• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG vietwriter.co TỪ NGÀY 18/11

Full Hỏa Ngục (Inferno) (1 Viewer)

  • Chương 38

Chương 77
Tiếng nước vỗ mơn man nhẹ nhàng kéo Robert Langdon tỉnh lại, Anh ngửi thấy mùi thuốc vô trùng lẫn với mùi biển mằn mặn và cảm thấy thế giới đang lắc lư phía dưới mình.
Mình đang ở đâu đây?
Chỉ một lúc trước, có vẻ như vậy, anh đã bị khống chế trong cuộc vật lộn tuyệt vọng với những cánh tay mạnh mẽ kéo tuột anh ra khỏi giếng lấy sáng và lôi trở lại hầm mộ. Còn giờ đây, thật lạ lùng, anh không còn càm thấy nền đá lạnh lẽo của nhà thờ St. Mark dưới lưng mình nữa, mà chỉ cảm nhận được một tấm nệm mềm.
Langdon mở mắt và ngó xung quanh - một gian phòng nhỏ sạch sẽ vơi một ô cửa sổ duy nhất. Chuyển động lắc lư vẫn tiếp tục.
Mình đang ở trên một con thuyền sao?
Ký ức cuối cùng của Langdon là bị một người lính mặc đồ đen đè chặt xuống nền hầm mộ và giận dữ rít lên với anh, "Đừng tìm cách chạy trốn nữa!”.
Langdon kêu ầm ĩ, cố gắng cầu cứu khi những người lính tìm cách bịt miệng anh lại.
“Chúng ta cần đưa gã ra khỏi đây”, một người lính nói với đồng bọn.
Anh chàng kia gật đầu do dự. “Cứ làm đi.”
Langdon cảm thấy những ngón tay chắc khỏe thành thục tìm động mạch và ven trên cổ anh. Sau đó, khi đã xác định được vị trí chính xác trên động mạch cảnh, những ngón tay ấy bắt đầu ép một lực rất mạnh xuống. Chỉ trong vài giây, mắt Langdon bắt đầu nhòa đi, và anh cảm thấy mình đang trôi, não không còn dưỡng khí.
Họ đang giết mình, Langdon nghĩ. Ngay ở đây, bên cạnh mộ Thánh Mark.
Mọi thứ tối sầm, nhưng dường như vẫn chưa đủ vì còn có thêm những bóng xám câm lặng xuất hiện.
Langdon không biết thời gian đã trôi qua bao nhưng lúc này thế giới bắt đầu trở lại với anh. Từ những gì anh có thể phán đoán thì anh đang ở trong một bệnh xá trên tàu. Khung cảnh vô
trùng xung quanh anh cùng với mùi cồn isopropyl tạo nên một cảm giác ngờ ngợ rất lạ, cứ như thể Langdon vừa đi trọn một vòng tròn, tỉnh lại y như đêm hôm trước, trên một giường bệnh xa lạ với những ký ức không nói được lên lời.
Ý nghĩ của anh lập tức hướng đến Sienna và sự an toàn của cô. Anh vẫn còn thấy đôi mắt nâu dịu dàng của cô nhìn xuống anh, chứa đầy hối tiếc và sợ hãi. Langdon cầu mong rằng cô thoát được và sẽ tìm cách ra khỏi Venice an toàn.
Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi, Langdon đã nói với cô, vì sững sờ nhận ra địa điểm đích thực phần mộ của Enrico Dandolo. Toà bảo quán của tri thức thành thiêng bí ẩn trong bài thơ không nằm ở Venice, mà ở một thế giới xa vời. Đúng như tác phẩm gia Dante đã nói, ý nghĩa của bài thơ đươc giấu “bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu”.
Langdon định giải thích mọi việc cho Sienna ngay khi họ thoát ra khỏi hầm mộ, nhưng anh không còn cơ hội nữa.
Cô ấy bỏ chạy mà chỉ biết rằng mình đã thất bại.
Langdon cảm thấy dạ dày quặn thắt.
Đại dịch vẫn ở ngoài kia… một thế giới xa vời.
Từ bên ngoài bệnh xá, Langdon nghe thấy tiếng giầy ủng vang lên rất to trong sảnh, và ngoảnh nhìn một người đàn ông mặc áo đen đang bước vào chỗ anh nằm. Vẫn là gã lính vạm vỡ đè nghiến anh xuống sàn hầm mộ. Ðôi măt gã lạnh lẽo như đá. Bản năng của Langdon nhắc anh lùi lại khi người đàn ông tiến đến, nhưng chẳng còn chỗ nào để chạy nữa. Bất kỳ việc gì những kẻ này muốn ra tay với mình, họ đều có thể làm.
"Tôi đang ở đâu?", Langdon hỏi, giọng cố tỏ ra thách thức hết mức.
"Trên một Chiếc thuyền buông neo ngoài khơi Venice.”
Langdon nhìn tấm phù hiện xanh là cây trên đồng phục của người đàn ông - một quả cầu có những chữ cái ECDC (51) bao quanh. Langdon chưa bao giờ nhìn thấy biếu tượng hay cụm từ viết tắt này.
(51) Viết tắt của Europian Centre for Disease Perevention and Control.
“Chúng tôi cần thông tin từ anh”, người lính nói, “và chúng tôi không có nhiều thời gian”.
"Tại sao tôi phải nói gì đó cho các người chứ?", Langdon hỏi lại. "Các người suýt giết tôi.”
“Không đến mức thế. Chúng tôi dùng một kỹ thuật vô hiệu hóa của judo gọi là shime waza.. Chúng tôi không có định làm hại anh đâu.”
“Anh bắn tôi sáng nay đấy thôi!”, Langdon nói, còn nhớ rõ âm thanh rền vang khi viên đạn bắn trúng chắn bùn chiếc Trike của Sienna. “Đạn của anh suýt trúng đốt sống tôi còn gì!”
Người đàn ông nheo mắt. “Nếu tôi muốn bắn vào sống lưng anh thì tôi đã làm được ngay rồi. Tôi chỉ bắn một viên duy nhất để xuyên thủng lốp sau xe của anh, không cho các anh chạy đi thôi. Tôi được lệnh liên hệ với anh và tìm hiểu xem tại sao anh lại hành động thất thường như vậy.”
Langdon còn chưa lĩnh hội được đầy đủ những lời này thì thêm hai người lính nữa bước qua cửa, tiến lại phía giường anh nằm.
Đi giữa họ là một người phụ nữ.
Một bóng ma.
Đầy vẻ siêu trần và thuộc về thế giới khác.
Langdon lập tức nhận ra bà ấy chính là hình ảnh trong những ảo giác của anh. Người phụ nữ trước mặt anh rất đẹp, với mái tóc bạc dài và cái bùa bằng lam ngọc. Vì trước đây, bà ấy xuất hiện trong khung cảnh đáng sợ toàn những xác chết nên Langdon phải mất một lúc lâu mới tin rằng đích thực bà ấy đang đứng trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.
“Giáo sư Langdon”, bà ấy nói, mỉm cười mệt mỏi lúc đến bên giường anh. “Tôi thấy nhẹ người vì anh không sao.” Bà ngồi xuống và bắt mạch cho anh. “Tôi nghe nói anh bị mất trí nhớ. Anh còn nhớ tôi không?”
Langdon nhìn kỹ người phụ nữ một lúc. “Tôi đã từng… thấy hình ảnh bà, mặc dù tôi không nhớ đã gặp bà.”
Người phụ nữ cúi về phía anh, vẻ mặt đầy thông cảm. “Tên tôi là Elizabeth Sinskey. Tôi là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, và tôi chiêu mộ anh để giúp tôi tìm ra…”
“Một đại dịch”, Langdon nói. “Do Bertrand Zobrist tạo ra.”
Sinskey gật đầu, trông phấn khởi hẳn. “Anh còn nhớ à?”
“Không, tôi tỉnh dậy trong một bệnh viện với một cái máy chiếu nhỏ rất lạ cùng những hình ảnh về bà luôn bảo tôi hãy tìm kiếm và sẽ thấy. Đó chính là những gì tôi đang cố làm khi những người đàn ông này tìm cách giết tôi.” Langdon ra hiệu về phía những người lính.
Gã lính cơ bắp sửng cồ, rõ ràng sẵn sàng trả miếng, nhưng Elizabeth Sinskey đã vẫy tay ra hiệu cho gã im lặng.
“Giáo sư”, bà nhẹ nhàng nói,” tôi biết chắc anh bị nhầm lẫn. Là người đã lôi anh vào vụ này, chính tôi cũng hết hồn vì những gì đã xảy ra và tôi biết ơn vì anh vẫn an toàn.”
“An toàn ư?”, Langdon đáp lại. “Tôi bị mắc kẹt trên một con tàu!” Và bà cũng vậy!
Người phụ nữ tóc bạc gật đầu thông cảm. “Tôi sợ rằng chứng mất trí nhớ sẽ làm đầu óc anh rối beng trước những vấn đề tôi định nói. Thế nhưng, thời gian của chúng ta rất ít, và nhiều người cần sự giúp đỡ của anh.”
Sinskey do dự, như thể không biết phải tiếp tục thế nào. “Trước hết”, bà ấy bắt đầu, “tôi cần anh hiểu rằng Brüder và nhóm của anh ấy chưa bao giờ cố làm hại anh cả. Họ đang trực tiếp nhận mệnh lệnh liên hệ lại với anh bất kỳ cách cần thiết nào”.
“Liên hệ lại ư? Tôi không…”
“Giáo sư, làm ơn cứ nghe thôi. Mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ. Tôi hứa đấy.”
Langdon yên vị trở lại trên chiếc giường bệnh xá, ý nghĩ của anh xoay vòng trong lúc tiến sĩ Sinskey nói.
“Đặc vụ Brüder và người của anh ấy là một đội SRS – Hỗ trợ giám sát và phản ứng. Họ hoạt động dưới quyền Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Châu Âu.”
Langdon liếc nhìn những chiếc phù hiệu ECDC trên đồng phục của họ. Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh à?
“Nhóm của anh ấy”, bà tiếp tục, “chuyên phát hiện và ngăn chặn những hiểm họa bệnh lây lan. Về cơ bản, họ là một nhóm SWAT chuyên ứng phó với các nguy cơ sức khỏe cấp tính quy mô lớn. Anh là hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc xác định bệnh dịch mà Zobrist đã tạo ra, vì thế khi anh biến mất, tôi giao nhiệm vụ đó cho nhóm SRS tìm kiếm anh… Tôi triệu tập họ tới Forence để hỗ trợ tôi.”
Langdon sững sờ. “Những người lính kia làm việc cho bà sao?”
Bà gật đầu. “Mượn họ từ ECDC. Tối qua, khi anh biến mất và không gọi lại, chúng tôi nghĩ có chuyện gì đó đã xảy ra với anh. Mãi cho đến tận sáng sớm nay, khi nhóm hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi phát hiện thấy anh kiểm tra tài khoản thư điện tử Harvard của mình thì chúng tôi mới biết anh còn sống. Đến lúc đó, lời giải thích duy nhất của chúng tôi cho cách hành xử kỳ lạ của anh là anh đã đổi phe…có thể vì được đề nghị những khoản tiền rất lớn để tìm dịch bệnh cho một ai khác.”
Langdon lắc đầu. “Chuyện đó thật phi lý!”
“Phải, nó như là một kịch bản không chắc chắn, nhưng đó là cách giải thích hợp lý duy nhất – và với nguy cơ quá cao, chúng tôi không thể đánh liều. Dĩ nhiên, chúng tôi không bao giờ nghĩ ra được anh lại đang mất trí nhớ. Khi đội hỗ trợ công nghệ của chúng tôi thấy tài khoản thư điện tử Harvard của anh đột nhiên hoạt động, chúng tôi dò theo địa chỉ IP máy tính của anh thới căn hộ ở Florence và tiến vào. Nhưng anh bỏ chạy bằng chiếc xe máy, cùng với cô gái kia, càng làm tăng sự nghi ngờ của chúng tôi rằng lúc này anh đang làm việc cho một ai đó khác/”
“Chúng tôi phóng ngay qua bà!”, Langdon ngắt lời. “Tôi nhìn thấy bà ở phía sau một xe thùng đen, có lính tráng vây quanh. Tôi nghĩ bà là người bị bắt. Có vẻ như bà bị hôn mê, giống như họ đã cho bà dùng thuốc.”
“Anh nhìn thấy chúng tôi ư?” Tiến sĩ Sinskey có vẻ rất ngạc nhiên. “Lạ nhỉ, anh nói đúng…họ cho tôi dùng thuốc.” Bà dừng lại, “nhưng là chỉ vì tôi ra lệnh cho họ làm việc đó.”
Giờ thì Langdon hoàn toàn không hiểu. Bà ấy bảo họ cho mình dùng thuốc ư?
“Có lẽ anh không còn nhớ chuyện này”, Sinskey nói, “nhưng khi chiếc C-130 của chúng ta hạ cánh tại Florence, áp suất thay đổi, và tôi bị một hiện tượng vẫn đươc gọi là mất thăng bằng vị trí đột phát – một chứng tai trong suy nhược mạnh mà tôi đã bị từ trước. Nó chỉ tạm thời và không nghiêm trọng, nhưng khiến cho nạn nhân bị chóng mặt và buồn nôn nên không thể tỉnh táo được. Bình thường, tôi phải đi nằm và rất buồn nôn. Nhưng chúng ta đang đối phó với cuộc khủng hoảng Zobrist, và vì thế tôi tự kê toa thuốc cho mình bằng những mũi tiêm metolopramide đều đặn mỗi giờ để giúp tôi chống nôn. Thuốc có hiệu ứng rất nặng là gây ra tình trạng uể oải, nhưng ít nhất nó giúp tôi có thể điều hành mọi việc bằng điện thoại từ phía sau xe thùng. Nhóm SRS muốn đưa tôi tới bệnh viện, nhưng tôi ra lệnh cho họ không được làm vậy cho tới khi chúng tôi liên hệ lại được với anh. Thật may, cuối cùng chứng mất thăng bằng cũng dứt trong chuyến bay đến Venice”.
Langdon nằm vật xuống giường, bực bội. Mình đã chạy trốn Tổ chức Y tế thế giới suốt cả ngày- trốn chính những người chiêu mộ mình vào cuộc.
“Giờ chúng ta phải tập trung, giáo sư”, Sinskey nói, giọng bà đầy khẩn trương. “Đại dịch của Zobrist anh có manh mối xem nó ở đâu không?” Bà nhìn anh với vẻ mặt đầy mong ngóng. “Chúng ta có rất ít thời gian.”
Nó ở rất xa, Langdon muốn nói vậy, nhưng có gì đó ngăn anh lại. Anh ngước lên nhìn Brüder, gã lính đã nổ súng vào anh sáng nay và gần như bóp nghẹt anh cách đây không lâu. Với Langdon, mọi chuyện thay đổi nhanh đến mức anh không biết phải tin vào ai nữa.
Sinskey cúi xuống, nét mặt bà vẫn rất chăm chú. “Chúng tôi có linh cảm rất mạnh mẽ rằng đại dịch ở tại Venice này. Có phải vậy không? Hãy cho chúng tôi biết chỗ nào, và tôi sẽ phải một đội vào đất liền.”
Langdon do dự.
“Thưa ngài!” Brüder lên tiếng vẻ nôn nóng. “Rõ ràng ngài biết điều gì đó… hãy cho chúng tôi biết nó ở đâu! Ngài không hiểu chuyện gì sắp xảy ra sao?”
“Đặc vụ Brüder!”, Sinskey giận dữ quát gã kia. “Đủ rồi”, bà ra lệnh, sau đó quay lại Langdon và nói khẽ. “Nghĩ đến tất cả những gì anh vừa trải qua, hoàn toàn có thể hiểu rằng anh bị mất phương hướng, và không biết tin ai.” Bà ngừng lại, nhìn sâu vào mắt anh. “Nhưng thời gian của chúng ta rất ít, và tôi đang đề nghị anh tin tưởng tôi.”
“Ông Langdon có đứng lên được không?”, một giọng nói mới vang lên.
Một người đàn ông thấp nhỏ với nước da sạm nắng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông ta nhìn kỹ Langdon với vẻ bình thản đã được rèn luyện, nhưng Langdon thấy rõ sự nguy hiểm trong mắt ông ta.
Sinskey ra hiệu cho Langdon ngồi dậy. “Giáo sư, đây là một người mà tôi không định hợp tác, nhưng tình hình quá nghiêm trọng nên tôi không còn lựa chọn nào khác.”
“Theo tôi”, người đàn ông nói, đi lại phía cửa. “Có thứ các vị cần xem.”
Langdon vẫn đứng nguyên. “Ông là ai?”
Người đàn ông dừng lại và khum khum những ngón tay. “Tên tuổi không quan trọng. Anh có thể gọi tôi là Thị trưởng. Tôi điều hành một tổ chức mà đã… tôi xin lỗi phải nói vậy, phạm sai lầm giúp Bertrand Zobrist đạt được mục đích của hắn. Giờ tôi đang cố gắng sửa chữa sai lầm đó trước khi quá muộn.”
“Ông muốn cho tôi xem thứ gì?”, Langdon hỏi.
Người đàn ông nhìn sững Langdon với ánh mắt kiên nghị. “Một thứ chắc chắn sẽ khiến anh có suy nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng một chiến tuyến.”
Chương 78
Langdon theo người đàn ông sạm nắng đi qua cả một mê cung những hành lang chật chội ở sàn dưới tàu, cùng với tiến sĩ Sinskey và những người lính ECDC rồng rắn theo sau thành một hàng. Khi cả nhóm đến gần một cầu thang, Langdon hy vọng họ sẽ đi lên phía có ánh sáng ban ngày, nhưng họ lai đi sâu xuống phía dưới hơn.
Ở sâu trong bụng con tàu lúc này, người hướng dẫn đưa họ đi qua một khu vực gồm toàn những buồng kính kín mít – một số buồng có tường trong suốt và một số còn lại là tường mờ. Bên trong mỗi gian phòng cách âm đó, nhiều nhân viên đang miệt mài gõ máy tính hoặc nói điện thoại. Họ ngước nhìn nhóm người đang đi qua, trông họ đều rất cảnh giác khi thấy người lại mặt ở khu vực này của con tàu. Người đàn ông sạm ắng gật đầu và trấn an họ đi tiếp.
Nơi này là nơi nào? Langdon thắc mắc khi họ tiếp tục đi qua một loạt khu vực làm việc được thiết kế san sát.
Cuối cùng, vị chủ tàu đưa họ đến một phòng họp lớn, và tất cả đều bước vào. Khi cả nhóm đã ngồi xuống, người đàn ông ấn một cái nút, những bức tường kính đột nhiên chuyển sang mờ đục, nhốt kín họ bên trong. Langdon giật mình, vì chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.
“Chúng ta đang ở đâu?” Cuối cùng Langdon lên tiếng hỏi.
“Đây là tàu của tôi – The Medacium.”
“Medacium à?”, Landon hỏi. “Như trong… tên gọi Latin của Pseudologos – vị thần dối trá của người Hy Lạp à?
Người đàn ông có vẻ rất ấn tượng. “Không có nhiều người biết điều đó đâu.”
Một danh hiệu không hay tí nào, Langdon nghĩ thầm. Medacium là vị thần hắc ám cai quản tất cả những pseudologoi – những con quỷ chuyên dối trá, lừa lọc và dựng chuyện.
Người đàn ông rút ra chiếc thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào một ổ điện tử ở cuối phòng. Một màn hình LCD phẳng rất lớn nhấp nháy sáng lên, và các ngọn đèn trên đầu mờ đi.
Trong không khí im lặng, Langdon nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Mới đầu anh nghĩ những âm thanh đó đến từ phía ngoài con tàu, nhưng sau đó anh nhận ra ra âm thanh ấy đến từ loa của màn hình LCD. Một hình ảnh từ từ hiện ra – một vách hang nước rỏ tong tong, được chiếu thứ ánh sáng màu đỏ lập lòe.
“Bertrand Zobrist đã tạo ra đoạn video này”, vị chủ tàu của họ lên tiếng. “Và ông ta đề nghị tôi tung nó ra trước thế giới vào ngày mai.”
Không tin nổi, Langdon trân trối nhìn đoạn phim kỳ quái – một không gian trong hang với một hồ nước để tiến gần phần nền lát gạch phủ bùn có bắt vít một tấm biển ghi TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Tấm biển ký tên: BERTRAND ZOBRIST.
Ngày tháng chính là ngày mai.
Chúa ơi! Langdon quay sang Sinskey khuất trong bóng tối, nhưng bà ấy đang nhìn vô định xuống nền gạch, rõ ràng đã xem đoạn phim rồi, và chắc chắn không muốn xem lại lần nữa.
Giờ máy quay lia sang trái, Langdon nhìn thấy lơ lửng dưới nước là một bong bóng bằng nhựa trong suốt bập bềnh, bên trong chứa một thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái quả cầu đó có vẻ được cột xuống nền nên không thể trồi hẳn lên mặt nước.
Cái quái gì vậy? Langdon nhìn kỹ cái túi căng phồng đó. Thứ chất nhầy nhụa bên trong có vẻ đang xoay chầm chậm, gần như đang cháy âm ỉ.
Langdon nín thở. Dịch bệnh của Zobrist.
“Cho dừng lại.” Sinskey nói trong bóng tối.
Hình ảnh dừng lại – một túi chất dẻo bị cột chặt lơ lửng dưới nước – một đám mây chất lỏng được bọc kín lững lờ trong không gian.
“Tôi nghĩ các vị có thể đoán được thứ đó là gì”, Sinskey nói, “Câu hỏi là, nó còn được bọc kín như vậy bao lâu nữa?” Bà đi lại phía màn hình LCD và chỉ vào một dấu vết rất nhỏ trên cái túi trong suốt. “Rất tiếc, thứ này cho chúng ta biết cái túi đó làm bằng gì. Các vị có đọc được không?”
Tim đập rộn lên, Langdon nheo mắt nhìn dòng chữ, chính là thương hiệu của nhà sản xuất: Solublon.
“Hãng sản xuất chất dẻo có thể tan trong nước lớn nhất thế giới” Sinskey nói.
Langdon cảm thấy dạ dày thắt lại. “Bà nói rằng cái túi này đang… tan dần phải không?!”
Sinskey nhăn nhó gật đầu với anh. “Chúng tôi đã liên hệ với nhà sản xuất, và nhờ đó biết rằng, thật không may họ sản xuất hàng chục loại chất dẻo kiểu này khác nhau, chục loại chất dẻo này khác nhau, tan hết ở bất cứ chỗ nào từ mười phút đến mười tuần, tùy cách sử dụng. Tốc độ phân hủy cũng có chút thay đổi tùy theo loại nước và nhiệt độ, nhưng chúng tôi biết chắc rằng Zobrist tính toán rất kỹ những nhân tố này”. Bà ngừng lại. “Chúng tôi tin rằng cái túi này sẽ tan hết vào…”
“Ngày mai”, Thị trưởng chen ngang. “Ngày mai là ngày Zobrist khoanh tròn trên cuốn lịch của tôi. Và cũng là ngày ghi trên tấm biển.”
Langdon ngồi im trong bóng tối, không nói lên lời.
“Cho anh ấy xem nốt đi”, Sinskey nói.
Trên màn hình LCD, hình ảnh video trở lại, giờ máy quay lia theo phần nước được chiếu sáng vào khoảng tối của hang. Langdon biết chắc đây là địa diểm được nói đến trong bài thơ. Cái đầm không thể phản chiếu ánh sao.
Cảnh tượng này gợi nhớ đến những hình dung của Dante về địa ngục – dòng sông Cocytus chảy qua những hang hốc của âm ty.
Cho dù cái đầm này tọa lạc ở đâu thì nước của nó cũng được bưng kín trong những bức tường trơn tuột mà theo Langdon cảm nhận, đó là do bàn tay con người làm ra. Anh cũng cho rằng máy quay chỉ mới hé lộ một góc nhỏ của không gian rộng lớn bên trong, và điều này được củng cố nhờ sự hiện diện của những cái bóng lờ mờ nằm dọc trên tường. Những cái bóng ấy rất lớn, có hình trụ và ở vị trí cách đều nhau.
Những cột trụ, Langdon nhận ra như vậy.
Trần hang được đỡ bằng hàng cột trụ.
Đầm nước này không phải nằm trong một cái hang, mà trong một gian phòng rộng.
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
Anh chưa kịp nói lời nào thì đã phải chú ý đến sự xuất hiện của một cái bóng mới trên tường – một hình người với cái mũ mỏ chim dài.
Ôi, lạy Chúa lòng lành…
Cái bóng bắt đầu nói, từ ngữ của nó bị bóp méo, thành những tiếng thì thầm lan trên mặt nước theo nhịp thơ rất lạ.
“Ta là sự cứu rỗi. Ta là Vong linh.”
Mấy phút tiếp theo, Langdon đã phải xem đoạn phim kinh dị nhất mà anh từng thấy. Rõ ràng, đam mê của một thiên tài điên rồ, lời độc thoại của Bertrand Zobrist – được truyền tải dưới lớp vỏ của một bác sĩ dịch hạch – có rất nhiều dẫn giải đến Hỏa ngục của Dante và mang theo một thông điệp rõ ràng: Tăng trưởng dân số đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và sự tồn vong của nhân loại đang như chỉ mành treo chuông.
Trên màn hình, giọng nói vẫn vang lên:
“Không làm gì cả chính là chào đón địa ngục của Dante… tù túng và đói khát, ngập chìm trong Tội lỗi. Và vì thế ta mạnh dạn hành động. Một số kẻ sẽ co rúm lại sợ hãi, nhưng sự cứu rỗi nào cũng có giá của nó. Một ngày nào đó thế giới sẽ há hốc mồm trước vẻ đẹp của thứ ta hiến tế.”
Langdon giật mình khi đích thân Zobrist xuất hiện, phục sức như một bác sĩ dịch hạch, và sau đó lột mặt nạ của mình. Langdon nhìn sững bộ mặt dễ sợ và đôi mắt xanh lục hoang dại, nhận ra rằng cuối cùng anh cũng nhìn thấy bộ mặt của gã đàn ông đang là trung tâm của cuộc khủng hoảng này. Zobrist lại bắt đầu lải nhải về tình yêu của hắn với một người nào đó mà hắn gọi là nguồn cảm hứng cho hắn.
“Ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công trình bên dưới của ta đã hoàn thành. Và giờ đây đã đến lúc ta leo trở lại thế giới bên trên… và lại ngắm nhìn những vì sao.”
Khi đoạn video kết thúc, Langdon nhận ra những lời nói cuối cùng của Zobrist gần như lặp lại những lời cuối cùng trong Hỏa ngục của Dante.
Trong bóng tối của phòng họp, Langdon nhận ra rằng tất cả những khoảnh khắc sợ hãi mà anh trải qua hôm nay đều kết tinh thành một thực tế đáng sợ duy nhất.
Giờ đây Bertrand zobrist có hẳn một khuôn mặt… và một giọng nói.
Đèn phòng họp lại sáng lên, Và Langdon nhìn thấy tất cả mọi ánh mắt đều dồn về phía anh đầy mong ngóng.
Vẻ mặt Elizabeth Sinskey dường như đông cứng khi bà đứng lên và bồn chồn mân mê cái bùa của mình. “Giáo sư, rõ ràng thời gian của chúng ta rất ngắn. Tin tức tốt lành duy nhất cho đến lúc này là chúng ta không có trường hợp phát hiện mầm bệnh nào, hay có tin báo về bệnh, cho nên chúng ta cho rằng cái túi Solublon lơ lửng kia vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta không biết tìm nó ở đâu. Mục tiêu của chúng ta là vô hiệu hóa mối đe dọa này bằng cách cách ly cái túi trước khi nó vỡ bung. Cách duy nhất chúng ta có thể làm được việc đó, dĩ nhiên, là tìm ra vị trí của nó ngay lập tức.”
Giờ đây đặc vụ Brüder đứng dậy, đăm đăm nhìn Langdon. “Chúng tôi đinh ninh rằng anh đến Venice vì anh biết rằng đây là nơi Zobrist giấu bệnh dịch của hắn.”
Langdon nhìn đám người trước mặt mình, những gương mặt căng thẳng vì sợ hãi, tất cả mọi người đều hy vọng một phép màu, và anh ước gì mình có những tin tức tốt lành hơn để nói cho họ biết.
“Chúng ta đã ở nhầm quốc gia rồi”, Langdon tuyên bố. “Những gì các vị tìm kiếm cách đây ngót một nghìn dặm cơ.”
***
Ruột gan Langdon dội lại tiếng động cơ đều đều của tàu The Mendacium khi con tàu tăng tốc lượn một vòng rộng, hướng trở lại sân bay Venice. Trên tàu, tất cả bắt đầu nháo nhào. Thị trưởng hối hả lớn tiếng ra lệnh cho người của mình. Elizabeth Sinskey vớ lấy điện thoại và gọi phi công chiếc máy bay vận tải C-130 của WHO, yêu cầu họ sẵn sàng bay ra khỏi sân bay Venice càng sớm càng tốt. Và đặc vụ Brüder lập tức ngồi trước máy tính xách tay để tìm kiếm một nhóm quốc tế mà anh ta có thể phối hợp tại đích đến cuối cùng.
Một thế giới xa vời.
Giờ Thị trưởng quay lại phòng họp và gấp gáp nói với Brüder. “Có thêm tin gì từ giới chức Venice chưa?”
Brüder lắc đầu. “Không có dấu vết gì. Họ đang tìm, nhưng Sienna Brooks đã biến mất.”
Langdon hiểu ngay. Họ đang tìm Sienna sao?
Sinskey kết thúc cuộc gọi và đến nói chuyện cùng. “Chưa tiến triển gì trong việc tìm kiếm cô ta sao?”
Thị trưởng lắc đầu. “Nếu bà đồng ý, tôi nghĩ WHO cần cho phép sử dụng sức mạnh nếu cần thiết để đưa cô ta về.”
Langdon bật dậy. “Tại sao?! Sienna Brooks không liên quan gì đến chuyện này!”
Đôi mắt đen của Thị trưởng quay sang Langdon. “Giáo sư, có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.”
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom