-
Chương 18
Ta cười khổ trong lòng, đối với kẻ khác sao mà nói năng hùng hổ, cái gì mà hại người đều ở tại tâm, nhưng chính mình chỉ vì một ý nghĩ toan tính mà hại chết đại nương, chẳng trách phải chịu báo ứng, khiến muội muội trở mặt. Nhớ lại thời nhỏ hai tỷ muội cùng nhau học thêu, cùng soi gương cài hoa lên tóc, mà hôm nay tình cảm tan nát đoạn trường.
Tông Nhân Phủ khác với những nơi khác, nếu không có ai đến dàn xếp trước, chờ đợi trước mặt phạm nhân chỉ có vô số trò tra tấn khảo hình, vậy mà Khổng Văn Trân từ đầu chí cuối không hề nhắc đến ta, không ai biết bản thiết kế bộ áo bảy sắc vốn xuất phát từ nơi ta. Còn về cô em gái kia, sau khi chuộc khỏi thanh lâu, ta sẽ nhờ mẫu thân sai người chăm sóc tử tế.
Gần đây mỗi lần ở bên ta, nét mặt Hạ Hầu Thần luôn lộ ra vài phần ưu tư, lại có vẻ dò xét. Thi thoảng khi tình cờ quay ra, thấy con ngươi hắn đen sẫm như mực, ngả người trên giường, anh tuấn làm ta không thể rời mắt. Ta chốc chốc lại phải nhắc bản thân rằng đôi bên gần gũi chẳng qua vì muốn có được điều mình cần. Nói thì nói vậy, mỗi lần nhìn dung nhan hắn là một lần trái tim ta xao động.
Ngày tuyển chọn Thượng Cung đã đến, ta cùng Hoàng hậu Hoàng thượng ngồi ghế chủ khảo, các phi tần khác kéo đến cớ là dự xem, nhưng kỳ thực chỉ vì Hạ Hầu Thần, ai nấy đều áo quần xúng xính trâm vòng lộng lẫy.
Thượng Cung cục tiến cử ba vị có thâm niên quản lý Ty Thiết Phòng Ty Chế Phòng, đều làm việc trong Thượng Cung cục lâu năm, tay nghề xuất chúng, có một vị tên gọi Hoắc Thiên Bình, tuổi gần bốn chục, vốn là nghệ nhân hàng đầu ở Thượng Cung cục, nhưng vì lớn tuổi an phận, chỉ chăm chú vào tết vòng chế trâm, không bao giờ xuất đầu lộ diện tranh đấu với người khác, trước nay chỉ làm việc trong Ty Chế Phòng, chẳng bao giờ được thăng chức. Đối với người này ta có vài phần tôn kính, cuối cùng ta leo lên chức Thượng Cung, bà ta chưa một lời trách cứ, vẫn trung thành, làm tròn bổn phận của mình. Ở Thượng Cung cục, Hoắc Thiên Bình rất được nể trọng, nếu Tố Khiết nhận được sự ủng hộ của người này, việc nhậm chức Thượng Cung sẽ không gặp nhiều trở ngại.
Hai vị còn lại tuy không có tầm ảnh hưởng lớn ở Thượng Cung cục bằng Hoắc Thiên Bình, nhưng đều là người thông minh sáng suốt, tay nghề dĩ nhiên khéo léo vượt xa chúng nhân, lại nghe nói một trong hai người là Đỗ Nhĩ Trân qua lại rất mật thân thiết với cung Chiêu Thuần, tất cả vật dụng Hoàng hậu sử dụng đều do đích thân cô ta đem sang, có lẽ người này chính là quân của Hoàng hậu, vị còn lại là Lâm Chỉ Xảo không có gì đặc biệt, có lẽ được đưa lên cho đủ số.
Khi Tố Khiết xuất hiện, ai nấy đều nhận ra nó là nô tỳ thân tín theo ta từ lâu, chưa từng làm việc tại Thượng Cung cục, chẳng qua là một ả cung tỳ vô danh tiểu tốt, bọn họ hơi lộ vẻ bất bình, chỉ riêng Hoắc Thiên Bình bình thản cụp mắt, chắp tay chờ đợi ra đề, dáng vẻ ung dung tự tại vô cùng.
Chuyện thi đấu lần này có thể coi là chưa hề có tiền lệ ở Thượng Cung cục, trước nay người nhậm chức Thượng Cung thường chỉ do Hoàng hậu chỉ định, vì lần này ta cố tình nhúng tay vào, kéo Hoàng thượng tham gia cuộc tuyển chọn, nên chúng phi tần lập tức tán đồng. Ta muốn nhân dip này để bọn họ hiểu rằng, Hoàng hậu dẫu là người dứng đầu hậu cung cũng đừng hòng một tay che trời!
Hoàng hậu nói: “Nếu mọi người đã chuẩn bị xong xuôi, ta xin được nói đôi lời. Chức vị Thượng Cung rồi sẽ vào tay một trong bốn người đứng đây, chiếu theo phép tắc xưa nay ở Thượng Cung cục, người lãnh đạo phải có tay nghề chế trâm may áo đứng hàng đầu tứ phòng, nếu không khi người dưới vấp phải khó khăn trong khi làm việc đến nhờ cậy giúp đỡ không biết cách trả lời, há chẳng khiến kẻ dưới thất vọng, lại làm công việc ứ đọng không giải quyết được?”
Lời nói của Hoàng hậu rõ ràng chĩa mũi nhọn về Tố Khiết, ta vờ như không biết gì, mỉm cười gật gật đầu, tỏ ra tán đồng.
Cô ta tiếp: “Vì lẽ đó, cuộc khảo thí lần này chúng ta sẽ bắt đầu từ mục chế trâm vòng cơ bản. Trên các đĩa đã bày sẵn tơ vàng, chỉ bạc, trong thời gian một nén hương, bốn người hãy quấn thành trâm vàng kiểu dáng tùy ý, bốn người cách nhau bởi các tấm bình phong, tự làm một mình, không được nhìn trộm người bên cạnh.”
Trong mỗi đĩa có sẵn một cái phôi trâm giống y hệt nhau, đều là khuôn dáng ban đầu của trâm phượng, bốn người chỉ cần trang trí thêm, hoặc quấn tơ vàng, đính châu ngọc, làm thế nào phô bày được dáng vẻ đẹp đẽ kiêu sa của phượng hoàng là được. Số lượng nguyên liệu mỗi loại trên mỗi đĩa là như nhau, để cuộc thi được công bằng, trước đó ta và Hoàng hậu đã cùng nhau kiểm tra một lượt, không ai dám giở trò lên nguyên liệu.
Cuộc thi tài nghệ này là dùng chân tài thực lực ra đọ sức, hoàn toàn dựa vào tài năng của mỗi người, bình phong màu trắng ngăn cách bốn người trong bốn không gian riêng, cố nhìn kỹ chỉ thấy cái bóng mờ mờ của họ đang bận rộn thao tác.
Trong lúc chờ đợi, đám phi tần đã có người lanh lẹ nhân cơ hội đứng dậy, sán đến bên Hạ Hầu Thần, hoặc dâng miếng điểm tâm, hoặc cười tươi như hoa hỏi hắn hôm nay mái tóc mình chải có đẹp không.
Hạ Hầu Thần sắc mặt vui vẻ, không buồn trách cứ, thậm chí còn đáp lại khiến trong điện một phen nhốn nháo, ta liếc thấy Hoàng hậu tuy cố giữ dáng vẻ đoan trang, nhưng nụ cười càng lúc càng nhạt, trong lòng mừng thầm, cũng không bóc mẽ cô ta, tự mình nhấp một ngụm trà, chú ý từng cử động của Tố Khiết sau bình phong.
Chúng phi tần thấy ta lẫn Hoàng hậu đều không lên tiếng, càng được nước làm tới, hầu như cô nào cũng quẩn quanh Hạ Hầu Thần một vòng mới thôi.
Nén hương cháy được quá nửa, đã thấy Hoắc Thiên Bình từ bình phong bước ra, dâng cái đĩa trong tay cho cung nữ phụ trách giữ đĩa, hướng về phía Hoàng hậu bẩm báo: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, nô tỳ đã hoàn thành.”
Chiếc đĩa được bày trên một cái bàn cao đặt giữa điện, ta là người đầu tiên bước xuống, cầm cây trâm lên ngắm nghía kỹ lưỡng, trong lòng không khỏi thầm thán phục, tay nghề thủ công của bà ta quả nhiên rất giỏi, thân phượng như phủ một lớp lông vàng, vừa tự nhiên vừa cân đối, thưa chặt hợp lý, mắt phượng dùng phỉ thúy đính vào, tỏa sáng lấp lánh, sống động như thật.
Sau khi cây trâm được đưa cho Hoàng thượng và Hoàng hậu xem qua một lượt, lại truyền qua tay các phi tần, mọi người không ngớt lời khen ngợi, nhưng không thấy ai kinh ngạc đến nỗi phải ồ lên. Cây trâm này quả là mẫu mực, nhưng kiểu dáng không có gì khác lạ so với loại thường thấy, không có nét đặc sắc riêng.
Một lát sau, Lâm Chỉ Xảo và Đỗ Nhĩ Trân cũng hoàn thành, Đỗ Nhĩ Trân vượt hơn một chút, trên đuôi phượng xâu một chuỗi kim cương, nếu cài đầu, xâu kim cương sẽ hơi rung rinh, phản chiếu ánh sáng bảy sắc. Người do Hoàng hậu chọn quả nhiên xuất chúng, Đỗ Nhĩ Trân tuy tay nghề chưa thành thạo như Hoắc Thiên Bình, nhưng đầu óc lại linh hoạt sáng tạo hơn, chiếc trâm của cô ta quả nhiên được chúng phi tần vô cùng thích thú.
Tố Khiết là người cuối cùng còn ở lại sau bình phong làm trâm, hương sắp cháy hết mà vẫn chưa thấy nó bước ra ngoài, lòng ta không khỏi hơi sốt ruột.
Hoàng hậu nói: “Ninh muội muội, ta thấy vị Đỗ Nhĩ Trân này không tệ, làm việc ở Thượng Cung cục nhiều năm, thông thạo công việc trên dưới, tay nghề lại xuất chúng, theo bản cung thấy, Tố Khiết ở chỗ muội tuy được muội muội dốc tâm dạy bảo, sợ rằng vẫn chưa đủ để so với người ta!”
Ta cười nhạt: “Nếu nó thực không bằng ai, bản phi chắc chắn sẽ không thiên vị, có trách chỉ trách nó kém tài, đến lúc đó bản phi sẽ chúc mừng tỷ tỷ chọn được người hiền hợp ý.”
Ta và Hoàng hậu lời qua tiếng lại, tươi cười như hoa, đám phi tần đều nín thở theo dõi, Hạ Hầu Thần cũng phải liếc mắt sang, nửa như mỉa mai nửa như giễu cợt, ta liếc lại, thấy hắn nhấc chén trà lên nhấp một ngụm.
Lúc ấy thời gian bỗng trôi vùn vụt, chớp mắt nén hương đã cháy hết, Tố Khiết bước ra khỏi bình phong, trên tay cầm chiếc đĩa son phủ sa mỏng, vừa kịp lúc hương tàn.
Cung nữ đón lấy đĩa trên tay nó, đầu tiên dâng lên ta. Ta nhấc vải ra, lòng lập tức dâng trào vui sướng, nghĩ mình quả không nhìn nhầm người, chỉ trong vỏn vẹn mười mấy ngày mà Tố Khiết đã lĩnh ngộ được tinh túy của việc đan tơ dệt sợi.
Cái khuôn trâm phượng được cho ban đầu còn nguyên, một chiếc trâm phượng khác nằm ở chính giữa đĩa, sinh động, hình dáng gần như thật, thân mình hơi trong suốt, đôi cánh mở rộng, phần khung xương định hình đôi cánh mềm mại nhịp nhàng, nhìn từ xa thậm chí còn rõ cả từng đường vân trên thân, điều kỳ lạ là đem đặt trên tay lại nhẹ như lông hồng, không nặng nề như trâm phượng dát vàng bình thường.
Chúng phi tần sớm đã bị thu hút, tiếng trầm trồ kinh ngạc vang lên không ngớt, cây trâm này vượt xa ba cây trâm ban nãy, lúc này ai cao ai thấp đã phân định rõ ràng, Hoàng hậu lại nói: “Trâm này tuy tinh xảo khác thường, nhưng quy tắc là quy tắc, đã định trước phải dùng phôi trâm hình phượng trên đĩa để chế tác, vậy mà Tố Khiết lại không dùng đến, Hoàng thượng, như vậy là không công bằng!”
Ta nói: “Mới đầu khi lập ra quy định, đã nói chỉ được dùng nguyên liệu trong đĩa, nhưng không nhắc đến việc nhất định phải dùng phôi trâm hình phượng, Tố Khiết làm cây trâm này hoàn toàn chỉ dùng tơ vàng chỉ bạc trong đĩa, có gì vi phạm quy tắc? Chiếu theo cách nói của Hoàng hậu thì phải dùng hết tất cả nguyên liệu trong đĩa mới được coi là đúng luật, thử hỏi có người nào dùng hết hay không?”
Ta cùng Hoàng hậu đấu đá trước nay đều chỉ ngấm ngầm, đây là lần đầu tiên đối chọi không khoan nhượng bằng lời nói, chúng phi tần nhất thời sững sờ. Nếu đổi lại là dịp thường, Ninh Tích Văn đứng bên Hoàng hậu nhất định sẽ mở miệng, nhưng sau vụ Khánh Mỹ nhân nó đã thu liễm đi nhiều, các phi tần thấy khí thế ta chẳng kém cạnh Hoàng hậu, sao còn dám nói thêm vào, ai nấy đều im thin thít.
Hoàng hậu bị ta phản bác, ngẩn ra một lát, lại kiên quyết nói: “Ai nấy đều biết khi chế tác trâm vòng có những phần nhất định phải dùng đến, Tố Khiết khác thường như thế e không ổn.”
Ta đang định lên tiếng, Hạ Hầu Thần đột nhiên đưa tay ra ý cho cả hai ngừng tranh luận, nói: “Trẫm thấy thế này, trâm phượng do Tố Khiết làm rõ ràng rất đẹp, nhưng Hoàng hậu nói không phải không có lý, vậy hãy để trẫm xếp hạng là công bằng. Tố Khiết cùng Đỗ Nhĩ Trân xếp hạng một, Hoắc Thiên Bình tay nghề thuần thục xếp hạng hai, còn Lâm Chỉ Xảo hạng ba.”
Hạ Hầu Thần đã lên tiếng, ta cùng Hoàng hậu không còn cách nào khác phải ngừng tranh cãi. Ta hậm hực liếc Hoàng thượng một cái, ánh mắt Hoàng hậu lộ vẻ đắc ý, rõ ràng xếp hạng như vậy là có lợi cho phía Hoàng hậu.
Tiếp theo là cuộc thi thêu, yêu cầu trong thời gian một nén nhang thêu xong bức Long Phượng Trình Tường. Lần này Tố Khiết vô cùng tự tin, nó xuất thân từ phường thêu, lại được ta dạy dỗ nhiều kiểu thêu và cách vận dụng tinh tế, ba người kia tuy nghề thêu rất xuất sắc, nhưng thêu ra long phượng hình dáng khô khan nhạt nhẽo, không thể so với Tố Khiết dùng tuyệt chiêu của mẹ ta, thủ pháp thêu tầng, khiến long phượng nổi trên nền vải, từng lớp lông đan xen chồng chất mịn màng, cứ như sắp bay ra khỏi miếng vải.
Chúng phi tần dĩ nhiên ngạc nhiên sửng sốt, đến Hoắc Thiên Bình trước nay ít khi nể phục ai cũng không kìm được bước lên mấy bước để chạm vào bức thêu, khen: “Kiểu thêu này đã thất truyền nhiều năm, nô tỳ chỉ được nhìn thấy hồi nhỏ, không ngờ hôm nay có dịp ngắm trong điện này, nô tỳ quả thực mãn nguyện vô cùng.”
Lần này Hoàng hậu không còn gì để nói, Tố Khiết dĩ nhiên xếp thứ nhất. Hoàng hậu thấy thế có vẻ hơi căng thẳng, nếu cuộc khảo thí thứ ba mà Đỗ Nhĩ Trân không thể đột phá, thì chức Thượng Cung sẽ lọt vào tay Tố Khiết. Ta và Hoàng hậu đều hiểu, Thượng Cung cục đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc tranh giành quyền lực của hai bên, nếu mất Thượng Cung cục, coi như Hoàng hậu đã mất đi một nửa giang sơn.
Vòng thi thứ ba là thi sáng tạo thiết kế mới, dùng bức thêu ở vòng trước đó làm nguyên liệu để chế tác vật dụng, phải làm nổi bật đặc tính của loại vải nguyên liệu, vừa phải khéo léo vừa phải tìm tòi, sao cho thứ chế ra thật bắt mắt. Ở Thượng Cung cục thường ngày phải may rất nhiều đồ dùng cho cung nhân, nhưng hình vẽ Long Phượng Trình Tường được dùng có giới hạn, các phi tần bình thường không được phép dùng, chỉ có thể vận dụng trên người của Hoàng thượng và Hoàng hậu mà thôi. Đề bài lần này do đích thân Hoàng thượng nghĩ ra. Tố Khiết học nhồi học nhét trong mười mấy ngày, dẫu sao cũng chỉ là người mới, lần này chẳng biết có thành công không, nghĩ đến đây lòng ta không khỏi bồn chồn.
Hoàng hậu ngược lại vô cùng ung dung, ngồi trên bảo tọa cùng Hoàng thượng thì thầm nhỏ to, hai người liếc mắt đưa tình, một ý nghĩ chợt thoáng qua đầu ta: Phải chăng Hạ Hầu Thần đã tiết lộ đề bài cho Hoàng hậu biết trước?
Ta thấy mình có vẻ hơi nhỏ nhen, đáng lẽ không nên nghĩ vậy, nhưng xem điệu bộ hai người phu thê tình thâm, làm ta không tài nào dập tắt suy nghĩ kia được. Thậm chí ta còn hoang mang không biết Hạ Hầu Thần đón ta trở lại cung rốt cuộc để làm gì, có thật muốn ta kiềm hãm Hoàng hậu? Về phía Hoàng hậu, không biết hắn giải thích việc đưa ta trở lại thế nào mà vẫn giữ được mối quan hệ hai bên như cũ? Lòng nghi ngờ hễ dấy lên là không thể áp chế, nam nhân địa vị tối cao này, dĩ nhiên nắm rõ phép trị nước, khó tránh đem vận dụng cả với đám hậu phi của mình.
Nghĩ đến đây, ta bèn nói: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, hai vòng thi trước diễn ra rất đúng phép tắc, nhưng có hơi buồn tẻ, đây là vòng thi cuối cùng của ngày hôm nay, theo thần thiếp thấy sao không tăng độ khó lên một chút, cũng là giúp vui cho chúng phi tần. Hai vị thấy có được không?”
Nét căng thẳng vụt qua gương mặt Hoàng hậu, ta cảm thấy suy nghĩ ban nãy càng được củng cố, trong lòng thầm cười nhạt, nam nhân này quả không đáng để ta tận trung, cũng được, ta và hắn như nhau, chỉ vì lợi ích của mình mà thôi.
Ta vừa nói xong, chúng phi tần lập tức lao xao ủng hộ, họ sớm đã bị chú ngựa đen bất ngờ xuất hiện là Tố Khiết kích thích, lại thêm ngưỡng mộ vẻ đẹp chiếc trâm phượng nó chế tác, Hoàng hậu thấy thế không tiện nói thêm, đành tán thành.
Hạ Hầu Thần liếc ta một cái, ta nói thêm: “Hoàng thượng, người xem các vị muội muội đang bàn luận sôi nổi làm sao, xin đừng vì ai đó mà để mọi người cụt hứng.”
Ta cố tình nhấn nhá vào chữ “ai đó”, ra ý mình đã đoán biết nội tình, con ngươi hắn vụt xoay chuyển, nụ cười chợt tắt, nói: “Nếu đã vậy thì ái phi nói thử xem, nên tăng thêm độ khó ra sao?”
Ta không để ý vẻ mặt của hắn, đứng dậy khỏi bảo tọa, cười nói: “Nếu đã dùng bức thêu ban nãy để chế tác vật dụng, chi bằng đưa thêm một giới hạn, đó là chỉ được chế vật dùng trên mình Hoàng thượng, lại cho chúng phi tần cùng bình phẩm thứ ấy có tốn thêm vẻ anh tuấn bất phàm của Hoàng thượng hay không. Mọi người bảo như vậy có được không?”
Nếu các phi tần cùng được tham gia bình chọn, thì kết quả chung cuộc không hoàn toàn do Hoàng thượng và Hoàng hậu quyết định, lại thêm “bình phẩm xem có tôn thêm vẻ anh tuấn của Hoàng thượng” tất phải để Hoàng thượng đích thân mặc lên người mới xong. Tố Khiết khi làm trâm đã lấy được thiện cảm từ phía chúng phi tần, có người thấy Tố Khiết phải xếp hạng nhất cùng người khác trong đôi mắt liền ánh lên tia bất mãn. Xem ra sau vụ Khánh Mỹ nhân, thế lực vây quanh Hoàng hậu đang dần dần tan rã, tuy vẫn chưa có ai công khai quy phục ta, nhưng cứ quan sát sự việc lần này thì cái viễn cảnh ấy không còn xa.
Tình huống tuy đang có lợi, nhưng ta vẫn rất lo lắng về Hạ Hầu Thần, nếu hắn suy tính điều gì khác, một mặt an ủi Hoàng hậu, một mặt gắn bó với ta, biến cố xảy ra rất có thể ta sẽ thành vật hy sinh. Trước đây ta luôn coi mọi thứ là điều đương nhiên, nhưng hôm nay nghĩ tới, trong lòng lại thấy hơi đắng chát, chỉ biết thầm cười nhạt. Nếu đã lôi ta lên cùng thuyền, mà lại muốn ta không kèn không trống nhảy ra, chỉ sợ là khó đó.
Tuy bề ngoài ta cười tươi như hoa, nhưng trong lòng quạnh quẽ thê lương. Hạ Hầu Thần dường như có linh cảm, sắc mặt cũng trầm xuống, lãnh đạm nói: “Ái phi đã muốn như vậy, trẫm nào dám không đồng ý?”
Hoàng hậu không kịp nói gì, chuyện này đã mau chóng được ấn định.
Hoàng hậu phẩm vị cao quý, được ngồi bên tay phải Hạ Hầu Thần, ghế của ta hơi thấp hơn một chút, ngồi bên tay trái hắn.
Xem liền hai vòng, tuy vật chế tác ra đẹp đẽ vô cùng, khiến chúng phi được no mắt, nhưng ngồi cả nửa ngày không khỏi có chút mệt mỏi, Hoàng hậu bèn đề nghị mọi người cùng ra vườn hoa đi dạo, nơi thi sai người ở lại trông coi là được, nghĩ việc này rất hợp lẽ, ta bèn gật đầu đồng ý.
Cuộc tuyển chọn diễn ra tại điện Triêu Dương, nơi đây là tẩm cung của Hạ Hầu Thần, trong cung có vô số khu nhà lớn nhỏ, ta bèn hỏi Khang Đại Vi mượn một căn phòng, chuẩn bị cho một chiếc giường để nằm, vừa đặt mình lên gối tựa, nghĩ đến việc Hoàng hậu khi không quan tâm đám phi tần, chẳng lẽ định nhân lúc vắng vẻ giở chiêu thức gì?
Nơi này làm tẩm cung của Hoàng thượng, dĩ nhiên khắp nơi hoa lệ vô ngần, ta không yên tâm, cuối cùng xuống giường, đi qua đi lại trong phòng, lại sai người ra xem tình hình trong điện, nghe nói không có gì bất thường, Hoàng hậu cũng đã đi nghỉ rồi.
Ta vừa nghe chữ “nghỉ”, bất giác tỉnh ngộ, nếu muốn ra tay, chi bằng cầu đến Hạ Hầu Thần. Hạ Hầu Thần cùng họ Thời duy trì quan hệ mật thiết, tất nhiên hắn chưa muốn trở mặt với Hoàng hậu ngay. Ta bước khỏi phòng, đúng lúc trông thấy một tên tiểu thái giám hầu hạ bên Hoàng thượng chạy qua, bèn gọi nó lại, dúi vào tay hai nén vàng, hỏi: “Hoàng thượng đâu rồi?”
Tiểu thái giám thấy ta bèn hành lễ đáp: “Hoàng thượng có vẻ mệt, đã về Tiểu Tây các nghỉ rồi ạ.”
Ta một mình đi về phía Tiểu Tây các, nơi đó cách chỗ ta ở không xa, chẳng qua một đoạn mà thôi.
Trước sau Tiểu Tây các trồng đầy thúy trúc, lúc này đang vào mùa trúc đâm chồi nẩy lộc, một dải xanh thẫm xen lẫn màu nõn chuối tươi non, cành lá đu đưa, xào xạc. Ta nhón chân bước qua rừng lá rậm rạp, bên trong quả thật rất có dư vị u nhã thanh cao như chốn ẩn dật của các vị chân tu. Khang Đại Vi đứng ngoài cửa canh chừng, nhưng ta biết có một lối nhỏ có thể trực tiếp vào bên trong mà không cần đi qua đám thủ vệ.
Một người hễ nổi lòng nghi ngờ, sẽ cảm thấy từng lời nói nụ cười của đối phương đều như đang dối gạt mình, ắt không nhịn được thăm dò bằng được thực hư. Tâm trạng của ta lúc này chính là như vậy.
Con đường mòn kia quả vắng hẳn bóng người, tuy đã lần lần đi hết đường, chỉ cần vượt qua ngọn giả sơn là đến nơi Hạ Hầu Thần đang nghỉ. Từ cánh cửa sổ nửa khép nửa hở nhìn vào, quả nhiên thấy Hạ Hầu Thần ngồi trước cửa sổ uống trà, Hoàng hậu thì đang dùng đũa bạc gắp điểm tâm đưa lên miệng hắn, các cặp phu thê ngoài dân gian thân mật với nhau chắc cũng chỉ đến thế là cùng.
Ta thầm cười nhạt, tiếng lại gần mấy bước nữa, định nghe xem họ đang nói gì, vừa nghe mấy chữ: “Biểu ca… biểu ca…”, đột nhiên thấy bả vai bị ai đó vỗ nhẹ, ta giật mình suýt nữa nhảy lên, quay lại, hóa ra là Khang Đại Vi. Không biết từ lúc nào ông ta đã mò đến bên ta, nghiêm mặt nói: “Nương nương đã đến rồi, có muốn lão nô vào bẩm cáo với Hoàng thượng một tiếng không?”
Ta nào ngờ trốn vào tận góc tường còn bị người ta bóc mẽ, lòng bối rối không cách nào dùng từ ngữ hình dung được, chỉ nói: “Không cần, bản phi còn phải về điện Triêu Dương xem xem bốn người họ đã làm xong chưa.”
Khang Đại Vi cúi mình hành lễ, nói: “Nương nương, Hoàng thượng bảo lão nô chuyển lời đến nương nương rằng: Đừng xem trộm làm gì, nếu muốn thì hãy đường đường chính chính mà vào… Lão nô cáo lỗi, đây là nguyên văn những lời Hoàng thượng sai lão nô nói lại.”
Mặt ta lúc đỏ lúc tím, chỉ còn cách vội vàng cáo biệt ông ta, men theo đường cũ trở ra.
Khang Đại Vi nói với theo bằng giọng điệu lập lờ: “Nương nương, người đừng lo, khi Hoàng thượng nói mấy lời này tâm trạng vẫn rất tốt.”
Ta dừng khựng lại, thẹn quá hóa giận, quay ngoắt lại: “Tâm trạng Hoàng thượng tốt, tâm trạng bản phi thì không tốt chút nào!”
Nói xong phẩy tay áo một cái rồi đi thẳng. Chẳng rõ khi Hạ Hầu Thần truyền lời với Khang Đại Vi có để Hoàng hậu nghe thấy hay không, nếu để cô ta nghe được, chỉ sợ sẽ cười đến chảy nước mắt.
Ta hậm hực trở về điện Triêu Dương, thấy đám phi tần ra Ngự Hoa viên thưởng hoa đều đã về cả, đang ngồi trong điện lao xao bàn tán, bốn người kia vẫn đang mải cắt may khâu vá phía sau bình phong.
Chờ cho tất cả ổn định chỗ ngồi, Hoàng thượng và Hoàng hậu mới thong dong bước ra, khiến đám phi tần được một phen tò mò.
Hoàng hậu vẻ mặt phơi phới, gò má ửng hồng, dường như mới thoa lại một lớp phấn mới, xuân ý tràn trề, Hạ Hầu Thần dìu cô ta ngồi xuống, mắt không phút nào rời mình ngọc. Ta không nhịn được nghĩ ác, chẳng lẽ hai người họ nhân chút giờ nghỉ mà làm chuyện hoang đường kia?
Nhìn Hạ Hầu Thần tinh lực bỗng chốc dồi dào thì ý nghĩ này không phải không có khả năng. Nghĩ đến đây ta không kìm được cười thầm, nếu quả như vậy chắc Hoàng hậu chẳng có thì giờ để giở trò đê hèn.
Lần này dùng nhang lớn tính thời gian, nhưng sau giờ nghỉ, cây nhang chẳng mấy chốc sắp cháy hết, tên tiểu thái giám hô lớn một tiếng, bốn người bèn cầm đĩa son từ sau bình phong bước ra, trên mỗi đĩa trùm một tấm sa đỏ.
Hoắc Thiên Bình giở khăn ra đầu tiên, bà ta dùng mảnh vải thêu Long Phượng Trình Tường làm thành một chiếc tiểu khảm[1], tay nghề của Hoắc Thiên Bình thời không có gì phải nói nhiều, ta cho rằng giỏi hơn Đỗ Nhĩ Trân kia rất nhiều, nhưng bà vốn biết Đỗ Nhĩ Trân có Hoàng hậu chống lưng, bản thân mình dù thế nào cũng chỉ là một vai phụ, thành ra tâm trạng rất bình ổn, ung dung chắp tay quan hổ đấu.
[1] Áo khoác ngoài không tay.
Lâm Chỉ Xảo cũng nghĩ ý như Hoắc Thiên Bình, làm một chiếc áo ngoài vô cùng đúng quy cách, khiến người khác không lần ra được sai sót, nhưng cũng không thể xem là đẹp.
Đến lượt Đỗ Nhĩ Trân mở đĩa, cô ta làm một chiếc áo bào, thủ công không tồi, bức thêu Long Phượng Trình Tường ở chính giữa sau lưng, cô ta dùng thủ pháp đặc biệt để thêu móng vuốt long phượng, kéo dài đến trước ngực, đuôi phượng thêu bảy sắc men theo nách áo cho đến trước ngực, biểu thị ý Long Phượng Hòa Minh, tình nghĩa hòa hợp. Đỗ Nhĩ Trân có Hoàng hậu ủng hộ, nay áo làm ra lại được mọi người tán thưởng không ngớt, thu hút sự chú ý của cả điện. Ta ngầm hiểu ra, Lâm Chỉ Xảo và Hoắc Thiên Bình chắc chắn đã bị ai đó nhắc nhở trước, nên vật làm ra không mấy xuất sắc, mục đích chính là làm nền cho Đỗ Nhĩ Trân, họ liệu có phục trong lòng?
Thứ Tố Khiết làm được lấy ra sau cùng. Một tấm áo khoác dài màu tím nhạt, cổ áp đệm lông hồ ly tím, Long Phượng Trình Tường ở trước ngực, vốn bức thêu của nó đã vô cùng đặc sắc, sắc nét từng đường gân chỉ, trên đó lại thêu thêm mây lành vờn quanh, loại vải dùng khâu áo đã có vân mây, nó dựa trên đó dùng tơ vàng thêu vào, trông như trong mây có ánh nắng chiếu rọi, cả chiếc áo bào ẩn hiện ánh vàng, đẹp không tả xiết. Chiếc áo vừa đưa ra, cả điện chợt im phăng phắc, Hạ Hầu Thần cực kỳ hứng thú, ra hiệu cho cung nữ đang giương áo ra: “Đem lên đây cho trẫm xem.”
Ta cười nói: “Hoàng thượng, hay người mặc thử xem sao?”
Hạ Hầu Thần đang định đáp, Hoàng hậu bèn nói: “Hoàng thượng, vật này người đừng nên mặc, theo thần thiếp thấy, chiếc áo này cực kỳ xúi quẩy, Hoàng thượng mặc lên người nhỡ đâu đại họa giáng xuống…”
Nghe Hoàng hậu nói vậy, các phi tần đều kinh sợ mở to mắt nhìn chiếc áo bào lộng lẫy tuyệt vời, tiếng rì rầm râm ran nổi lên. Tố Khiết ngỡ ngàng đứng giữa đại điện, sắc mặt trắng bệch, ta quay sang nhìn Hoàng hậu, lúc này cô ta chỉ chăm chăm nhìn Hạ Hầu Thần, gương mặt đầy vẻ quan hoài, tình thâm ý trọng. Ta khẽ nhíu mày, nghĩ bụng bản thân thận trọng từng li từng tí, rốt cuộc vẫn bị cô ta ra tay chơi khăm phen này?
Ta nói: “Hoàng hậu nương nương đã nói đến mức đó, chi bằng mời người chỉ rõ chỗ xúi quẩy ra, để tiện cho mọi người đề phòng về sau?”
Hoàng hậu lúc này mới quay sang phía ta: “Ninh muội muội đừng trách tỷ lắm lời, ai bảo tỷ tỷ quá tinh mắt, mới nhìn sơ đã trông thấy một điểm không được thỏa đáng, đành phải nói ra. Bởi lần này là cuộc thi đấu, nên bản cung mới không nói ngay từ đầu…” Cô ta dừng lại một lát, nhìn ra đại điện, “Khi may áo, việc đầu tiên cần phải chọn vật liệu, ban nãy các cung tỳ đã mang đến rất nhiều xấp vài khác nhau để bốn vị đây chọn lựa, Tố Khiết lập tức chọn cây lụa dày màu tím, đáng ra không có gì sai sót, màu tím cao quý phóng khoáng, nếu may thành trường bào, lại dùng lông hồ ly tím viền cổ áo, đích thực tôn thêm vẻ sang trọng bất phàm của Hoàng thượng, chỉ đáng tiếc cô ta không đủ sắc bén, chọn nhằm một cây vải bị lỗi!”
Vừa nói, Hoàng hậu vừa cho người mở rộng chiếc trường bào, lại sai người vặn hết cỡ đèn lưu ly lên để soi vào trong áo, dưới ánh đèn, phần vải trước ngực có một mảng lớn không đồng màu, trông hao hao như vết máu loang, làm nền trên bức thêu, trông giống như long phượng bị thương đang cất tiếng ai oán, mất hết vẻ tươi vui may mắn ban đầu. Mọi người trong điện đồng loạt ồ lên.
Sau khi đèn lưu ly bị thổi tắt, màu sắc kỳ lạ như máu kia lập tức biến mất, trở về màu tím nhạt như ban đầu. Ta thầm than khổ, nhất định Hoàng hậu đã sai người dùng một thứ phẩm nhuộm đặc biệt để đổ lên chiếc trường bào màu tím này, nên soi đèn lên mới bị biến màu như vậy.
“Nếu để Hoàng thượng mặc chiếc áo này lên người, ban ngày ban mặt không thấy thì không sao, nhưng nếu trong buổi dạ yến, trong cung đèn đuốc sáng trưng, để người ta phát hiện long phượng trên thân người rỉ máu khóc than, là điều vô cùng xui xẻo…” Cô ta nhíu mày than, “Thần thiếp thấy Tố Khiết chọn cây vải này là đã để ý, nhìn một cái là nhận ra điểm bất ổn bên trong, vì đang trong lúc thi đấu, nên mới kiềm chế đến bây giờ mới nói.”
Tố Khiết sớm đã hoảng sợ quỳ xuống, không thốt nổi một câu xin tội, ta khẽ nhíu mày, chuyện đến nước này, thật không nghĩ ra nên dùng cách gì đảo ngược tình thế, chỉ đành nói: “Mang áo bào đến đây để bản phi xem thử!”
Hoàng hậu che miệng cười: “Muội muội vẫn muốn xem cơ à? Bản cung biết muội thương yêu Tố Khiết. Muội cứ yên tâm, người không biết không có tội, không ai có thể cáo buộc nó điều gì.”
Ta không buồn để ý đến những lời khiêu khích kia, ra hiệu cho cung nữ đem trường bào lại gần, xem thật cẩn thận, quả nhiên không có ánh đèn chiếu vào, chiếc áo này trước sau trên dưới chỉ thuần một màu tím nhạt nhã nhặn, lót lụa mềm bên trong. Lật sang mặt bên, thử dùng ngón tay miết vào phần vải lót, chỉ thấy hơi gờn gợn, tim ta chợt lỗi một nhịp, từ vạt dưới sờ thử lên trên đến chỗ vết máu hiện ra dưới ánh đèn, cảm thấy dưới ngón tay có một miếng vải lạ, bèn bóc ra, hóa ra là một miếng lụa đỏ, không biết bị ai để vào bên trong.
Ta mỉm cười, giơ miếng vải lạ ra trước mặt Tố Khiết: “Ngươi sao lại bất cẩn khâu lẫn cả miếng vải đỏ vào đây? Để người ta tưởng trên áo có vết bẩn, là tội lớn lắm.”
Hoàng hậu thấy thế thời chết lặng, không biết nên nói lại thế nào, môi mấp máy không ra câu, ta quay về phía Hạ Hầu Thần tâu: “Hoàng thượng, giờ vật này đã được lấy ra, chiếc áo lại đẹp đẽ không tỳ vết như trước, sao Hoàng thượng không mặc thử xem?”
Vì trời còn sáng nên trong điện không thắp đèn, gương mặt Hạ Hầu Thần chìm trong bóng tối, không nhìn rõ sắt diện, nhưng ta cứ cảm giác hắn dường như có cười một lát. Hắn bước xuống đài, đón lấy chiếc trường bào, có cung tỳ giúp hắn xỏ vào, gương mặt hắn phản chiếu màu tím của lông hồ ly, quả thực anh tuấn rạng rỡ, hai tròng mắt cũng phản chiếu ánh tím, càng thêm tôn quý khác thường, chúng phi tần vừa trông thấy đã ngây người, hồi lâu mới nghe dậy tiếng trầm trồ, xem chừng thắng thua đã phân định rõ ràng.
Hạ Hầu Thần tuyên thánh chỉ, lập Tố Khiết làm Thượng Cung tân nhiệm, tiếp quản Thượng Cung cục. Đỗ Nhĩ Trân hơi lộ vẻ tức giận, nhưng đến Hoàng hậu còn á khẩu không thể nói gì, bản thân cô ta biết làm gì hơn?
Chiếc trường bào màu tím do Tố Khiết dày công hoàn thành được giao cho ta cất đi, đêm ấy Hạ Hầu Thần nghỉ lại ở Chiêu Tường các, ta bèn sai người hâm nóng mấy món nhắm, cùng hắn uống rượu, trong lúc rảnh rang mới dợm hỏi: “Hoàng thượng, người nói xem miếng vải trong trường bào rốt cuộc do ai lồng vào trong?”
Hắn hớp cạn chén rượu, hơi bực mình nói: “Trẫm gạt hết quốc gia đại sự sang một bên, mất cả một ngày trời cùng các nàng trông coi việc may áo tết vòng đã đủ phiền lắm rồi, khó khăn mãi mới được yên tĩnh, nàng để trẫm thư giãn một chút được không?”
Ta chăm chú nhìn hắn, thấy hai hàng lông mi dài phủ rợp mắt, rượu vào khiến mấy tia đỏ ở khóe mắt hơi hiện ra, không kìm được khẽ vuốt mấy sợi tóc mai lơ thơ trên mắt hắn: “Thần thiếp biết rồi…”
Nói xong tự cảm thấy kinh ngạc, sao giọng nói của mình lại dịu dàng nũng nịu như thế, ta đâu có cố tình?
Hắn nghe ta nói vậy, lòng chợt mừng, cười hỏi: “Nếu nàng nhớ trẫm, cứ sai Khang Đại Vi chuyển lời là được, cần gì khổ sở lén lút đi theo?”
Ta vừa gắp một miếng thức ăn đưa lên miệng, đôi đũa lập tức tuột tay rơi xuống đĩa, quay sang thấy nụ cười trên miệng hắn thật hời hợt, trong lòng không khỏi nghi hoặc, lời hắn vừa nói là thật lòng hay chỉ vờ vịt vậy thôi?
Chợt nhớ đến dáng vẻ thảm hại của mình khi bị Khang Đại Vi bắt quả tang, lần đầu tiên trong đời thực sự trở nên lắp bắp, lúng túng không biết phải nói gì.
Hắn hớn hở gắp liền mấy miếng thức ăn đưa lên miệng. Ta phát hiện một chi tiết thú vị, mỗi lần hắn vui, thể nào cũng ăn nhiều hơn rất nhiều, việc này chắc không thể giả vờ được?
Hoàng hậu tuyệt nhiên không thể mắc một lỗi sơ đẳng như vậy, dùng miếng vải đỏ tùy tiện lồng vào trong áo, nhất định cô ta đã dùng phẩm màu đặc biệt để nhuộm xấp vải kia, khiến Tố Khiết phạm vào một tội danh mơ hồ, như vậy có người đã sớm biết kế hoạch của Hoàng hậu, bèn tráo đổi xấp vải. Từ khi chọn vải đến khi bắt đầu cắt may thời gian rất ngắn, ai lại có thủ hạ võ công siêu quần để đánh tráo như vậy? Đáp án thật rõ như ban ngày.
Ta thầm hổ thẹn vì trước đó đã ngờ vực vô căn cứ, nếu hắn đem đề bài tiết lộ cho Hoàng hậu, chắc cũng là chuyện bất đắc dĩ, chỉ vì duy trì sự yên ổn của triều đình và hậu cung, hắn đã phải lao tâm tổn sức không ít.
Hắn làm Hoàng đế quả thực chẳng dễ dàng gì. Ta vừa gắp thức ăn đưa lên miệng, vừa thầm nghĩ như vậy, lòng bất giác kinh ngạc, mỗi lần nhớ đến hắn, ta không ngờ vực thì lại suy đoán, cho rằng hắn làm tất cả mọi chuyện đều vì cái lợi, dường như chưa từng đặt mình vào hoàn cảnh của hắn mà suy nghĩ… Chẳng lẽ ta đang dần đổi thay?
Ta biết Hoàng hậu chắc chắn cho rằng ta phái người giở trò, cô ta sẽ không chuyển nghi vấn sang phía Hạ Hầu Thần, nhưng lúc này ta chẳng hề oán giận hắn chút nào, ngược lại cho rằng chuyện nên thế. Nếu Hoàng hậu nhận ra Hạ Hầu Thần không còn tín nhiệm mình, tin tức truyền ra ngoài, nhà họ Thời nhân đó làm loạn sẽ khiến triều chính nghiêng đổ, mọi ý muốn ban đầu của ta và hắn đều bay biến.
Hạ Hầu Thần không xuất đầu lộ diện, Hoàng hậu sẽ nghĩ đây chỉ là cuộc tranh giành của nữ nhân với nhau, cô ta lên làm Hoàng hậu, tất thấu hiểu quy tắc trong hậu cung: Hạ Hầu Thần không thể chỉ sủng ái một mình Hoàng hậu, chỉ có cách tự mình triệt hạ các đối thủ mới có thể duy trì vinh sủng bền lâu. Hiện giờ ta đã thắng hai lần, cô ta chắc chắn căm hận tận xương tủy. Có điều chuyện chưa đến nỗi nguy cấp, người ta nói nhiều rận thì dày da, từ ngày ta quay trở lại cung cấm có lẽ đã bị cô ta liệt vào hàng đối địch, có hận thêm một chút thì thấm vào đâu?
Tố Khiết nhậm chức Thượng Cung, ta luôn miệng căn dặn, khi mới tiếp quản công việc, tất cả mọi chuyện phải thận trọng, ai nấy đều biết ta lập nó lên, chẳng biết có bao người đang chờ chực xem nó thất thố.
Con người Tố Khiết vốn đã cẩn thận, nghe khuyên bèn vâng dạ đáp lời, sau khi nó dọn đến ở Thượng Cung cục, hai bên không thường xuyên gặp mặt nữa. Tố Khiết an phận, bẩm sinh yêu thích việc chế trâm may áo, nghe nói sau khi đến Thượng Cung cục đã rất tâm đầu ý hợp với Hoắc Thiên Bình, hai người thiết kế ra vô số vật dùng mới mẻ, đặc biệt kiểu trâm đan bằng tơ vàng, trở thành thứ trâm ai nấy trong cung đều muốn có được.
Kỳ thực kiểu trâm này tuy vô cùng tinh xảo, nhưng không mấy chắc bền, dùng một thời gian dài sẽ lộ ra khuyết điểm, có điều trong cuộc thi quan trọng nhất là chiếm được thiện cảm tức thời của mọi người, nên trước đó ta mới để Tố Khiết rèn luyện kỹ thuật này.
Việc tranh tài tuyển chọn Thượng Cung tính đi tính lại cũng chỉ có thể là mấy nội dung đó, trước khi Hạ Hầu Thần ra đề đã sai Khang Đại Vi gọi mấy vị nghệ nhân thâm niên ở Thượng Cung cục đến hỏi chuyện, tham khảo ý kiến trước. Ta dò hỏi một chút là biết hắn định ra đề thế nào, tuy ta không trực tiếp hỏi Hạ Hầu Thần như Hoàng hậu, nhưng cũng vẫn là biết trước.
Mấy ngày nay mưa phùn rả rích, hoa đào dưới mưa dập nát cả, rụng đầy mặt đất tan thành bùn nhão, đầu cành nhú lên quả non bé tí tẹo, âu cũng là quy luật tự nhiên phải thế.
Đúng dịp quý thủy[2] của ta tới, Nội Thị Giám phái người đến ghi chép, Hạ Hầu Thần biết chuyện nên cố tình không triệu ta thị tẩm. Hai bên đã ngầm giao hẹn sẽ không tỏ ra quá thắm thiết, tránh để ta trở thành cái đích của trăm ngàn mũi tên, hắn vẫn phân phát ơn trạch cho muôn hoa, thậm chí còn đến chỗ Ninh Tích Văn hai lần, xong xuôi về nói với ta: “Tỷ muội nàng mỗi người một vẻ, nhưng đều quyến rũ như nhau.”
[2] Kinh nguyệt của phụ nữ.
Ta cố tình ghen tuông, cất giọng hờn mát: “Hoàng thượng, sao người cứ đem thần thiếp ra so với người ta?”
Ăn giấm nếm chua nhiều nên kỹ thuật diễn càng lúc càng điêu luyện, đôi khi ta tưởng như mình ghen thật, khiến Hạ Hầu Thần được một phen cười sảng khoái.
Hắn không sủng hạnh ta quá nhiều, nhưng mỗi lần đến Chiêu Tường các là hùng hục một mạch đến khi đôi bên mệt mỏi rã rời, ngày hôm sau hắn đi rồi, ta phải ngủ đến chiều mới dậy nổi. Ta cố thử thám thính chuyện kia của hắn với các phi tử khác thì tình hình khác hẳn, đôi lúc chỉ đến một hai canh giờ lại đi ngay, có khi xong chuyện hắn bèn một mình tới Ngự Thư phòng phê duyệt tấu chương. Tuy ta giỏi dùng mưu mẹo, khi làm Thượng Cung cũng biết không ít bài thuốc tẩm bổ chuyện phòng the, nhưng trước nay chưa từng dùng. Ta cùng các phi tử khác quan hệ không mấy tốt đẹp, càng không tiện hỏi thăm những việc quá nhạy cảm, Hạ Hầu Thần từng sủng hạnh vài ba cung tỳ ở chỗ các phi tần khác, nhưng chưa bao giờ làm việc đó ở chỗ ta, nếu không ta đã có cơ hội thu thập chút kinh nghiệm… Hay vấn đề là ở phía ta?
Qua hai ngày, quý thủy đã hết, Nội Thị Giám lập tức mang ý chỉ của Hoàng thượng đến, nói tối nay thánh giá sẽ lưu lại Chiêu Tường các. Tuy hắn không còn thô bạo với ta như trước, dần dần ta cũng tìm thấy khoái lạc, nhưng vừa nghĩ đến đêm nay lại một trận mệt nhoài, trong lòng không khỏi buồn bực. Tố Linh và Tố Tú hí hửng giúp ta mặc áo trang điểm, còn mang cánh hoa và dầu thơm chuẩn bị pha nước tắm, thấy hai đứa mắt hạnh má hồng, đang tuổi xuân xanh phơi phới. Mỗi khi Hạ Hầu Thần đến, ta đều tìm cớ cho cả hai quanh quẩn lượn lờ bên cạnh, nhưng chẳng đứa nào được việc. Nghĩ đến chuyện này trong lòng chợt thấy khổ não, có lẽ nên hỏi thử mẫu thân xem sao, có phải nam nhân nào cũng như vậy?
Đèn hoa vừa thắp, Hạ Hầu Thần đã theo lối vườn bước vào. Lần nào đến chỗ ta, hắn cũng sai người mang lên vài ba món nhắm, uống vài ba tuần rượu ngọt, tuy vậy cữ ăn uống khống chế rất nghiêm ngặt. Sau một thời gian dài ở bên, ta mới hiểu hắn là kẻ vô cùng khắc kỷ, thường nhật không có sở thích tiêu khiển đặc biệt, những thú vui của Hoàng đế tiền triều như du xuân săn bắn, chọi gà đấu chó, cá cược… hắn chẳng hề màng đến, ngoại trừ việc thường xuyên lui đến chỗ các phi tần, thường chỉ nhốt mình ở Ngự Thư phòng bàn bạc quốc sự với đám đại thần, chẳng khác nào một thầy tu khổ hạnh so với các vị hoàng đế khác.
Nghĩ đến đây, ta bất giác phì cười. Hắn ngồi phía đối diện lúc này ngẩng lên, dùng ánh mắt lạnh lùng liếc ta một cái: “Ái phi lại nghĩ ra chuyện gì đáng cười vậy?”
Ta gắp một miếng điểm tâm đặt vào đĩa của hắn, nói: “Hoàng thượng, ngày xuân ngắn ngủi, người có hứng thú đi thăm Thiên Thọ Sơn với bọn thần thiếp hay không?”
Xem bộ dạng hắn có vẻ chẳng mấy thích thú, chỉ nheo mắt không nói gì, hồi lâu mới hỏi: “Ái phi muốn đi ư?”
Ta đáp: “Mấy ngày nay mưa gió dầm dề, khó khăn lắm mới được một hôm nắng đẹp, thần thiếp muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng ở trong cung đi tới đi lui cũng chỉ có Ngự Hoa viên, chẳng còn gì thú vị nữa. Thần thiếp phò tá Hoàng hậu quản lý lục cung đã lâu mà chưa làm được chuyện gì cho các tỷ muội được vui, chi bằng nhân tiết xuân xuất cung du ngoạn một trận ra trò thì hay?”
Thiên Thọ Sơn cách kinh thành không xa, chưa đến mười dặm đường, vốn là nơi săn bắn tiêu khiển của hoàng gia, hoàng đế tiền triều trước kia thường xuyên dẫn các phi tần lên núi ngắm cảnh.
Kỳ thực ta nghĩ mỗi bận quý thủy hết, hắn đều muốn đến chỗ ta liên tục ba bốn ngày, nếu sáng mai xuất phát, có chúng phi tần ở đó, nếu có ai thu hút sự chú ý của hắn thì có phải tốt cho ta không?
Đôi mắt Hạ Hầu Thần lấp lóe ánh quang, ta biết ấy là dấu hiệu hắn nổi lòng nghi ngờ, cho rằng ta lại đang mưu tính điều gì. Ta bèn thưa: “Hoàng thượng, nếu người còn bận rộn việc quốc sự, thì cứ xem như thần thiếp chưa nói gì.”
Ta nói với vẻ hơi thất vọng.
Hạ Hầu Thần liền mỉm cười nói: “Hiếm khi ái phi có hứng như vậy, trẫm đành nghe thôi.” Hắn kề sát tai ta nói, “Lấy trời đất làm chăn, để âm dương hòa hợp, cũng là một khoái cảm mới lạ đó.”
Ta mặt đỏ tới tận tai, kéo tay áo hắn: “Hoàng thượng, sao người chỉ nghĩ đến mấy chuyện ấy?”
Hắn choàng tay ôm chầm lấy ta, không thể kiềm thêm được nữa, bèn hôn vào cổ ta, cung nhân đứng ai nấy đỏ mặt, vội lui ra.
Lại giúp chúng ta đóng chặt cửa sổ.
Lần đầu tiên hắn tỏ ra nôn nóng trước mặt các cung tỳ, khiến ta thẹn đến chín mặt, định thoát khỏi tay hắn, nhưng vùng vẫy thế nào cũng không được. Xoay sở thân người một lúc, hóa ra chuốc vạ vào thân, hắn thì thầm vào tai ta rằng: “Ái phi, nàng cứ như thế, trẫm sắp không chịu nổi nữa rồi.”
Giọng hắn nhỏ nhẹ chân thành, thánh thót như tiếng chim gọi bầy, nhưng lời nói ra vô cùng dạn dĩ, khiến ta cảm thấy máu toàn thân như dồn lên đầu, thân thể nóng ran, chỉ biết vùi mặt vào cổ hắn, cảm thấy yết hầu hắn lên xuống, không nhịn được cắn nhẹ một cái, hắn chợt rùng mình, ôm chặt lấy ta, bước vội mấy bước rồi ném ta xuống giường, nằm đè lên trên.
Lại một đêm nữa ta phải chịu giày vò. Nhưng khác với trước, cảm giác khoan khoái như ở trong mây kia khiến cơ thể ta hân hoan đến cực điểm, ngay sau ấy là mệt mỏi rã rời, nhưng hắn không cho ta ngủ yên, mấy lần thiu thiu thiếp đi, hắn lại quấy nhiễu làm ta tỉnh người, đến tận khi trời hửng sáng, ánh mặt trời rụt rè chiếu qua song cửa ta mới được ngủ, láng máng nghe tiếng hắn gọi người vào sửa soạn thượng triều, lòng chỉ biết than sức khỏe hắn quá sung mãn.
Ta miễn cưỡng nhắc nhở bản thân rằng, cuộc du ngoạn Thiên Thọ Sợ nhất định phải tổ chức, đến trưa thì tỉnh lại, lập tức phát thiệp đến các cung. Những ai đồng ý tham gia thì báo lại, qua bữa tối là xuất phát ngay. Vì lần này Hạ Hầu Thần tham gia, nên đám phi tần có ai không hớn hở đồng ý, ta lấy danh nghĩa đồng tổ chức với Hoàng hậu, nhưng mọi sự xong xuôi mới báo sang cung Chiêu Thuần. Ta biết làm như vậy chỉ khiến cô ta hận thêm sâu, nhưng có hận ta, Hoàng hậu mới không nghi ngờ Hạ Hầu Thần. Ngay từ đầu đã dự định như vậy, nay ta làm thêm mấy việc để khiêu khích là hợp lẽ.
Trong cung người nhiều nên mọi việc đều thuận tiện mau chóng, vừa phát lệnh ra, đám nô tài một loáng chuẩn bị đâu vào đó, vô số xe ngựa xếp hàng chờ cả ở ngoài cửa cung. Bời đây chỉ là cuộc dã ngoại nho nhỏ, nơi đến cách kinh thành không xa, dọc đường có thị vệ hộ tống, chẳng mấy chốc mà đến nơi. Thiên Thọ Sơn vốn là ngự sơn của hoàng thất, hễ cần là mọi thứ đều được chuẩn bị tươm tất, chẳng thiếu gì so với hoàng cung. Nơi nghỉ của Hoàng hậu dĩ nhiên là gần Hoàng thượng nhất, nay phẩm vị ta chỉ kém Hoàng hậu, đáng ra nên chọn nghỉ ở Mộng Hải các giáp gần chốn nghỉ của Hoàng thượng, nhưng vừa nghe cái tên Mộng Hải ta đã nói: “Bản phi vốn khó ngủ, giờ lại còn mơ thấy biển, há chẳng càng ngủ không được?”
Thái giám lãnh sự bèn đọc sang các tên khác, ta nói: “Ấn Nguyệt các được đó, tên sao cảnh vậy, chắc mỗi đêm đều được nhìn thấy trăng sáng.”
Thái giám lãnh sự tâu: “Có điều nơi ấy cách xa nơi ở của Hoàng thượng, e đi lại không thuận tiện ạ.”
Ta cười đáp: “Thiên Thọ Sơn rộng lớn thế này, có xa hơn nữa cũng chẳng qua vài bước chân. Đã ra ngoài cung thì đừng nên cứng nhắc quá, nếu Hoàng thượng sợ phiền phức, cứ để bản phi thân chinh đến cung của người là được.”
Thái giám lãnh sự đành vâng lời.
Ta thấy nơi ở của ta và Hạ Hầu Thần không phải quá xa, nhưng ở giữa cách mấy khu đình viện, mỹ nhân này bước ra thể hiện vài bài hát, mỹ nhân kia vờ như tình cờ gặp, thế nào cũng phân tán ít nhiều hứng thú của hắn.
Khi đến Thiên Thọ Sơn trời còn sớm, thu xếp chỗ ở cũng mất kha khá thời gian, xong xuôi thì đèn hoa đã thắp, quả nhiên hắn bị Hoàng hậu giữ lại, không đến nghỉ ở chỗ ta. Ta hừ một tiếng, nghĩ bụng đêm nay sẽ ngủ ngon vô cùng.
Vì ngủ say, khó khăn lắm sáng hôm sau ta mới tỉnh dậy. Giám Thiên Thị[3] báo rằng mấy ngày tới trời nắng đẹp, quả nhiên ngày hôm sau Thiên Thọ Sơn ngập trong nắng ấm, cỏ xanh rừng thẳm như dát một lớp vàng mỏng chói lọi, đẹp không tả xiết.
[3] Bộ phận dự báo thời tiết.
Ta chọn chiếc váy xẻ tà màu trắng có hoa văn chìm cho thoáng mát lại tiện việc đi lại, thân trên mặc áo cân vạt ống tay hẹp, trên đầu chỉ dùng một cây trâm ngọc giữ lấy búi tóc, đi hài thêu đế dày mũi hếch loại tiện cho việc leo núi, người trong gương bớt đi vài phần uể oải, bù lại thêm vài phần tinh anh, ta ngắm mà thầm vui thú trong lòng.
Đang định bước ra cửa đến chỗ Hoàng thượng gặp mặt, cùng nhau bàn tính hoạt động tiếp theo, chợt nghe ngoài viện có người nói: “Mau vào bẩm báo với nương nương là Hoàng thượng mang người xuất phát rồi, bảo lão nô đến đón nương nương.”
Ta sững người, vội vàng đi ra, Khang Đại Vi đang đứng giữa vườn, thấy ta bèn đáp: “Nương nương, người chọn chốn này tách biệt quá, lão nô chạy đến nơi mà thở không ra hơi.”
Quả thực trên trán ông ta rịn đầy mồ hôi, ta vội sai người mang khăn tay đến, cười hỏi: “Khang Tổng quản, mặt trời vừa mọc chưa bao lâu, Hoàng thượng sao lại vội thế?”
Khang Đại Vi cầm khăn lau vội mồ hôi trên mặt, nói: “Người đừng hỏi nhiều làm gì, mới sáng sớm Hoàng thượng đã tỉnh dậy, thấy không khí trên Thiên Thọ Sơn trong lành, bèn sai người đánh thức chúng phi tần, xuất phát thẳng lên núi, lão nô đích thân chạy đến báo với nương nương đầu tiên, ai ngờ nơi nghỉ của người lại xa thế!”
Ông ta nhắc đi nhắc lại đến hai lần, ta chợt hiểu Hạ Hầu Thần có ý trêu mình, định lẳng lặng bỏ lại rồi bắt mình hụt hơi đuổi theo, tốt nhất là làm cho tóc tai bời bời, nháo nhào hoảng hốt.
Ta chẳng theo kịp suy nghĩ của hắn, hơn nữa trong tâm hắn lại có vướng mắc, hắn là Hoàng thượng, quyền lực của hắn như một thanh kiếm treo lơ lửng trên đầu kẻ khác, liệu còn cách nào hơn là phục tùng? Ta tha thiết quay sang Khang Đại Vi nói: “Vậy chúng ta mau tới đó.”
Tố Linh và Tố Tú đã thay y phục xong từ lâu, nghe ta nói vậy, bèn mỗi đứa dìu một bên, Khang Đại Vi đi trước dẫn đường, nhanh chân tiến về chỗ nghỉ của Hoàng đế.
Thiên Thọ Sơn là ngự sơn của hoàng gia, chiếm một diện tích rộng lớn, địa thế không quá cheo leo, trên triền núi trồng đầy kỳ sơn dị thảo, hoa cỏ đẹp đẽ chẳng khác gì được trồng trong Ngự Hoa viên, có các nghệ nhân kỳ công chăm sóc, mà lại đượm vẻ tự nhiên hoang dã. Đã là đi thưởng ngoạn thì chẳng lý do gì lại ngồi kiệu lên núi. Ta theo sau Khang Đại Vi men theo con đường líu ríu chạy tới nơi nghỉ của Hạ Hầu Thần.
Trên đường đi cũng gặp phải vài ba phi tần đến muộn xăm xăm tiến về phía trước, thấy ta, bèn lên tiếng thăm hỏi hành lễ, mặt lộ vẻ khó hiểu. Ta biết họ đang nghĩ gì, người tiên phong đề xướng ra chuyến đi mà còn bị bỏ lại phía sau, đủ thấy Hoàng thượng thay lòng nhanh biết chừng nào?
Có khoảng năm sáu người đến sau cùng, ta quan sát kỹ lưỡng, nhận ra những người này đều hoặc không được ân sủng lắm, hoặc bình thường ít ganh đua, tất cả cùng nhanh chân tìm đến sườn núi. Ta đã thấm mệt, bước chân không kìm được chậm lại. Nữ nhân tụ họp một chỗ sao có thể không buôn chuyện? Mấy vị phi tần kia tuy thường ngày không hay qua lại cùng ta, nhưng định kiến không sâu đậm, cứ vừa đi vừa nói chuyện y phục giày dép, cảm thấy quãng đường không mấy gian nan nữa.
Khó khăn lắm mới nhìn thấy một khoảng đất bằng, cỏ mọc xanh um, sớm đã trải đầy vải dầu không thấm nước lên trên, lác đác một đám phi tần túm tụm ngồi bên trên cứ như hoa tươi nở trên đất bằng, sặc sỡ nhiều màu, đẹp đến lóa cả mắt. Hoàng thượng và Hoàng hậu ngồi ở chính giữa, vây xung quanh dĩ nhiên là mấy phi tần tương đối được sủng ái. Ta nhìn kỹ, phát hiện Ninh Tích Văn hôm nay ngồi mãi trong góc, nó trước nay vốn thân cận bên Hoàng hậu, không lúc nào không khoe khoang với ta mình được Hạ Hầu Thần yêu thương hết mực. Vậy mà lần này một mình rúc xó, ăn mặc càng không bắt mắt, chẳng biết là vì sao.
Ta dẫn đầu mấy vị phi tần đến muộn lại gần, theo lệ hướng về phía Hoàng thượng Hoàng hậu hành lễ, các phi tần khác cũng lũ lượt đứng dậy hành lễ với ta, rồi các phi tần cấp thấp hơn hành lễ với phi tần cấp cao hơn, cứ thế hỗn loạn một lúc. Hoàng hậu sai người dọn ra một chỗ trống giúp ta, cười nói: “Chắc muội muội còn quyến luyến không khí thanh tân trên núi nên mới dậy trễ, đến muộn. Nhưng cũng phải, hết ngày này sang ngày khác quanh quẩn trong cung đích thực rất buồn chán, nay được hít thở không khí thanh tân trên núi là ngon giấc không muốn rời giường, bản cung sớm nay suýt nữa dậy không nổi, nếu không có Hoàng thượng năm lần bảy lượt thúc giục, chắc đã phụ cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp này rồi.”
Ta vội thỉnh tội với Hoàng thượng Hoàng hậu, lời qua lời lại một lát, Hạ Hầu Thần mới lạnh lùng “hừ” một tiếng: “Hoa Phu nhân vốn dĩ biếng nhác, nàng nói nhiều để làm gì? Khi ở trong cung ngày nào chẳng ngủ đến khi mặt trời lên tới đầu sào mới chịu dậy!”
Ta cúi đầu không đáp, nghĩ bụng tội danh thì ta đây chẳng thiếu, nhưng cái từ “biếng nhác” kia quả có mới mẻ, hôm nay mới là lần đầu được nghe. Hắn càng lúc càng cay nghiệt chẳng thèm để ý đến lý lẽ, một tháng chỉ có vài ba lần hắn đến ta mới ngủ dậy muộn, vậy mà giờ bị đem ra đay nghiến, thật là oan quá.
Hắn mắng mỏ một lúc, mấy vị phi tần đến muộn đều bị nhắc tên, ai nấy lộ vẻ hổ thẹn, ta thì mừng thầm vì có người bị mắng cùng.
Hoàng hậu cười nói: “Hoàng thượng, người đừng nổi giận, hôm nay thời tiết đẹp, thần thiếp đã sai người chuẩn bị rất nhiều diều giấy, các muội muội hôm nay đều ăn vận gọn nhẹ, chẳng mấy khi ra ngoài, nên cùng nhau thả diều cho vui vẻ mới phải?”
Gương mặt Hạ Hầu Thần lúc này mới giãn ra, gật đầu đồng ý.
Ta chỉ muốn tránh cái khuôn mặt bí xị của hắn càng xa càng tốt, vội đứng dậy cầm lấy một con diều hồ điệp trên tay tiểu thái giám rồi đi ngay.
Chúng phi tần có ý thể hiện trước mặt Hạ Hầu Thần, có người mang sẵn diều đẹp, lúc này mới lấy ra, nào là diều rết nhiều chân cực lớn cực dài, nào diều chim én… nào diều bốn khúc vẽ hình mẫu đơn phú quý, ngũ phúc bổng thọ… màu sắc tươi tắn, khiến người ta sướng mắt đẹp lòng, nhìn từ góc độ tranh vẽ, chỉ thấy bút pháp tỉ mỉ đa dạng, hình tượng hư cấu nhiều mà sống động, ai nấy đều dốc mọi mánh lới. Những người chẳng thèm chuẩn bị gì, chỉ thả diều hồ điệp như ta có lác đác vài vị, chẳng ai khác chính là mấy phi tần đến muộn. Chuyện đến Thiên Thọ Sơn vãn cảnh mãi trưa hôm qua mới lan truyền, bọn họ chuẩn bị kỹ càng như vậy, quả nhiên đều là hạng lắm tiền nhiều thế không thể xem thường.
Riêng ta, cái kẻ tiên phong hô hào, giờ đây lại tụt ở phía sau.
Nhớ lại quãng thời gian vừa qua được Hoàng đế sủng ái hết mực, nhận ra mình chẳng chịu tung hết sức để tranh sủng, nay hào quang đã mất lại nuối tiếc, bất giác cảm thấy hổ thẹn, bèn tự kiểm điểm lấy mình. Giữa ta và hắn đã có thỏa thuận ngầm, mục đích là quấy nhiễu Hoàng hậu, mũi giáo ta phải giương mình hứng chịu, xem ra cần phải nỗ lực vì nhiệm vụ một chút nữa.
Đang mải suy nghĩ, chợt nghe trên thảm cỏ truyền đến trận reo hò, chỉ thấy Hoàng hậu mừng vui hớn hở, đám cung phi vây quanh chỉ trỏ vỗ tay, nhìn lên, hóa ra con diều phượng hoàng màu sắc rực rỡ của Hoàng hậu rốt cuộc đã bay cao, từ mặt đất nhìn lên, chỉ thấy con diều điểm xuyết lông vũ bảy sắc, móng vuốt màu thiên thanh, ngẩng đầu xuyên thẳng từng mây, cứ như một con phượng hoàng thật.
Ta thầm nghĩ, đã có phượng hoàng, ắt có kim long, Hoàng hậu đúng là biết cách lấy lòng Hạ Hầu Thần.
Quả nhiên chẳng bao lâu, diều rồng bay thẳng lên trời, cùng phượng hoàng kề vai sát cánh, nô đùa lượn bay như múa, xem ra lần này Hoàng hậu vắt óc nghĩ ra tiết mục đặc sắc này, đã phần nào đánh đuổi được cái xúi quẩy của hai lần thua cuộc trước đây.
Ta biết rõ lần này chẳng cách nào đảo ngược tình thế, đâm thấy chán ngán, nhìn quanh quất một hồi, định tìm nơi thanh tịnh, chợt thấy Ninh Tích Văn thả diều hồ điệp, ngưỡng mộ ngắm nhìn cặp long phượng đang uốn lượn trên trời xanh, ta cứ cảm thấy lần đi chơi này Ninh Tích Văn ẩn giấu tâm sự, nó hận ta đã lâu, nay thấy nó cô độc đứng một mình, ta không tiện bước đến hỏi thăm, chỉ biết đứng một bên ngầm quan sát.
Hai con diều long phượng trước do Hoàng thượng Hoàng hậu tự thả, sau một lát chuyển sang tay đám cung tỳ, hai người ngồi trên thảm cỏ trò chuyện rất vui vẻ.
Trước đó gió nhẹ trời thanh, lúc này đột nhiên gió ngày một mạnh, một trận gió lớn nổi lên, diều lớn diều nhỏ ngiêng ngả liêu xiêu, cặp diều long phượng vốn đã cồng kềnh, nay bị gió thổi khó mà giữ vững, khiến các cung tỳ bên dưới bị lôi tuột đi, xém chút nữa thì tuột tay, cũng may có mấy cung tỳ khác cùng đến giữ mới khỏi bay mất. Diều long phượng vốn bay rất gần nhau, nay cứ như quay ra đánh lộn, quấn vào làm một, chuẩn bị rớt xuống đất đến nơi, đám cung tỳ luống cuống la hét lạc giọng.
Ta thầm thấy buồn cười, lòng nghĩ lần này hay rồi, long phượng trên trời đấu đá trước mặt, long phượng dưới đất đấu đá sau lưng, thật là oái oăm.
Chợt thấy Ninh Tích Văn đã thả con diều trong tay ra tự lúc nào, chạy đến giúp đám cung tỳ gỡ hai con diều ra, ta thầm thấy lạ, Ninh Tích Văn lúc đầu ngồi một mình, bây giờ lại muốn tham gia náo nhiệt?
Gió càng thổi càng lớn, diều trên trời càng gỡ càng rối, chỉ thấy long phượng quấn vào làm một, tuy đám cung tỳ liều chết giữ lấy, nhưng xem ra sớm muộn dây diều cũng đứt. Hoàng hậu khó khăn lắm mới có được cơ hội tốt, không ngờ trời cao trêu chọc, diều đứt dây là điềm gở, chẳng biết lòng cô ta liệu có hoảng hốt?
Lúc này Hoàng hậu và Hoàng thượng dĩ nhiên chẳng thể trò chuyện vui vẻ được nữa, đều đứng dậy chỉ huy đám cung tỳ, khổ nỗi gặp phải tình thế này, đến thần tiên còn khó cứu, chỉ có thể cứu lấy một mà bỏ một, nghe “phựt” một tiếng, diều phượng đứt dây bay vút đi, diều rồng không còn vướng víu, một mình uốn lượn trên cao, vây xung quanh nó dĩ nhiên là mấy cây diều hồ điệp loại nhỏ, trông lại vui mắt như thường. Ta thầm nghĩ, sao mà khéo thế, đứt diều phượng chứ không đứt diều rồng?
Ta bất giác chăm chăm nhìn về phía vị tổng quản nhất mực trung thành Khang Đại Vi, nghe nói thân thủ ông ta cực cao siêu, ta chưa từng được chứng kiến, nhưng lần này, xem ra lời dồn là thật?
Chỉ thấy Khang Đại Vi luồn hai tay vào ống áo đứng một bên, bộ dạng thật thà ngơ ngác.
Diều phượng đã đứt, đám cung tỳ bèn lảo đảo thối lui, vừa khéo Ninh Tích Văn đứng phía sau, bị bọn họ xô một cái, ngã lăn, chỉ nghe tiếng hò hét vang dậy, xen lẫn tiếng thét thảng thốt, vô cùng chói tai. Ta nghe dường như là tiếng của Ninh Tích Văn, vội bước đến xem, gạt đám đông ra, thấy Ninh Tích Văn nằm trên đất rên rỉ không ngớt, hai tay ôm bụng, trong lòng chấn động, chẳng lẽ…
Đám cung tỳ vội dìu Ninh Tích Văn dậy, xem ra Hoàng hậu cũng nghĩ như ta, vội sai ngự y đến kiểm chứng. Ta thầm than không ổn, Ninh Tích Văn thật quá hồ đồ, trong lúc cái thai chưa ổn định mà dám công bố ra trước mặt tất cả mọi người?
Nghĩ thế nhưng ta không cách nào ngăn cản, chỉ biết giương mắt nhìn ngự y báo tin vui với Hoàng thượng, Hoàng hậu thân mật kéo tay nó, dặn dò phải cố gắng nghỉ ngơi, cẩn thận kẻo động thai, lại quay sang xin Hoàng thượng cho nó chuyển đến Thanh Vận các ở gần cung Chiêu Thuần, dĩ nhiên khiến mọi người ngưỡng mộ ngợi khen mãi.
Hạ Hầu Thần dĩ nhiên vô cùng vui mừng, lập tức thăng cho Ninh Tích Văn làm quý phi, các phi tần khác tới chúc mừng không ngớt. Trước mắt vui mừng rộn rã, nhưng trong lòng ta thấy thê lương, Hoàng hậu đang tuổi trẻ vẫn chưa hoài thai Thái tử mà chịu nhận nuôi con người khác mới thật là lạ lùng.
Các triều trước đã có tiền lệ, phi tần phẩm tước nhỏ sinh được con trai, vì muốn bảo toàn tính mạng cho con mà giao cho Hoàng hậu nuôi dưỡng. Nhưng hiện thời Hoàng thượng đang dốc sức khống chế thế lực của nhà họ Thời, trong ngoài triều tình hình cam go như nước lửa, sao có thể để Hoàng hậu chiếm phần hơn? Chỉ sợ sau này cuộc tranh đấu nổi lên, Hoàng hậu sẽ trở thành khúc gỗ dưới nước. Thêm nữa tấm gương Thượng Quan thái hậu của tiền triều còn đó, Hoàng hậu liệu có sinh lòng dè chừng đứa con không phải do bản thân mình sinh ra hay không… Mẹ ruột của đứa trẻ ấy vẫn còn đó, trong cung người đông lắm thị phi, khó tránh có kẻ ác ý tìm cách xúi bẩy, đến cuối cùng biết đâu lại tự hướng mũi giáo về mình?
Ta nghĩ ngợi mông lung, luôn cảm thấy đứa trẻ trong bụng Ninh Tích Văn đến không đúng lúc, chỉ hơi bất cẩn sợ rằng tính mạng hai mẹ con đều khó bảo toàn, nhưng xem dáng vẻ nó liều mạng ôm bụng ban nãy, thì biết nó xiết bao hy vọng có đứa trẻ này.
Thử hỏi nữ nhân trong cung có ai không mong một đứa con, ai không mong được phú quý nhờ con?
Ánh nắng chiếu rọi triền núi, lá cỏ phản chiếu ra một lớp vàng kim mỏng mịn như nhung, ta đứng cách Ninh Tích Văn một quãng mấy bước chân, thấy gương mặt nó nửa cười nửa thẹn, tha thiết liếc nhìn Hạ Hầu Thần lúc này đang vô cùng hớn hở, lại ngoảnh đầu cảm tạ Hoàng hậu đã lo lắng, người duy nhất không nhìn chỉ có kẻ làm tỷ tỷ là ta. Tố Linh vừa choàng giúp ta chiếc trường bào lên vai, mà sao vẫn thấy cả người thấu buốt.
Sau khi hồi cung, ta bèn sai Túc nương nương thường xuyên để ý tình hình ở Thanh Vận các, nhưng cũng biết bản thân mình không lo lắng được nhiều. Ninh Tích Văn coi Hoàng hậu như chỗ dựa vững chắc, chẳng khác gì ta ngày trước. Có điều ta tỉnh táo hơn Ninh Tích Văn, lại thêm sống trong cung đã lâu, thông thạo mọi việc ở Thượng Cung cục, biết tự chừa đường lui cho mình, chỉ e với bản tính của Ninh Tích Văn, sẽ như cá nằm trên thớt.
Chuyến đi Thiên Thọ Sơn khiến Hạ Hầu Thần vô cớ giận dỗi, suốt hai tuần liền không thèm đến Chiêu Tường các. Ta có hơi sốt ruột, lại thêm chuyện Ninh Tích Văn, ta đang định xin hắn một đặc ân, cho Ninh Tích Văn dọn ra khỏi Thanh Vận các đến một nơi an toàn, tốt nhất là dọn đến Chiêu Tường các, để ta chăm nom, sẽ có cách bảo vệ đứa bé trong bụng.
Tố Linh thấy ta mấy ngày liền thần tình ngẩn ngơ, bèn trêu: “Nương nương, người nhớ Hoàng thượng đấy ư? Bây giờ nương nương thân phận cao quý, Hoàng thượng không đến, người cũng có thể đến thăm mà?”
Đầu ta chợt lóe lên một ý nghĩ, sao mà ta hồ đồ quá, sao lại quên là còn có cách này? Xem ra công phu tranh sủng của ta vẫn chưa mấy thâm hậu, các phi tần khác vẫn thường xuyên làm việc này, mà ta đến nghĩ ta còn chẳng nghĩ ra?
Ta sai Tố Linh cùng mình sửa soạn trang điểm chuẩn bị đến điện Triêu Dương của Hạ Hầu Thần. Tố Linh thấy ta nghe lời mách, bèn hí hửng lấy chiếc váy dài chấm đất màu hồng phấn, dưới vạt có hoa văn hình tròn, màu sắc tươi sáng như nụ hoa mới nở. Ta cảm thấy bộ y phục này hơi đẹp quá đang định lắc đầu bảo nó đổi bộ khác, chợt nghĩ lại, lần này đi là để cầu xin, dù thế nào cũng phải làm hắn vui vẻ, gạt phăng chuyện không vui lần trước đi mới phải. Chẳng phải hắn rất thích màu này hay sao? Khánh Mỹ nhân chính nhờ thích mặc những màu tươi tắn nên mới trở nên nổi bật giữa đám phi tần!
Nghĩ như vậy, ta bèn mặc cho Tố Linh trang điểm giúp. Tố Linh vốn khéo tay, trang điểm rất đặc sắc, trong cung người đẹp mơn mởn khắp nơi, ta luôn cho rằng mình đã hơi lớn tuổi, mặc áo quần màu sắc sặc sỡ không hợp lắm, nhưng qua tay Tố Linh trang điểm, đánh thêm một chút bóng mắt màu khói ráng, cả con người không những trở nên trẻ trung tươi mới, mà còn toát ra vẻ mê hoặc khiến người xa ngàn dặm cũng không thể cự tuyệt.
Tố Linh nhìn lai cũng phải ngây người, nói: “Nương nương người xem, mặc bộ y phục này vào làm tôn thêm vẻ đẹp của người biết bao.”
Ta vừa soi gương vừa nghĩ, ăn mặc phục sức thế này chẳng hóa ra dâng mình lên miệng cọp ư? Nghĩ thế lại tự cười mình, nếu đã định như vậy thì việc gì phải viện cớ?
Ta đến trước điện Triêu Dương, chờ cho cung nhân chuyển lời vào trong, mất một lúc lâu mới có lời đáp, rằng Hoàng thượng đang phê duyệt tấu chương, bảo ta chờ trước cửa một lát.
Ta dạo quanh cửa mấy vòng, chợt thấp thoáng nghe tiếng nữ nhân cười đùa từ trong điện vọng ra, lòng thầm nghĩ phê duyệt tấu chương phen này quá náo nhiệt, hôm nay có lẽ không phải thời cơ tốt để gặp hắn, bèn nói với thái giám truyền lời rằng lần này ta chỉ đến thăm, nếu Hoàng thượng bận việc thì xin không làm phiền nữa.
Thái giám thông truyền đáp: “Vậy xin nương nương chờ một lát, nô tài vào báo là nương nương xin về xem ý Thánh thượng ra sao?”
Tên tiểu thái giám này cũng thật đáng thương, chạy tới chạy lui đến độ toát mồ hôi đầy trán, ta bèn cười đồng ý.
Qua một lúc nữa, ta đi thêm được một vòng bên ngoài cung điện, chợt thấy Khang Đại Vi đích thân đi ra, cúi mình hành lễ: “Nương nương, lúc này Hoàng thượng đã xong việc, mời người vào.”
Ta chú tâm lắng nghe trong điện, vẫn thấy loáng thoáng có tiếng nữ nhân nói chuyện, việc ta muốn cầu không tiện để người khác biết, bèn nói với Khang Đại Vi: “Khang Tổng quản, ta nghĩ không cần đâu, hôm nay Hoàng thượng quả chắc đã mệt, để ngày khác ta đến vậy.”
Nói xong liền quay mình bước ra ngoài, xem ra muốn đến gặp Hạ Hầu Thần, trước tiên phải thăm dò kỹ xem có ai bên cạnh hắn không, có tiện gặp không mới được.
Đang chuẩn bị bước ra khỏi cửa điện, chợt nghe tiếng Hạ Hầu Thần cất lên từ phía sau: “Muốn gặp trẫm mà đợi một chút đã không chịu được, lòng thành của nàng liệu có mỏng quá không?”
Ta vội quay lại nhún mình hành đại lễ với hắn, quả nhiên thấy một Tuyển thị mới nhập cung chưa lâu đứng bên cạnh, hình như là họ Dương. Dương Tuyển thị luống cuống hành đại lễ với ta, cười nói: “Nương nương, Hoàng thượng thích nước quả do thần thiếp làm, nên ngày nào thần thiếp cũng nấu mang đến, đang định quay về, không ngờ nương nương đã đến rồi.”
Ta nghĩ thầm tự ta chẳng cần ngươi giải thích, ngươi việc gì phải nói hết ra như vậy? Sở thích của Hạ Hầu Thần ta rõ hơn ngươi nhiều, đã nổi hứng thì ngay ở Phật đường còn dám càn rỡ, huống hồ là điện Triêu Dương của mình? Nghe xong chỉ khẽ cười, không đáp lời.
Dương Tuyển thị cúi mình hành lễ rồi cáo biệt.
Hạ Hầu Thần dẫn đường, ta bèn nhấc vạt váy theo sau, mối quan hệ giữa ta và hắn vốn đã dần ấm áp, trải qua chuyện ở Thiên Thọ Sơn dường như đóng băng trở lại, chẳng biết hôm nay hắn sẽ đối đãi với ta ra sao?
Không ổn, trước tiên phải làm tan chảy tảng băng trong hắn đã! Nghĩ đến trước kia hắn rất thích mỗi khi ta hờn mát, bèn cất tiếng gọi từ phía sau: “Hoàng thượng, người đừng đi nhanh quá thần thiếp không theo kịp…”
Hành lang có thái giám đứng gác, nghe thấy tiếng kêu của ta thì lộ ra chút ít ý cười, Hạ Hầu Thần chẳng thèm để ý, lại càng bước nhanh hơn, thoắt cái rẽ đi đâu mất.
Ta đành nhấc váy líu ríu chạy theo, hành lang bên ngoài điện Triêu Dương không phải quá dài, nhưng hôm nay sao đi mãi mà không đến.
Hạ Hầu Thần làm vua một nước, thể diện dĩ nhiên khá lớn, không thể chịu nổi nửa phần ấm ách, nếu không sao có thể làm vua một nước?
Ta vừa chửi thầm trong bụng vừa bước vào điện Triêu Dương, thấy hắn sớm đã ngồi bên bàn sách, đang cầm một cuốn tấu chương lên xem, mặc ta đứng trơ giữa đại điện, tiến không được, lùi chẳng xong, lúng túng chẳng biết làm gì. Đại điện rộng rãi trống trải, bọn cung nhân bị đuổi hết ra ngoài, chỉ còn ta và hắn. Ta thu hết dũng khí bước đến bên bàn, nhỏ giọng hỏi: “Hoàng thượng, trong triều xảy ra chuyện lớn hay sao mà người phải bận rộn đến vậy?”
Ta chẳng qua không biết nói gì nên tiện miệng lấp liếm, ai ngờ hắn chỉ lạnh lùng đáp một câu: “Chuyện triều chính đâu đến lượt nàng tùy tiện bình luận? Nữ nhân không được tham gia chính sự, nàng quên rồi ư?”
Ta bị dọa, vội quỳ xuống xin tội, luôn miệng nói: “Thần thiếp không dám.”
Hai con mắt hắn đảo lên đảo xuống ngắm nghía một hồi, nói: “Hôm nay nàng phục sức quả khác ngày thường, nói đi, có phải định cầu xin trẫm điều gì không?”
Ta sợ nhất là giọng điệu này của hắn, thẳng thừng bóc mẽ người khác không nương tay. Trước tiên cứ để đối phương diễn kịch đã đời, nhưng lời đã thuộc lòng trong bụng không tài nào nói ra đến miệng, rồi hắn sẽ xé toạc tất cả lớp vỏ hoa lệ đó, chỉ thẳng vào vấn đề, khiến đối phương bàng hoàng lúng túng. Giữa chúng ta chẳng phải đã thỏa thuận rồi sao? Thời gian trước hai bên người tung kẻ hứng vui vẻ biết mấy, quan hệ cũng lắng dịu hơn nhiều mà?
Sao lôi thôi một hồi, mọi thứ lại quay trở về xuất phát điểm của nó rồi?
Ta vội cười nói: “Sao Hoàng thượng lại nghĩ vậy? Chẳng lẽ thần thiếp muốn xin xỏ nên mới đến gặp người ư? Thật ra thần thiếp…”
Hắn lạnh lùng “hừ” một tiếng, khiến nửa câu sau: “… vì nhớ Hoàng thượng mà đến” tắc mãi ở cổ họng không thể nói ra.
Nghĩ đến việc hôm nay tô son trát phấn, khoác lên người y phục sặc sỡ mình vốn chẳng ưa chỉ để lấy lòng hắn, mà lại bị đối xử như vậy, trong lòng bất giác buồn bã, chẳng lẽ hắn không muốn khống chế Hoàng hậu nữa ư? Bởi thế nên ta chẳng còn ích gì với hắn nữa?
Lòng ta chợt phát hoảng. Hắn chưa cho phép, ta không dám bình thân, cứ quỳ mãi trên mặt sàn lạnh buốt, thật là gần vua như chơi với hổ, hổ này lại là con hổ nắng mưa thất thường nhất trên đời!
Hắn trầm giọng: “Đứng dậy đi, cứ quỳ ở đấy cho ai xem!”
Ta đứng dậy, ngẩng đầu nhìn, hắn bèn giơ ngay tấu chương lên xem. Ta không tiện hỏi thêm, càng không dám xin về, chỉ biết đứng ở đầu bàn chờ đợi như kẻ ngốc.
Mãi mới đợi đến khi hắn xem xong tấu chương, “soạt” một tiếng đóng lại, ta vội nói: “Hoàng thượng, đã lâu lắm rồi ngài không đến Chiêu Tường các, thần thiếp mấy ngày nay có sai cung nhân trồng mấy cây hoa hàm tiếu trong vườn, hay người cùng thần thiếp đến xem?”
Hạ Hầu Thần đủng đỉnh đặt tấu chương xuống bàn, lại cầm một bản khác lên: “Ừm…” một tiếng, chẳng để ý đến ta nữa.
Ta nghĩ bụng thế nghĩa là đồng ý hay là không?
Quả thực không chịu nổi nữa, ta liền khẽ giọng hỏi: “Hoàng thượng, ý người là… đi hay không đi?”
“Cạch” một tiếng, Hạ Hầu Thần vứt tấu chương lên bàn, âm thanh vang vọng trong đại điện rộng lớn, khiến ta giật nảy cả người, bất giác lùi một bước, suýt nữa giẫm phải vạt váy ngã dúi dụi, khó khăn lắm mới đứng được vững vàng, nghe hắn giận dữ nói: “Trẫm biết rồi…”
Trong lúc hoảng sợ nhìn lên, ta thấy gương mặt hắn thoáng qua một nụ cười, rồi lại khôi phục vẻ băng giá, hắn nói: “Trẫm tự có sắp xếp, nàng cứ về trước đi!”
Đến cuối cùng ta vẫn không hiểu hắn đến hay không đến.
Về Chiêu Tường các, ta lập tức trút bỏ xiêm áo và phấn son, gọi Tố Linh cất vào hòm, lau sạch mặt mũi, thay xiêm áo khác xong, trong lòng bỗng se buồn. Nếu không mau chóng hành động để Hoàng hậu tìm được cơ hội hạ thủ thì hối cũng không kịp.
Hiềm nỗi giờ đây muội muội coi ta như kẻ thù, phải làm sao để hóa giải nỗi oán hận trong lòng nó? Ta hối hận sâu sắc vì trước đây trong lúc chưa suy xét cẩn thận đã đem đại nương ra thế mạng, nhưng lúc ấy ta có thể làm được gì? Đại nương và mẫu thân vốn là tỷ muội ruột thịt, tướng mạo có phần hao hao nhau, nếu bà không chết thì mẫu thân ta phải chết, thật là một phút nông nổi gây hận ngàn năm.
Trời sập tối, đèn hoa thắp sáng, vẫn chưa thấy Hạ Hầu Thần đâu. Sau khi dùng xong bữa tối hắn vẫn chưa đến, ta liền thôi hy vọng, thay một chiếc áo dài rộng rãi, ngồi trên bàn nhàn rỗi vẽ linh tinh, lòng nghĩ đến đứa trẻ trong bụng Ninh Tích Văn, vẽ một hồi thành ra đôi hài trẻ con. Ngó ra mặt trăng ngoài song cửa đã lên chính giữa trời, có lẽ sắp sang canh ba, nghĩ bụng chắc hắn không đến nữa, liền gọi: “Tố Linh, nghỉ đi thôi.”
Không nghe trả lời, ta đang định gọi tiếp, chợt cảm thấy một đôi tay đưa qua bả vai mình, cầm bức họa lên hỏi: “Nàng muốn có con à?”
Nghe thấy thanh âm trầm ấm trong vắt ấy nhẹ nhàng cất lên từ phía sau, ta mới kinh ngạc nhận ra Hạ Hầu Thần đã đến, phút chốc cảm thấy cơ thể mình lạnh cóng như đứng giữa trời đông, mà trong phòng kỳ thực rất ấm áp, cả người cứ như bị quẳng vào lò nướng tấy lên như phát sốt, ta nói: “Hoàng thượng…”
Dưới ánh đèn chiếu tỏ, đôi con ngươi hắn phát ra tia sáng dịu dàng, khi nhìn xuống đôi hài bé xinh trên giấy, ngay đến khuôn mặt cũng mềm ra. Không hiểu sao ta thấy mũi mình cay cay. Cuối cùng hắn đã đến.
Hắn rời mắt khỏi tờ giấy, chỉ nói: “Nhưng bây giờ chưa phải thời cơ tốt.”
Ta cúi đầu đáp: “Dù sao nó cũng là muội muội của thần thiếp.”
Gương mặt hắn đanh lại: “Trẫm sớm biết nàng muốn xin điều gì. Nhưng việc này trẫm không thể phê chuẩn được, không thể để người kia lại nổi lòng nghi ngờ.”
Ta rùng mình, ngước mắt nhìn hắn như không thể tin, nam nhân này là người như thế nào? Sao có thể dùng tính mạng một hài nhi còn trong bụng mẹ để đổi lấy tín nhiệm của Hoàng hậu? Hắn biết chắc Hoàng hậu sẽ không buông tha đứa trẻ.
Giọng ta dần nguội ngắt: “Hoàng thượng, nhưng ấy là máu mủ của người mà!”
Người hắn hơi chấn động, ánh mắt bỗng trở nên diệu vợi, lạnh lẽo, khiến ta thấy lạnh thấu xương: “Trẫm sẽ có nhiều đứa nữa.”
Ta mở to mắt nhìn hắn, khoảng cách đôi bên vừa thu lại đôi chút, vì câu nói này mà chợt xa. Hắn vẫn mãi là một ẩn số lớn, duy có một điều ta hiểu rõ: “Hắn tàn nhẫn hơn ta nhiều lần. Ta bày mưu tính kế chẳng qua để tìm đường sống, còn hắn hễ toan tính thì thâu trọn nhân tâm thiên hạ.
Ta biết không thể xin được nữa. Hắn chịu đến, chịu giải thích để ta hiểu những uẩn khúc này đã là quá lắm. Ta nhìn cái chặn giấy đặt trên bức họa ban nãy, cảm thấy đường nét của nó trong mắt mình dần dần hoa lên.
Nếu lúc này người mang thai là ta thì sẽ thế nào? Ta không dám nghĩ tiếp, vốn tưởng mình đặc biệt hơn kẻ khác một chút, đối với hắn có phân lượng hơn một chút, hóa ra chỉ là vọng tưởng mà thôi.
Ta nhắm chặt mắt lại, nuốt nước mắt vào trong, nói: “Hoàng thượng, trời đã khuya rồi, nên nghỉ đi thôi?”
Hắn nắm lấy bàn tay ta: “Nàng phải hiểu, trẫm có trách nhiệm bảo vệ giang sơn này bằng mọi giá. Nay nhà họ Thời đã trở thành nhà Thượng Quan thứ hai, trẫm không thể để họ được toại nguyện!”
Ta lãnh đạm đáp: “Thần thiếp chỉ là một nữ nhân. Hoàng thượng quên nữ nhân không được can dự triều chính ư? Thần thiếp nào hiểu việc quốc gia đại sự…” Giọng ta càng lúc càng lạnh lùng, “Nhưng chẳng chính Hoàng thượng tiếp tay cho nhà họ Thời đó thôi?”
Hắn chán nản lùi lại hai bước nói: “Trẫm còn cách nào khác? Nếu không có nhà họ Thời giúp đỡ, trẫm sớm đã chết trong tay Thái hậu. Nàng muốn trẫm phải làm sao?”
Hắn dùng nhà họ Thời để kiềm tỏa nhà Thượng Quan, không biết đã phải thỏa hiệp những gì? Việc sắc phong Thời Phượng Cần làm Hoàng hậu có lẽ chỉ là một việc trong số đó. Thỏa thuận một khi đã đưa ra, rất khó thu lại, đến cốt nhục của mình hắn cũng định hy sinh vì đó?
Vụ án Sư Viên Viên sảy thai rốt cuộc bị làm lơ mà trôi vào dĩ vãng, chắc hẳn hắn biết ai là người đã ngầm ra tay, nhưng hắn đã thỏa hiệp mất rồi.
Kỳ thực so với hắn ta tốt đẹp hơn được bao nhiêu?
Ta dựa vào đâu mà phê phán hắn?
Vốn dĩ phải giận giữ, nhưng chỉ cảm thấy bi thương. Dưới lớp vỏ phồn hoa nhung lụa này, chẳng qua là một mớ rác rưởi.
Hắn vòng tay ôm lấy vai ta, lay mạnh: “Sao nàng lại như vậy, nàng thất vọng vì trẫm ư? Đây là thái độ thật của nàng với trẫm phải không? Phải không?”
Ta dùng sức vùng ra khỏi vòng tay hắn, eo lưng đập mạnh vào cạnh bàn, nói: “Hoàng thượng, thần thiếp vốn là người như vậy, người không biết sao? Không phải thần thiếp giỏi giả vờ, giỏi mưu kế nên người mới triệu thần thiếp trở về sao? Chúng ta đều là loại người ấy, chẳng đúng sao?”
Ta định cười, cũng muốn khóc, rốt cuộc chỉ cất giọng lạnh tanh.
Hắn cười chua chát: “Không sai, chúng ta đều là loại người ấy!”
Hắn vung tay một cái, mọi đồ vật trên bàn bị hất ra đất, tiếng va đập mạnh vang lên bàng hoàng. Khang Đại Vi ở bên ngoài cất tiếng: “Hoàng thượng, xảy ra chuyện gì vậy?”
Hắn đáp: “Đứng canh ở ngoài, không kẻ nào được vào!”
Khang Đại Vi đành dạ một tiếng, rồi im bặt.
Bộ dạng hung dữ của hắn khiến ta khiếp sợ, bất giác ta đưa tay lên ngực hắn ngăn lại, không cho hắn lại gần. Hiềm nỗi cánh tay y cứ như đúc bằng thép, vòng qua ôm chặt eo lưng buộc ta không thể cựa quậy được. Lại nghe tiếng áo quần bị xé toạc, cảm giác mình bị đặt lên mặt bàn cứng lạnh, mặt ngửa lên trời, trông thấy cánh sen thếp vàng trên trần, cảm nhận từng đợt sóng dữ từ thân dưới truyền lên, trái tim như mảnh gỗ trôi sông chìm xuống đáy nước, càng lúc càng sâu.
Giọng nói của hắn như vọng ra từ một nơi xa thẳm: “Ninh Vũ Nhu, đừng quên thỏa thuận giữa hai ta. Ngày mai trẫm và ngươi lại là hoàng đế và ái phi…”
Hắn ghé tai ta thì thào: “Trẫm khuyên ngươi đừng tự tiện làm gì để thỏa thuận giữa hai ta bị phá vỡ. Nên biết trẫm đã giăng sẵn hố chực chờ ngươi tiếp cận cô ta. Đó không phải một nữ nhân ngốc nghếch, muội muội ngươi dâng sẵn một cơ hội tốt, tội gì cô ta không lợi dụng nó để thử lòng ngươi, xem ngươi tàn nhẫn đến đâu…?”
Ánh sáng vàng của cánh sen trên trần nhà chói lòa đến độ khiến mắt ta nhức nhối, trong phòng tuy ấm sừng sực, nhưng tấm lưng dán xuống mặt bàn chỉ thấy giá buốt tận xương. Hắn nói không sai, nếu ta tiếp cận Ninh Tích Văn, nhất định Hoàng hậu sẽ mượn cớ làm khó dễ.
Ta trầm giọng: “Hoàng thượng, người cũng biết hai ta là một hạng người, nên việc này xin hãy yên tâm…”
Lắng tai nghe tiếng chân hắn càng lúc càng xa, trong phòng khói xanh bảng lảng bay, chẳng còn chút nào cái không khí nồng ấm “giả mà như thật” mấy ngày trước. Trước mắt thế nhân hắn cưng nựng ta, làm ta lạnh lẽo tận xương cốt, sau lưng người hai bên bỗng chẳng còn lời gì để nói. Ta chợt thấy như vậy cũng tốt, hắn chưa từng yêu thương ta, thì khi không có ai cứ nên bóc trần ái ân ảo ảnh kia xuống, để tâm ta khỏi u mê.
Tông Nhân Phủ khác với những nơi khác, nếu không có ai đến dàn xếp trước, chờ đợi trước mặt phạm nhân chỉ có vô số trò tra tấn khảo hình, vậy mà Khổng Văn Trân từ đầu chí cuối không hề nhắc đến ta, không ai biết bản thiết kế bộ áo bảy sắc vốn xuất phát từ nơi ta. Còn về cô em gái kia, sau khi chuộc khỏi thanh lâu, ta sẽ nhờ mẫu thân sai người chăm sóc tử tế.
Gần đây mỗi lần ở bên ta, nét mặt Hạ Hầu Thần luôn lộ ra vài phần ưu tư, lại có vẻ dò xét. Thi thoảng khi tình cờ quay ra, thấy con ngươi hắn đen sẫm như mực, ngả người trên giường, anh tuấn làm ta không thể rời mắt. Ta chốc chốc lại phải nhắc bản thân rằng đôi bên gần gũi chẳng qua vì muốn có được điều mình cần. Nói thì nói vậy, mỗi lần nhìn dung nhan hắn là một lần trái tim ta xao động.
Ngày tuyển chọn Thượng Cung đã đến, ta cùng Hoàng hậu Hoàng thượng ngồi ghế chủ khảo, các phi tần khác kéo đến cớ là dự xem, nhưng kỳ thực chỉ vì Hạ Hầu Thần, ai nấy đều áo quần xúng xính trâm vòng lộng lẫy.
Thượng Cung cục tiến cử ba vị có thâm niên quản lý Ty Thiết Phòng Ty Chế Phòng, đều làm việc trong Thượng Cung cục lâu năm, tay nghề xuất chúng, có một vị tên gọi Hoắc Thiên Bình, tuổi gần bốn chục, vốn là nghệ nhân hàng đầu ở Thượng Cung cục, nhưng vì lớn tuổi an phận, chỉ chăm chú vào tết vòng chế trâm, không bao giờ xuất đầu lộ diện tranh đấu với người khác, trước nay chỉ làm việc trong Ty Chế Phòng, chẳng bao giờ được thăng chức. Đối với người này ta có vài phần tôn kính, cuối cùng ta leo lên chức Thượng Cung, bà ta chưa một lời trách cứ, vẫn trung thành, làm tròn bổn phận của mình. Ở Thượng Cung cục, Hoắc Thiên Bình rất được nể trọng, nếu Tố Khiết nhận được sự ủng hộ của người này, việc nhậm chức Thượng Cung sẽ không gặp nhiều trở ngại.
Hai vị còn lại tuy không có tầm ảnh hưởng lớn ở Thượng Cung cục bằng Hoắc Thiên Bình, nhưng đều là người thông minh sáng suốt, tay nghề dĩ nhiên khéo léo vượt xa chúng nhân, lại nghe nói một trong hai người là Đỗ Nhĩ Trân qua lại rất mật thân thiết với cung Chiêu Thuần, tất cả vật dụng Hoàng hậu sử dụng đều do đích thân cô ta đem sang, có lẽ người này chính là quân của Hoàng hậu, vị còn lại là Lâm Chỉ Xảo không có gì đặc biệt, có lẽ được đưa lên cho đủ số.
Khi Tố Khiết xuất hiện, ai nấy đều nhận ra nó là nô tỳ thân tín theo ta từ lâu, chưa từng làm việc tại Thượng Cung cục, chẳng qua là một ả cung tỳ vô danh tiểu tốt, bọn họ hơi lộ vẻ bất bình, chỉ riêng Hoắc Thiên Bình bình thản cụp mắt, chắp tay chờ đợi ra đề, dáng vẻ ung dung tự tại vô cùng.
Chuyện thi đấu lần này có thể coi là chưa hề có tiền lệ ở Thượng Cung cục, trước nay người nhậm chức Thượng Cung thường chỉ do Hoàng hậu chỉ định, vì lần này ta cố tình nhúng tay vào, kéo Hoàng thượng tham gia cuộc tuyển chọn, nên chúng phi tần lập tức tán đồng. Ta muốn nhân dip này để bọn họ hiểu rằng, Hoàng hậu dẫu là người dứng đầu hậu cung cũng đừng hòng một tay che trời!
Hoàng hậu nói: “Nếu mọi người đã chuẩn bị xong xuôi, ta xin được nói đôi lời. Chức vị Thượng Cung rồi sẽ vào tay một trong bốn người đứng đây, chiếu theo phép tắc xưa nay ở Thượng Cung cục, người lãnh đạo phải có tay nghề chế trâm may áo đứng hàng đầu tứ phòng, nếu không khi người dưới vấp phải khó khăn trong khi làm việc đến nhờ cậy giúp đỡ không biết cách trả lời, há chẳng khiến kẻ dưới thất vọng, lại làm công việc ứ đọng không giải quyết được?”
Lời nói của Hoàng hậu rõ ràng chĩa mũi nhọn về Tố Khiết, ta vờ như không biết gì, mỉm cười gật gật đầu, tỏ ra tán đồng.
Cô ta tiếp: “Vì lẽ đó, cuộc khảo thí lần này chúng ta sẽ bắt đầu từ mục chế trâm vòng cơ bản. Trên các đĩa đã bày sẵn tơ vàng, chỉ bạc, trong thời gian một nén hương, bốn người hãy quấn thành trâm vàng kiểu dáng tùy ý, bốn người cách nhau bởi các tấm bình phong, tự làm một mình, không được nhìn trộm người bên cạnh.”
Trong mỗi đĩa có sẵn một cái phôi trâm giống y hệt nhau, đều là khuôn dáng ban đầu của trâm phượng, bốn người chỉ cần trang trí thêm, hoặc quấn tơ vàng, đính châu ngọc, làm thế nào phô bày được dáng vẻ đẹp đẽ kiêu sa của phượng hoàng là được. Số lượng nguyên liệu mỗi loại trên mỗi đĩa là như nhau, để cuộc thi được công bằng, trước đó ta và Hoàng hậu đã cùng nhau kiểm tra một lượt, không ai dám giở trò lên nguyên liệu.
Cuộc thi tài nghệ này là dùng chân tài thực lực ra đọ sức, hoàn toàn dựa vào tài năng của mỗi người, bình phong màu trắng ngăn cách bốn người trong bốn không gian riêng, cố nhìn kỹ chỉ thấy cái bóng mờ mờ của họ đang bận rộn thao tác.
Trong lúc chờ đợi, đám phi tần đã có người lanh lẹ nhân cơ hội đứng dậy, sán đến bên Hạ Hầu Thần, hoặc dâng miếng điểm tâm, hoặc cười tươi như hoa hỏi hắn hôm nay mái tóc mình chải có đẹp không.
Hạ Hầu Thần sắc mặt vui vẻ, không buồn trách cứ, thậm chí còn đáp lại khiến trong điện một phen nhốn nháo, ta liếc thấy Hoàng hậu tuy cố giữ dáng vẻ đoan trang, nhưng nụ cười càng lúc càng nhạt, trong lòng mừng thầm, cũng không bóc mẽ cô ta, tự mình nhấp một ngụm trà, chú ý từng cử động của Tố Khiết sau bình phong.
Chúng phi tần thấy ta lẫn Hoàng hậu đều không lên tiếng, càng được nước làm tới, hầu như cô nào cũng quẩn quanh Hạ Hầu Thần một vòng mới thôi.
Nén hương cháy được quá nửa, đã thấy Hoắc Thiên Bình từ bình phong bước ra, dâng cái đĩa trong tay cho cung nữ phụ trách giữ đĩa, hướng về phía Hoàng hậu bẩm báo: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, nô tỳ đã hoàn thành.”
Chiếc đĩa được bày trên một cái bàn cao đặt giữa điện, ta là người đầu tiên bước xuống, cầm cây trâm lên ngắm nghía kỹ lưỡng, trong lòng không khỏi thầm thán phục, tay nghề thủ công của bà ta quả nhiên rất giỏi, thân phượng như phủ một lớp lông vàng, vừa tự nhiên vừa cân đối, thưa chặt hợp lý, mắt phượng dùng phỉ thúy đính vào, tỏa sáng lấp lánh, sống động như thật.
Sau khi cây trâm được đưa cho Hoàng thượng và Hoàng hậu xem qua một lượt, lại truyền qua tay các phi tần, mọi người không ngớt lời khen ngợi, nhưng không thấy ai kinh ngạc đến nỗi phải ồ lên. Cây trâm này quả là mẫu mực, nhưng kiểu dáng không có gì khác lạ so với loại thường thấy, không có nét đặc sắc riêng.
Một lát sau, Lâm Chỉ Xảo và Đỗ Nhĩ Trân cũng hoàn thành, Đỗ Nhĩ Trân vượt hơn một chút, trên đuôi phượng xâu một chuỗi kim cương, nếu cài đầu, xâu kim cương sẽ hơi rung rinh, phản chiếu ánh sáng bảy sắc. Người do Hoàng hậu chọn quả nhiên xuất chúng, Đỗ Nhĩ Trân tuy tay nghề chưa thành thạo như Hoắc Thiên Bình, nhưng đầu óc lại linh hoạt sáng tạo hơn, chiếc trâm của cô ta quả nhiên được chúng phi tần vô cùng thích thú.
Tố Khiết là người cuối cùng còn ở lại sau bình phong làm trâm, hương sắp cháy hết mà vẫn chưa thấy nó bước ra ngoài, lòng ta không khỏi hơi sốt ruột.
Hoàng hậu nói: “Ninh muội muội, ta thấy vị Đỗ Nhĩ Trân này không tệ, làm việc ở Thượng Cung cục nhiều năm, thông thạo công việc trên dưới, tay nghề lại xuất chúng, theo bản cung thấy, Tố Khiết ở chỗ muội tuy được muội muội dốc tâm dạy bảo, sợ rằng vẫn chưa đủ để so với người ta!”
Ta cười nhạt: “Nếu nó thực không bằng ai, bản phi chắc chắn sẽ không thiên vị, có trách chỉ trách nó kém tài, đến lúc đó bản phi sẽ chúc mừng tỷ tỷ chọn được người hiền hợp ý.”
Ta và Hoàng hậu lời qua tiếng lại, tươi cười như hoa, đám phi tần đều nín thở theo dõi, Hạ Hầu Thần cũng phải liếc mắt sang, nửa như mỉa mai nửa như giễu cợt, ta liếc lại, thấy hắn nhấc chén trà lên nhấp một ngụm.
Lúc ấy thời gian bỗng trôi vùn vụt, chớp mắt nén hương đã cháy hết, Tố Khiết bước ra khỏi bình phong, trên tay cầm chiếc đĩa son phủ sa mỏng, vừa kịp lúc hương tàn.
Cung nữ đón lấy đĩa trên tay nó, đầu tiên dâng lên ta. Ta nhấc vải ra, lòng lập tức dâng trào vui sướng, nghĩ mình quả không nhìn nhầm người, chỉ trong vỏn vẹn mười mấy ngày mà Tố Khiết đã lĩnh ngộ được tinh túy của việc đan tơ dệt sợi.
Cái khuôn trâm phượng được cho ban đầu còn nguyên, một chiếc trâm phượng khác nằm ở chính giữa đĩa, sinh động, hình dáng gần như thật, thân mình hơi trong suốt, đôi cánh mở rộng, phần khung xương định hình đôi cánh mềm mại nhịp nhàng, nhìn từ xa thậm chí còn rõ cả từng đường vân trên thân, điều kỳ lạ là đem đặt trên tay lại nhẹ như lông hồng, không nặng nề như trâm phượng dát vàng bình thường.
Chúng phi tần sớm đã bị thu hút, tiếng trầm trồ kinh ngạc vang lên không ngớt, cây trâm này vượt xa ba cây trâm ban nãy, lúc này ai cao ai thấp đã phân định rõ ràng, Hoàng hậu lại nói: “Trâm này tuy tinh xảo khác thường, nhưng quy tắc là quy tắc, đã định trước phải dùng phôi trâm hình phượng trên đĩa để chế tác, vậy mà Tố Khiết lại không dùng đến, Hoàng thượng, như vậy là không công bằng!”
Ta nói: “Mới đầu khi lập ra quy định, đã nói chỉ được dùng nguyên liệu trong đĩa, nhưng không nhắc đến việc nhất định phải dùng phôi trâm hình phượng, Tố Khiết làm cây trâm này hoàn toàn chỉ dùng tơ vàng chỉ bạc trong đĩa, có gì vi phạm quy tắc? Chiếu theo cách nói của Hoàng hậu thì phải dùng hết tất cả nguyên liệu trong đĩa mới được coi là đúng luật, thử hỏi có người nào dùng hết hay không?”
Ta cùng Hoàng hậu đấu đá trước nay đều chỉ ngấm ngầm, đây là lần đầu tiên đối chọi không khoan nhượng bằng lời nói, chúng phi tần nhất thời sững sờ. Nếu đổi lại là dịp thường, Ninh Tích Văn đứng bên Hoàng hậu nhất định sẽ mở miệng, nhưng sau vụ Khánh Mỹ nhân nó đã thu liễm đi nhiều, các phi tần thấy khí thế ta chẳng kém cạnh Hoàng hậu, sao còn dám nói thêm vào, ai nấy đều im thin thít.
Hoàng hậu bị ta phản bác, ngẩn ra một lát, lại kiên quyết nói: “Ai nấy đều biết khi chế tác trâm vòng có những phần nhất định phải dùng đến, Tố Khiết khác thường như thế e không ổn.”
Ta đang định lên tiếng, Hạ Hầu Thần đột nhiên đưa tay ra ý cho cả hai ngừng tranh luận, nói: “Trẫm thấy thế này, trâm phượng do Tố Khiết làm rõ ràng rất đẹp, nhưng Hoàng hậu nói không phải không có lý, vậy hãy để trẫm xếp hạng là công bằng. Tố Khiết cùng Đỗ Nhĩ Trân xếp hạng một, Hoắc Thiên Bình tay nghề thuần thục xếp hạng hai, còn Lâm Chỉ Xảo hạng ba.”
Hạ Hầu Thần đã lên tiếng, ta cùng Hoàng hậu không còn cách nào khác phải ngừng tranh cãi. Ta hậm hực liếc Hoàng thượng một cái, ánh mắt Hoàng hậu lộ vẻ đắc ý, rõ ràng xếp hạng như vậy là có lợi cho phía Hoàng hậu.
Tiếp theo là cuộc thi thêu, yêu cầu trong thời gian một nén nhang thêu xong bức Long Phượng Trình Tường. Lần này Tố Khiết vô cùng tự tin, nó xuất thân từ phường thêu, lại được ta dạy dỗ nhiều kiểu thêu và cách vận dụng tinh tế, ba người kia tuy nghề thêu rất xuất sắc, nhưng thêu ra long phượng hình dáng khô khan nhạt nhẽo, không thể so với Tố Khiết dùng tuyệt chiêu của mẹ ta, thủ pháp thêu tầng, khiến long phượng nổi trên nền vải, từng lớp lông đan xen chồng chất mịn màng, cứ như sắp bay ra khỏi miếng vải.
Chúng phi tần dĩ nhiên ngạc nhiên sửng sốt, đến Hoắc Thiên Bình trước nay ít khi nể phục ai cũng không kìm được bước lên mấy bước để chạm vào bức thêu, khen: “Kiểu thêu này đã thất truyền nhiều năm, nô tỳ chỉ được nhìn thấy hồi nhỏ, không ngờ hôm nay có dịp ngắm trong điện này, nô tỳ quả thực mãn nguyện vô cùng.”
Lần này Hoàng hậu không còn gì để nói, Tố Khiết dĩ nhiên xếp thứ nhất. Hoàng hậu thấy thế có vẻ hơi căng thẳng, nếu cuộc khảo thí thứ ba mà Đỗ Nhĩ Trân không thể đột phá, thì chức Thượng Cung sẽ lọt vào tay Tố Khiết. Ta và Hoàng hậu đều hiểu, Thượng Cung cục đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc tranh giành quyền lực của hai bên, nếu mất Thượng Cung cục, coi như Hoàng hậu đã mất đi một nửa giang sơn.
Vòng thi thứ ba là thi sáng tạo thiết kế mới, dùng bức thêu ở vòng trước đó làm nguyên liệu để chế tác vật dụng, phải làm nổi bật đặc tính của loại vải nguyên liệu, vừa phải khéo léo vừa phải tìm tòi, sao cho thứ chế ra thật bắt mắt. Ở Thượng Cung cục thường ngày phải may rất nhiều đồ dùng cho cung nhân, nhưng hình vẽ Long Phượng Trình Tường được dùng có giới hạn, các phi tần bình thường không được phép dùng, chỉ có thể vận dụng trên người của Hoàng thượng và Hoàng hậu mà thôi. Đề bài lần này do đích thân Hoàng thượng nghĩ ra. Tố Khiết học nhồi học nhét trong mười mấy ngày, dẫu sao cũng chỉ là người mới, lần này chẳng biết có thành công không, nghĩ đến đây lòng ta không khỏi bồn chồn.
Hoàng hậu ngược lại vô cùng ung dung, ngồi trên bảo tọa cùng Hoàng thượng thì thầm nhỏ to, hai người liếc mắt đưa tình, một ý nghĩ chợt thoáng qua đầu ta: Phải chăng Hạ Hầu Thần đã tiết lộ đề bài cho Hoàng hậu biết trước?
Ta thấy mình có vẻ hơi nhỏ nhen, đáng lẽ không nên nghĩ vậy, nhưng xem điệu bộ hai người phu thê tình thâm, làm ta không tài nào dập tắt suy nghĩ kia được. Thậm chí ta còn hoang mang không biết Hạ Hầu Thần đón ta trở lại cung rốt cuộc để làm gì, có thật muốn ta kiềm hãm Hoàng hậu? Về phía Hoàng hậu, không biết hắn giải thích việc đưa ta trở lại thế nào mà vẫn giữ được mối quan hệ hai bên như cũ? Lòng nghi ngờ hễ dấy lên là không thể áp chế, nam nhân địa vị tối cao này, dĩ nhiên nắm rõ phép trị nước, khó tránh đem vận dụng cả với đám hậu phi của mình.
Nghĩ đến đây, ta bèn nói: “Hoàng thượng, Hoàng hậu nương nương, hai vòng thi trước diễn ra rất đúng phép tắc, nhưng có hơi buồn tẻ, đây là vòng thi cuối cùng của ngày hôm nay, theo thần thiếp thấy sao không tăng độ khó lên một chút, cũng là giúp vui cho chúng phi tần. Hai vị thấy có được không?”
Nét căng thẳng vụt qua gương mặt Hoàng hậu, ta cảm thấy suy nghĩ ban nãy càng được củng cố, trong lòng thầm cười nhạt, nam nhân này quả không đáng để ta tận trung, cũng được, ta và hắn như nhau, chỉ vì lợi ích của mình mà thôi.
Ta vừa nói xong, chúng phi tần lập tức lao xao ủng hộ, họ sớm đã bị chú ngựa đen bất ngờ xuất hiện là Tố Khiết kích thích, lại thêm ngưỡng mộ vẻ đẹp chiếc trâm phượng nó chế tác, Hoàng hậu thấy thế không tiện nói thêm, đành tán thành.
Hạ Hầu Thần liếc ta một cái, ta nói thêm: “Hoàng thượng, người xem các vị muội muội đang bàn luận sôi nổi làm sao, xin đừng vì ai đó mà để mọi người cụt hứng.”
Ta cố tình nhấn nhá vào chữ “ai đó”, ra ý mình đã đoán biết nội tình, con ngươi hắn vụt xoay chuyển, nụ cười chợt tắt, nói: “Nếu đã vậy thì ái phi nói thử xem, nên tăng thêm độ khó ra sao?”
Ta không để ý vẻ mặt của hắn, đứng dậy khỏi bảo tọa, cười nói: “Nếu đã dùng bức thêu ban nãy để chế tác vật dụng, chi bằng đưa thêm một giới hạn, đó là chỉ được chế vật dùng trên mình Hoàng thượng, lại cho chúng phi tần cùng bình phẩm thứ ấy có tốn thêm vẻ anh tuấn bất phàm của Hoàng thượng hay không. Mọi người bảo như vậy có được không?”
Nếu các phi tần cùng được tham gia bình chọn, thì kết quả chung cuộc không hoàn toàn do Hoàng thượng và Hoàng hậu quyết định, lại thêm “bình phẩm xem có tôn thêm vẻ anh tuấn của Hoàng thượng” tất phải để Hoàng thượng đích thân mặc lên người mới xong. Tố Khiết khi làm trâm đã lấy được thiện cảm từ phía chúng phi tần, có người thấy Tố Khiết phải xếp hạng nhất cùng người khác trong đôi mắt liền ánh lên tia bất mãn. Xem ra sau vụ Khánh Mỹ nhân, thế lực vây quanh Hoàng hậu đang dần dần tan rã, tuy vẫn chưa có ai công khai quy phục ta, nhưng cứ quan sát sự việc lần này thì cái viễn cảnh ấy không còn xa.
Tình huống tuy đang có lợi, nhưng ta vẫn rất lo lắng về Hạ Hầu Thần, nếu hắn suy tính điều gì khác, một mặt an ủi Hoàng hậu, một mặt gắn bó với ta, biến cố xảy ra rất có thể ta sẽ thành vật hy sinh. Trước đây ta luôn coi mọi thứ là điều đương nhiên, nhưng hôm nay nghĩ tới, trong lòng lại thấy hơi đắng chát, chỉ biết thầm cười nhạt. Nếu đã lôi ta lên cùng thuyền, mà lại muốn ta không kèn không trống nhảy ra, chỉ sợ là khó đó.
Tuy bề ngoài ta cười tươi như hoa, nhưng trong lòng quạnh quẽ thê lương. Hạ Hầu Thần dường như có linh cảm, sắc mặt cũng trầm xuống, lãnh đạm nói: “Ái phi đã muốn như vậy, trẫm nào dám không đồng ý?”
Hoàng hậu không kịp nói gì, chuyện này đã mau chóng được ấn định.
Hoàng hậu phẩm vị cao quý, được ngồi bên tay phải Hạ Hầu Thần, ghế của ta hơi thấp hơn một chút, ngồi bên tay trái hắn.
Xem liền hai vòng, tuy vật chế tác ra đẹp đẽ vô cùng, khiến chúng phi được no mắt, nhưng ngồi cả nửa ngày không khỏi có chút mệt mỏi, Hoàng hậu bèn đề nghị mọi người cùng ra vườn hoa đi dạo, nơi thi sai người ở lại trông coi là được, nghĩ việc này rất hợp lẽ, ta bèn gật đầu đồng ý.
Cuộc tuyển chọn diễn ra tại điện Triêu Dương, nơi đây là tẩm cung của Hạ Hầu Thần, trong cung có vô số khu nhà lớn nhỏ, ta bèn hỏi Khang Đại Vi mượn một căn phòng, chuẩn bị cho một chiếc giường để nằm, vừa đặt mình lên gối tựa, nghĩ đến việc Hoàng hậu khi không quan tâm đám phi tần, chẳng lẽ định nhân lúc vắng vẻ giở chiêu thức gì?
Nơi này làm tẩm cung của Hoàng thượng, dĩ nhiên khắp nơi hoa lệ vô ngần, ta không yên tâm, cuối cùng xuống giường, đi qua đi lại trong phòng, lại sai người ra xem tình hình trong điện, nghe nói không có gì bất thường, Hoàng hậu cũng đã đi nghỉ rồi.
Ta vừa nghe chữ “nghỉ”, bất giác tỉnh ngộ, nếu muốn ra tay, chi bằng cầu đến Hạ Hầu Thần. Hạ Hầu Thần cùng họ Thời duy trì quan hệ mật thiết, tất nhiên hắn chưa muốn trở mặt với Hoàng hậu ngay. Ta bước khỏi phòng, đúng lúc trông thấy một tên tiểu thái giám hầu hạ bên Hoàng thượng chạy qua, bèn gọi nó lại, dúi vào tay hai nén vàng, hỏi: “Hoàng thượng đâu rồi?”
Tiểu thái giám thấy ta bèn hành lễ đáp: “Hoàng thượng có vẻ mệt, đã về Tiểu Tây các nghỉ rồi ạ.”
Ta một mình đi về phía Tiểu Tây các, nơi đó cách chỗ ta ở không xa, chẳng qua một đoạn mà thôi.
Trước sau Tiểu Tây các trồng đầy thúy trúc, lúc này đang vào mùa trúc đâm chồi nẩy lộc, một dải xanh thẫm xen lẫn màu nõn chuối tươi non, cành lá đu đưa, xào xạc. Ta nhón chân bước qua rừng lá rậm rạp, bên trong quả thật rất có dư vị u nhã thanh cao như chốn ẩn dật của các vị chân tu. Khang Đại Vi đứng ngoài cửa canh chừng, nhưng ta biết có một lối nhỏ có thể trực tiếp vào bên trong mà không cần đi qua đám thủ vệ.
Một người hễ nổi lòng nghi ngờ, sẽ cảm thấy từng lời nói nụ cười của đối phương đều như đang dối gạt mình, ắt không nhịn được thăm dò bằng được thực hư. Tâm trạng của ta lúc này chính là như vậy.
Con đường mòn kia quả vắng hẳn bóng người, tuy đã lần lần đi hết đường, chỉ cần vượt qua ngọn giả sơn là đến nơi Hạ Hầu Thần đang nghỉ. Từ cánh cửa sổ nửa khép nửa hở nhìn vào, quả nhiên thấy Hạ Hầu Thần ngồi trước cửa sổ uống trà, Hoàng hậu thì đang dùng đũa bạc gắp điểm tâm đưa lên miệng hắn, các cặp phu thê ngoài dân gian thân mật với nhau chắc cũng chỉ đến thế là cùng.
Ta thầm cười nhạt, tiếng lại gần mấy bước nữa, định nghe xem họ đang nói gì, vừa nghe mấy chữ: “Biểu ca… biểu ca…”, đột nhiên thấy bả vai bị ai đó vỗ nhẹ, ta giật mình suýt nữa nhảy lên, quay lại, hóa ra là Khang Đại Vi. Không biết từ lúc nào ông ta đã mò đến bên ta, nghiêm mặt nói: “Nương nương đã đến rồi, có muốn lão nô vào bẩm cáo với Hoàng thượng một tiếng không?”
Ta nào ngờ trốn vào tận góc tường còn bị người ta bóc mẽ, lòng bối rối không cách nào dùng từ ngữ hình dung được, chỉ nói: “Không cần, bản phi còn phải về điện Triêu Dương xem xem bốn người họ đã làm xong chưa.”
Khang Đại Vi cúi mình hành lễ, nói: “Nương nương, Hoàng thượng bảo lão nô chuyển lời đến nương nương rằng: Đừng xem trộm làm gì, nếu muốn thì hãy đường đường chính chính mà vào… Lão nô cáo lỗi, đây là nguyên văn những lời Hoàng thượng sai lão nô nói lại.”
Mặt ta lúc đỏ lúc tím, chỉ còn cách vội vàng cáo biệt ông ta, men theo đường cũ trở ra.
Khang Đại Vi nói với theo bằng giọng điệu lập lờ: “Nương nương, người đừng lo, khi Hoàng thượng nói mấy lời này tâm trạng vẫn rất tốt.”
Ta dừng khựng lại, thẹn quá hóa giận, quay ngoắt lại: “Tâm trạng Hoàng thượng tốt, tâm trạng bản phi thì không tốt chút nào!”
Nói xong phẩy tay áo một cái rồi đi thẳng. Chẳng rõ khi Hạ Hầu Thần truyền lời với Khang Đại Vi có để Hoàng hậu nghe thấy hay không, nếu để cô ta nghe được, chỉ sợ sẽ cười đến chảy nước mắt.
Ta hậm hực trở về điện Triêu Dương, thấy đám phi tần ra Ngự Hoa viên thưởng hoa đều đã về cả, đang ngồi trong điện lao xao bàn tán, bốn người kia vẫn đang mải cắt may khâu vá phía sau bình phong.
Chờ cho tất cả ổn định chỗ ngồi, Hoàng thượng và Hoàng hậu mới thong dong bước ra, khiến đám phi tần được một phen tò mò.
Hoàng hậu vẻ mặt phơi phới, gò má ửng hồng, dường như mới thoa lại một lớp phấn mới, xuân ý tràn trề, Hạ Hầu Thần dìu cô ta ngồi xuống, mắt không phút nào rời mình ngọc. Ta không nhịn được nghĩ ác, chẳng lẽ hai người họ nhân chút giờ nghỉ mà làm chuyện hoang đường kia?
Nhìn Hạ Hầu Thần tinh lực bỗng chốc dồi dào thì ý nghĩ này không phải không có khả năng. Nghĩ đến đây ta không kìm được cười thầm, nếu quả như vậy chắc Hoàng hậu chẳng có thì giờ để giở trò đê hèn.
Lần này dùng nhang lớn tính thời gian, nhưng sau giờ nghỉ, cây nhang chẳng mấy chốc sắp cháy hết, tên tiểu thái giám hô lớn một tiếng, bốn người bèn cầm đĩa son từ sau bình phong bước ra, trên mỗi đĩa trùm một tấm sa đỏ.
Hoắc Thiên Bình giở khăn ra đầu tiên, bà ta dùng mảnh vải thêu Long Phượng Trình Tường làm thành một chiếc tiểu khảm[1], tay nghề của Hoắc Thiên Bình thời không có gì phải nói nhiều, ta cho rằng giỏi hơn Đỗ Nhĩ Trân kia rất nhiều, nhưng bà vốn biết Đỗ Nhĩ Trân có Hoàng hậu chống lưng, bản thân mình dù thế nào cũng chỉ là một vai phụ, thành ra tâm trạng rất bình ổn, ung dung chắp tay quan hổ đấu.
[1] Áo khoác ngoài không tay.
Lâm Chỉ Xảo cũng nghĩ ý như Hoắc Thiên Bình, làm một chiếc áo ngoài vô cùng đúng quy cách, khiến người khác không lần ra được sai sót, nhưng cũng không thể xem là đẹp.
Đến lượt Đỗ Nhĩ Trân mở đĩa, cô ta làm một chiếc áo bào, thủ công không tồi, bức thêu Long Phượng Trình Tường ở chính giữa sau lưng, cô ta dùng thủ pháp đặc biệt để thêu móng vuốt long phượng, kéo dài đến trước ngực, đuôi phượng thêu bảy sắc men theo nách áo cho đến trước ngực, biểu thị ý Long Phượng Hòa Minh, tình nghĩa hòa hợp. Đỗ Nhĩ Trân có Hoàng hậu ủng hộ, nay áo làm ra lại được mọi người tán thưởng không ngớt, thu hút sự chú ý của cả điện. Ta ngầm hiểu ra, Lâm Chỉ Xảo và Hoắc Thiên Bình chắc chắn đã bị ai đó nhắc nhở trước, nên vật làm ra không mấy xuất sắc, mục đích chính là làm nền cho Đỗ Nhĩ Trân, họ liệu có phục trong lòng?
Thứ Tố Khiết làm được lấy ra sau cùng. Một tấm áo khoác dài màu tím nhạt, cổ áp đệm lông hồ ly tím, Long Phượng Trình Tường ở trước ngực, vốn bức thêu của nó đã vô cùng đặc sắc, sắc nét từng đường gân chỉ, trên đó lại thêu thêm mây lành vờn quanh, loại vải dùng khâu áo đã có vân mây, nó dựa trên đó dùng tơ vàng thêu vào, trông như trong mây có ánh nắng chiếu rọi, cả chiếc áo bào ẩn hiện ánh vàng, đẹp không tả xiết. Chiếc áo vừa đưa ra, cả điện chợt im phăng phắc, Hạ Hầu Thần cực kỳ hứng thú, ra hiệu cho cung nữ đang giương áo ra: “Đem lên đây cho trẫm xem.”
Ta cười nói: “Hoàng thượng, hay người mặc thử xem sao?”
Hạ Hầu Thần đang định đáp, Hoàng hậu bèn nói: “Hoàng thượng, vật này người đừng nên mặc, theo thần thiếp thấy, chiếc áo này cực kỳ xúi quẩy, Hoàng thượng mặc lên người nhỡ đâu đại họa giáng xuống…”
Nghe Hoàng hậu nói vậy, các phi tần đều kinh sợ mở to mắt nhìn chiếc áo bào lộng lẫy tuyệt vời, tiếng rì rầm râm ran nổi lên. Tố Khiết ngỡ ngàng đứng giữa đại điện, sắc mặt trắng bệch, ta quay sang nhìn Hoàng hậu, lúc này cô ta chỉ chăm chăm nhìn Hạ Hầu Thần, gương mặt đầy vẻ quan hoài, tình thâm ý trọng. Ta khẽ nhíu mày, nghĩ bụng bản thân thận trọng từng li từng tí, rốt cuộc vẫn bị cô ta ra tay chơi khăm phen này?
Ta nói: “Hoàng hậu nương nương đã nói đến mức đó, chi bằng mời người chỉ rõ chỗ xúi quẩy ra, để tiện cho mọi người đề phòng về sau?”
Hoàng hậu lúc này mới quay sang phía ta: “Ninh muội muội đừng trách tỷ lắm lời, ai bảo tỷ tỷ quá tinh mắt, mới nhìn sơ đã trông thấy một điểm không được thỏa đáng, đành phải nói ra. Bởi lần này là cuộc thi đấu, nên bản cung mới không nói ngay từ đầu…” Cô ta dừng lại một lát, nhìn ra đại điện, “Khi may áo, việc đầu tiên cần phải chọn vật liệu, ban nãy các cung tỳ đã mang đến rất nhiều xấp vài khác nhau để bốn vị đây chọn lựa, Tố Khiết lập tức chọn cây lụa dày màu tím, đáng ra không có gì sai sót, màu tím cao quý phóng khoáng, nếu may thành trường bào, lại dùng lông hồ ly tím viền cổ áo, đích thực tôn thêm vẻ sang trọng bất phàm của Hoàng thượng, chỉ đáng tiếc cô ta không đủ sắc bén, chọn nhằm một cây vải bị lỗi!”
Vừa nói, Hoàng hậu vừa cho người mở rộng chiếc trường bào, lại sai người vặn hết cỡ đèn lưu ly lên để soi vào trong áo, dưới ánh đèn, phần vải trước ngực có một mảng lớn không đồng màu, trông hao hao như vết máu loang, làm nền trên bức thêu, trông giống như long phượng bị thương đang cất tiếng ai oán, mất hết vẻ tươi vui may mắn ban đầu. Mọi người trong điện đồng loạt ồ lên.
Sau khi đèn lưu ly bị thổi tắt, màu sắc kỳ lạ như máu kia lập tức biến mất, trở về màu tím nhạt như ban đầu. Ta thầm than khổ, nhất định Hoàng hậu đã sai người dùng một thứ phẩm nhuộm đặc biệt để đổ lên chiếc trường bào màu tím này, nên soi đèn lên mới bị biến màu như vậy.
“Nếu để Hoàng thượng mặc chiếc áo này lên người, ban ngày ban mặt không thấy thì không sao, nhưng nếu trong buổi dạ yến, trong cung đèn đuốc sáng trưng, để người ta phát hiện long phượng trên thân người rỉ máu khóc than, là điều vô cùng xui xẻo…” Cô ta nhíu mày than, “Thần thiếp thấy Tố Khiết chọn cây vải này là đã để ý, nhìn một cái là nhận ra điểm bất ổn bên trong, vì đang trong lúc thi đấu, nên mới kiềm chế đến bây giờ mới nói.”
Tố Khiết sớm đã hoảng sợ quỳ xuống, không thốt nổi một câu xin tội, ta khẽ nhíu mày, chuyện đến nước này, thật không nghĩ ra nên dùng cách gì đảo ngược tình thế, chỉ đành nói: “Mang áo bào đến đây để bản phi xem thử!”
Hoàng hậu che miệng cười: “Muội muội vẫn muốn xem cơ à? Bản cung biết muội thương yêu Tố Khiết. Muội cứ yên tâm, người không biết không có tội, không ai có thể cáo buộc nó điều gì.”
Ta không buồn để ý đến những lời khiêu khích kia, ra hiệu cho cung nữ đem trường bào lại gần, xem thật cẩn thận, quả nhiên không có ánh đèn chiếu vào, chiếc áo này trước sau trên dưới chỉ thuần một màu tím nhạt nhã nhặn, lót lụa mềm bên trong. Lật sang mặt bên, thử dùng ngón tay miết vào phần vải lót, chỉ thấy hơi gờn gợn, tim ta chợt lỗi một nhịp, từ vạt dưới sờ thử lên trên đến chỗ vết máu hiện ra dưới ánh đèn, cảm thấy dưới ngón tay có một miếng vải lạ, bèn bóc ra, hóa ra là một miếng lụa đỏ, không biết bị ai để vào bên trong.
Ta mỉm cười, giơ miếng vải lạ ra trước mặt Tố Khiết: “Ngươi sao lại bất cẩn khâu lẫn cả miếng vải đỏ vào đây? Để người ta tưởng trên áo có vết bẩn, là tội lớn lắm.”
Hoàng hậu thấy thế thời chết lặng, không biết nên nói lại thế nào, môi mấp máy không ra câu, ta quay về phía Hạ Hầu Thần tâu: “Hoàng thượng, giờ vật này đã được lấy ra, chiếc áo lại đẹp đẽ không tỳ vết như trước, sao Hoàng thượng không mặc thử xem?”
Vì trời còn sáng nên trong điện không thắp đèn, gương mặt Hạ Hầu Thần chìm trong bóng tối, không nhìn rõ sắt diện, nhưng ta cứ cảm giác hắn dường như có cười một lát. Hắn bước xuống đài, đón lấy chiếc trường bào, có cung tỳ giúp hắn xỏ vào, gương mặt hắn phản chiếu màu tím của lông hồ ly, quả thực anh tuấn rạng rỡ, hai tròng mắt cũng phản chiếu ánh tím, càng thêm tôn quý khác thường, chúng phi tần vừa trông thấy đã ngây người, hồi lâu mới nghe dậy tiếng trầm trồ, xem chừng thắng thua đã phân định rõ ràng.
Hạ Hầu Thần tuyên thánh chỉ, lập Tố Khiết làm Thượng Cung tân nhiệm, tiếp quản Thượng Cung cục. Đỗ Nhĩ Trân hơi lộ vẻ tức giận, nhưng đến Hoàng hậu còn á khẩu không thể nói gì, bản thân cô ta biết làm gì hơn?
Chiếc trường bào màu tím do Tố Khiết dày công hoàn thành được giao cho ta cất đi, đêm ấy Hạ Hầu Thần nghỉ lại ở Chiêu Tường các, ta bèn sai người hâm nóng mấy món nhắm, cùng hắn uống rượu, trong lúc rảnh rang mới dợm hỏi: “Hoàng thượng, người nói xem miếng vải trong trường bào rốt cuộc do ai lồng vào trong?”
Hắn hớp cạn chén rượu, hơi bực mình nói: “Trẫm gạt hết quốc gia đại sự sang một bên, mất cả một ngày trời cùng các nàng trông coi việc may áo tết vòng đã đủ phiền lắm rồi, khó khăn mãi mới được yên tĩnh, nàng để trẫm thư giãn một chút được không?”
Ta chăm chú nhìn hắn, thấy hai hàng lông mi dài phủ rợp mắt, rượu vào khiến mấy tia đỏ ở khóe mắt hơi hiện ra, không kìm được khẽ vuốt mấy sợi tóc mai lơ thơ trên mắt hắn: “Thần thiếp biết rồi…”
Nói xong tự cảm thấy kinh ngạc, sao giọng nói của mình lại dịu dàng nũng nịu như thế, ta đâu có cố tình?
Hắn nghe ta nói vậy, lòng chợt mừng, cười hỏi: “Nếu nàng nhớ trẫm, cứ sai Khang Đại Vi chuyển lời là được, cần gì khổ sở lén lút đi theo?”
Ta vừa gắp một miếng thức ăn đưa lên miệng, đôi đũa lập tức tuột tay rơi xuống đĩa, quay sang thấy nụ cười trên miệng hắn thật hời hợt, trong lòng không khỏi nghi hoặc, lời hắn vừa nói là thật lòng hay chỉ vờ vịt vậy thôi?
Chợt nhớ đến dáng vẻ thảm hại của mình khi bị Khang Đại Vi bắt quả tang, lần đầu tiên trong đời thực sự trở nên lắp bắp, lúng túng không biết phải nói gì.
Hắn hớn hở gắp liền mấy miếng thức ăn đưa lên miệng. Ta phát hiện một chi tiết thú vị, mỗi lần hắn vui, thể nào cũng ăn nhiều hơn rất nhiều, việc này chắc không thể giả vờ được?
Hoàng hậu tuyệt nhiên không thể mắc một lỗi sơ đẳng như vậy, dùng miếng vải đỏ tùy tiện lồng vào trong áo, nhất định cô ta đã dùng phẩm màu đặc biệt để nhuộm xấp vải kia, khiến Tố Khiết phạm vào một tội danh mơ hồ, như vậy có người đã sớm biết kế hoạch của Hoàng hậu, bèn tráo đổi xấp vải. Từ khi chọn vải đến khi bắt đầu cắt may thời gian rất ngắn, ai lại có thủ hạ võ công siêu quần để đánh tráo như vậy? Đáp án thật rõ như ban ngày.
Ta thầm hổ thẹn vì trước đó đã ngờ vực vô căn cứ, nếu hắn đem đề bài tiết lộ cho Hoàng hậu, chắc cũng là chuyện bất đắc dĩ, chỉ vì duy trì sự yên ổn của triều đình và hậu cung, hắn đã phải lao tâm tổn sức không ít.
Hắn làm Hoàng đế quả thực chẳng dễ dàng gì. Ta vừa gắp thức ăn đưa lên miệng, vừa thầm nghĩ như vậy, lòng bất giác kinh ngạc, mỗi lần nhớ đến hắn, ta không ngờ vực thì lại suy đoán, cho rằng hắn làm tất cả mọi chuyện đều vì cái lợi, dường như chưa từng đặt mình vào hoàn cảnh của hắn mà suy nghĩ… Chẳng lẽ ta đang dần đổi thay?
Ta biết Hoàng hậu chắc chắn cho rằng ta phái người giở trò, cô ta sẽ không chuyển nghi vấn sang phía Hạ Hầu Thần, nhưng lúc này ta chẳng hề oán giận hắn chút nào, ngược lại cho rằng chuyện nên thế. Nếu Hoàng hậu nhận ra Hạ Hầu Thần không còn tín nhiệm mình, tin tức truyền ra ngoài, nhà họ Thời nhân đó làm loạn sẽ khiến triều chính nghiêng đổ, mọi ý muốn ban đầu của ta và hắn đều bay biến.
Hạ Hầu Thần không xuất đầu lộ diện, Hoàng hậu sẽ nghĩ đây chỉ là cuộc tranh giành của nữ nhân với nhau, cô ta lên làm Hoàng hậu, tất thấu hiểu quy tắc trong hậu cung: Hạ Hầu Thần không thể chỉ sủng ái một mình Hoàng hậu, chỉ có cách tự mình triệt hạ các đối thủ mới có thể duy trì vinh sủng bền lâu. Hiện giờ ta đã thắng hai lần, cô ta chắc chắn căm hận tận xương tủy. Có điều chuyện chưa đến nỗi nguy cấp, người ta nói nhiều rận thì dày da, từ ngày ta quay trở lại cung cấm có lẽ đã bị cô ta liệt vào hàng đối địch, có hận thêm một chút thì thấm vào đâu?
Tố Khiết nhậm chức Thượng Cung, ta luôn miệng căn dặn, khi mới tiếp quản công việc, tất cả mọi chuyện phải thận trọng, ai nấy đều biết ta lập nó lên, chẳng biết có bao người đang chờ chực xem nó thất thố.
Con người Tố Khiết vốn đã cẩn thận, nghe khuyên bèn vâng dạ đáp lời, sau khi nó dọn đến ở Thượng Cung cục, hai bên không thường xuyên gặp mặt nữa. Tố Khiết an phận, bẩm sinh yêu thích việc chế trâm may áo, nghe nói sau khi đến Thượng Cung cục đã rất tâm đầu ý hợp với Hoắc Thiên Bình, hai người thiết kế ra vô số vật dùng mới mẻ, đặc biệt kiểu trâm đan bằng tơ vàng, trở thành thứ trâm ai nấy trong cung đều muốn có được.
Kỳ thực kiểu trâm này tuy vô cùng tinh xảo, nhưng không mấy chắc bền, dùng một thời gian dài sẽ lộ ra khuyết điểm, có điều trong cuộc thi quan trọng nhất là chiếm được thiện cảm tức thời của mọi người, nên trước đó ta mới để Tố Khiết rèn luyện kỹ thuật này.
Việc tranh tài tuyển chọn Thượng Cung tính đi tính lại cũng chỉ có thể là mấy nội dung đó, trước khi Hạ Hầu Thần ra đề đã sai Khang Đại Vi gọi mấy vị nghệ nhân thâm niên ở Thượng Cung cục đến hỏi chuyện, tham khảo ý kiến trước. Ta dò hỏi một chút là biết hắn định ra đề thế nào, tuy ta không trực tiếp hỏi Hạ Hầu Thần như Hoàng hậu, nhưng cũng vẫn là biết trước.
Mấy ngày nay mưa phùn rả rích, hoa đào dưới mưa dập nát cả, rụng đầy mặt đất tan thành bùn nhão, đầu cành nhú lên quả non bé tí tẹo, âu cũng là quy luật tự nhiên phải thế.
Đúng dịp quý thủy[2] của ta tới, Nội Thị Giám phái người đến ghi chép, Hạ Hầu Thần biết chuyện nên cố tình không triệu ta thị tẩm. Hai bên đã ngầm giao hẹn sẽ không tỏ ra quá thắm thiết, tránh để ta trở thành cái đích của trăm ngàn mũi tên, hắn vẫn phân phát ơn trạch cho muôn hoa, thậm chí còn đến chỗ Ninh Tích Văn hai lần, xong xuôi về nói với ta: “Tỷ muội nàng mỗi người một vẻ, nhưng đều quyến rũ như nhau.”
[2] Kinh nguyệt của phụ nữ.
Ta cố tình ghen tuông, cất giọng hờn mát: “Hoàng thượng, sao người cứ đem thần thiếp ra so với người ta?”
Ăn giấm nếm chua nhiều nên kỹ thuật diễn càng lúc càng điêu luyện, đôi khi ta tưởng như mình ghen thật, khiến Hạ Hầu Thần được một phen cười sảng khoái.
Hắn không sủng hạnh ta quá nhiều, nhưng mỗi lần đến Chiêu Tường các là hùng hục một mạch đến khi đôi bên mệt mỏi rã rời, ngày hôm sau hắn đi rồi, ta phải ngủ đến chiều mới dậy nổi. Ta cố thử thám thính chuyện kia của hắn với các phi tử khác thì tình hình khác hẳn, đôi lúc chỉ đến một hai canh giờ lại đi ngay, có khi xong chuyện hắn bèn một mình tới Ngự Thư phòng phê duyệt tấu chương. Tuy ta giỏi dùng mưu mẹo, khi làm Thượng Cung cũng biết không ít bài thuốc tẩm bổ chuyện phòng the, nhưng trước nay chưa từng dùng. Ta cùng các phi tử khác quan hệ không mấy tốt đẹp, càng không tiện hỏi thăm những việc quá nhạy cảm, Hạ Hầu Thần từng sủng hạnh vài ba cung tỳ ở chỗ các phi tần khác, nhưng chưa bao giờ làm việc đó ở chỗ ta, nếu không ta đã có cơ hội thu thập chút kinh nghiệm… Hay vấn đề là ở phía ta?
Qua hai ngày, quý thủy đã hết, Nội Thị Giám lập tức mang ý chỉ của Hoàng thượng đến, nói tối nay thánh giá sẽ lưu lại Chiêu Tường các. Tuy hắn không còn thô bạo với ta như trước, dần dần ta cũng tìm thấy khoái lạc, nhưng vừa nghĩ đến đêm nay lại một trận mệt nhoài, trong lòng không khỏi buồn bực. Tố Linh và Tố Tú hí hửng giúp ta mặc áo trang điểm, còn mang cánh hoa và dầu thơm chuẩn bị pha nước tắm, thấy hai đứa mắt hạnh má hồng, đang tuổi xuân xanh phơi phới. Mỗi khi Hạ Hầu Thần đến, ta đều tìm cớ cho cả hai quanh quẩn lượn lờ bên cạnh, nhưng chẳng đứa nào được việc. Nghĩ đến chuyện này trong lòng chợt thấy khổ não, có lẽ nên hỏi thử mẫu thân xem sao, có phải nam nhân nào cũng như vậy?
Đèn hoa vừa thắp, Hạ Hầu Thần đã theo lối vườn bước vào. Lần nào đến chỗ ta, hắn cũng sai người mang lên vài ba món nhắm, uống vài ba tuần rượu ngọt, tuy vậy cữ ăn uống khống chế rất nghiêm ngặt. Sau một thời gian dài ở bên, ta mới hiểu hắn là kẻ vô cùng khắc kỷ, thường nhật không có sở thích tiêu khiển đặc biệt, những thú vui của Hoàng đế tiền triều như du xuân săn bắn, chọi gà đấu chó, cá cược… hắn chẳng hề màng đến, ngoại trừ việc thường xuyên lui đến chỗ các phi tần, thường chỉ nhốt mình ở Ngự Thư phòng bàn bạc quốc sự với đám đại thần, chẳng khác nào một thầy tu khổ hạnh so với các vị hoàng đế khác.
Nghĩ đến đây, ta bất giác phì cười. Hắn ngồi phía đối diện lúc này ngẩng lên, dùng ánh mắt lạnh lùng liếc ta một cái: “Ái phi lại nghĩ ra chuyện gì đáng cười vậy?”
Ta gắp một miếng điểm tâm đặt vào đĩa của hắn, nói: “Hoàng thượng, ngày xuân ngắn ngủi, người có hứng thú đi thăm Thiên Thọ Sơn với bọn thần thiếp hay không?”
Xem bộ dạng hắn có vẻ chẳng mấy thích thú, chỉ nheo mắt không nói gì, hồi lâu mới hỏi: “Ái phi muốn đi ư?”
Ta đáp: “Mấy ngày nay mưa gió dầm dề, khó khăn lắm mới được một hôm nắng đẹp, thần thiếp muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng ở trong cung đi tới đi lui cũng chỉ có Ngự Hoa viên, chẳng còn gì thú vị nữa. Thần thiếp phò tá Hoàng hậu quản lý lục cung đã lâu mà chưa làm được chuyện gì cho các tỷ muội được vui, chi bằng nhân tiết xuân xuất cung du ngoạn một trận ra trò thì hay?”
Thiên Thọ Sơn cách kinh thành không xa, chưa đến mười dặm đường, vốn là nơi săn bắn tiêu khiển của hoàng gia, hoàng đế tiền triều trước kia thường xuyên dẫn các phi tần lên núi ngắm cảnh.
Kỳ thực ta nghĩ mỗi bận quý thủy hết, hắn đều muốn đến chỗ ta liên tục ba bốn ngày, nếu sáng mai xuất phát, có chúng phi tần ở đó, nếu có ai thu hút sự chú ý của hắn thì có phải tốt cho ta không?
Đôi mắt Hạ Hầu Thần lấp lóe ánh quang, ta biết ấy là dấu hiệu hắn nổi lòng nghi ngờ, cho rằng ta lại đang mưu tính điều gì. Ta bèn thưa: “Hoàng thượng, nếu người còn bận rộn việc quốc sự, thì cứ xem như thần thiếp chưa nói gì.”
Ta nói với vẻ hơi thất vọng.
Hạ Hầu Thần liền mỉm cười nói: “Hiếm khi ái phi có hứng như vậy, trẫm đành nghe thôi.” Hắn kề sát tai ta nói, “Lấy trời đất làm chăn, để âm dương hòa hợp, cũng là một khoái cảm mới lạ đó.”
Ta mặt đỏ tới tận tai, kéo tay áo hắn: “Hoàng thượng, sao người chỉ nghĩ đến mấy chuyện ấy?”
Hắn choàng tay ôm chầm lấy ta, không thể kiềm thêm được nữa, bèn hôn vào cổ ta, cung nhân đứng ai nấy đỏ mặt, vội lui ra.
Lại giúp chúng ta đóng chặt cửa sổ.
Lần đầu tiên hắn tỏ ra nôn nóng trước mặt các cung tỳ, khiến ta thẹn đến chín mặt, định thoát khỏi tay hắn, nhưng vùng vẫy thế nào cũng không được. Xoay sở thân người một lúc, hóa ra chuốc vạ vào thân, hắn thì thầm vào tai ta rằng: “Ái phi, nàng cứ như thế, trẫm sắp không chịu nổi nữa rồi.”
Giọng hắn nhỏ nhẹ chân thành, thánh thót như tiếng chim gọi bầy, nhưng lời nói ra vô cùng dạn dĩ, khiến ta cảm thấy máu toàn thân như dồn lên đầu, thân thể nóng ran, chỉ biết vùi mặt vào cổ hắn, cảm thấy yết hầu hắn lên xuống, không nhịn được cắn nhẹ một cái, hắn chợt rùng mình, ôm chặt lấy ta, bước vội mấy bước rồi ném ta xuống giường, nằm đè lên trên.
Lại một đêm nữa ta phải chịu giày vò. Nhưng khác với trước, cảm giác khoan khoái như ở trong mây kia khiến cơ thể ta hân hoan đến cực điểm, ngay sau ấy là mệt mỏi rã rời, nhưng hắn không cho ta ngủ yên, mấy lần thiu thiu thiếp đi, hắn lại quấy nhiễu làm ta tỉnh người, đến tận khi trời hửng sáng, ánh mặt trời rụt rè chiếu qua song cửa ta mới được ngủ, láng máng nghe tiếng hắn gọi người vào sửa soạn thượng triều, lòng chỉ biết than sức khỏe hắn quá sung mãn.
Ta miễn cưỡng nhắc nhở bản thân rằng, cuộc du ngoạn Thiên Thọ Sợ nhất định phải tổ chức, đến trưa thì tỉnh lại, lập tức phát thiệp đến các cung. Những ai đồng ý tham gia thì báo lại, qua bữa tối là xuất phát ngay. Vì lần này Hạ Hầu Thần tham gia, nên đám phi tần có ai không hớn hở đồng ý, ta lấy danh nghĩa đồng tổ chức với Hoàng hậu, nhưng mọi sự xong xuôi mới báo sang cung Chiêu Thuần. Ta biết làm như vậy chỉ khiến cô ta hận thêm sâu, nhưng có hận ta, Hoàng hậu mới không nghi ngờ Hạ Hầu Thần. Ngay từ đầu đã dự định như vậy, nay ta làm thêm mấy việc để khiêu khích là hợp lẽ.
Trong cung người nhiều nên mọi việc đều thuận tiện mau chóng, vừa phát lệnh ra, đám nô tài một loáng chuẩn bị đâu vào đó, vô số xe ngựa xếp hàng chờ cả ở ngoài cửa cung. Bời đây chỉ là cuộc dã ngoại nho nhỏ, nơi đến cách kinh thành không xa, dọc đường có thị vệ hộ tống, chẳng mấy chốc mà đến nơi. Thiên Thọ Sơn vốn là ngự sơn của hoàng thất, hễ cần là mọi thứ đều được chuẩn bị tươm tất, chẳng thiếu gì so với hoàng cung. Nơi nghỉ của Hoàng hậu dĩ nhiên là gần Hoàng thượng nhất, nay phẩm vị ta chỉ kém Hoàng hậu, đáng ra nên chọn nghỉ ở Mộng Hải các giáp gần chốn nghỉ của Hoàng thượng, nhưng vừa nghe cái tên Mộng Hải ta đã nói: “Bản phi vốn khó ngủ, giờ lại còn mơ thấy biển, há chẳng càng ngủ không được?”
Thái giám lãnh sự bèn đọc sang các tên khác, ta nói: “Ấn Nguyệt các được đó, tên sao cảnh vậy, chắc mỗi đêm đều được nhìn thấy trăng sáng.”
Thái giám lãnh sự tâu: “Có điều nơi ấy cách xa nơi ở của Hoàng thượng, e đi lại không thuận tiện ạ.”
Ta cười đáp: “Thiên Thọ Sơn rộng lớn thế này, có xa hơn nữa cũng chẳng qua vài bước chân. Đã ra ngoài cung thì đừng nên cứng nhắc quá, nếu Hoàng thượng sợ phiền phức, cứ để bản phi thân chinh đến cung của người là được.”
Thái giám lãnh sự đành vâng lời.
Ta thấy nơi ở của ta và Hạ Hầu Thần không phải quá xa, nhưng ở giữa cách mấy khu đình viện, mỹ nhân này bước ra thể hiện vài bài hát, mỹ nhân kia vờ như tình cờ gặp, thế nào cũng phân tán ít nhiều hứng thú của hắn.
Khi đến Thiên Thọ Sơn trời còn sớm, thu xếp chỗ ở cũng mất kha khá thời gian, xong xuôi thì đèn hoa đã thắp, quả nhiên hắn bị Hoàng hậu giữ lại, không đến nghỉ ở chỗ ta. Ta hừ một tiếng, nghĩ bụng đêm nay sẽ ngủ ngon vô cùng.
Vì ngủ say, khó khăn lắm sáng hôm sau ta mới tỉnh dậy. Giám Thiên Thị[3] báo rằng mấy ngày tới trời nắng đẹp, quả nhiên ngày hôm sau Thiên Thọ Sơn ngập trong nắng ấm, cỏ xanh rừng thẳm như dát một lớp vàng mỏng chói lọi, đẹp không tả xiết.
[3] Bộ phận dự báo thời tiết.
Ta chọn chiếc váy xẻ tà màu trắng có hoa văn chìm cho thoáng mát lại tiện việc đi lại, thân trên mặc áo cân vạt ống tay hẹp, trên đầu chỉ dùng một cây trâm ngọc giữ lấy búi tóc, đi hài thêu đế dày mũi hếch loại tiện cho việc leo núi, người trong gương bớt đi vài phần uể oải, bù lại thêm vài phần tinh anh, ta ngắm mà thầm vui thú trong lòng.
Đang định bước ra cửa đến chỗ Hoàng thượng gặp mặt, cùng nhau bàn tính hoạt động tiếp theo, chợt nghe ngoài viện có người nói: “Mau vào bẩm báo với nương nương là Hoàng thượng mang người xuất phát rồi, bảo lão nô đến đón nương nương.”
Ta sững người, vội vàng đi ra, Khang Đại Vi đang đứng giữa vườn, thấy ta bèn đáp: “Nương nương, người chọn chốn này tách biệt quá, lão nô chạy đến nơi mà thở không ra hơi.”
Quả thực trên trán ông ta rịn đầy mồ hôi, ta vội sai người mang khăn tay đến, cười hỏi: “Khang Tổng quản, mặt trời vừa mọc chưa bao lâu, Hoàng thượng sao lại vội thế?”
Khang Đại Vi cầm khăn lau vội mồ hôi trên mặt, nói: “Người đừng hỏi nhiều làm gì, mới sáng sớm Hoàng thượng đã tỉnh dậy, thấy không khí trên Thiên Thọ Sơn trong lành, bèn sai người đánh thức chúng phi tần, xuất phát thẳng lên núi, lão nô đích thân chạy đến báo với nương nương đầu tiên, ai ngờ nơi nghỉ của người lại xa thế!”
Ông ta nhắc đi nhắc lại đến hai lần, ta chợt hiểu Hạ Hầu Thần có ý trêu mình, định lẳng lặng bỏ lại rồi bắt mình hụt hơi đuổi theo, tốt nhất là làm cho tóc tai bời bời, nháo nhào hoảng hốt.
Ta chẳng theo kịp suy nghĩ của hắn, hơn nữa trong tâm hắn lại có vướng mắc, hắn là Hoàng thượng, quyền lực của hắn như một thanh kiếm treo lơ lửng trên đầu kẻ khác, liệu còn cách nào hơn là phục tùng? Ta tha thiết quay sang Khang Đại Vi nói: “Vậy chúng ta mau tới đó.”
Tố Linh và Tố Tú đã thay y phục xong từ lâu, nghe ta nói vậy, bèn mỗi đứa dìu một bên, Khang Đại Vi đi trước dẫn đường, nhanh chân tiến về chỗ nghỉ của Hoàng đế.
Thiên Thọ Sơn là ngự sơn của hoàng gia, chiếm một diện tích rộng lớn, địa thế không quá cheo leo, trên triền núi trồng đầy kỳ sơn dị thảo, hoa cỏ đẹp đẽ chẳng khác gì được trồng trong Ngự Hoa viên, có các nghệ nhân kỳ công chăm sóc, mà lại đượm vẻ tự nhiên hoang dã. Đã là đi thưởng ngoạn thì chẳng lý do gì lại ngồi kiệu lên núi. Ta theo sau Khang Đại Vi men theo con đường líu ríu chạy tới nơi nghỉ của Hạ Hầu Thần.
Trên đường đi cũng gặp phải vài ba phi tần đến muộn xăm xăm tiến về phía trước, thấy ta, bèn lên tiếng thăm hỏi hành lễ, mặt lộ vẻ khó hiểu. Ta biết họ đang nghĩ gì, người tiên phong đề xướng ra chuyến đi mà còn bị bỏ lại phía sau, đủ thấy Hoàng thượng thay lòng nhanh biết chừng nào?
Có khoảng năm sáu người đến sau cùng, ta quan sát kỹ lưỡng, nhận ra những người này đều hoặc không được ân sủng lắm, hoặc bình thường ít ganh đua, tất cả cùng nhanh chân tìm đến sườn núi. Ta đã thấm mệt, bước chân không kìm được chậm lại. Nữ nhân tụ họp một chỗ sao có thể không buôn chuyện? Mấy vị phi tần kia tuy thường ngày không hay qua lại cùng ta, nhưng định kiến không sâu đậm, cứ vừa đi vừa nói chuyện y phục giày dép, cảm thấy quãng đường không mấy gian nan nữa.
Khó khăn lắm mới nhìn thấy một khoảng đất bằng, cỏ mọc xanh um, sớm đã trải đầy vải dầu không thấm nước lên trên, lác đác một đám phi tần túm tụm ngồi bên trên cứ như hoa tươi nở trên đất bằng, sặc sỡ nhiều màu, đẹp đến lóa cả mắt. Hoàng thượng và Hoàng hậu ngồi ở chính giữa, vây xung quanh dĩ nhiên là mấy phi tần tương đối được sủng ái. Ta nhìn kỹ, phát hiện Ninh Tích Văn hôm nay ngồi mãi trong góc, nó trước nay vốn thân cận bên Hoàng hậu, không lúc nào không khoe khoang với ta mình được Hạ Hầu Thần yêu thương hết mực. Vậy mà lần này một mình rúc xó, ăn mặc càng không bắt mắt, chẳng biết là vì sao.
Ta dẫn đầu mấy vị phi tần đến muộn lại gần, theo lệ hướng về phía Hoàng thượng Hoàng hậu hành lễ, các phi tần khác cũng lũ lượt đứng dậy hành lễ với ta, rồi các phi tần cấp thấp hơn hành lễ với phi tần cấp cao hơn, cứ thế hỗn loạn một lúc. Hoàng hậu sai người dọn ra một chỗ trống giúp ta, cười nói: “Chắc muội muội còn quyến luyến không khí thanh tân trên núi nên mới dậy trễ, đến muộn. Nhưng cũng phải, hết ngày này sang ngày khác quanh quẩn trong cung đích thực rất buồn chán, nay được hít thở không khí thanh tân trên núi là ngon giấc không muốn rời giường, bản cung sớm nay suýt nữa dậy không nổi, nếu không có Hoàng thượng năm lần bảy lượt thúc giục, chắc đã phụ cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp này rồi.”
Ta vội thỉnh tội với Hoàng thượng Hoàng hậu, lời qua lời lại một lát, Hạ Hầu Thần mới lạnh lùng “hừ” một tiếng: “Hoa Phu nhân vốn dĩ biếng nhác, nàng nói nhiều để làm gì? Khi ở trong cung ngày nào chẳng ngủ đến khi mặt trời lên tới đầu sào mới chịu dậy!”
Ta cúi đầu không đáp, nghĩ bụng tội danh thì ta đây chẳng thiếu, nhưng cái từ “biếng nhác” kia quả có mới mẻ, hôm nay mới là lần đầu được nghe. Hắn càng lúc càng cay nghiệt chẳng thèm để ý đến lý lẽ, một tháng chỉ có vài ba lần hắn đến ta mới ngủ dậy muộn, vậy mà giờ bị đem ra đay nghiến, thật là oan quá.
Hắn mắng mỏ một lúc, mấy vị phi tần đến muộn đều bị nhắc tên, ai nấy lộ vẻ hổ thẹn, ta thì mừng thầm vì có người bị mắng cùng.
Hoàng hậu cười nói: “Hoàng thượng, người đừng nổi giận, hôm nay thời tiết đẹp, thần thiếp đã sai người chuẩn bị rất nhiều diều giấy, các muội muội hôm nay đều ăn vận gọn nhẹ, chẳng mấy khi ra ngoài, nên cùng nhau thả diều cho vui vẻ mới phải?”
Gương mặt Hạ Hầu Thần lúc này mới giãn ra, gật đầu đồng ý.
Ta chỉ muốn tránh cái khuôn mặt bí xị của hắn càng xa càng tốt, vội đứng dậy cầm lấy một con diều hồ điệp trên tay tiểu thái giám rồi đi ngay.
Chúng phi tần có ý thể hiện trước mặt Hạ Hầu Thần, có người mang sẵn diều đẹp, lúc này mới lấy ra, nào là diều rết nhiều chân cực lớn cực dài, nào diều chim én… nào diều bốn khúc vẽ hình mẫu đơn phú quý, ngũ phúc bổng thọ… màu sắc tươi tắn, khiến người ta sướng mắt đẹp lòng, nhìn từ góc độ tranh vẽ, chỉ thấy bút pháp tỉ mỉ đa dạng, hình tượng hư cấu nhiều mà sống động, ai nấy đều dốc mọi mánh lới. Những người chẳng thèm chuẩn bị gì, chỉ thả diều hồ điệp như ta có lác đác vài vị, chẳng ai khác chính là mấy phi tần đến muộn. Chuyện đến Thiên Thọ Sơn vãn cảnh mãi trưa hôm qua mới lan truyền, bọn họ chuẩn bị kỹ càng như vậy, quả nhiên đều là hạng lắm tiền nhiều thế không thể xem thường.
Riêng ta, cái kẻ tiên phong hô hào, giờ đây lại tụt ở phía sau.
Nhớ lại quãng thời gian vừa qua được Hoàng đế sủng ái hết mực, nhận ra mình chẳng chịu tung hết sức để tranh sủng, nay hào quang đã mất lại nuối tiếc, bất giác cảm thấy hổ thẹn, bèn tự kiểm điểm lấy mình. Giữa ta và hắn đã có thỏa thuận ngầm, mục đích là quấy nhiễu Hoàng hậu, mũi giáo ta phải giương mình hứng chịu, xem ra cần phải nỗ lực vì nhiệm vụ một chút nữa.
Đang mải suy nghĩ, chợt nghe trên thảm cỏ truyền đến trận reo hò, chỉ thấy Hoàng hậu mừng vui hớn hở, đám cung phi vây quanh chỉ trỏ vỗ tay, nhìn lên, hóa ra con diều phượng hoàng màu sắc rực rỡ của Hoàng hậu rốt cuộc đã bay cao, từ mặt đất nhìn lên, chỉ thấy con diều điểm xuyết lông vũ bảy sắc, móng vuốt màu thiên thanh, ngẩng đầu xuyên thẳng từng mây, cứ như một con phượng hoàng thật.
Ta thầm nghĩ, đã có phượng hoàng, ắt có kim long, Hoàng hậu đúng là biết cách lấy lòng Hạ Hầu Thần.
Quả nhiên chẳng bao lâu, diều rồng bay thẳng lên trời, cùng phượng hoàng kề vai sát cánh, nô đùa lượn bay như múa, xem ra lần này Hoàng hậu vắt óc nghĩ ra tiết mục đặc sắc này, đã phần nào đánh đuổi được cái xúi quẩy của hai lần thua cuộc trước đây.
Ta biết rõ lần này chẳng cách nào đảo ngược tình thế, đâm thấy chán ngán, nhìn quanh quất một hồi, định tìm nơi thanh tịnh, chợt thấy Ninh Tích Văn thả diều hồ điệp, ngưỡng mộ ngắm nhìn cặp long phượng đang uốn lượn trên trời xanh, ta cứ cảm thấy lần đi chơi này Ninh Tích Văn ẩn giấu tâm sự, nó hận ta đã lâu, nay thấy nó cô độc đứng một mình, ta không tiện bước đến hỏi thăm, chỉ biết đứng một bên ngầm quan sát.
Hai con diều long phượng trước do Hoàng thượng Hoàng hậu tự thả, sau một lát chuyển sang tay đám cung tỳ, hai người ngồi trên thảm cỏ trò chuyện rất vui vẻ.
Trước đó gió nhẹ trời thanh, lúc này đột nhiên gió ngày một mạnh, một trận gió lớn nổi lên, diều lớn diều nhỏ ngiêng ngả liêu xiêu, cặp diều long phượng vốn đã cồng kềnh, nay bị gió thổi khó mà giữ vững, khiến các cung tỳ bên dưới bị lôi tuột đi, xém chút nữa thì tuột tay, cũng may có mấy cung tỳ khác cùng đến giữ mới khỏi bay mất. Diều long phượng vốn bay rất gần nhau, nay cứ như quay ra đánh lộn, quấn vào làm một, chuẩn bị rớt xuống đất đến nơi, đám cung tỳ luống cuống la hét lạc giọng.
Ta thầm thấy buồn cười, lòng nghĩ lần này hay rồi, long phượng trên trời đấu đá trước mặt, long phượng dưới đất đấu đá sau lưng, thật là oái oăm.
Chợt thấy Ninh Tích Văn đã thả con diều trong tay ra tự lúc nào, chạy đến giúp đám cung tỳ gỡ hai con diều ra, ta thầm thấy lạ, Ninh Tích Văn lúc đầu ngồi một mình, bây giờ lại muốn tham gia náo nhiệt?
Gió càng thổi càng lớn, diều trên trời càng gỡ càng rối, chỉ thấy long phượng quấn vào làm một, tuy đám cung tỳ liều chết giữ lấy, nhưng xem ra sớm muộn dây diều cũng đứt. Hoàng hậu khó khăn lắm mới có được cơ hội tốt, không ngờ trời cao trêu chọc, diều đứt dây là điềm gở, chẳng biết lòng cô ta liệu có hoảng hốt?
Lúc này Hoàng hậu và Hoàng thượng dĩ nhiên chẳng thể trò chuyện vui vẻ được nữa, đều đứng dậy chỉ huy đám cung tỳ, khổ nỗi gặp phải tình thế này, đến thần tiên còn khó cứu, chỉ có thể cứu lấy một mà bỏ một, nghe “phựt” một tiếng, diều phượng đứt dây bay vút đi, diều rồng không còn vướng víu, một mình uốn lượn trên cao, vây xung quanh nó dĩ nhiên là mấy cây diều hồ điệp loại nhỏ, trông lại vui mắt như thường. Ta thầm nghĩ, sao mà khéo thế, đứt diều phượng chứ không đứt diều rồng?
Ta bất giác chăm chăm nhìn về phía vị tổng quản nhất mực trung thành Khang Đại Vi, nghe nói thân thủ ông ta cực cao siêu, ta chưa từng được chứng kiến, nhưng lần này, xem ra lời dồn là thật?
Chỉ thấy Khang Đại Vi luồn hai tay vào ống áo đứng một bên, bộ dạng thật thà ngơ ngác.
Diều phượng đã đứt, đám cung tỳ bèn lảo đảo thối lui, vừa khéo Ninh Tích Văn đứng phía sau, bị bọn họ xô một cái, ngã lăn, chỉ nghe tiếng hò hét vang dậy, xen lẫn tiếng thét thảng thốt, vô cùng chói tai. Ta nghe dường như là tiếng của Ninh Tích Văn, vội bước đến xem, gạt đám đông ra, thấy Ninh Tích Văn nằm trên đất rên rỉ không ngớt, hai tay ôm bụng, trong lòng chấn động, chẳng lẽ…
Đám cung tỳ vội dìu Ninh Tích Văn dậy, xem ra Hoàng hậu cũng nghĩ như ta, vội sai ngự y đến kiểm chứng. Ta thầm than không ổn, Ninh Tích Văn thật quá hồ đồ, trong lúc cái thai chưa ổn định mà dám công bố ra trước mặt tất cả mọi người?
Nghĩ thế nhưng ta không cách nào ngăn cản, chỉ biết giương mắt nhìn ngự y báo tin vui với Hoàng thượng, Hoàng hậu thân mật kéo tay nó, dặn dò phải cố gắng nghỉ ngơi, cẩn thận kẻo động thai, lại quay sang xin Hoàng thượng cho nó chuyển đến Thanh Vận các ở gần cung Chiêu Thuần, dĩ nhiên khiến mọi người ngưỡng mộ ngợi khen mãi.
Hạ Hầu Thần dĩ nhiên vô cùng vui mừng, lập tức thăng cho Ninh Tích Văn làm quý phi, các phi tần khác tới chúc mừng không ngớt. Trước mắt vui mừng rộn rã, nhưng trong lòng ta thấy thê lương, Hoàng hậu đang tuổi trẻ vẫn chưa hoài thai Thái tử mà chịu nhận nuôi con người khác mới thật là lạ lùng.
Các triều trước đã có tiền lệ, phi tần phẩm tước nhỏ sinh được con trai, vì muốn bảo toàn tính mạng cho con mà giao cho Hoàng hậu nuôi dưỡng. Nhưng hiện thời Hoàng thượng đang dốc sức khống chế thế lực của nhà họ Thời, trong ngoài triều tình hình cam go như nước lửa, sao có thể để Hoàng hậu chiếm phần hơn? Chỉ sợ sau này cuộc tranh đấu nổi lên, Hoàng hậu sẽ trở thành khúc gỗ dưới nước. Thêm nữa tấm gương Thượng Quan thái hậu của tiền triều còn đó, Hoàng hậu liệu có sinh lòng dè chừng đứa con không phải do bản thân mình sinh ra hay không… Mẹ ruột của đứa trẻ ấy vẫn còn đó, trong cung người đông lắm thị phi, khó tránh có kẻ ác ý tìm cách xúi bẩy, đến cuối cùng biết đâu lại tự hướng mũi giáo về mình?
Ta nghĩ ngợi mông lung, luôn cảm thấy đứa trẻ trong bụng Ninh Tích Văn đến không đúng lúc, chỉ hơi bất cẩn sợ rằng tính mạng hai mẹ con đều khó bảo toàn, nhưng xem dáng vẻ nó liều mạng ôm bụng ban nãy, thì biết nó xiết bao hy vọng có đứa trẻ này.
Thử hỏi nữ nhân trong cung có ai không mong một đứa con, ai không mong được phú quý nhờ con?
Ánh nắng chiếu rọi triền núi, lá cỏ phản chiếu ra một lớp vàng kim mỏng mịn như nhung, ta đứng cách Ninh Tích Văn một quãng mấy bước chân, thấy gương mặt nó nửa cười nửa thẹn, tha thiết liếc nhìn Hạ Hầu Thần lúc này đang vô cùng hớn hở, lại ngoảnh đầu cảm tạ Hoàng hậu đã lo lắng, người duy nhất không nhìn chỉ có kẻ làm tỷ tỷ là ta. Tố Linh vừa choàng giúp ta chiếc trường bào lên vai, mà sao vẫn thấy cả người thấu buốt.
Sau khi hồi cung, ta bèn sai Túc nương nương thường xuyên để ý tình hình ở Thanh Vận các, nhưng cũng biết bản thân mình không lo lắng được nhiều. Ninh Tích Văn coi Hoàng hậu như chỗ dựa vững chắc, chẳng khác gì ta ngày trước. Có điều ta tỉnh táo hơn Ninh Tích Văn, lại thêm sống trong cung đã lâu, thông thạo mọi việc ở Thượng Cung cục, biết tự chừa đường lui cho mình, chỉ e với bản tính của Ninh Tích Văn, sẽ như cá nằm trên thớt.
Chuyến đi Thiên Thọ Sơn khiến Hạ Hầu Thần vô cớ giận dỗi, suốt hai tuần liền không thèm đến Chiêu Tường các. Ta có hơi sốt ruột, lại thêm chuyện Ninh Tích Văn, ta đang định xin hắn một đặc ân, cho Ninh Tích Văn dọn ra khỏi Thanh Vận các đến một nơi an toàn, tốt nhất là dọn đến Chiêu Tường các, để ta chăm nom, sẽ có cách bảo vệ đứa bé trong bụng.
Tố Linh thấy ta mấy ngày liền thần tình ngẩn ngơ, bèn trêu: “Nương nương, người nhớ Hoàng thượng đấy ư? Bây giờ nương nương thân phận cao quý, Hoàng thượng không đến, người cũng có thể đến thăm mà?”
Đầu ta chợt lóe lên một ý nghĩ, sao mà ta hồ đồ quá, sao lại quên là còn có cách này? Xem ra công phu tranh sủng của ta vẫn chưa mấy thâm hậu, các phi tần khác vẫn thường xuyên làm việc này, mà ta đến nghĩ ta còn chẳng nghĩ ra?
Ta sai Tố Linh cùng mình sửa soạn trang điểm chuẩn bị đến điện Triêu Dương của Hạ Hầu Thần. Tố Linh thấy ta nghe lời mách, bèn hí hửng lấy chiếc váy dài chấm đất màu hồng phấn, dưới vạt có hoa văn hình tròn, màu sắc tươi sáng như nụ hoa mới nở. Ta cảm thấy bộ y phục này hơi đẹp quá đang định lắc đầu bảo nó đổi bộ khác, chợt nghĩ lại, lần này đi là để cầu xin, dù thế nào cũng phải làm hắn vui vẻ, gạt phăng chuyện không vui lần trước đi mới phải. Chẳng phải hắn rất thích màu này hay sao? Khánh Mỹ nhân chính nhờ thích mặc những màu tươi tắn nên mới trở nên nổi bật giữa đám phi tần!
Nghĩ như vậy, ta bèn mặc cho Tố Linh trang điểm giúp. Tố Linh vốn khéo tay, trang điểm rất đặc sắc, trong cung người đẹp mơn mởn khắp nơi, ta luôn cho rằng mình đã hơi lớn tuổi, mặc áo quần màu sắc sặc sỡ không hợp lắm, nhưng qua tay Tố Linh trang điểm, đánh thêm một chút bóng mắt màu khói ráng, cả con người không những trở nên trẻ trung tươi mới, mà còn toát ra vẻ mê hoặc khiến người xa ngàn dặm cũng không thể cự tuyệt.
Tố Linh nhìn lai cũng phải ngây người, nói: “Nương nương người xem, mặc bộ y phục này vào làm tôn thêm vẻ đẹp của người biết bao.”
Ta vừa soi gương vừa nghĩ, ăn mặc phục sức thế này chẳng hóa ra dâng mình lên miệng cọp ư? Nghĩ thế lại tự cười mình, nếu đã định như vậy thì việc gì phải viện cớ?
Ta đến trước điện Triêu Dương, chờ cho cung nhân chuyển lời vào trong, mất một lúc lâu mới có lời đáp, rằng Hoàng thượng đang phê duyệt tấu chương, bảo ta chờ trước cửa một lát.
Ta dạo quanh cửa mấy vòng, chợt thấp thoáng nghe tiếng nữ nhân cười đùa từ trong điện vọng ra, lòng thầm nghĩ phê duyệt tấu chương phen này quá náo nhiệt, hôm nay có lẽ không phải thời cơ tốt để gặp hắn, bèn nói với thái giám truyền lời rằng lần này ta chỉ đến thăm, nếu Hoàng thượng bận việc thì xin không làm phiền nữa.
Thái giám thông truyền đáp: “Vậy xin nương nương chờ một lát, nô tài vào báo là nương nương xin về xem ý Thánh thượng ra sao?”
Tên tiểu thái giám này cũng thật đáng thương, chạy tới chạy lui đến độ toát mồ hôi đầy trán, ta bèn cười đồng ý.
Qua một lúc nữa, ta đi thêm được một vòng bên ngoài cung điện, chợt thấy Khang Đại Vi đích thân đi ra, cúi mình hành lễ: “Nương nương, lúc này Hoàng thượng đã xong việc, mời người vào.”
Ta chú tâm lắng nghe trong điện, vẫn thấy loáng thoáng có tiếng nữ nhân nói chuyện, việc ta muốn cầu không tiện để người khác biết, bèn nói với Khang Đại Vi: “Khang Tổng quản, ta nghĩ không cần đâu, hôm nay Hoàng thượng quả chắc đã mệt, để ngày khác ta đến vậy.”
Nói xong liền quay mình bước ra ngoài, xem ra muốn đến gặp Hạ Hầu Thần, trước tiên phải thăm dò kỹ xem có ai bên cạnh hắn không, có tiện gặp không mới được.
Đang chuẩn bị bước ra khỏi cửa điện, chợt nghe tiếng Hạ Hầu Thần cất lên từ phía sau: “Muốn gặp trẫm mà đợi một chút đã không chịu được, lòng thành của nàng liệu có mỏng quá không?”
Ta vội quay lại nhún mình hành đại lễ với hắn, quả nhiên thấy một Tuyển thị mới nhập cung chưa lâu đứng bên cạnh, hình như là họ Dương. Dương Tuyển thị luống cuống hành đại lễ với ta, cười nói: “Nương nương, Hoàng thượng thích nước quả do thần thiếp làm, nên ngày nào thần thiếp cũng nấu mang đến, đang định quay về, không ngờ nương nương đã đến rồi.”
Ta nghĩ thầm tự ta chẳng cần ngươi giải thích, ngươi việc gì phải nói hết ra như vậy? Sở thích của Hạ Hầu Thần ta rõ hơn ngươi nhiều, đã nổi hứng thì ngay ở Phật đường còn dám càn rỡ, huống hồ là điện Triêu Dương của mình? Nghe xong chỉ khẽ cười, không đáp lời.
Dương Tuyển thị cúi mình hành lễ rồi cáo biệt.
Hạ Hầu Thần dẫn đường, ta bèn nhấc vạt váy theo sau, mối quan hệ giữa ta và hắn vốn đã dần ấm áp, trải qua chuyện ở Thiên Thọ Sơn dường như đóng băng trở lại, chẳng biết hôm nay hắn sẽ đối đãi với ta ra sao?
Không ổn, trước tiên phải làm tan chảy tảng băng trong hắn đã! Nghĩ đến trước kia hắn rất thích mỗi khi ta hờn mát, bèn cất tiếng gọi từ phía sau: “Hoàng thượng, người đừng đi nhanh quá thần thiếp không theo kịp…”
Hành lang có thái giám đứng gác, nghe thấy tiếng kêu của ta thì lộ ra chút ít ý cười, Hạ Hầu Thần chẳng thèm để ý, lại càng bước nhanh hơn, thoắt cái rẽ đi đâu mất.
Ta đành nhấc váy líu ríu chạy theo, hành lang bên ngoài điện Triêu Dương không phải quá dài, nhưng hôm nay sao đi mãi mà không đến.
Hạ Hầu Thần làm vua một nước, thể diện dĩ nhiên khá lớn, không thể chịu nổi nửa phần ấm ách, nếu không sao có thể làm vua một nước?
Ta vừa chửi thầm trong bụng vừa bước vào điện Triêu Dương, thấy hắn sớm đã ngồi bên bàn sách, đang cầm một cuốn tấu chương lên xem, mặc ta đứng trơ giữa đại điện, tiến không được, lùi chẳng xong, lúng túng chẳng biết làm gì. Đại điện rộng rãi trống trải, bọn cung nhân bị đuổi hết ra ngoài, chỉ còn ta và hắn. Ta thu hết dũng khí bước đến bên bàn, nhỏ giọng hỏi: “Hoàng thượng, trong triều xảy ra chuyện lớn hay sao mà người phải bận rộn đến vậy?”
Ta chẳng qua không biết nói gì nên tiện miệng lấp liếm, ai ngờ hắn chỉ lạnh lùng đáp một câu: “Chuyện triều chính đâu đến lượt nàng tùy tiện bình luận? Nữ nhân không được tham gia chính sự, nàng quên rồi ư?”
Ta bị dọa, vội quỳ xuống xin tội, luôn miệng nói: “Thần thiếp không dám.”
Hai con mắt hắn đảo lên đảo xuống ngắm nghía một hồi, nói: “Hôm nay nàng phục sức quả khác ngày thường, nói đi, có phải định cầu xin trẫm điều gì không?”
Ta sợ nhất là giọng điệu này của hắn, thẳng thừng bóc mẽ người khác không nương tay. Trước tiên cứ để đối phương diễn kịch đã đời, nhưng lời đã thuộc lòng trong bụng không tài nào nói ra đến miệng, rồi hắn sẽ xé toạc tất cả lớp vỏ hoa lệ đó, chỉ thẳng vào vấn đề, khiến đối phương bàng hoàng lúng túng. Giữa chúng ta chẳng phải đã thỏa thuận rồi sao? Thời gian trước hai bên người tung kẻ hứng vui vẻ biết mấy, quan hệ cũng lắng dịu hơn nhiều mà?
Sao lôi thôi một hồi, mọi thứ lại quay trở về xuất phát điểm của nó rồi?
Ta vội cười nói: “Sao Hoàng thượng lại nghĩ vậy? Chẳng lẽ thần thiếp muốn xin xỏ nên mới đến gặp người ư? Thật ra thần thiếp…”
Hắn lạnh lùng “hừ” một tiếng, khiến nửa câu sau: “… vì nhớ Hoàng thượng mà đến” tắc mãi ở cổ họng không thể nói ra.
Nghĩ đến việc hôm nay tô son trát phấn, khoác lên người y phục sặc sỡ mình vốn chẳng ưa chỉ để lấy lòng hắn, mà lại bị đối xử như vậy, trong lòng bất giác buồn bã, chẳng lẽ hắn không muốn khống chế Hoàng hậu nữa ư? Bởi thế nên ta chẳng còn ích gì với hắn nữa?
Lòng ta chợt phát hoảng. Hắn chưa cho phép, ta không dám bình thân, cứ quỳ mãi trên mặt sàn lạnh buốt, thật là gần vua như chơi với hổ, hổ này lại là con hổ nắng mưa thất thường nhất trên đời!
Hắn trầm giọng: “Đứng dậy đi, cứ quỳ ở đấy cho ai xem!”
Ta đứng dậy, ngẩng đầu nhìn, hắn bèn giơ ngay tấu chương lên xem. Ta không tiện hỏi thêm, càng không dám xin về, chỉ biết đứng ở đầu bàn chờ đợi như kẻ ngốc.
Mãi mới đợi đến khi hắn xem xong tấu chương, “soạt” một tiếng đóng lại, ta vội nói: “Hoàng thượng, đã lâu lắm rồi ngài không đến Chiêu Tường các, thần thiếp mấy ngày nay có sai cung nhân trồng mấy cây hoa hàm tiếu trong vườn, hay người cùng thần thiếp đến xem?”
Hạ Hầu Thần đủng đỉnh đặt tấu chương xuống bàn, lại cầm một bản khác lên: “Ừm…” một tiếng, chẳng để ý đến ta nữa.
Ta nghĩ bụng thế nghĩa là đồng ý hay là không?
Quả thực không chịu nổi nữa, ta liền khẽ giọng hỏi: “Hoàng thượng, ý người là… đi hay không đi?”
“Cạch” một tiếng, Hạ Hầu Thần vứt tấu chương lên bàn, âm thanh vang vọng trong đại điện rộng lớn, khiến ta giật nảy cả người, bất giác lùi một bước, suýt nữa giẫm phải vạt váy ngã dúi dụi, khó khăn lắm mới đứng được vững vàng, nghe hắn giận dữ nói: “Trẫm biết rồi…”
Trong lúc hoảng sợ nhìn lên, ta thấy gương mặt hắn thoáng qua một nụ cười, rồi lại khôi phục vẻ băng giá, hắn nói: “Trẫm tự có sắp xếp, nàng cứ về trước đi!”
Đến cuối cùng ta vẫn không hiểu hắn đến hay không đến.
Về Chiêu Tường các, ta lập tức trút bỏ xiêm áo và phấn son, gọi Tố Linh cất vào hòm, lau sạch mặt mũi, thay xiêm áo khác xong, trong lòng bỗng se buồn. Nếu không mau chóng hành động để Hoàng hậu tìm được cơ hội hạ thủ thì hối cũng không kịp.
Hiềm nỗi giờ đây muội muội coi ta như kẻ thù, phải làm sao để hóa giải nỗi oán hận trong lòng nó? Ta hối hận sâu sắc vì trước đây trong lúc chưa suy xét cẩn thận đã đem đại nương ra thế mạng, nhưng lúc ấy ta có thể làm được gì? Đại nương và mẫu thân vốn là tỷ muội ruột thịt, tướng mạo có phần hao hao nhau, nếu bà không chết thì mẫu thân ta phải chết, thật là một phút nông nổi gây hận ngàn năm.
Trời sập tối, đèn hoa thắp sáng, vẫn chưa thấy Hạ Hầu Thần đâu. Sau khi dùng xong bữa tối hắn vẫn chưa đến, ta liền thôi hy vọng, thay một chiếc áo dài rộng rãi, ngồi trên bàn nhàn rỗi vẽ linh tinh, lòng nghĩ đến đứa trẻ trong bụng Ninh Tích Văn, vẽ một hồi thành ra đôi hài trẻ con. Ngó ra mặt trăng ngoài song cửa đã lên chính giữa trời, có lẽ sắp sang canh ba, nghĩ bụng chắc hắn không đến nữa, liền gọi: “Tố Linh, nghỉ đi thôi.”
Không nghe trả lời, ta đang định gọi tiếp, chợt cảm thấy một đôi tay đưa qua bả vai mình, cầm bức họa lên hỏi: “Nàng muốn có con à?”
Nghe thấy thanh âm trầm ấm trong vắt ấy nhẹ nhàng cất lên từ phía sau, ta mới kinh ngạc nhận ra Hạ Hầu Thần đã đến, phút chốc cảm thấy cơ thể mình lạnh cóng như đứng giữa trời đông, mà trong phòng kỳ thực rất ấm áp, cả người cứ như bị quẳng vào lò nướng tấy lên như phát sốt, ta nói: “Hoàng thượng…”
Dưới ánh đèn chiếu tỏ, đôi con ngươi hắn phát ra tia sáng dịu dàng, khi nhìn xuống đôi hài bé xinh trên giấy, ngay đến khuôn mặt cũng mềm ra. Không hiểu sao ta thấy mũi mình cay cay. Cuối cùng hắn đã đến.
Hắn rời mắt khỏi tờ giấy, chỉ nói: “Nhưng bây giờ chưa phải thời cơ tốt.”
Ta cúi đầu đáp: “Dù sao nó cũng là muội muội của thần thiếp.”
Gương mặt hắn đanh lại: “Trẫm sớm biết nàng muốn xin điều gì. Nhưng việc này trẫm không thể phê chuẩn được, không thể để người kia lại nổi lòng nghi ngờ.”
Ta rùng mình, ngước mắt nhìn hắn như không thể tin, nam nhân này là người như thế nào? Sao có thể dùng tính mạng một hài nhi còn trong bụng mẹ để đổi lấy tín nhiệm của Hoàng hậu? Hắn biết chắc Hoàng hậu sẽ không buông tha đứa trẻ.
Giọng ta dần nguội ngắt: “Hoàng thượng, nhưng ấy là máu mủ của người mà!”
Người hắn hơi chấn động, ánh mắt bỗng trở nên diệu vợi, lạnh lẽo, khiến ta thấy lạnh thấu xương: “Trẫm sẽ có nhiều đứa nữa.”
Ta mở to mắt nhìn hắn, khoảng cách đôi bên vừa thu lại đôi chút, vì câu nói này mà chợt xa. Hắn vẫn mãi là một ẩn số lớn, duy có một điều ta hiểu rõ: “Hắn tàn nhẫn hơn ta nhiều lần. Ta bày mưu tính kế chẳng qua để tìm đường sống, còn hắn hễ toan tính thì thâu trọn nhân tâm thiên hạ.
Ta biết không thể xin được nữa. Hắn chịu đến, chịu giải thích để ta hiểu những uẩn khúc này đã là quá lắm. Ta nhìn cái chặn giấy đặt trên bức họa ban nãy, cảm thấy đường nét của nó trong mắt mình dần dần hoa lên.
Nếu lúc này người mang thai là ta thì sẽ thế nào? Ta không dám nghĩ tiếp, vốn tưởng mình đặc biệt hơn kẻ khác một chút, đối với hắn có phân lượng hơn một chút, hóa ra chỉ là vọng tưởng mà thôi.
Ta nhắm chặt mắt lại, nuốt nước mắt vào trong, nói: “Hoàng thượng, trời đã khuya rồi, nên nghỉ đi thôi?”
Hắn nắm lấy bàn tay ta: “Nàng phải hiểu, trẫm có trách nhiệm bảo vệ giang sơn này bằng mọi giá. Nay nhà họ Thời đã trở thành nhà Thượng Quan thứ hai, trẫm không thể để họ được toại nguyện!”
Ta lãnh đạm đáp: “Thần thiếp chỉ là một nữ nhân. Hoàng thượng quên nữ nhân không được can dự triều chính ư? Thần thiếp nào hiểu việc quốc gia đại sự…” Giọng ta càng lúc càng lạnh lùng, “Nhưng chẳng chính Hoàng thượng tiếp tay cho nhà họ Thời đó thôi?”
Hắn chán nản lùi lại hai bước nói: “Trẫm còn cách nào khác? Nếu không có nhà họ Thời giúp đỡ, trẫm sớm đã chết trong tay Thái hậu. Nàng muốn trẫm phải làm sao?”
Hắn dùng nhà họ Thời để kiềm tỏa nhà Thượng Quan, không biết đã phải thỏa hiệp những gì? Việc sắc phong Thời Phượng Cần làm Hoàng hậu có lẽ chỉ là một việc trong số đó. Thỏa thuận một khi đã đưa ra, rất khó thu lại, đến cốt nhục của mình hắn cũng định hy sinh vì đó?
Vụ án Sư Viên Viên sảy thai rốt cuộc bị làm lơ mà trôi vào dĩ vãng, chắc hẳn hắn biết ai là người đã ngầm ra tay, nhưng hắn đã thỏa hiệp mất rồi.
Kỳ thực so với hắn ta tốt đẹp hơn được bao nhiêu?
Ta dựa vào đâu mà phê phán hắn?
Vốn dĩ phải giận giữ, nhưng chỉ cảm thấy bi thương. Dưới lớp vỏ phồn hoa nhung lụa này, chẳng qua là một mớ rác rưởi.
Hắn vòng tay ôm lấy vai ta, lay mạnh: “Sao nàng lại như vậy, nàng thất vọng vì trẫm ư? Đây là thái độ thật của nàng với trẫm phải không? Phải không?”
Ta dùng sức vùng ra khỏi vòng tay hắn, eo lưng đập mạnh vào cạnh bàn, nói: “Hoàng thượng, thần thiếp vốn là người như vậy, người không biết sao? Không phải thần thiếp giỏi giả vờ, giỏi mưu kế nên người mới triệu thần thiếp trở về sao? Chúng ta đều là loại người ấy, chẳng đúng sao?”
Ta định cười, cũng muốn khóc, rốt cuộc chỉ cất giọng lạnh tanh.
Hắn cười chua chát: “Không sai, chúng ta đều là loại người ấy!”
Hắn vung tay một cái, mọi đồ vật trên bàn bị hất ra đất, tiếng va đập mạnh vang lên bàng hoàng. Khang Đại Vi ở bên ngoài cất tiếng: “Hoàng thượng, xảy ra chuyện gì vậy?”
Hắn đáp: “Đứng canh ở ngoài, không kẻ nào được vào!”
Khang Đại Vi đành dạ một tiếng, rồi im bặt.
Bộ dạng hung dữ của hắn khiến ta khiếp sợ, bất giác ta đưa tay lên ngực hắn ngăn lại, không cho hắn lại gần. Hiềm nỗi cánh tay y cứ như đúc bằng thép, vòng qua ôm chặt eo lưng buộc ta không thể cựa quậy được. Lại nghe tiếng áo quần bị xé toạc, cảm giác mình bị đặt lên mặt bàn cứng lạnh, mặt ngửa lên trời, trông thấy cánh sen thếp vàng trên trần, cảm nhận từng đợt sóng dữ từ thân dưới truyền lên, trái tim như mảnh gỗ trôi sông chìm xuống đáy nước, càng lúc càng sâu.
Giọng nói của hắn như vọng ra từ một nơi xa thẳm: “Ninh Vũ Nhu, đừng quên thỏa thuận giữa hai ta. Ngày mai trẫm và ngươi lại là hoàng đế và ái phi…”
Hắn ghé tai ta thì thào: “Trẫm khuyên ngươi đừng tự tiện làm gì để thỏa thuận giữa hai ta bị phá vỡ. Nên biết trẫm đã giăng sẵn hố chực chờ ngươi tiếp cận cô ta. Đó không phải một nữ nhân ngốc nghếch, muội muội ngươi dâng sẵn một cơ hội tốt, tội gì cô ta không lợi dụng nó để thử lòng ngươi, xem ngươi tàn nhẫn đến đâu…?”
Ánh sáng vàng của cánh sen trên trần nhà chói lòa đến độ khiến mắt ta nhức nhối, trong phòng tuy ấm sừng sực, nhưng tấm lưng dán xuống mặt bàn chỉ thấy giá buốt tận xương. Hắn nói không sai, nếu ta tiếp cận Ninh Tích Văn, nhất định Hoàng hậu sẽ mượn cớ làm khó dễ.
Ta trầm giọng: “Hoàng thượng, người cũng biết hai ta là một hạng người, nên việc này xin hãy yên tâm…”
Lắng tai nghe tiếng chân hắn càng lúc càng xa, trong phòng khói xanh bảng lảng bay, chẳng còn chút nào cái không khí nồng ấm “giả mà như thật” mấy ngày trước. Trước mắt thế nhân hắn cưng nựng ta, làm ta lạnh lẽo tận xương cốt, sau lưng người hai bên bỗng chẳng còn lời gì để nói. Ta chợt thấy như vậy cũng tốt, hắn chưa từng yêu thương ta, thì khi không có ai cứ nên bóc trần ái ân ảo ảnh kia xuống, để tâm ta khỏi u mê.