông ra, áy náy nói: “Bản cung thật là lỗ mãng… Ông nói có điều gì vậy?”
Lí Sĩ Nguyên nhìn ta, trong mắt lóe lên tia sáng: “Biết đâu khi gặp mặt nương nương và mẫu thân nói chuyện gì khả nghi, để ai đó nghe được nên mới…”
Ta hoảng quá, vội phủ nhận: “Không đâu, ta và mẫu thân chỉ thăm hỏi chuyện nhà, luôn luôn cẩn trọng giữ đúng phép tắc, không nhắc đến điều nào nhạy cảm. Huống hồ mẫu thân ta chỉ là một quả phụ bình thường, có biết gì đâu.”
Ánh mắt ông ta quét qua mặt ta, sắc bén như mắt diều hâu, rồi lập tức trở lại như thường, nói với ta bằng giọng điệu sốt ruột nóng như lửa đốt: “Nương nương, vậy lão thần xin cáo lui đến nha môn Đại Lý Tự xem xem đã có tin tức của lệnh tôn hay chưa.”
Ta bèn giục: “Lí đại nhân, nếu có tin gì xin hãy mau chóng báo cho ta ngay.”
Lí Sĩ Nguyên đi rồi, ta đi qua đi lại trong nhà giam chật hẹp, lòng như lửa đốt, sốt ruột ngóng chờ tin tức của ông ta. Mãi đến hoàng hôn, Lí Sĩ Nguyên vẫn bặt vô âm tín, nữ cai kia liền tới khuyên: “Nương nương, người hãy ăn gì đi đã, nếu có tin gì Lí đại nhân sẽ báo cho người ngay.”
Ta đáp: “Ngươi bảo làm sao ta nuốt được, nếu mẫu thân vì ta mà rơi vào nguy hiểm, ta có chết ngàn lần cũng không hết tội.”
Nữ cai rưng rưng cảm động, cứ quanh quẩn trong ngục chăm nom, gần như đêm ấy ta thức trắng, đầu vừa chạm gối là sực tỉnh, cho đến khi lỗ cửa sổ trên cao dần sáng tỏ, sắc hồng đánh tan màn đêm, ánh mặt trời từ ngoài song cửa sổ chiếu vào.
Ta gắng gượng ăn một ít cháo đặc, dẫu mệt lả ra, nhưng vẫn không tài nào ngủ được. Đúng lúc ấy ngoài ngục có người hô: “Lí đại nhân tới.”
Ta ngồi bật dậy, lẩm bẩm: “Có tin rồi sao?”
Nữ cai thấy dáng vẻ vừa mừng vừa lo của ta, bèn nói: “Nương nương, chắc là Lí đại nhân mang tin tốt đến, lần này nương nương có thể yên tâm được rồi.”
Ta cảm kích đáp: “Nhờ có ngươi ở bên mà bản phi cầm cự được qua đêm dài, bản phi thật không biết lấy gì báo đáp.”
Nghe ta nói vậy, người nữ cai cảm thấy hơi bối rối, tay chân cứ như thừa thãi, hồi lâu mới đáp: “Nô tỳ đâu đáng để nương nương nói vậy, nương nương là quý nhân nhà trời, nô tỳ hầu hạ người là lẽ đương nhiên.”
Ta nắm lấy tay cô ta, bàn tay thô ráp nứt nẻ, chắc hẳn thường ngày phải làm nhiều việc nặng: “Bản phi từ khi vào ở trong ngục, may nhờ có ngươi tận tình chăm sóc. Lúc ở trong cung ta đã quen với sự bạc bẽo ghẻ lạnh, không ngờ khi bị giam ở nơi tệ hại nhất lại có người chị em tốt như ngươi…”
Nữ cai đỏ hai con mắt, rưng rưng lệ, ta càng cảm kích bội phần, đúng lúc ấy có tiếng người lao xao từ cửa ngục vọng vào, Lí Sĩ Nguyên xăm xăm bước lại, đang định hành lễ theo lệ, ta vội nói: “Lí đại nhân không cần đa lễ, đã tìm được mẫu thân ta hay chưa?”
Lí Sĩ Nguyên đáp: “Nương nương, không hay rồi, hạ quan đã tra ra tin tức, lệnh tôn sau khi rời khỏi Tông Nhân Phủ lập tức bị ai đó trong cung đón về, chỉ biết đang ở trong cung…”
Ta vội nói: “Tội danh của bản cung chưa định, vì sao lại dính líu đến người thân của ta? Không được, ta phải xin Hoàng thượng thả mẫu thân ra.”
Lí Sĩ Nguyên lắc đầu nói: “Nương nương chắc chưa biết chuyện Tín vương mượn cớ Thái hậu mới mất, mười ngày trước đã hồi kinh, tỏ ý nhất định phải nghiêm trị hung thủ hạ độc Thái hậu. Nghe nói nơi lệnh tôn bị giam chẳng đâu khác chính là ở chỗ Tín vương…”
Ông ta quan sát sắc mặt của ta một lát: “Nương nương đừng quá tuyệt vọng, sự tình chưa chắc không có cơ chuyển biến. Chỉ cần nương nương kể thật với vi thần lần trước lệnh tôn đến đây, hai người đã bàn với nhau những gì?”
Ta lẩm nhẩm như nói một mình: “Tất cả là tại bản cung làm liên lụy đến mẫu thân, thật là hại mình hại người…”
Lí Sĩ Nguyên chăm chú nhìn ta, hỏi: “Nương nương, nếu lệnh tôn có nói gì lạ, nương nương nên thuật lại cho vi thần biết để xem có giúp ích được gì không?”
Ta lắc lắc đầu, đầy tuyệt vọng: “Lí đại nhân, cảm tạ ý tốt của ngài, nếu mẫu thân ta gặp bất trắc gì, ta thật chết không đáng tiếc…”
Lí Sĩ Nguyên khuyên giải cả nửa ngày, ta vẫn chỉ trầm ngâm không nói gì, hết lần này đến lần khác xin ông ta nghĩ cách cứu mẫu thân. Không còn cách nào khác, ông ta đành khuyên thêm vài câu, sợ có tin tức gì mới, bèn xăm xăm rời khỏi.
Liên tiếp mấy ngày liền, ta ăn không ngon ngủ không yên, càng lúc càng gầy ốm.
Nữ cai nghĩ ra cách sai người làm đủ món ăn vặt đẹp đẽ dâng lên, ta chỉ gắp mấy cái rồi thôi, cô ta sốt ruột bèn nói thẳng: “Nương nương, người cứ thế này không phải cách hay, chưa cứu được lệnh tôn ra ngoài thì người đã gục trước rồi.”
Ta đáp: “Chẳng biết bọn họ sẽ hành hạ mẫu thân ta thế nào. Mẫu thân vốn tính cứng rắn, nếu không nhịn được oan ức sợ sẽ…”
Ta nhận thấy mắt mình rớm lệ, giọt nước khẽ rớt xuống chiếc áo bông trắng tinh, chớp mắt đã bị hút cạn, chỉ để lại một vệt nước mờ đục.
Nữ cai có vẻ đồng cảm sâu sắc, ngồi xuống bên ta mà khóc.
Suốt hai ba ngày không thể an giấc làm cơ thể ta mệt mỏi rã rời. Đêm ấy vừa quay người nhắm mắt, hơi thiếp đi, đột nhiên bị ai bên cạnh lay dậy. Ta mở trừng mắt ra nhìn, thấy trời đã sáng bạch, đảo mắt sang, nữ cai đứng bên đầu giường, ta ngồi bật dậy, lòng ôm đầy hy vọng: “Có tin tức gì chưa?”
Cô ta lắc lắc đầu, bảo: “Nương nương, muội muội người sai cung nhân mang đồ đến…”
“Nó không đến ư?”
“Không ạ, chỉ có một tiểu thái giám thay mặt đến, đồ đem biếu toàn là thức ăn, mời nương nương xem qua…”
Trong giỏ trúc có hai cái bánh hồ, vài đĩa dưa cải, đơn sơ chẳng có gì, chỉ liếc qua là thấy hết. Ta biết phàm là những thứ mang biếu đều đã được cai ngục kiểm tra cẩn thận, bèn giở qua giở lại trước mặt cô ta.
Nữ cai bỗng dưng bật cười: “Nương nương yên tâm, mấy thứ này nô tỳ đã xem cả rồi. Muội muội của người cũng thật lạ, tỷ tỷ bị giam trong ngục bao nhiêu ngày chẳng thấy đến thăm một lần, hôm nay mới sai người đem biếu đồ đến, lại toàn những thứ thô lậu…”
Ta nhếch miệng khẽ cười, thò tay cầm một miếng bánh hồ trong giỏ lên: “Ngươi ăn quen những món đạm bạc nên thấy chán chứ với ta thứ này là của lạ, bao nhiêu năm không ăn đến rồi, vẫn là muội muội hiểu lòng ta.”
Nữ cai thấy ta mỉm cười, đâm ra ngây người, ta cố nhịn cười nhìn thẳng vào cô ta, chậm rãi bẻ miếng mánh hồ được nướng vàng ruộm, thơm nức mũi ra, nhặt lấy thứ bên trong ruột bánh, khẽ lắc một cái, cái lục lạc bằng vàng nhỏ xíu reo lên một tràng âm thanh trong veo, vang vọng trong phòng giam vắng lặng. Ngó thấy sắc mặt viên nữ cai thoáng cái trở nên tái mét, ta bèn vuốt nhẹ cái khóa trường mệnh trên có khắc hình ngũ tử đăng khoa[1], khẽ nói: “Túc nương, ta nghe mọi người đều gọi ngươi là Túc nương nên ta gọi theo luôn nhé. Vật này từ khi một đứa bé ra đời, đã đeo vào là không được cởi ra. Bởi theo tục lệ trong dân gian, cho đến khi đứa bé khôn lớn thành người, vật này sẽ phù hộ cho nó sống lâu trăm tuổi, không bao giờ được cởi ra. Món đồ này chế tác tinh xảo, hoa văn chạm trổ sinh động như thật, có thể sánh với thủ công trong cung, chắc phải tốn rất nhiều tâm huyết mới nhờ được người làm ra nó.”
[1] Năm đứa con cùng đỗ đạt.
Thân mình nữ cai lảo đảo chực ngã, nhìn ta bằng ánh mắt kỳ lạ, cứ như nhìn một con rắn độc. Ta khẽ than một tiếng: “Túc nương, bản phi làm thế này là bất đắc dĩ. Ai bảo quan hệ giữa ngươi và Lí đại nhân khăng khít quá. Ta biết chính ông ấy bảo ngươi giám sát ta, mấy hôm nay khiến ngươi đêm ngày không nghỉ, bản phi quả không nỡ.”
Túc nương cười khổ: “Hóa ra dáng vẻ lo lắng ưu sầu, ngày đêm không ngủ được của nương nương là diễn cả. Để nô tỳ đem báo lại với Lí đại nhân, làm ông ta lơ là cảnh giác. Trộng nghĩ chắc nương nương đã sắp đặt xong cả rồi?”
Ta cười cười, khẽ lắc cái lục lạc bằng vàng. Âm thanh phát ra sao mà trong trẻo vui tai, nếu đeo thứ này lên mình một đứa trẻ mũm mĩm, thì đáng yêu phải biết.
Ta nói: “Mấy ngày nay ngươi không về nhà rồi phải không? Tiếc cho hai đứa trẻ… Bản phi nghe người ta nói, một người mẹ vì cứu con mình, chuyện gì cũng dám làm, chẳng biết ngươi thì sao?”
Gương mặt Túc nương xám lại, vẻ thê lương, chỉ nói: “Lí đại nhân đã lầm, ông ta sai nô tỳ bảo vệ nương nương, không để người khác làm hại. Theo nô tỳ thấy, nương nương đâu cần ai bảo vệ, bất cứ lúc nào ở đâu, nương nương đều có cách tự bảo vệ mình.”
Ta ủ rũ đáp: “Túc nương, sống ở trong cung, có giờ nào phút nào không gặp nguy hiểm? Chắc ngươi cũng biết, bị đâm lén sau lưng so với đao thương trước mặt ghê gớm hơn nhiều. Vết sẹo trên tay ngươi là do luyện đao phải không? Ngươi đâu phải một cai ngục bình thường.” Ta khẽ lắc cái lục lạc, “Bọn họ phải nghĩ đủ mọi cách, mãi mới tìm được đến nhà của ngươi.”
“Nương nương nói đúng, một người mẹ để bảo vệ con mình, đích thực có thể làm mọi thứ. Nương nương muốn nô tỳ làm gì?”
Ở trong cung nhiều năm, ta đã quen nhìn sắc mặt đoán biết tâm ý, tính tình kẻ khác, chỉ cần nắm chặt điểm yếu của họ trong tay, những người này sẽ cam nguyện mặc ta sai phái. Phải mất gần mười ngày tiếp cận, dùng đủ mọi thủ đoạn, mới khiến cô ta lơi lỏng đề phòng, bộc lộ tâm sự thực lòng. Kiểu người như cô ta rất đặc biệt, giống như Khang Đại Vi vậy, tận trung đến chết không từ, dẫu có đem vàng bạc đến cũng chỉ phí công vô ích, nhưng những người này lòng trắc ẩn quá lớn, chỉ có cách lựa chỗ yếu của họ mà tấn công mới chiếm được ưu thế. Theo ta quan sát, chức vị quyền lực của Túc nương so với diện mạo hiện tại dường như lớn hơn rất nhiều.
Ta nói: “Bản phi không định làm khó ngươi, nhưng quả tình không còn cách nào khác. Ta sẽ không ép ngươi làm gì quá đáng, ngày mai khi có người đến ép cung, ngươi đừng báo cáo với thượng cấp ngay là được.”
Túc nương không ngờ ta tốn bao công sức chỉ để yêu cầu mình làm một việc quá đỗi đơn giản, đôi mắt ánh lên tia nghi ngờ nói: “Chỉ cần thế thôi ư?”
Ta đặt cái khóa trường mệnh vào tay cô ta. Túc nương cận thận vuốt ve, ấp vào lòng. Ta đáp: “Chỉ cần thế thôi. Ngươi nghĩ bản phi sẽ bắt ngươi làm gì? Trong quyền hạn của ngươi, việc này chắc không có gì khó khăn.” Ta chầm chậm nói thêm, “Với quyền hạn của ngươi, cũng chỉ thể làm đến thế.”
Cô ta khum tay cúi người hành lễ: “Được, chuyện này thì nô tỳ làm được.” Dừng một lát cô ta tiếp: “Nô tỳ không hiểu, Lí đại nhân phượng mệnh Hoàng thượng điều tra vụ án này, nương nương có cần phải làm thế không?”
Ta đáp: “Túc nương, nếu vụ án này đích thực có liên quan tới ta, ngươi nghĩ ta sẽ làm gì?”
Túc nương thất kinh, ánh mắt nhanh như chớp quét qua người kẻ đối diện từ đầu đến chân: “Chuyện này… không phải chuyện nô tỳ vọng bàn. Có điều Hoàng thượng và nương nương thâm tình quyến luyến, nô tỳ tin Hoàng thượng sẽ không bẻ cong sự thật.”
“Hoàng thượng là hoàng thượng, có rất nhiều việc không thể không làm, sao lại để chuyện của ta làm bản thân phải phiền não?” Ta nhìn thẳng vào Túc nương, “Ngươi yên tâm, ngày mai ngươi chỉ cần làm có bấy nhiêu thôi, ta tuyệt không khiến người ngươi vấy họa.”
Ta ngồi xuống bên giường, bật cười: “Bản phi còn phải ngủ đã, ngươi đứng đó canh chừng, đừng để ai vào quấy quả. Ngày mai giờ này ngươi làm xong việc, về nhà sẽ lại thấy hai đứa con đáng yêu chạy ra đón.”
Lần này ta chỉ nhắm mắt là thiếp đi, trong lúc mơ hồ nghe thấy tiếng Túc nương nói: “Nữ nhân này thật là…”
Ta không nghe rõ cô ta nói gì, chỉ cảm thấy giấc này ngủ thật ngon.
Ngày hôm sau tỉnh dậy, tinh thần ta vô cùng sảng khoái, hóa ra đây chính là cảm giác tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon. Chẳng rõ làm thế nào mà ta vượt qua được mấy ngày mấy đêm không ngủ nghỉ nhỉ? Có lẽ vì biết mình sắp sổ khỏi lồng vàng, nên sức chịu đựng đột nhiên nhảy vọt.
Vừa qua giờ mão, ta chải đầu rửa mặt xong bắt đầu dùng bữa sáng. Đằng đông vừa hừng lên, từ lỗ cửa bé tẹo của phòng giam nhìn ra, thấy băng tuyết đóng dày đã bắt đầu tan, vài mảng băng dưới sức nóng của ánh mặt trời rụng xuống đất, đây đó nghe tiếng lạo xạo xôn xao.
Ta ngủ rất ngon, còn Túc nương xem ra không được yên giấc cho lắm, vừa lo lắng cho đàn con, vừa lo lắng chuyện hôm nay. Dung nhan vốn tươi tắn mạnh mẽ giờ trông tiều tụy hẳn đi, ta vờ như không biết. Có lẽ trong bụng Túc nương đã coi ta như phường rắn rết, tấm chân tình ngày vào ngục sợ rằng hóa ra tro cả.
Ta vốn không có bằng hữu, sau này chắc cũng không. Cô ta đối xử tử tế, chăm sóc ta như vậy, nhưng mất rồi ta chẳng hề nuối tiếc, cái gọi là tình cảm chẳng khác chi gánh nặng, nào có công dụng gì khác?
Giờ mão ba khắc, có tiếng mở cửa sắt văng vẳng vọng vào. Túc nương căng thẳng nhìn sang, ta cầm tách trà trên bàn lên nhấp một ngụm, chợt nghe có tiếng rầm rập loảng xoảng càng lúc càng gần, vẻ như tiếng vỏ kiếm đụng vào giáp sắt xen lẫn tiếng bước chân.
Đoàn quân khí thế bức người xâm chiếm nhà ngục, không một ai dám lên tiếng ngăn cản, bởi có ai đó đã lên tiếng: “Phượng ý chỉ của Hoàng hậu nương nương, giao cho Tín vương thẩm vấn Ninh Vũ Nhu, không ai được phép cản trở.”
Đám binh lính này hành quân vội vã, giáp mũ chạm phải song sắt phát ra âm thanh rin rít ghê răng. Phòng giam trống trải vang vọng tiếng bước chân, ngọn nến ngày đêm luôn thắp sáng giờ xôn xao lay động, phản chiếu lên bức tường loang lổ những hình thù dữ tợn, ghê sợ.
Túc nương định hỏi ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì, chợt nhớ lời hứa hôm trước, bèn ngậm miệng không nói gì.
Đoàn người nhanh như chớp đổ bộ vào phòng giam, cánh cửa sắt bị mở tung, giữa đám đông một người thân mang giáp nhẹ màu bạc, eo gài bảo kiếm, đầu đội giáp bạc, chính là phục sức của một vị phiên vương, những người xung quanh có lẽ là thủ hạ của ông ta.
Tay Tín vương cầm một thẻ giấy ngọc, chính là thứ Hoàng hậu ngày thường dùng để hạ chỉ. Y bước vào lồng sắt, những kẻ khác bèn vây lấy bốn phía, dĩ nhiên Túc nương bị ép ra khỏi phòng.
“Truyền ý chỉ của Hoàng hậu, Ninh Chiêu Hoa lập tức nhập cung…”
Ta quỳ xuống nhận chỉ, chờ y thu hồi cuộn giấy, mới đứng lên hỏi: “Mẫu thân của bản phi có phải đang ở chỗ các người không?”
Tay trái Tín vương đặt lên vỏ kiếm gài trước eo, nhìn ta lạnh lùng cười nhạt: “Ninh Chiêu Hoa phạm tội lớn như vậy, mà còn định mưu toan thoát thân? Ngươi không biết mẫu thân ngươi sớm đã khai nhận mọi chuyện, chỉ cần dẫn ngươi ra trước mặt Hoàng thượng đối chất, dù Hoàng thượng có lòng thiên vị sợ rằng cũng không giữ được tính mạng cho ngươi đâu.”
Ta thối lui mấy bước, người lảo đảo đứng không vững, nói: “Không thể nào, chắc chắn là các ngươi dùng nhục hình ép cung, mẫu thân ta chịu không nổi đau đớn mới phải khai khống.”
Tín vương sống lâu nơi biên ải, rất có khí chất của tướng lĩnh, thản nhiên nói tiếp: “Dĩ nhiên ngươi không nói với bà ta. Ngươi nhờ bà ta thêu túi hương để làm gì? Mẫu thân ngươi vì không hay biết gì nên mới khai ra tất cả. Bà ta còn tưởng làm thế có thể giúp ngươi thoát tội. Mai ngũ sắc có tác dụng xua đuổi côn trùng nhưng lại hơi độc, nghe nói sẽ khiến người ta mắc chứng tiêu chảy cấp tính… Bản vương nói vậy, ngươi đã rõ ràng cả chưa?”
Mặt ta xám như tro, nhìn Tín vương trân trối: “Nghe nói vương gia ở vùng biên cương phía đông nam ngày ngày trị quân nghiêm mật, rất được quân dân yêu mến, chắc sẽ không làm khó một bà quả phụ vô tri chứ?”
Tín vương lạnh lùng đáp: “Bản vương là hạng người gì, há lại làm như vậy? Mẫu thân ngươi giờ đang nghỉ ngơi trong cung, do muội muội ngươi chăm nom, ngươi còn gì chưa yên lòng nữa?”
Ta bèn gật gật đầu, y vẫy tay định phái người tiến tới trói lại áp tải đi, ta nói: “Vương gia việc gì phải lo sợ, bản phi trói gà không chặt, cứ để ta tự theo các người đi là được rồi.”
Tín vương hơi do dự, rồi cho đám quân lui ra.
Ta bước đến cạnh giường, như định với lấy cái áo bông vắt ở đó, bỗng dưng rút từ dưới chăn ra một con dao nhỏ sáng quắc, kề cổ họng, nhìn quanh một vòng, bắt gặp ánh mắt sắc lạnh của Tín vương, ta nói: “Vương gia, thần thiếp đã phạm tội lớn thế này, chẳng mặt mũi nào gặp Hoàng thượng, xin ngài chuyển lời với Hoàng thượng rằng, thần thiếp đa tạ hậu ân.”
Trong ngục những tiếng hô hoán vang lên không ngớt, ta thấy Túc nương đang luống cuống tìm cách ra ngoài, mấy lần đẩy đám thị vệ chen ra cửa mà không được.
Tín vương dù sống trong quân ngũ, đối diện với binh đao lửa đạn đã quen mà nhất thời cũng không biết làm sao, chỉ nhắc đi nhắc lại mỗi một câu: “Nương nương, sự việc chưa được làm rõ, người việc gì phải vậy?”
Ta nói với Tín vương: “Tín vương, chứng cứ đã rành rành như thế, thần thiếp còn lời nào để nói nữa.”
Con dao này đã được giấu trong chiếc bánh còn lại, một cái khóa trường mệnh đã khiến Túc nương mất ăn mất ngủ, quên bẵng việc tra xét cái bánh kia.
Dao đôi khi không cần lớn, chỉ cần bén nhọn là đủ.
Ta khẽ lắc cổ tay, cảm thấy một thứ chất lỏng nóng hổi từ cổ chảy xuống, có lẽ sắc đỏ tươi đã nhuộm đẫm áo quần. Trần nhà dần mơ hồ trong tầm mắt, chỉ nghe Túc nương gào lớn: “Mau gọi ngự y, nương nương, người không được chết! Hỏng rồi, không thấy mạch đâu nữa…”
Ý niệm cuối cùng còn lại trong tim ta chính là, mong mọi chuyện tiến hành thuận lợi.
Cứ thế mê man không biết bao lâu, đến một ngày, ta nghe thấy bên tai có tiếng gọi: “Con ơi! Sao nó vẫn chưa tỉnh, đáng lẽ phải tỉnh rồi chứ?”
Đó là giọng mẫu thân. Một niềm vui sướng tột độ bất giác len lỏi vào cái đầu còn đang u mê của ta: Thành công rồi sao?
Ta cố gắng mở mắt ra, gương mặt kinh ngạc xen lẫn vui mừng của mẹ hiện ra rõ dần: “Con ơi, con tỉnh rồi! Cuối cùng cũng tỉnh, con ngủ gần bảy ngày rồi đó.”
Ta định nói: Bảy ngày? Vậy hôm nay chẳng đúng ngày chúng ta đã hẹn trước? Nhưng mở miệng ra mới biết giọng mình khản đặc, cổ họng cứ như bị lấp đầy cát thô.
Mẫu thân vội đỡ ta lên: “Con cứ nằm đi đã, vừa dùng loại thuốc hại người như thế, nên tĩnh dưỡng từ từ mới hồi phục được, ta đã cho người băng bó vết thương trên cổ con lại, may mà chỉ bị thương nhẹ thôi.”
Hạ Hầu Thần tưởng rằng Lí Sĩ Nguyên đã phái thủ hạ giỏi nhất của mình canh chừng ta, các vật phẩm đem dâng đến đều kiểm tra nghiêm ngặt, mà không ngờ rằng trong các món đồ ăn mang vào có trộn lẫn thuốc. Hôm nay là cái bánh đường tẩm bạch kỳ[2], ngày mai là phần cơm sáng thêm thuốc tư âm bổ dương, có khi y phục đem đến được hun trầm từ trước, ta chỉ việc đến giờ bữa nào dùng thức ấy, khiến các loại thuốc dần phát huy tác dụng trong cơ thể. Bánh hồ bình thường tẩm vừng trên bề mặt, nhưng hai cái bánh hồ hôm đó mang đến cho ta lại bọc bằng hạt cà độc dược Tây Vực. Túc nương đã không còn đề phòng ta nữa, lại thân thiết đến độ sắp sửa gọi nhau là tỷ muội, vậy mà lại bất ngờ bị ta đâm một nhát trí mạng, cô ta hoàn toàn tuyệt vọng và sợ hãi, ngoài sự an nguy của hai đứa con ra không thể nghĩ thêm bất kỳ điều gì khác, cứ tưởng hai cái bánh hồ chỉ dùng để giấu khóa trường mệnh, từ đó bỏ qua những điểm đáng nghi khác. Kế dương đông kích tây này thời ở Thượng Cung cục ta thường xuyên sử dụng, đánh đâu trúng đó, lần này càng không ngoại lệ.
[2] Tên một vị thuốc trong đông y, có tên khác là thanh dương sâm, bạch bì kỳ có tác dụng bổ khí, lợi tiểu, tiêu độc, khép miệng vết thương, bài mủ.
Hạt cà độc dược chỉ lớn hơn hạt vừng một chút, hình dáng màu sắc cũng tương tự, thường khi dùng làm thuốc phải giã nát rồi mới trộn vào thức ăn, ai ngờ ta lại sai người để nguyên hạt phơi bày trước mắt như vậy?
Loại hạt này có tác dụng khiến người ta mê man, cơ thể rơi vào trạng thái chết giả, lại thêm các thuốc khác, hơi thở của ta nhờ đó ngưng hẳn trong mười mấy phút đồng hồ, đám đông quân lính cản trở tầm nhìn của Túc nương, nhưng đúng lúc đó như vô tình mở ra một con đường, để cô ta xông vào làm chứng việc hơi thở của ta đã đứt đoạn. Tín vương lập tức sai người bế thốc ta ra ngoài, chạy nhanh đến Thái y viện, Túc nương không thể ngăn cản được, ắt sẽ nghĩ đến lời ta căn dặn ngày hôm trước, chờ nửa canh giờ trôi qua mới đi báo cáo với thượng cấp. Cô ta nhất định sẽ làm thế, đúng thời điểm lý tưởng nhất để báo cáo.
Thấm thoát mà đã gần đến Tết, mỗi năm vào thời gian này, người đại diện các tỉnh mang đồ tiến cống ra vào cung không ngớt, đây là dịp bận rộn nhất của Thượng Cung cục trong năm. Mùa xuân, trong cung mở hết yến tiệc này tới yến tiệc khác, những món đồ cần dùng và đồ ăn thức uống rất nhiều, thứ nào cũng tinh xảo đẹp đẽ vô cùng, đều là cống phẩm từ các nơi đổ về.
Nhưng trận tuyết lớn mấy ngày trước làm tắc nghẽn khá nhiều con đường vào kinh, các đoàn thượng cống đa phần bị mắc lại. Hôm nay trời vừa nắng lên, để tránh bị quan nha trách phạt, họ lũ lượt kéo về kinh thành. Trên các ngả đổ vào kinh, đâu đâu cũng là người, bọn trộm cướp cả gan nhân cơ hội ra tay vơ vét, có thể nói là ầm ĩ hỗn độn vô cùng. Từ Tông Nhân Phủ đến Ngự Y Phòng bắt buộc phải đi qua một dải đường cái đông nghịt, đúng lúc ấy có tặc phỉ làm loạn, thời không quá lạ lùng.
Đoàn thuộc hạ của Tín vương tổng cộng chỉ có hơn mười người, làm sao địch lại với đám đông dân chúng xô đẩy như triều dâng? Trong lúc hỗn loạn, chiếc xe ngựa nhỏ chở ta đột nhiên mất tích, chuyện này Tín vương chẳng thể tính toán trước được.
Ta nghĩ lần này đến ông trời cũng giúp ta. Đêm hôm trước trời vừa dừng mưa tuyết, ngày sau thì hửng nắng, tất cả đều diễn tiến y như dự liệu, kế hoạch tiến hành thuận lợi vô cùng. Hoàng hậu theo đúng lời dặn, lệnh cho Tín vương vào ngục đưa ta đi, có điều ta không thể tin tưởng cô ta cùng đám tay chân này được. Ta nói với Hoàng hậu, chỉ cần chuyển ta từ Tông Nhân Phủ đến Thái y viện, rồi tìm một viên ngự y thân tín chứng thực cái chết, lấy một cái xác nào đó tráo đổi, đưa ta ra ngoài là được. Có điều nếu làm đúng như kế hoạch này, ta có nguy cơ thành người chết thật sự, lẽ dĩ nhiên phải có toan tính của riêng mình.
Hoàng hậu tưởng ta sẽ làm đúng kế hoạch, bèn thả mẫu thân ta ra trước nhằm chiếm lòng tin, chờ cơ hội đoạt mạng tử địch, sau đó bố cáo thiên hạ rằng ta sợ tội tự sát, vụ án Thái hậu từ đó vĩnh viễn khép lại, còn Hoàng thượng không thể không chấp nhận cách xử trí của cô ta. Hoàng hậu cho rằng ta bị giam trong ngục, chỉ nắm được một điểm yếu nho nhỏ của mình, nên không thể không dựa dẫm hoàn toàn vào ả. Nhưng Hoàng hậu không ngờ mẫu thân ta không tầm thường, đáo để chua ngoa nhưng thông minh tài trí. Ngân lượng ta gửi ra cho bà chỉ đủ để làm ăn nhỏ bên ngoài, nhưng càng buôn bán càng phát đạt, dưới sự giúp sức của ta, bà ngầm thu nhận thủ hạ riêng. Bà không đơn thuần là một phụ nhân tuổi xế chiều quen ăn ngon mặc đẹp. Hai xưởng thêu lớn nhất trong kinh thành, sản xuất ra các món đồ tinh mỹ hoa lệ bậc nhất đều do bà ngầm đứng sau cai quản, ngoài ra còn buôn ngọc ngà châu báu, cho người về các mỏ khai thác thu mua ngọc thô rồi gia công chế tác thành trâm vòng, có ta đứng sau cố vấn, kiểu dáng các món trang sức làm ra dĩ nhiên xuất chúng.
Ta sớm đã dặn dò mẹ để tránh người ta nhòm ngó, chỉ nên đứng bên trong chỉ đạo chứ đừng xuất đầu lộ diện.
Ta luôn cảm thấy nếu bản thân có thể xuất cung chắc chắn cuộc sống sẽ tốt hơn rất nhiều: Sẽ không còn bị Hạ Hầu Thần giày vò, không cần nghĩ cách lấy lòng các phi tần phẩm vị cao hơn mình.
Xem ra mọi việc đúng như ta mong đợi.
Lần hôn mê này tổn hại khá nhiều đến sức khỏe, bởi các vị thuốc uống vào đều có ít nhiều độc tố, lại thêm vết thương trên cổ, tuy thống nhất từ đầu chỉ cứa nhẹ rồi dùng máu gà đổ lên, nhưng để cho giống thật, khi Túc nương lao đến kiểm tra nhìn rõ vết cắt trên cổ máu thịt bầy nhầy, ta làm cho vết cắt khá sâu, máu gà lẫn máu thật hòa vào nhau chảy ra ròng ròng, chừng nào chưa rửa sạch vết thương, chừng đó không ai biết vết cắt sâu đến đâu.
Chuyện thi thể ta mất tích chắc chắn sẽ khiến Hoàng hậu và Tín vương vướng phải rắc rối. Tín vương chỉ biết phải giải ta vào cung, không hề biết âm mưu mà ta và Hoàng hậu ngầm ước định, chắc bây giờ vô cùng sốt ruột, chẳng khác gì con kiến rơi vào chảo nóng.
Nghĩ đến đây, ta cười khẽ một tiếng. Về phần Túc nương, ta không hề cho người làm gì hai đứa trẻ, chỉ lấy cái khóa trường mệnh mà thôi. Cô ta thường xuyên ở lại ngục mấy ngày mới về nhà một lần, lần này về phát hiện mọi sự vẫn như thường, biết có càng hận thêm?
Ta đã nói rồi, ta không có bằng hữu, và càng không cần. Tất cả những gì cô ta làm chỉ là để hoàn thành sứ mệnh Lí Sĩ Nguyên giao phó, còn tất cả những gì ta làm, là để cầu một con đường sống mà thôi.
Trong thời gian dưỡng thương, thi thoảng ta lại nhờ mẫu thân ra phố nghe ngóng xem có cáo thị quan phủ mới ban bố hay không, nếu có cáo thị bố cáo thiên hạ rằng hung thủ hạ độc Thái hậu tự sát vong mạng, ta còn có thể hơi yên lòng một chút. Đây là kết cục làm tất cả mọi người đều vui mừng, Tín vương tận mắt chứng kiến ta tự sát mà mất mạng, dưới sự chủ trì của Hoàng hậu, y chính tai nghe mắt thuật lại chuyện túi hương, chắc sẽ không nghi ngờ trong vụ việc còn có ẩn tình. Mà nếu nghi ngờ thì đã sao? Mọi việc đã rõ mười mươi, y lần này vô cớ mang binh về kinh, giờ chỉ còn nước trở lại biên cương. Hoàng hậu không còn “địch thủ” – vốn dĩ do cô ta tự tưởng tượng mà ra – là ta, chắc chắn sẽ ngủ thêm ngon giấc. Riêng Hạ Hầu Thần, ta đã giúp hắn một việc lớn, vừa trừ bỏ được Thái hậu, lại không khiến chính trường dậy sóng, hắn phải cảm tạ ta mới đúng.
Có điều trước nay có lệ, làm Thiên tử đương nhiên chẳng cần cảm tạ ai.
Đây quả thực là cái kết có hậu cho tất cả mọi người. Thi thoảng ta có dợm nghĩ, không biết Thái hậu thực sự là do ai hãm hại? Không phải ta, thì rốt cuộc là ai không chịu buông tha cho bà? Suy nghĩ lâm vào ngõ cụt, ta bèn buông xuôi. Kẻ địch của Thái hậu đầy rẫy khắp nơi, đến Hoàng đế do chính tay bà ta nuôi lớn cũng trở mặt, huống gì người khác? Ta chẳng việc gì phải tốn công tốn sức nghĩ ngợi chuyện ấy.
Vết thương trên cổ không quá sâu, chưa phạm vào động mạch, khoảng hơn mười ngày sau thì dần dần lành lại. Mẫu thân ngày nào cũng hầm canh bổ giúp ta bài trừ độc tố còn đọng trong người, độc giảm bớt thì dáng vẻ cũng mập mạp hẳn lên, tuy không béo lên quá nhiều nhưng bà vẫn vì đó mà cảm thấy hoan hỉ, bảo: “Trông con dạo này mũm mĩm đáng yêu chưa kìa, nhìn thích hơn hẳn hồi trước. Vào cung được ăn ngon mặc đẹp mà sao gầy xơ gầy xác!”
Ta chưa bao giờ kể với mẫu thân, rằng còn sống trong hậu cung ngày nào thì ngày đó chẳng thể béo lên được, những thức ăn đồ dùng tuy là loại tốt nhất, nhưng sớm khuya lo nghĩ không lúc nào ngơi, béo làm sao nổi?
Ta đã cắt đứt mọi liên hệ với hậu cung, những người và việc trong ấy giờ chẳng còn dính dáng gì đến ta. Thậm chí ta còn không muốn nhớ đến làm gì. Hơn mười ngày nữa trôi qua, những thứ trước đây từng cố công giành giật tranh đoạt, những người ngày xưa phải tính kế lấy lòng đều dần dần trở nên mờ nhạt. Có lẽ thời gian lâu dần, ta còn chẳng thể nhớ nổi những điều đó như thế nào nữa.
Kinh thành sóng yên bể lặng, nghe nói Tín vương đã dẫn quân trở về biên ải, vụ án Thái hậu không được phía quan phủ phát ra công văn chính thức. Ta không tránh khỏi lo phiền, sợ rằng bên trong còn có uẩn khúc mình chưa nắm rõ. Dịp xuất hành đầu xuân mỗi năm một lần lại tới, cứ đến ngày này, Hoàng thượng sẽ dẫn đầu đám triều thần hoặc phi tử được sủng ái tín nhiệm xuất cung, đầu tiên lên lầu cao ở cổng thành xem pháo hoa, cùng vui lễ hội với bá tính, sáng sớm ngày hôm sau đoàn diễu hành do đội danh dự đi đầu sẽ diễu qua con đường trải đá xanh to đẹp nhất kinh sư, đây chính là dịp Hoàng đế gần gũi với dân chúng nhất, để tỏ thành ý cùng nhân dân an hưởng thái bình.
Vụ án của ta dường như hoàn toàn chìm vào biển sâu mà chưa kịp làm sủi lên một vệt sóng bạc. Đáng lẽ không thể nào bình lặng như vậy, ta ngầm lo sợ.
Việc làm ăn do mẫu thân đứng sau ngầm quản lý không quá quy mô, ở kinh thành có hàng trăm gia đình kinh doanh cửa hiệu hạng trung như vậy, ngoại trừ việc thủ công ở chỗ mẫu thân tinh xảo hơn nơi khác một chút, thì chẳng có gì đáng chú ý. Bà cảm nhận được lo phiền của ta, bèn khuyên: “Hay chúng ta rời khỏi kinh thành, đến nơi khác sống cũng vậy thôi mà.”
Ta lắc lắc đầu: “Trước khi mọi chuyện được giải quyết hoàn toàn, chi bằng cứ án binh bất động là hơn. Trước cửa mỗi thành có không biết bao nhiêu mật thám đang truy tìm lùng sục chúng ta, hơn nữa mẹ con ta vốn không quen dầm mưa giãi nắng, thà cứ nấp ngay ở khóe mắt người ta, mới khiến đối phương không ngờ tới nhất.”
Mẫu thân nghe ta nói có lý, liền không khuyên nữa.
Sau khi vết thương khỏi hẳn, hằng ngày vì buồn chán quá, thi thoảng ta cũng cùng mẫu thân ra ngoài, dĩ nhiên phải đội mũ rộng phủ màn sa che kín mặt, chỉ đi những nơi hẻo lánh. Nhờ mạng che mặt nên không ai phát giác điều gì, dần dần dạn dĩ hơn, ta còn đến cửa tiệm giúp mẫu thân quản lý việc kinh doanh, nhưng chỉ ngồi ở trong phòng chỉ đạo người dưới thêu thùa chứ không ra ngoài.
Ta chỉ dạy vài câu, mà đám nghệ nhân ai nấy đều bội phục. Họ đâu có biết ngón nghề may vá của ta là thành quả mười mấy năm trui rèn mới có được?
Dù mọi việc vẫn trót lọt, nhưng ta luôn thận trọng cảnh giác, các họa tiết thêu không có cái nào dính dáng đến kiểu dáng trong cung, chủ yếu lấy hình tượng thiên nhiên là chính. Không nhận đơn đặt hàng của các nhà hào phú, chỉ gia công các đồ vật trung đẳng, ấy vậy mà lời lãi vẫn đủ để sống ấm no, tự do tự tại.
Đôi khi ta ngồi trong tiệm nhìn ra phố, thấy người người qua lại như con thoi, ánh mặt trời dát lên mặt đất một lớp phấn vàng, bụi bặm bay trong không gian cứ như ở chốn bồng lai tiên cảnh. Chuyện đấu đá sau bức tường đào giờ như một giấc mộng. Sau khi tỉnh lại, cuộc sống đâm bình đạm quá sức, liệu ta có cam lòng?
Ta là kẻ biết thời thế, cục diện trong cung vạn phần hung hiểm, sao muốn trở lại làm gì?
Nghĩ đến đây, ta liền chôn chặt suy nghĩ viển vông ấy vào lòng. Hậu cung tuy lấy quyền thế làm đầu, nhưng không giỏi giang ở một phương diện nào đó, thì lấy gì đứng vững được? So với thứ quyền lực ảo vọng đầy mê hoặc kia, mạng sống của bản thân vẫn quan trọng hơn một chút.
Thoắt cái một tháng đã trôi qua, ngày hôm ấy trời trong gió mát, đêm trước có mưa, trong không gian còn phảng phất mùi vị ẩm ướt, tươi mát thanh nhã. Nghĩ đến mấy ngày rồi không cùng mẫu thân ra ngoài đi dạo, ta liền khoác cái áo choàng lót lông cáo vào, phục sức chỉnh tề đâu đó, chuẩn bị sang nhà bên mời mẫu thân ra ngoài mua ít chỉ vàng chỉ bạc về nghiên cứu mẫu thêu mới. Các món đồ trong tiệm chúng ta không thể giống bất cứ loại vật dụng nào trong cung, đợi sau khi sự việc hoàn toàn lắng xuống, hai mẹ con ta cũng rời khỏi kinh đô. Đồ thủ công tiến cống của từng địa phương ta nắm rõ như lòng bàn tay, qua một thời gian nữa ta dẫn mẹ rời đi, trời đất bao la, thế nào cũng có chỗ để lập thân.
Đến phòng mẹ, ta phát hiện đêm trước người không hề về nhà nghỉ ngơi, chắc lại thức trắng, có lẽ tiệm vừa nhận đơn đặt hàng mới nên bà phải xuống đốc thúc, giúp đỡ thợ. Tính cách mẫu thân vẫn thế, cương cường háo thắng, không biết ngày xưa khi phải sống dưới cái bóng của người chị ruột, làm thế nào mà mẫu thân nhẫn nhịn được. Ta gọi a hoàn mang lên một tách trà, ngồi trong phòng chờ bà về. Gian phòng bày trí vô cùng hoa lệ, có mấy bức thêu do chính tay mẫu thân làm, đẹp đẽ không đâu sánh kịp.
Một bức bình phong ba mặt bằng gỗ lim chạm trổ bao bọc lấy khung giường, trên trướng xanh thêu bức chim trĩ giành ăn màu đỏ tươi như máu chực chảy trào, dát thêm kim tuyến, các chi tiết chạm khắc không theo những mẫu như tỳ bà ký ở các khuê phòng bình thường, mà đa số là hình những đứa trẻ ném bóng, thằng nhóc nghịch nước… Ta nhận ra trong sâu thẳm lòng mẫu thân rất tưởng nhớ mình, từng vật từng cảnh trong phòng không gửi gắm nỗi nhớ nhung con gái.
Đang lúc ngắm nhìn bốn phía, chợt nghe sau lưng có tiếng động, ta quay lại, hóa ra mẫu thân đã về, trên gương mặt thoáng nét mệt mỏi. Nhìn thấy ta, bà liền cười bảo: “Sớm thế này con đã dậy rồi ư, vị khách lần này khó tính quá, may mà ngón nghề của mẹ chưa thui chột, mất mấy ngày ròng rã cuối cùng cũng làm xong.”
Tiểu a hoàn đi sau lưng mẹ mang một cái hộp màu vàng làm bằng gỗ tử đàn vô cùng tinh mỹ đặt lên bàn trang điểm. Chiếc hộp này trông có vẻ cổ kính, do tay người cầm nắm nhiều nên bóng loáng cả lên, đặt gần bên giá thêu, cảm giác như hình ảnh tú nương tay cầm kim thêu bỗng chốc hiện ra. Đây là hộp thêu của mẹ, bên trong để mấy cây kim bà yêu quý không nỡ đem ra dùng, có cái lớn cái nhỏ. Ta hơi lấy làm lạ, bèn hỏi: “Đến những vật này mẹ cũng mang ra dùng, yêu cầu của vị khách kia xem ra khắt khe thật.”
Mẫu thân nói bằng giọng khá hài lòng: “Nhân dịp gia phụ tổ chức đại thọ, vị khách kia đến đặt một bức thêu Tùng Hạc Đồng Xuân, yêu cầu cành tùng lẫn lông ở chân hạc phải rõ tầng rõ lớp, muốn được như thế phải dùng thủ pháp thêu tầng, khiến tranh thêu nổi rõ như bức phù điêu, tạo cảm giác hình khối rõ nét. Vị khách này đã đến nhiều chỗ đặt làm nhưng vẫn chưa được ưng ý, hôm ông ta đến vừa đúng lúc ta ngồi sau rèm, nghe vậy nhất thời ngứa nghề, bèn nhận làm ngay. Người đó trả giá rất hậu, chỉ một bức ấy mà đủ cho chúng ta sống sung túc cả nửa đời sau.”
Ta nghi ngờ hỏi: “Ai mà phú quý đến thế ạ?”
Mẹ đáp: “Việc này ta không rõ, trông quần áo phục sức người đó chẳng khác nào người bình thường, nhưng có vẻ là người ở nơi khác đến. Con yên tâm, ta không hồ đồ làm lộ chút manh mối nào đâu, người ấy tuyệt đối không có liên hệ gì với quan nha cả.”
Ta hơi an tâm, bèn cười nói: “Ngón nghề thêu thùa của mẫu thân chẳng kém gì năm xưa, người khách khi ra về chắc chắn hài lòng lắm!”
Được lời như cởi tấm lòng, mẫu thân bật cười: “Nhiều năm không đụng gì đến kim chỉ, lúc mới đầu quả có hơi gượng tay…”
Ta che miệng cười, không nói gì nữa. Hiếm khi mẫu thân vui vẻ đến thế, việc gì ta phải làm mất nhã hứng của người. Có điều lần ngày bà hiển lộ tài năng, không biết có khiến ai chú ý không? Thân phận ta hèn mọn, chắc chẳng lấy làm quan trọng trong mắt ai kia. Đã hơn một tháng rồi, chẳng lẽ hắn còn sai người dùng cách thức rắm rối đó để tìm ta?
Cái chết của ta có lẽ lừa được những người bình thường, nhưng khẳng định không thể lừa được hắn.
Thời gian chầm chậm trôi đi, suốt mấy ngày liền, trước nhà người qua kẻ lại như thường, không có biểu hiện gì khác lạ. Nỗi lo trong ta ngầm được hóa giải, lại tự cười bản thân sống trong cung quá lâu, thần kinh mẫn cảm cực độ, mới hơi nổi gió động cỏ đã ngờ rằng có người nhắm vào mình.
Ta biếng nhác ngồi trên ghế hoàng đàn sưởi nắng chiều, cảm thấy cả người khoan khoái dễ chịu, ánh nắng từ các kẽ lá chiếu xuống mặt, dù đã nhắm hai mắt, vẫn có thể cảm thấy sắc vàng chói chang làm mí mắt bừng sáng. Có ai đó lại gần, che phủ mất ánh nắng trên mắt ta. Tưởng là tiểu a hoàn Kỳ Nguyệt, ta bèn nói: “Kỳ Nguyệt, cháo hạt sen trong bếp chắc là nhừ rồi, múc lên cho ta một chén đi.”
Hồi lâu không thấy con bé trả lời, ta khẽ hé mắt nhìn. Dưới bóng râm của cây cổ thụ, một dáng người cao lớn đứng đó, nhìn ta chăm chú. Vì hắn quay lưng lại phía mặt trời nên trong chốc lát ta không thể nhìn rõ được gương mặt, trong lúc kinh hoảng bèn nghiêm giọng quát: “Ngươi là ai? Sao lại ở đây?”
Người đó hơi quay người, bước một bước nhỏ sang bên. Ta lập tức nhìn rõ gương mặt hắn, làn da hơi tái xanh, thanh tú mà lạnh nhạt, khi chưa cất lời, dường như chất chứa đầy tâm sự, chẳng phải Hạ Hầu Thần thì là ai?
Ta sợ đến mức quên cả rời ghế hành lễ, chỉ lẩm bẩm trong miệng: “Không thể nào…”
Hắn khẽ cười, bóng nắng giữa những kẽ lá đổ loang lổ lên mặt rồng, cứ như một thứ ảo giác quái quỷ được chắp vá từ hàng ngàn mảnh ghép vỡ vụn. Hắn nói: “Ninh Vũ Nhu, ngươi có biết một tháng nay trẫm đã dùng bao nhiêu cách mới tìm ra ngươi hay không? Ngươi giảo hoạt như hồ ly, chỉ cần đánh hơi thấy một chút không ổn, lập tức sẽ biến mất chẳng còn dấu vết, khiến trẫm lao tâm khổ tứ vắt cạn suy nghĩ. Trẫm đã bảo rồi, chỉ có thứ trẫm cho phép ngươi mới được lấy…”, hắn dừng một lát, “… ngay cả cái mạng ngươi cũng vậy!”
Hắn nói bằng một giọng bình bình, còn ta nghe trong ấy ngầm nổi cuồng phong bão táp kinh động đất trời. Cả người ta run lên, như sực tỉnh khỏi giấc mộng, tụt mình khỏi ghế, quỳ sụp xuống đất: “Hoàng thượng, thần thiếp đáng chết.”
Nói xong lập tức dập đầu lia lịa. Ngoại trừ lời này, ta chẳng biết nên nói thêm điều gì.
Có lẽ bức thêu chạm nổi của mẹ đã làm lộ manh mối. Đúng là lưới trời thưa mà khó lọt, không cho ta bất kỳ cơ hội nào.
“Chắc ngươi đang nghĩ, mình đã chết một lần, có chết thêm vài lần cũng được phải không?”
Ta không kịp lựa lời, đáp: “Hoàng thượng, thần thiếp sao dám có ý nghĩ đó?”
“Ninh Vũ Nhu, còn có việc gì mà ngươi không dám làm?”
Ta dập đầu không dám ngẩng: “Hoàng thượng, thần thiếp không dám, trước mặt Hoàng thượng thần thiếp làm sao dám làm gì!”
Lời vừa nói ra ta đã hối hận chỉ muốn cắn lưỡi cho xong, sao lại có thể nói lời ngớ ngẩn như vậy trước mặt hắn?
Hắn lẳng lặng tìm đến nơi này không một ai hay biết, khiến ta chấn động tâm thần. Vừa nhìn thấy hắn, ta lập tức cảm thấy sợ hãi, một nỗi sợ không rõ lý do.
Gương mặt Hạ Hầu Thần chìm vào bóng cây dày đặc, ta không thể nhìn rõ biểu cảm trên gương mặt ấy. Sao hắn phải bỏ ra nhiều tâm tư, sức người lẫn sức của để truy tìm ta? Cuối cùng vì bức thêu chạm nổi của mẹ mới lần ra tung tích. Không biết hắn đã phải đi qua bao nhiêu tiệm thêu mới đến được tiệm của mẹ, ngần ấy tâm tư, ngần ấy công sức chỉ để bắt ta trở về ư?
Trong phút chốc, ta bỗng nảy ra một ý nghĩ táo bạo, ngày thường có nghĩ ta cũng không dám. Chẳng lẽ hắn thực sự có tình cảm với ta, nếu vậy liệu có nên nghĩ cách lợi dụng điểm này mà…
Nghĩ đến đây, ta bèn thử ngẩng đầu lên, nói với hắn: “Hoàng thượng, thần thiếp không nên bỏ Hoàng thượng mà đi, nhưng thần thiếp quả thực rất sợ chết, chỉ có cách trốn đi để bảo toàn tính mệnh. Sau khi ra ngoài thần thiếp vô cùng hối hận, mỗi lần nhớ đến Hoàng thượng là lại…”
Chỉ cần trên mặt hắn lộ ra nửa phần tình ý, ta sẽ nắm được tiên cơ, từ đây tìm ra cách chuyển bại thành thắng?
Hạ Hầu Thần bước ra khỏi bóng râm, gương mặt thấp thoáng vẻ chế giễu, con ngươi sắc lạnh như đá tảng, sắc mặt trắng xanh như tạc nên từ một phiến băng ngọc. Hắn như nhìn rõ ý đồ của ta, nói: “Ninh Vũ Nhu, nếu ngươi tưởng trẫm sẽ dung túng cho một phi tần trốn cung ra ngoài tiêu diêu tự tại, thì ngươi lầm rồi. Trẫm không ngờ một phi tần nhỏ bé mà lại có bản lĩnh lớn đến vậy, trước nay trẫm đã quá xem thường ngươi.” Khóe miệng hắn hơi nhếch lên, “Nếu không vì trẫm còn có việc cần đến, thì biết đâu người đứng trước mặt ngươi bây giờ là một tay sát thủ.”
Giọng điệu hắn lạnh lùng băng giá, ta thất vọng cúi mặt, chẳng thể tìm ra chút nào tình ý từ con người kia, đôi mắt đó nhìn ta cứ như băng vạn năm chưa tan. Ta bất giác hiểu rõ, Hạ Hầu Thần và ta giống nhau, sẽ không để thứ gọi là tình cảm trói chân. Hắn tìm ta không phải vì tình, mà là vì thứ khác, vì ta có thể giúp hắn làm được việc gì đó mà thôi.
Sau cơn thất vọng, đầu óc ta lại căng ra nghĩ ngợi, nếu muốn thoát khỏi nguy khốn trước mắt, phải xem bản thân có gì đáng để hắn xem trọng hay không. Hắn vén tà áo ngồi xuống ghế hoàng đàn, tư thế vô cùng thoải mái.
Trông thấy tà áo màu xanh nhạt của Hạ Hầu Thần chầm chậm lại gần, cảm giác sợ hãi trong lòng ta ngày một tăng. Đương quỳ trên đất, ta không thể lùi lại phía sau, chỉ đành trân trối nhìn đôi hài dừng ngay trước mặt, ngón tay thon dài đeo nhẫn ngọc vằn gõ đều đều lên tay vịn.
Bình luận facebook