-
Chương 9
Khang Đại Vi sớm đã gọi đội nhạc đến, Lan Nhược hiên sân vườn rộng rãi, thêm mười mấy vị nhạc sư cũng thấy chật chội. Ta lui vào trong phòng thay một chiếc áo lụa in hoa màu sắc tươi sáng, đi đôi hài gấm thêu mũi vểnh, không chải lại tóc, chỉ cài thêm trâm hoa màu tím nhạt có sợi tua rua rủ xuống. Khi bước ra, ta thử thăm dò sắc mặt Hạ Hầu Thần, thấy hắn chẳng buồn để ý, lòng thầm thở phào. Lúc đang thay xiêm áo ta đã định sẽ không phục sức quá nổi bật, khiến cho Ninh Tích Văn bị lu mờ, nhưng cũng không quá xuề xòa, khiến Hạ Hầu Thần không vừa mắt rồi hầm hừ mãi không thôi. Có lẽ ăn vận như lúc này là vừa vặn.
Tiếng nhạc vang lên, ban đầu ta có hơi lạc nhịp, nhưng bài hát kia đã thấm vào máu thịt, đến đoạn sau, ta càng hát càng lưu loát: “Chàng như mây trên trời, thiếp như chim trong mây, quấn quýt bên nhau, nắng chiếu mây vờn, lòng chàng như mặt hồ, lòng thiếp tựa dòng nước, gần nhau thương nhau, như hình với bóng, duyên đời hợp tan, tình người bi hoan, nhưng nguyện cùng chàng dài lâu, chớ như quỳnh kia chợt nở chợt tàn…”
Ninh Tích Văn quả thực múa rất đẹp, nào so vai, thu cằm, khum tay, uốn lưng, buông gối, vặn eo, nghiêng hông… các tư thế đẹp nối tiếp liên tục, những động tác ấy khiến thân hình thiếu nữ được phô bày, lại thêm chiếc áo dưới ánh trăng phát ra ánh sáng kỳ ảo, thực là tuyệt diệu, trong lúc hát ta vô tình liếc sang, lập tức bị dáng người yểu điệu ấy thu hút.
Đến đoạn cao trào, Tích Văn vừa múa vừa đi quanh Hạ Hầu Thần, khẽ vẩy tà áo, ánh mắt long lanh, thổ lộ tất cả những tình ý ẩn bên trong điệu múa. Hát đến lời thứ hai và thứ tư, nó ngả người sang trái, khẽ tung tay áo chạm gót chân, cả thân hình tạo thành thế “tên rời cung”, đương lúc nghiêng sang trái, đột nhiên chuyển trọng tâm sang bên phải, tới khi vòng cung tạo bởi tay áo đã trĩu hẳn sang phải, cơ thể nó lại trở về bên trái, ống tay áo vắt ngang, tạo thành thế “ngả sang phải”, thân mình lẫn hai ống áo uyển chuyển uốn cong. Cứ như thế lặp đi lặp lại, tựa nước chảy mây trôi, như ngựa trời lướt gió, hơn nữa tất cả động tác phức tạp đó chỉ trong một câu hát “nhưng nguyện cùng chàng dài lâu” là hoàn tất, tay áo nhẹ lướt giữa những ngón tay Hạ Hầu Thần, hắn bật cười tóm lấy.
Ta sốt ruột nhìn sang Tích Văn, chỉ mong Hạ Hầu Thần kéo con bé vào lòng, vậy tối nay coi như thành công mỹ mãn, ai ngờ hắn đứng bật dậy, mặc cho dải lụa vuột khỏi, vỗ tay cười nói: “Múa đẹp lắm, hát cũng khá lắm, xứng đáng là hai đóa hoa tuyệt sắc thiên hạ.”
Gương mặt Ninh Tích Văn không giấu được vẻ thất vọng, mình hoa khẽ run, quay sang liếc ta một cái, khóe mắt long lanh như sắp trào lệ. Ta dùng ánh mắt ra hiệu cho nó chủ động tiến tới, ai ngờ nó lắc đầu, đứng chôn chân tại chỗ, chỉ hơi nhún eo hành lễ mà rằng: “Đa tạ lời khen của Hoàng thượng.”
Ta bất đắc dĩ cùng tiến tới tạ ân, Hạ Hầu Thần đắc ý gật đầu, ngẩng mặt ngắm trăng, Khang Đại Vi biết ý chạy tới thưa: “Hoàng thượng, đêm nay nghỉ tại Lan Nhược hiên chứ ạ?”
Nghe thấy vậy, cả người ta lập tức cứng đờ, không thể cười tiếp được, chẳng biết làm thế nào, hồi hộp chờ Hạ Hầu Thần ra ý thị.
Hắn ngoảnh lại nhìn ta, nói: “Cũng được.”
Khang Đại Vi vội sai người chuẩn bị nước tắm, lại cắt cử kẻ hầu Hoàng thượng thay y phục. Ninh Tích Văn lẳng lặng xin lui về phòng riêng, dáng vẻ ủ ê.
Ta nhoẻn một nụ cười tươi như hoa đào mùa xuân, bước lên dựa bên thánh thể cùng nhau vào phòng.
Đúng lúc ấy, có tên thái giám từ ngoài vườn lớn tiếng hô: “Hoàng thượng, Sư nương nương đột nhiên bị đau bụng, sai nô tài đến bẩm báo với Hoàng thượng, mời người tới Túy Hà các gấp.”
Sư Viên Viên lần đầu mang thai, tính đến nay chưa được ba tháng, thai nhi còn chưa ổn định, nhưng cô ta đau bụng lúc này quả có hơi đúng lúc. Ta khẽ thở ra một hơi, nhíu mày, cất giọng khẩn khoản: “Hoàng thượng, đây là Hoàng tử đầu tiên của người, không thể để xảy ra sơ suất gì được, còn chỗ thần thiếp lúc nào người đến cũng không có gì khác biệt…”
“Ngươi chỉ mong ta đi cho chóng chứ gì?”
Không gian như có một luồng khí lạnh lan tới, ta nhất thời cứng họng, đành miễn cưỡng đối đáp cho qua: “Sao có thể như vậy, Hoàng thượng muốn ở lại, là chuyện thần thiếp cầu còn chẳng được.”
Hắn lạnh lùng quay sang, bất chợt đưa tay nâng cằm ta lên, bàn tay bóp mạnh, khiến phần da thịt nơi gò má đập mạnh vào răng hàm bên trong, đau đến nỗi thở không ra hơi. Hắn cúi xuống, hai con ngươi sắc như lưỡi dao: “Ninh Vũ Nhu, trẫm ghét nhất là vẻ mặt giả tạo cùng cực này, ngươi đừng tưởng trẫm đui mù, không biết tối nay ngươi mưu đồ gì!”
Nói xong, hắn thuận thế đẩy mạnh, ta lảo đảo thối lui vài bước, quên cả cái đau, cứ nhìn theo mãi cái dáng nghênh ngang của hắn giữa một rừng Nội Thị Giám cho tới khi khuất hẳn.
Điều khiến ta kinh ngạc là, Sư Viên Viên đang mang thai đứa con đầu tiên của hắn, nhưng xem lời nói dáng điệu, có vẻ hắn chẳng mấy quan tâm, nghe tin Sư Viên Viên động thai mà vẫn còn tâm trí so đo với ta. Hắn không lo lắng, điều này là vì cớ gì?
Về đến phòng, ta ngồi xuống trước gương, nhìn rõ dấu vết trên má, vết ấy đỏ như vệt son quệt vội, lại như đôi má thiếu nữ tơ tưởng tình lang. Ta không nén được cười nhạt hết lần này tới lần khác. Ai mà biết ấy là gốc tích của hờn giận oán ghét?
“Tỷ tỷ…”
Ninh Tích Văn đứng bên cửa, do dự không dám bước vào, nghe giọng điệu có chút cảm thông. Chẳng lẽ nó tưởng Hoàng thượng bỏ đi, lòng ta sẽ buồn rầu?
“Vào đây đi, sao giờ này còn chưa ngủ?” Ta lấy chiếc lược trên bàn chải được hai cái, Ninh Tích Văn đã xông vào giành lấy, muốn chải hộ.
“Tỷ tỷ, có phải hôm nay tỷ thất vọng về muội lắm không?”
Ta liếc vào gương, thấy sắc mặt Ninh Tích Văn trong ấy đượm vẽ ủ rũ, bèn cất giọng than một tiếng: “Thành sự tại thiên, chúng ta đã làm tất cả những gì có thể rồi. Sự tình đến nước này, ta trách muội có ích gì?”
Ninh Tích Văn khẽ khàng rũ nhẹ mái tóc ta, nói: “Tỷ, xin đừng trách muội muội lắm lời, kỳ thực tỷ đâu cần hao tâm tốn sức bày mưu tính kế, muội thấy Hoàng thượng có lòng với tỷ đó…”
Nó sao biết chân tướng sự việc? Loại người như Hạ Hầu Thần, đâu có thể dung thứ cho kẻ từng phản bội mình? Ta lắc đầu đáp: “Muội muội,chuyện giữa ta và Hoàng thượng chẳng cách nào cứu vãn được nữa, thời làm Thượng Cung ta từng làm việc có lỗi với người…”
Chẳng hiểu vì sao, đêm nay ta lại muốn dốc cạn ưu sầu. Sau khi nghe cặn kẽ đầu đuôi mọi sự, Ninh Tích Văn mới hiểu, vì sao ta xiết bao mong muốn nó nhập cung. Thân phận ta bề ngoài tôn quý hào hoa, nhưng thực chất chỉ cần khẽ lay là đổ sập.
Ta vốn chẳng thể được sủng ái như các phi tần khác, địa vị hiện nay, hoàn toàn là nhờ mưu lược toan tính mà có.
Vậy mà nghe xong, Ninh Tích Văn lại hớn hở trầm trồ: “Tỷ tỷ, muội biết mà, từ nhỏ muội đã không bằng tỷ, trong tình huống hung hiểm thế này mà tỷ vẫn đứng vững được trong cung. Tỷ tỷ, có một chuyện, muội không biết có nên nói với tỷ không…”
Ta ngoảnh lại nhìn, thấy ánh mắt nó lóe lên tia sáng lạ lùng. Ta quá hiểu ánh mắt này. Ở Thượng Cung cục, những cung nhân khi vừa nghĩ ra thiết kế mới, ban đầu muốn giấu diếm chờ dịp tâng công trước mặt thượng cấp, vẻ mặt sẽ trở nên như vậy. Ta chợt hiểu ra nó có điều giấu mình, mà điều này lại vô cùng quan trọng.
Phát hiện này không làm ta quá kinh ngạc, âu cũng là lẽ thường của con người. Ta lãnh đạm đáp: “Muội muội, nhà họ Ninh giờ đây chỉ còn hai ta, tỷ muội mình phải biết dựa vào nhau mà sống, còn có lời nào không thể nói được?”
Tích Văn lúc này mới ấp úng: “Tỷ tỷ còn nhớ trước khi phụ thân bị tội, trong nhà từng thu nhận một vị thiếu niên gặp nạn không?”
Ta nhíu mày đáp: “Chuyện này sao ta lại không nhớ? Chẳng phải đại nương và phụ thân đã bàn bạc rồi sao? Sau này từ miệng kẻ dưới ta mới biết, nhưng chưa được gặp mặt người ấy bao giờ.”
Biểu cảm trên gương mặt Ninh Tích Văn trở nên kỳ lạ, nó nhìn trái nhìn phải, hạ giọng: “Tỷ tỷ, muội thì gặp rồi đó. Năm đó muội mới mười tuổi, nghe cha và mẹ ở trong phòng nói gì mà tuyệt đối không được để bất cứ ai nghe thấy, bèn lén chạy đến vườn nho bị khóa kín, tuy chỉ đứng từ xa nhìn lại nhưng…”
Ta chợt sững người, quay phắt lại, một lọn tóc đang vướng vào lược căng ra khiến da đầu đau buốt, ta hỏi ngay: “Ý muội là?”
Ninh Tích Văn khẽ đáp: “Tỷ tỷ, kỳ thực ngay lần đầu nhìn thấy người, muội đã ngờ ngợ, cho nên lúc nãy khi ở Ngự Hoa viên mới sợ hãi đến vậy. Tỷ tỷ, tỷ nói xem cái chết của phụ thân, rốt cuộc là vì nguyên cớ gì?”
Chợt nghĩ lại cái hôm trốn dưới gầm giường thiền phòng của Thái hậu, Hạ hầu Thần từng nói năm mười lăm tuổi, khi xuất cung hắn bỗng dưng gặp chuyện hung hiểm, may có người ra tay tương cứu mới thoát thân. Tính ra năm ấy chẳng đúng thời gian phụ thân bị giáng tội đó sao?
Ta còn nhớ rõ tội danh của phụ thân và người hạ lệnh hành quyết chính là Thái tử, đó cũng chính là lần đầu tiên hắn tham chính. Nếu sự thật đúng như vậy, thì Hạ Hầu Thần quả là lòng lang dạ sói.
Tích Văn thấy sắc mặt ta u ám, bèn nói nhỏ: “Tỷ tỷ, biết đâu bên trong còn có uẩn khúc?”
Ta lạnh lùng đáp: “Cho dù chân tướng ra sao, thì chuyện hắn đích thân hạ lệnh xử trảm là có thật, tuy nói việc triều chính vốn dĩ là như thế, thắng làm vua thua làm giặc, nhưng việc sờ sờ ra đấy bảo ta làm sao gần gũi với hắn được.”
Ninh Tích Văn khẽ thở dài: “Tỷ tỷ, muội biết tỷ là người cứng cỏi, nhưng là Hoàng thượng, chắc chắn có nhiểu chỗ bất đắc dĩ. Nếu tỷ chịu hạ mình một chút, nói mấy câu ngon ngọt, muội thấy Hoàng thượng nhất định sẽ để mắt đến tỷ.”
Những việc ta làm còn chưa đủ hạ mình ư? Ta lãnh đạm nghĩ thầm.
Lại lần nữa trống canh vang lên, vọng khắp nẻo cấm cung, đêm đã vào canh tư. Từ cửa sổ nhìn ra, màn sương phủ ngập cả khu đình viện, đến bóng dáng cây hoa quế cũng trở nên nhạt nhòa mơ hồ. Ta không đáp lời Tích Văn, chỉ nói: “Muội muội, đêm đã khuya rồi, về ngủ thôi.”
Tích Văn đặt cây lược ngà xuống bên cạnh giương, bỗng cất giọng thở than: “Nỗi lòng của tỷ ngày nào chưa giải, thì cho dù tỷ có đóng kịch giỏi nhường nào, người có lòng đều có thể nhìn ra, cảm thấy cả.”
Ta chợt sững người, nhìn vào trong gương, trong ấy một nữ nhi kiều diễm đang nhìn ra ngây dại. Mười mấy năm tôi luyện chốn cung đình, chẳng lẽ vẫn chưa đủ để che giấu tâm tư? Không, ta không tin. Nhờ vào gương mặt biết làm hài lòng kẻ khác này, ta mới leo lên được chức Thượng Cung, mới có thể biến nguy thành an giữa lúc tình thế hiểm nghèo. Ta không tin có người chỉ nhìn vào gương mặt, mà hiểu thấu được những suy nghĩ tận sâu bên trong ta!
Nhưng, tại sao Hạ Hầu Thần hết lần này tới lần khác có thể dễ dàng xé bỏ lớp ngụy trang tinh xảo của ta, nhìn thấu từng bước đi của ta, đọc được mọi suy tư trong lòng ta, biết được ý nghĩ tận nơi sâu kín nhất trong tim ta?
Chẳng lẽ đúng như Ninh Tích Văn nói, hắn lại chính là “người có lòng” với ta?
Suy nghĩ này vừa mới thoáng qua, ta bèn lập tức gạt đi, kinh nghiệm sau nhiều cuộc bể dâu thăng trầm cho ta biết, không được phép kỳ vọng ở con người ấy dù chỉ một chút.
Vậy mà không rõ vì sao, đêm nay ta không tài nào chợp mắt. Chiếc đèn lồng treo ngoài hành lang mờ mịt giữa làn khói sương, ánh sáng của nó từ từ nhạt nhòa, mấy song cửa sổ dần bạc đi, mọi sự vật như phá tung giới hạn của chính nó, hòa vào màn sương mông lung. Đầu óc ta tinh thông, nhưng muốn ngủ mà không được.
Trời vừa hưng hửng sáng, ta đã rời phòng, ra đứng dưới gốc cây hoa quế, ngẫm ngợi trầm ngâm, nhưng tư duy cứ như bị tắc lại một điểm, câu chuyện đêm qua hỗn độn lạ lùng.
Rửa mặt chải đầu xong, liền có cung nữ do Hoàng hậu phái đến mời. Ta hiểu ngay Hoàng hậu đã biết tình hình đêm trước, có lẽ gọi ta sang an ủi…, mà không, nên nói rằng, ta được gọi đến để cùng chia sẻ nỗi giận thì đúng hơn.
Sư Viên Viên làm như vậy không phải lần đầu. Lần này là ở Lan Nhược hiên, nhưng nghe nói ngay cả khi Hoàng thượng đến chỗ Hoàng hậu, ả cũng dám chặn ngang nửa đường.
Cũng không thể trách cô ta, từ khi hoài thai, liền một lúc cô ta được thăng ba cấp, giờ đã trở thành một trong bốn vị đại phi, phẩm hiệu Quý phi, thân quyến bên họ ngoại nhờ thế càng thăng quan tiến chức, được coi là gia tộc kế tục nhà Thượng Quan, trrong triều danh vọng chỉ thua nhà họ Thời mà thôi.
Khi đáp kiệu xuống cung Chiêu Thuần, ta gặp Hoàng hậu đang ngồi một mình dưới gốc cây phù dung, mình tựa ghế thêu, lọng sa giong sẵn, ngăn lá úa và phấn hoa bay vào. Vài ba bông phù dung từ trên cây rụng xuống, lướt khẽ trên nóc lọng, đậu xuống vạt phượng, nhưng Hoàng hậu như không hay biết, xem ra hôm nay tâm tình có phần rối ren.
Tiếp xúc đã lâu, nhìn lời nói cử chỉ đối với Thiên tử, ta dần nhận ra lòng Hoàng hậu thật sự mang mối thâm tình, chẳng thế mà giờ này ngẩn ngơ ưu sầu. Nhiều khi ta nghĩ, Hoàng hậu coi là đồng minh, ngoài công lao lần trước, phần nhiều biết đâu là vì ta không thể được Hạ Hầu Thần sủng ái? Dù Hoàng hậu năm lần bảy lượt ngầm khuyên Hạ Hầu Thần thường xuyên lui tới chỗ ta, nhưng hành động đó có bao nhiêu phần là thật lòng? Nếu Hạ Hầu Thần thật sự để mắt đến ta, nàng ta có còn nhiệt tâm như lúc này hay không?
Xem thường ngày khi cùng Hạ Hầu Thần trò chuyện, đầu mày cuối mắt nàng ta chẳng lúc nào thôi tình tứ. Hai tiếng “biểu ca” kia, gói ghém biết bao nhiêu là nỗi niềm tương tư nhi nữ?
Hôm nay ta chỉ trang điểm nhẹ, lớp phấn mỏng sao che nổi vẻ mệt mỏi của một đêm thức trắng. Xiêm áo tuy chỉn chu chẳng khác gì thường ngày, nhưng màu sắc không được tươi, khiến cả con người càng thêm phần tiều tụy, tự mình trông cũng thấy võ vàng tấm thân. Hoàng hậu nghe báo, bèn quay lại nhìn, dĩ nhiên nhận ra ngay, khóe miệng nhoẻn nụ cười thương cảm, thoắt cái lại tươi tắn như thường: “Hôm nay Hoàng thượng vừa sai người mang đến một ít nho của Tây Vực triều cống, ta nghĩ muội muội dù vào cung đã lâu nhưng chắc chưa được nếm bao giờ, nhân lúc còn tươi hãy thử xem sao?”
Ta cười lễ độ đáp: “Đây là tặng phẩm của Hoàng thượng, muội phận hèn đâu dám sỗ sàng?”
Hôm nay Hoàng hậu ăn mặc giản dị, đầu chải kiểu Thiên Văn, trước búi tóc chỉ cài duy nhất một cành trâm hồ điệp bằng ngọc xanh, kiểu dáng tự nhiên, có lẽ để tiện nằm nghỉ dưới bóng cây, nhưng cơ hồ cả con người toát lên vẻ thanh thoát e lệ vô song. Hoàng hậu vốn đã được trời ban gương mặt đoan trang mỹ miều, tuy không kiều diễm kinh động lòng người như Sư Viên Viên, nhưng rất sang trọng cao quý. Theo ta thấy, dung mạo Thời Thượng Cần là thích hợp nhất với ngôi vị Hoàng hậu.
Thậm chí không cần phục sức quá công phu, tự nhiên đã toát lên vẻ cao sang quý tộc. Nghĩ tới đây, chợt nhớ Ninh Tích Văn đêm trước từng bảo ta như con hát, có lẽ diễn thế nào, bôi son trát phấn ra sao, cũng không tạo ra được khí độ quyền uy của một Hoàng hậu. Vì thế ta chưa bao giờ dám mơ đến cái ngôi vị của người đối diện, phải có gia thế hiển hách, trong gia tộc lại có vô số người chống lưng, mới đủ khả năng ngồi lên ngai Hoàng hậu, đã ngồi lên, tất phải ngồi cho vững. Hạ Hầu Thần không cần một Hoàng hậu không thể trợ lực cho mình, mà sức mạnh đó thường đến từ phía nhà ngoại Hoàng hậu.
Nếu phụ thân ta còn sống, nhà họ Ninh vẫn còn tồn tại trên thế gian này, có lẽ ta sẽ cho phép mình được tơ tưởng một chút. Nhưng dù thế nào, vọng tưởng chỉ là vọng tưởng mà thôi.
Chùm nho tím Tây Vực được bày vào đĩa bạch ngọc, trên lớp vỏ tím ngắt còn đọng một lớp sương trắng mờ, có thể thấy đường triều cống dài cả vạn dặm, phải dùng đá lạnh ướp để khi đến nơi vẫn giữ được độ tươi ngon. Nghe Khổng Văn Trân nói, chỗ nho triều cống lần này tổng cộng không quá mười mấy cân, trừ dâng lên cung Hoàng hậu, chỗ còn lại mang đến Túy Hà các không ít. Do Sư Viên Viên mới mang thai, thích ăn đồ chua, nên mới dâng nhiều hơn một chút. Còn những phi tần cấp thấp như ta, đến vỏ nho còn chẳng rõ trông như thế nào. Có thể thấy vì được Hoàng thượng sủng ái, nên địa vị Sư Viên Viên so với Hoàng hậu cũng như kẻ tám lạng người nửa cân.
Chẳng trách Hoàng hậu ăn nho mà sắc mặt không được vui, ta hiểu rõ nàng ta đang nghĩ gì, chỉ là hơi bất ngờ người như thế lại có ngày trở nên thế này. Trong mắt cả hậu cung này, Hoàng hậu là người hiền từ đoan trang, dĩ nhiên sẽ không làm những việc trái đạo lý. Hôm nay ta muốn xem xem, nàng ta rốt cuộc nhân từ đến mức nào?
“Muội muội, loại nho này là của hiếm, chắc bên muội không có được, đợi lát nữa ta sẽ cho người gói vài chùm mang sang.”
“Hoàng hậu nương nương, thần thiếp ăn những thứ thô tục đã quen miệng, thứ này quý hiếm như vậy, xin nương nương cứ giữ lại, thần thiếp nếm một chút là được rồi.”
Ngón tay Hoàng hậu khẽ gẩy một cái hạt nho ra, cái màu tím khói ấy trông phảng phất như viên ngọc quý nàng đeo trên đầu, ngón tay cũng bị dây thứ nước màu tím nhạt, quả nho in vào hai con ngươi, khiến cho đôi mắt cứ như đang chuyển sang màu tím, càng thêm buồn bã.
Tuy trong câu chuyện không hề nhắc đến Sư Viên Viên, nhưng ta biết, hôm nay Hoàng hậu gọi ta đến đây chính là vì Sư Viên Viên chứ không ai khác. Hoàng hậu muốn ta tự mở lời. Ta cười nhạt trong bụng, quả là Hoàng hậu nhân từ, chẳng muốn làm bẩn hình tượng của mình, dù chỉ là vết nhơ nhỏ bé nhất.
Ta chậm rãi đưa quả nho vào miệng, nhâm nhi thật kỹ, vị ngọt ngọt chua chua nhẹ nhàng thấm xuống dạ dày. Ta hành sự có một tật xấu nho nhỏ, Hoàng hậu nếu đã muốn cậy nhờ, thì không thể nào rũ sạch trách nhiệm liên đới được. Đây cũng là cách để ta bảo vệ chính mình, không để ai xem mình như con tốt, khi gặp rắc rối phủi tay một cái là xong xuôi.
Nàng ta chờ mãi không được, đành lên tiếng hỏi: “Ninh muội muội, đêm qua Hoàng thượng đến chỗ muội phải không?”
Sắc mặt ta trở nê ủ rũ, lại đưa một quả nho lên miệng, trầm ngâm hồi lâu: “Tiếc là sau đấy người lại đi.”
Hoàng hậu tỏ vẻ tiếc nuối: “Ninh muội muội, chẳng mấy khi Hoàng thượng đến chỗ muội, vậy mà lại bị…”
Ta khẽ đáp: “Thần thiếp vốn dĩ chẳng sao, có điều đêm qua thần thiếp định tiến cử muội muội, rõ ràng lúc ấy Hoàng thượng đã động lòng, tiếc là…”
Hoàng hậu rốt cuộc không nhịn được nữa, quả nho trong tay chuẩn bị đưa lên miệng trong chốc lát bị bóp nát, thứ nước màu tím tứa ra cả bàn tay. Ta vội cầm cái khăn đặt sẵn trên bàn đưa sang. Có lẽ tự nàng ta cảm thấy làm vậy có phần bẽ mặt, liền chẳng buồn che giấu thêm: “Muội muội, lúc này nên làm thế nào?”
Ta hiểu rõ tâm trạng hoảng hốt lúng túng của Hoàng hậu. Nhà họ Sư sắp sửa ngồi ngang hàng với nhà họ Thời, Sư Viên Viên lại có khả năng sinh hoàng tử trước Hoàng hậu, nếu đứa bé là con trai, sẽ là trưởng tử đích tông, gần như chắc chắn được lập làm thái tử. Nếu vậy, vị Hoàng hậu như nàng ta từ nay đi lại làm việc trong hậu cung sẽ trở ngại rất nhiều.
Nếu muốn ta ra tay, dù ít dù nhiều Thời Phượng Cần cũng phải nhúng tay vào, ta quyết không để phiền phức cho một mình mình chịu, lôi nàng ta vào cuộc chính là cách tốt nhất để bảo vệ bản thân.
Sống trong cung đã quá lâu, ta sớm chẳng còn tin tưởng ai cả, cách bảo vệ bản thân chính là khiến cho kẻ khác không thể không bảo vệ mình.
Ta bật cười khe khẽ, đón lấy cái khăn trong tay Hoàng hậu, để lại chỗ cũ: “Hoàng hậu nương nương muốn thế nào, thần thiếp sẽ tự có cách khiến người được như ý, thần thiếp không bao giờ quên hai ta là tỷ muội tốt ngồi ăn cơm cùng bàn.”
Hoàng hậu hơi an lòng, nắm lấy tay ta nói: “Muội muội, nếu trong cung không có muội giúp đỡ, kẻ làm Hoàng hậu như ta chẳng biết cáng đáng ngai vị này nổi mấy ngày.”
Lòng ta cười nhạt, cô chẳng có bản lĩnh gì, nhưng có gia đình làm hậu thuẫn, họ nhà cô trấn giữ cả triều cang, Hạ Hầu Thần có thế nào cũng chẳng dám phế cô, trừ khi một ngày, nhà họ Thời thực sự bị một gia tộc khác lật đổ.
Chuyện tuy hoang đường, nhưng nhìn những dấu hiệu gần đây, ngày ấy biết đâu lại sắp đến.
Xem ra sau khi quyền lực của tân đế trong triều dần vững chắc, mối thâm tình quyến luyến của Hạ Hầu Thần dành cho Hoàng hậu cũng từ từ chuyển sang cho Sư Viên Viên. Dường như Hoàng đế muốn bồi dưỡng một thế lực có thể đối chọi với Thời gia, có lẽ từ chuyện Thượng Quan Thái hậu, hắn đã rút ra một bài học lớn: Tuyệt không được để cho nhà ngoại chiếm lấy vị trí độc tôn!
Phận ta chỉ cần tìm con đường sống cho mình từ một kẽ hở nhỏ nhoi trong cuộc giao tranh ác liệt kia. Sư Viên Viên giờ đây đắc sủng, nhưng xét quan hệ thân sơ, ta không thể bỏ Hoàng hậu mà chạy sang lấy lòng cô ta được, nên chỉ còn cách nương tựa phe Hoàng hậu.
Ta mỉm cười chân thành nói: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp nhận không ít ân điển của người, sao dám không tận lực phò tá?”
Đúng lúc ấy, có một cung nhân chạy vào bẩm: “Thưa Hoàng hậu nương nương, có Nguyệt Dung Hoa nương nương cầu kiến.”
Gương mặt vốn đang thân thiện của Hoàng hậu lộ ra vài phần chán ghét, lãnh đạm nói: “Cứ nói lại rằng ta nghỉ rồi, bảo cô ta không cần thỉnh an nữa.”
Đầu ta lóe lên một ý, ngăn cung nhân kia lại, bảo: “Hoàng hậu nương nương, Nguyệt Dung Hoa tuy như liễu đầu tường, gió chiều nào ngả chiều ấy, nhưng chúng ta đừng nên tỏ thái độ hỉ nộ quá rõ.”
Hoàng hậu liếc ta một cái, tuy có vẻ hoài nghi nhưng vẫn nói: “Cho Nguyệt Dung Hoa vào đây.”
Nguyệt Dung Hoa vốn dĩ về phe Hoàng hậu, nhưng ngày rộng tháng dài, cảm thấy chẳng được lợi ích gì, lại trông Sư Viên Viên càng lúc càng đắc sủng, bèn thường xuyên lui tới Túy Hà các, Hoàng hậu sớm đã chẳng muốn thấy cô ả nữa. Nghĩ lại Nguyệt Dung Hoa cũng thật đáng thương, xưa kia làm trợ thủ cho Hoàng hậu chẳng lập nên công trạng gì, từ khi ta đến, Hoàng hậu không thèm coi cô ta vào đâu nữa, mới khiến cô ả quyết tâm chuyển hướng sang Sư Viên Viên. Không rõ hôm nay lại đến đây vì việc gì?
Đang lúc hàn huyên, Nguyệt Dung Hoa đủng đỉnh từ cửa cung bước ra vườn, mình mặc áo dài thêu hoa tử đinh hương màu nhạt, trên đầu gài vòng hoa cẩn vàng, tai đính Bích Nguyệt minh châu, nhan sắc tuy không sánh kịp Sư Viên Viên, nhưng cười lên, hai bên má hiện rõ đôi lúm đồng tiền, trông tinh nghịch đáng yêu vô cùng. Nghe nói khi mới nhập cung, cô ta cũng từng được Hoàng thượng đoái thương vài lần, sau này người mới vào không ngớt, Hạ Hầu Thần lóa cả mắt, lẽ dĩ nhiên dần lãng quên hai má lúm duyên dáng ấy, từ đó cô ta cứ mãi dậm chân tại chỗ ở phẩm cấp Dung Hoa.
Nguyệt Dung Hoa thấy ta ở đó, hơi sững ra một lát, lại lập tức tươi cười thân thiết, sải bước đến hành lễ Hoàng hậu, rồi hành lễ với ta, cười nói: “Hóa ra Ninh tỷ tỷ cũng ở đây, gần đây quê nhà gửi tới một ít đặc sản, thần thiếp định mang một phần đến biếu Hoàng hậu nương nương, nếu biết tỷ tỷ cũng ở đây, thần thiếp đã gói thêm một phần.
Cô ta dâng đồ lên, hóa ra là nấm đầu khỉ đặc sản ở Nam Việt, nấm này sinh sôi nơi thâm sơn cùng cốc, hái được không phải chuyện dễ, do đó mỗi năm từ Nam Việt đưa đến kinh thành không nhiều, Ty Thiện Phòng từ lâu đã không có nguồn cung thứ này, thành ra đây được coi là mỹ vị hiếm có trong cung.
Ánh mắt ta lộ vẻ ngưỡng mộ: “Nguyệt muội muội thật là có lòng, ngày nhỏ thiếp từng được nếm thử nấm này, có điều từ khi gia thế lụn bại không còn được ăn lại nữa.”
Nguyệt Dung Hoa vội nói: “Nếu Ninh tỷ tỷ thích, để muội chuẩn bị một phần đem sang Lan Nhược hiên nhé?”
Ta bèn đa tạ ngay: “Vậy phiền Nguyệt muội muội.”
Hoàng hậu đứng bên cạnh cười nói: “Thì ra hôm nay muội đến để vòi quà đó à, vừa mới xin ta cái ghế gỗ tùng của tỉnh Chiết Giang triều cống, giờ lại xin nấm đầu khỉ của Nguyệt Dung Hoa, dạo này Ninh muội muội túng thiếu quá chăng?”
Nguyệt Dung Hoa nghe xong, bèn che miệng cưởi. Ta lúng túng đáp: “Hoàng hậu nương nương, xưa kia thần thiếp còn làm nô tỳ ở Thượng Cung cục, hết ngày này qua ngày khác phải chế tác đồ đạc trang sức, lỡ nhiễm phải bệnh phong thấp, mỗi lần chớm đông là đầu gối đau nhức không thể chịu được, nghe nói chiếc ghế này của người dùng gỗ tử đàn thuợng hạng chế tạo nên, lạ lùng nhất là phần tựa chân được khoét rỗng, bên trong có thể để than hồng, ngồi lên sẽ giảm chứng đau chân. Hoàng hậu thân mình vàng ngọc, dĩ nhiên chẳng thể mắc mấy căn bệnh này, người vốn tính tình hiền từ, rộng rãi, thần thiếp sợ người thưởng ghế cho người dưới mất, nên đành mặt dày chạy tới xin xỏ.”
Nguyệt Dung Hoa tỏ vẻ quan tâm bảo: “Ninh tỷ tỷ hãy cẩn thận, bệnh phong thấp tuy không trầm trọng nhưng cũng phiền phức ghê lắm, nay tỷ đã được Hoàng hậu nương nương thưởng ghế quý, mùa đông này có thể an nhàn dễ chịu hơn rồi.”
Ta gật đầu, lại cảm tạ Nguyệt Dung Hoa lần nữa: “Nghe nói nấm đầu khỉ sẽ giúp lưu thông khí huyết, ta trước đây từng yêu cầu Ty Thiện Phòng làm món này, nhưng Ty Thiện Phòng từ lâu đã mất nguồn cung. Hôm nay được muội muội tặng cho, thực như nắng hạn gặp mưa rào.”
Nguyệt Dung Hoa nghe xong, cười rạng rỡ đáp: “Tỷ tỷ mệnh tốt, vừa đúng lúc…”
Chuyện phiếm thêm một lát, Nguyệt Dung Hoa liền đứng lên cáo từ.
Hoàng hậu đợi cô ta đi khuất, bèn mở chiếc hộp biếu đựng nấm ra, sai người san cho ta một nửa, ta tỏ vẻ không thể chối từ, đứng lên tạ ân rồi nhận lấy.
Hoàng hậu cất tiếng hỏi, giọng có đôi phần âu lo: “Bọn chúng sẽ hành động theo kế hoạch chứ?”
Ta cười cười đáp: “Có vô số cơ hội khiến chúng phải tự động nghe theo, lần này không thành, sẽ có lần sau.”
Ta còn chưa nói một điều, ấy là trong cung cấm, muốn đoạt đi sinh mạng của một bào thai chưa ra đời là chuyện quá đơn giản. Trong cung không như ngoài dân gian, công cụ rất nhiều, những thứ thấy được hoặc ngầm cất giấu lại càng vô số, chẳng ai biết rằng sau phú quý nhung lụa kia là gì.
Ta làm việc trong Thượng Cung cục nhiều năm, mới chỉ được ngó trộm liếc qua vài thứ, nhưng đã đủ rồi.
Vài ngày sau, gió lạnh ùa về, trong Lan Nhược hiên tuy có đốt lò sưởi, nhưng nằm trên giường, đầu gối ta vẫn cảm thấy từng cơn lạnh thâm nhập vào xương tủy. Chiếc ghế dựa tử đàn xin từ chỗ Hoàng hậu vẫn chưa mang sang. Tố Khiết đến ty khố hỏi han vài lần, nhưng quản sự ở đó chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nguyệt Dung Hoa ngược lại thực sự sai người đem biếu nấm đầu khỉ đến, ta bảo Tố Khiết nhờ người của Ty Thiện Phòng nấu giúp, mùi vị quả thực tươi ngon vô cùng.
Một ngày nữa trôi qua, ta không tài nào chờ thêm được, đang định đích thân đến cung Chiêu Thuần một chuyến, thì Hoàng hậu sai người sang tạ lỗi, nói thời tiết gần đây khắc nghiệt, có kẻ đang mang thai sợ không chịu nổi lạnh lẽo, nên Hoàng thượng sai người mang cái ghế ấy đi thưởng cho Sư Quý phi mất rồi. Tố Khiết nghe thấy thế, hậm hực mà rằng: “Rõ ràng nương nương xin trước, mà lại bị người ta cướp đi, trên đời sao lại có cái lẽ ấy.”
Ta chỉ biết cười khổ, bảo Tố Khiết mang mấy cái túi nước đem chườm vào đầu gối, khuyên: “Hoàng thượng đã mở miệng, còn ai dám cưỡng lại?”
Đêm ấy nhiệt độ giảm mạnh, tuy đã thêm túi chườm, ta vẫn đau nhức không thể nào an giấc. Thời còn ở Thượng Cung cục, cả ngày bận bịu, vận động nhiều, thời tiết có chuyển lạnh cũng không đến nỗi khốn khổ, nhưng từ khi được làm chủ nhân, cả ngày chỉ ngồi một chỗ, khiến bệnh càng phát tác dữ dội.
Suốt mấy ngày nay hầu như chẳng được ngon giấc, ta đành cho vời ngự y đến, nhờ làm giúp vài miếng cao đắp ngoài, khổ nỗi căn bệnh này tích tụ ngần ấy năm không chữa, nhất thời làm sao khỏi ngay được?
Chỗ cao thuốc kia chỉ làm giảm đau nhức đi một chút mà thôi.
Những ngày u ám lạnh lẽo cuối cùng đã qua, bầu trời dần trở lại trong sáng, lại nhờ ngự y tận tâm chữa trị, bệnh của ta có phần đỡ đi đôi chút.
Ta thì sống dở chết dở ở Lan Nhược hiên, nhưng nghe nói Túy Hà các đêm nào cũng có đàn ca sáo nhị không dứt. Trời đột nhiên trở lạnh, cái bụng của Sư Viên Viên nay thế này mai thế khác, Hạ Hầu Thần đêm đêm phải túc trực lại Túy Hà các, chiếc ghế tựa bằng gỗ tử đàn kia vốn dĩ rộng rãi, nghe đám cung nhân trong Túy Hà các thi thoảng rỉ tai nhau, rằng Hoàng thượng và Quý phi nương nương đôi khi nằm trên ghế cùng nhau thưởng ca vũ, vui vẻ hòa thuận, ý xuân mặn nồng.
Ta thầm kinh ngạc, Sư Viên Viên quả thật rất được sủng ái, chưa từng có vị phi tần nào được yêu chiều đến thế, thậm chí ngay như Hoàng hậu khi mới nhập cung, Đế Hậu tình ý sâu đậm nhưng vẫn cứ tương kính như tân, điều trái phép tắc nhất chẳng qua là mấy tiếng gọi “biểu ca”, “biểu muội”.
Qua vài ngày gió lạnh ầm ào, hôm nay trời đất bỗng sáng sủa hẳn, mặt trời ló dạng sau từng mây, chiếu xuống ánh nắng ấm áp ôn hòa, Ta bèn sai người dọn một chiếc ghế, nằm dưới gốc cây hoa quế sưởi nắng. Cơ thể rã rời sau mấy ngày bị cơn đau nhức hành hạ được ánh nắng ấm áp chiếu vào, cơn buồn ngủ bỗng đâu kéo đến, đang lúc nửa tỉnh nửa mê, chợt nghe Tố Khiết từ ngoài hoảng hốt chạy vào báo: “Nương nương, nương nương, lớn chuyện rồi…”
Ta sốt ruột bảo: “Chuyện gì mà đến nỗi hô hoán thất thanh lên như thế?”
Tố Khiết vội hành lễ một cái, mới thưa tiếp: “Nương nương, ở Túy Hà các xảy ra chuyện lớn rồi, Sư Quý phi nương nương bị sảy thai, ngự y đều tập trung cả ở đó, nô tỳ không mời được ai về đây cả…”
Ta ngồi bật dậy: “Ngươi nói sao? Sư Quý phi sảy thai à? Sao lại thế được? Mau chuẩn bị, chúng ta đến Túy Hà các…”
Tố Khiết vội ngăn: “Nương nương, nguyên do khiến Quý phi nương nương sảy thai vẫn chưa được làm rõ, đây là lúc nên tránh mặt nhất, chúng ta chờ một thời gian hẵng đến thăm viếng thì tốt hơn?”
Ta lãnh đạm đáp: “Cây ngay sao sợ chết đứng, hơn nữa, trong cung xảy ra chuyện lớn như vậy, Hoàng hậu thế nào cũng có mặt, nếu ta không đến, chẳng hóa ra có tật giật mình.”
Tố Khiết len lén đưa mắt liếc ta một cái, thấy chủ nhân đã quyết, đành ra chuẩn bị kiệu loan.
Từ xa đã thấy xe kiệu của Hoàng đế Hoàng hậu đỗ trước cửa, xem ra đã đến từ lâu. Điện Túy Hà quả đúng như tên gọi, giữa buổi hoàng hôn, ráng chiều ngũ sắc phản chiếu trên lớp ngói men xanh, đẹp không tả xiết, nhưng hôm nay mái điện trông cứ như giội đầy máu tươi, thê lương đến kinh ngạc.
Ta đến nơi đúng lúc mấy phi tần cấp cao khác lũ lượt kéo đến, ai nấy sắc mặt bi thương hoảng hốt, đứa con đầu tiên của Hoàng thượng đã chết yểu, bọn họ dĩ nhiên phải tỏ ra buồn bã.
Hiện nay Sư Viên Viên đang lúc được sủng ái bậc nhất, án này không tra xét đến trời long đất lở không thôi. Nhưng nếu điều tra rõ ràng, e rằng không ít người trong cung sẽ rơi vào nguy hiểm.
Hoàng hậu và Hoàng thượng sớm đã vào tẩm cung, chỉ nghe từ bên trong vọng ra tiếng than khóc nỉ non, thảng hoặc xen lẫn mấy tiếng kêu la thảm thiết: “Hoàng thượng, người nhất định phải làm chủ cho thần thiếp, Hoàng thượng…”
Tiếng nhạc vang lên, ban đầu ta có hơi lạc nhịp, nhưng bài hát kia đã thấm vào máu thịt, đến đoạn sau, ta càng hát càng lưu loát: “Chàng như mây trên trời, thiếp như chim trong mây, quấn quýt bên nhau, nắng chiếu mây vờn, lòng chàng như mặt hồ, lòng thiếp tựa dòng nước, gần nhau thương nhau, như hình với bóng, duyên đời hợp tan, tình người bi hoan, nhưng nguyện cùng chàng dài lâu, chớ như quỳnh kia chợt nở chợt tàn…”
Ninh Tích Văn quả thực múa rất đẹp, nào so vai, thu cằm, khum tay, uốn lưng, buông gối, vặn eo, nghiêng hông… các tư thế đẹp nối tiếp liên tục, những động tác ấy khiến thân hình thiếu nữ được phô bày, lại thêm chiếc áo dưới ánh trăng phát ra ánh sáng kỳ ảo, thực là tuyệt diệu, trong lúc hát ta vô tình liếc sang, lập tức bị dáng người yểu điệu ấy thu hút.
Đến đoạn cao trào, Tích Văn vừa múa vừa đi quanh Hạ Hầu Thần, khẽ vẩy tà áo, ánh mắt long lanh, thổ lộ tất cả những tình ý ẩn bên trong điệu múa. Hát đến lời thứ hai và thứ tư, nó ngả người sang trái, khẽ tung tay áo chạm gót chân, cả thân hình tạo thành thế “tên rời cung”, đương lúc nghiêng sang trái, đột nhiên chuyển trọng tâm sang bên phải, tới khi vòng cung tạo bởi tay áo đã trĩu hẳn sang phải, cơ thể nó lại trở về bên trái, ống tay áo vắt ngang, tạo thành thế “ngả sang phải”, thân mình lẫn hai ống áo uyển chuyển uốn cong. Cứ như thế lặp đi lặp lại, tựa nước chảy mây trôi, như ngựa trời lướt gió, hơn nữa tất cả động tác phức tạp đó chỉ trong một câu hát “nhưng nguyện cùng chàng dài lâu” là hoàn tất, tay áo nhẹ lướt giữa những ngón tay Hạ Hầu Thần, hắn bật cười tóm lấy.
Ta sốt ruột nhìn sang Tích Văn, chỉ mong Hạ Hầu Thần kéo con bé vào lòng, vậy tối nay coi như thành công mỹ mãn, ai ngờ hắn đứng bật dậy, mặc cho dải lụa vuột khỏi, vỗ tay cười nói: “Múa đẹp lắm, hát cũng khá lắm, xứng đáng là hai đóa hoa tuyệt sắc thiên hạ.”
Gương mặt Ninh Tích Văn không giấu được vẻ thất vọng, mình hoa khẽ run, quay sang liếc ta một cái, khóe mắt long lanh như sắp trào lệ. Ta dùng ánh mắt ra hiệu cho nó chủ động tiến tới, ai ngờ nó lắc đầu, đứng chôn chân tại chỗ, chỉ hơi nhún eo hành lễ mà rằng: “Đa tạ lời khen của Hoàng thượng.”
Ta bất đắc dĩ cùng tiến tới tạ ân, Hạ Hầu Thần đắc ý gật đầu, ngẩng mặt ngắm trăng, Khang Đại Vi biết ý chạy tới thưa: “Hoàng thượng, đêm nay nghỉ tại Lan Nhược hiên chứ ạ?”
Nghe thấy vậy, cả người ta lập tức cứng đờ, không thể cười tiếp được, chẳng biết làm thế nào, hồi hộp chờ Hạ Hầu Thần ra ý thị.
Hắn ngoảnh lại nhìn ta, nói: “Cũng được.”
Khang Đại Vi vội sai người chuẩn bị nước tắm, lại cắt cử kẻ hầu Hoàng thượng thay y phục. Ninh Tích Văn lẳng lặng xin lui về phòng riêng, dáng vẻ ủ ê.
Ta nhoẻn một nụ cười tươi như hoa đào mùa xuân, bước lên dựa bên thánh thể cùng nhau vào phòng.
Đúng lúc ấy, có tên thái giám từ ngoài vườn lớn tiếng hô: “Hoàng thượng, Sư nương nương đột nhiên bị đau bụng, sai nô tài đến bẩm báo với Hoàng thượng, mời người tới Túy Hà các gấp.”
Sư Viên Viên lần đầu mang thai, tính đến nay chưa được ba tháng, thai nhi còn chưa ổn định, nhưng cô ta đau bụng lúc này quả có hơi đúng lúc. Ta khẽ thở ra một hơi, nhíu mày, cất giọng khẩn khoản: “Hoàng thượng, đây là Hoàng tử đầu tiên của người, không thể để xảy ra sơ suất gì được, còn chỗ thần thiếp lúc nào người đến cũng không có gì khác biệt…”
“Ngươi chỉ mong ta đi cho chóng chứ gì?”
Không gian như có một luồng khí lạnh lan tới, ta nhất thời cứng họng, đành miễn cưỡng đối đáp cho qua: “Sao có thể như vậy, Hoàng thượng muốn ở lại, là chuyện thần thiếp cầu còn chẳng được.”
Hắn lạnh lùng quay sang, bất chợt đưa tay nâng cằm ta lên, bàn tay bóp mạnh, khiến phần da thịt nơi gò má đập mạnh vào răng hàm bên trong, đau đến nỗi thở không ra hơi. Hắn cúi xuống, hai con ngươi sắc như lưỡi dao: “Ninh Vũ Nhu, trẫm ghét nhất là vẻ mặt giả tạo cùng cực này, ngươi đừng tưởng trẫm đui mù, không biết tối nay ngươi mưu đồ gì!”
Nói xong, hắn thuận thế đẩy mạnh, ta lảo đảo thối lui vài bước, quên cả cái đau, cứ nhìn theo mãi cái dáng nghênh ngang của hắn giữa một rừng Nội Thị Giám cho tới khi khuất hẳn.
Điều khiến ta kinh ngạc là, Sư Viên Viên đang mang thai đứa con đầu tiên của hắn, nhưng xem lời nói dáng điệu, có vẻ hắn chẳng mấy quan tâm, nghe tin Sư Viên Viên động thai mà vẫn còn tâm trí so đo với ta. Hắn không lo lắng, điều này là vì cớ gì?
Về đến phòng, ta ngồi xuống trước gương, nhìn rõ dấu vết trên má, vết ấy đỏ như vệt son quệt vội, lại như đôi má thiếu nữ tơ tưởng tình lang. Ta không nén được cười nhạt hết lần này tới lần khác. Ai mà biết ấy là gốc tích của hờn giận oán ghét?
“Tỷ tỷ…”
Ninh Tích Văn đứng bên cửa, do dự không dám bước vào, nghe giọng điệu có chút cảm thông. Chẳng lẽ nó tưởng Hoàng thượng bỏ đi, lòng ta sẽ buồn rầu?
“Vào đây đi, sao giờ này còn chưa ngủ?” Ta lấy chiếc lược trên bàn chải được hai cái, Ninh Tích Văn đã xông vào giành lấy, muốn chải hộ.
“Tỷ tỷ, có phải hôm nay tỷ thất vọng về muội lắm không?”
Ta liếc vào gương, thấy sắc mặt Ninh Tích Văn trong ấy đượm vẽ ủ rũ, bèn cất giọng than một tiếng: “Thành sự tại thiên, chúng ta đã làm tất cả những gì có thể rồi. Sự tình đến nước này, ta trách muội có ích gì?”
Ninh Tích Văn khẽ khàng rũ nhẹ mái tóc ta, nói: “Tỷ, xin đừng trách muội muội lắm lời, kỳ thực tỷ đâu cần hao tâm tốn sức bày mưu tính kế, muội thấy Hoàng thượng có lòng với tỷ đó…”
Nó sao biết chân tướng sự việc? Loại người như Hạ Hầu Thần, đâu có thể dung thứ cho kẻ từng phản bội mình? Ta lắc đầu đáp: “Muội muội,chuyện giữa ta và Hoàng thượng chẳng cách nào cứu vãn được nữa, thời làm Thượng Cung ta từng làm việc có lỗi với người…”
Chẳng hiểu vì sao, đêm nay ta lại muốn dốc cạn ưu sầu. Sau khi nghe cặn kẽ đầu đuôi mọi sự, Ninh Tích Văn mới hiểu, vì sao ta xiết bao mong muốn nó nhập cung. Thân phận ta bề ngoài tôn quý hào hoa, nhưng thực chất chỉ cần khẽ lay là đổ sập.
Ta vốn chẳng thể được sủng ái như các phi tần khác, địa vị hiện nay, hoàn toàn là nhờ mưu lược toan tính mà có.
Vậy mà nghe xong, Ninh Tích Văn lại hớn hở trầm trồ: “Tỷ tỷ, muội biết mà, từ nhỏ muội đã không bằng tỷ, trong tình huống hung hiểm thế này mà tỷ vẫn đứng vững được trong cung. Tỷ tỷ, có một chuyện, muội không biết có nên nói với tỷ không…”
Ta ngoảnh lại nhìn, thấy ánh mắt nó lóe lên tia sáng lạ lùng. Ta quá hiểu ánh mắt này. Ở Thượng Cung cục, những cung nhân khi vừa nghĩ ra thiết kế mới, ban đầu muốn giấu diếm chờ dịp tâng công trước mặt thượng cấp, vẻ mặt sẽ trở nên như vậy. Ta chợt hiểu ra nó có điều giấu mình, mà điều này lại vô cùng quan trọng.
Phát hiện này không làm ta quá kinh ngạc, âu cũng là lẽ thường của con người. Ta lãnh đạm đáp: “Muội muội, nhà họ Ninh giờ đây chỉ còn hai ta, tỷ muội mình phải biết dựa vào nhau mà sống, còn có lời nào không thể nói được?”
Tích Văn lúc này mới ấp úng: “Tỷ tỷ còn nhớ trước khi phụ thân bị tội, trong nhà từng thu nhận một vị thiếu niên gặp nạn không?”
Ta nhíu mày đáp: “Chuyện này sao ta lại không nhớ? Chẳng phải đại nương và phụ thân đã bàn bạc rồi sao? Sau này từ miệng kẻ dưới ta mới biết, nhưng chưa được gặp mặt người ấy bao giờ.”
Biểu cảm trên gương mặt Ninh Tích Văn trở nên kỳ lạ, nó nhìn trái nhìn phải, hạ giọng: “Tỷ tỷ, muội thì gặp rồi đó. Năm đó muội mới mười tuổi, nghe cha và mẹ ở trong phòng nói gì mà tuyệt đối không được để bất cứ ai nghe thấy, bèn lén chạy đến vườn nho bị khóa kín, tuy chỉ đứng từ xa nhìn lại nhưng…”
Ta chợt sững người, quay phắt lại, một lọn tóc đang vướng vào lược căng ra khiến da đầu đau buốt, ta hỏi ngay: “Ý muội là?”
Ninh Tích Văn khẽ đáp: “Tỷ tỷ, kỳ thực ngay lần đầu nhìn thấy người, muội đã ngờ ngợ, cho nên lúc nãy khi ở Ngự Hoa viên mới sợ hãi đến vậy. Tỷ tỷ, tỷ nói xem cái chết của phụ thân, rốt cuộc là vì nguyên cớ gì?”
Chợt nghĩ lại cái hôm trốn dưới gầm giường thiền phòng của Thái hậu, Hạ hầu Thần từng nói năm mười lăm tuổi, khi xuất cung hắn bỗng dưng gặp chuyện hung hiểm, may có người ra tay tương cứu mới thoát thân. Tính ra năm ấy chẳng đúng thời gian phụ thân bị giáng tội đó sao?
Ta còn nhớ rõ tội danh của phụ thân và người hạ lệnh hành quyết chính là Thái tử, đó cũng chính là lần đầu tiên hắn tham chính. Nếu sự thật đúng như vậy, thì Hạ Hầu Thần quả là lòng lang dạ sói.
Tích Văn thấy sắc mặt ta u ám, bèn nói nhỏ: “Tỷ tỷ, biết đâu bên trong còn có uẩn khúc?”
Ta lạnh lùng đáp: “Cho dù chân tướng ra sao, thì chuyện hắn đích thân hạ lệnh xử trảm là có thật, tuy nói việc triều chính vốn dĩ là như thế, thắng làm vua thua làm giặc, nhưng việc sờ sờ ra đấy bảo ta làm sao gần gũi với hắn được.”
Ninh Tích Văn khẽ thở dài: “Tỷ tỷ, muội biết tỷ là người cứng cỏi, nhưng là Hoàng thượng, chắc chắn có nhiểu chỗ bất đắc dĩ. Nếu tỷ chịu hạ mình một chút, nói mấy câu ngon ngọt, muội thấy Hoàng thượng nhất định sẽ để mắt đến tỷ.”
Những việc ta làm còn chưa đủ hạ mình ư? Ta lãnh đạm nghĩ thầm.
Lại lần nữa trống canh vang lên, vọng khắp nẻo cấm cung, đêm đã vào canh tư. Từ cửa sổ nhìn ra, màn sương phủ ngập cả khu đình viện, đến bóng dáng cây hoa quế cũng trở nên nhạt nhòa mơ hồ. Ta không đáp lời Tích Văn, chỉ nói: “Muội muội, đêm đã khuya rồi, về ngủ thôi.”
Tích Văn đặt cây lược ngà xuống bên cạnh giương, bỗng cất giọng thở than: “Nỗi lòng của tỷ ngày nào chưa giải, thì cho dù tỷ có đóng kịch giỏi nhường nào, người có lòng đều có thể nhìn ra, cảm thấy cả.”
Ta chợt sững người, nhìn vào trong gương, trong ấy một nữ nhi kiều diễm đang nhìn ra ngây dại. Mười mấy năm tôi luyện chốn cung đình, chẳng lẽ vẫn chưa đủ để che giấu tâm tư? Không, ta không tin. Nhờ vào gương mặt biết làm hài lòng kẻ khác này, ta mới leo lên được chức Thượng Cung, mới có thể biến nguy thành an giữa lúc tình thế hiểm nghèo. Ta không tin có người chỉ nhìn vào gương mặt, mà hiểu thấu được những suy nghĩ tận sâu bên trong ta!
Nhưng, tại sao Hạ Hầu Thần hết lần này tới lần khác có thể dễ dàng xé bỏ lớp ngụy trang tinh xảo của ta, nhìn thấu từng bước đi của ta, đọc được mọi suy tư trong lòng ta, biết được ý nghĩ tận nơi sâu kín nhất trong tim ta?
Chẳng lẽ đúng như Ninh Tích Văn nói, hắn lại chính là “người có lòng” với ta?
Suy nghĩ này vừa mới thoáng qua, ta bèn lập tức gạt đi, kinh nghiệm sau nhiều cuộc bể dâu thăng trầm cho ta biết, không được phép kỳ vọng ở con người ấy dù chỉ một chút.
Vậy mà không rõ vì sao, đêm nay ta không tài nào chợp mắt. Chiếc đèn lồng treo ngoài hành lang mờ mịt giữa làn khói sương, ánh sáng của nó từ từ nhạt nhòa, mấy song cửa sổ dần bạc đi, mọi sự vật như phá tung giới hạn của chính nó, hòa vào màn sương mông lung. Đầu óc ta tinh thông, nhưng muốn ngủ mà không được.
Trời vừa hưng hửng sáng, ta đã rời phòng, ra đứng dưới gốc cây hoa quế, ngẫm ngợi trầm ngâm, nhưng tư duy cứ như bị tắc lại một điểm, câu chuyện đêm qua hỗn độn lạ lùng.
Rửa mặt chải đầu xong, liền có cung nữ do Hoàng hậu phái đến mời. Ta hiểu ngay Hoàng hậu đã biết tình hình đêm trước, có lẽ gọi ta sang an ủi…, mà không, nên nói rằng, ta được gọi đến để cùng chia sẻ nỗi giận thì đúng hơn.
Sư Viên Viên làm như vậy không phải lần đầu. Lần này là ở Lan Nhược hiên, nhưng nghe nói ngay cả khi Hoàng thượng đến chỗ Hoàng hậu, ả cũng dám chặn ngang nửa đường.
Cũng không thể trách cô ta, từ khi hoài thai, liền một lúc cô ta được thăng ba cấp, giờ đã trở thành một trong bốn vị đại phi, phẩm hiệu Quý phi, thân quyến bên họ ngoại nhờ thế càng thăng quan tiến chức, được coi là gia tộc kế tục nhà Thượng Quan, trrong triều danh vọng chỉ thua nhà họ Thời mà thôi.
Khi đáp kiệu xuống cung Chiêu Thuần, ta gặp Hoàng hậu đang ngồi một mình dưới gốc cây phù dung, mình tựa ghế thêu, lọng sa giong sẵn, ngăn lá úa và phấn hoa bay vào. Vài ba bông phù dung từ trên cây rụng xuống, lướt khẽ trên nóc lọng, đậu xuống vạt phượng, nhưng Hoàng hậu như không hay biết, xem ra hôm nay tâm tình có phần rối ren.
Tiếp xúc đã lâu, nhìn lời nói cử chỉ đối với Thiên tử, ta dần nhận ra lòng Hoàng hậu thật sự mang mối thâm tình, chẳng thế mà giờ này ngẩn ngơ ưu sầu. Nhiều khi ta nghĩ, Hoàng hậu coi là đồng minh, ngoài công lao lần trước, phần nhiều biết đâu là vì ta không thể được Hạ Hầu Thần sủng ái? Dù Hoàng hậu năm lần bảy lượt ngầm khuyên Hạ Hầu Thần thường xuyên lui tới chỗ ta, nhưng hành động đó có bao nhiêu phần là thật lòng? Nếu Hạ Hầu Thần thật sự để mắt đến ta, nàng ta có còn nhiệt tâm như lúc này hay không?
Xem thường ngày khi cùng Hạ Hầu Thần trò chuyện, đầu mày cuối mắt nàng ta chẳng lúc nào thôi tình tứ. Hai tiếng “biểu ca” kia, gói ghém biết bao nhiêu là nỗi niềm tương tư nhi nữ?
Hôm nay ta chỉ trang điểm nhẹ, lớp phấn mỏng sao che nổi vẻ mệt mỏi của một đêm thức trắng. Xiêm áo tuy chỉn chu chẳng khác gì thường ngày, nhưng màu sắc không được tươi, khiến cả con người càng thêm phần tiều tụy, tự mình trông cũng thấy võ vàng tấm thân. Hoàng hậu nghe báo, bèn quay lại nhìn, dĩ nhiên nhận ra ngay, khóe miệng nhoẻn nụ cười thương cảm, thoắt cái lại tươi tắn như thường: “Hôm nay Hoàng thượng vừa sai người mang đến một ít nho của Tây Vực triều cống, ta nghĩ muội muội dù vào cung đã lâu nhưng chắc chưa được nếm bao giờ, nhân lúc còn tươi hãy thử xem sao?”
Ta cười lễ độ đáp: “Đây là tặng phẩm của Hoàng thượng, muội phận hèn đâu dám sỗ sàng?”
Hôm nay Hoàng hậu ăn mặc giản dị, đầu chải kiểu Thiên Văn, trước búi tóc chỉ cài duy nhất một cành trâm hồ điệp bằng ngọc xanh, kiểu dáng tự nhiên, có lẽ để tiện nằm nghỉ dưới bóng cây, nhưng cơ hồ cả con người toát lên vẻ thanh thoát e lệ vô song. Hoàng hậu vốn đã được trời ban gương mặt đoan trang mỹ miều, tuy không kiều diễm kinh động lòng người như Sư Viên Viên, nhưng rất sang trọng cao quý. Theo ta thấy, dung mạo Thời Thượng Cần là thích hợp nhất với ngôi vị Hoàng hậu.
Thậm chí không cần phục sức quá công phu, tự nhiên đã toát lên vẻ cao sang quý tộc. Nghĩ tới đây, chợt nhớ Ninh Tích Văn đêm trước từng bảo ta như con hát, có lẽ diễn thế nào, bôi son trát phấn ra sao, cũng không tạo ra được khí độ quyền uy của một Hoàng hậu. Vì thế ta chưa bao giờ dám mơ đến cái ngôi vị của người đối diện, phải có gia thế hiển hách, trong gia tộc lại có vô số người chống lưng, mới đủ khả năng ngồi lên ngai Hoàng hậu, đã ngồi lên, tất phải ngồi cho vững. Hạ Hầu Thần không cần một Hoàng hậu không thể trợ lực cho mình, mà sức mạnh đó thường đến từ phía nhà ngoại Hoàng hậu.
Nếu phụ thân ta còn sống, nhà họ Ninh vẫn còn tồn tại trên thế gian này, có lẽ ta sẽ cho phép mình được tơ tưởng một chút. Nhưng dù thế nào, vọng tưởng chỉ là vọng tưởng mà thôi.
Chùm nho tím Tây Vực được bày vào đĩa bạch ngọc, trên lớp vỏ tím ngắt còn đọng một lớp sương trắng mờ, có thể thấy đường triều cống dài cả vạn dặm, phải dùng đá lạnh ướp để khi đến nơi vẫn giữ được độ tươi ngon. Nghe Khổng Văn Trân nói, chỗ nho triều cống lần này tổng cộng không quá mười mấy cân, trừ dâng lên cung Hoàng hậu, chỗ còn lại mang đến Túy Hà các không ít. Do Sư Viên Viên mới mang thai, thích ăn đồ chua, nên mới dâng nhiều hơn một chút. Còn những phi tần cấp thấp như ta, đến vỏ nho còn chẳng rõ trông như thế nào. Có thể thấy vì được Hoàng thượng sủng ái, nên địa vị Sư Viên Viên so với Hoàng hậu cũng như kẻ tám lạng người nửa cân.
Chẳng trách Hoàng hậu ăn nho mà sắc mặt không được vui, ta hiểu rõ nàng ta đang nghĩ gì, chỉ là hơi bất ngờ người như thế lại có ngày trở nên thế này. Trong mắt cả hậu cung này, Hoàng hậu là người hiền từ đoan trang, dĩ nhiên sẽ không làm những việc trái đạo lý. Hôm nay ta muốn xem xem, nàng ta rốt cuộc nhân từ đến mức nào?
“Muội muội, loại nho này là của hiếm, chắc bên muội không có được, đợi lát nữa ta sẽ cho người gói vài chùm mang sang.”
“Hoàng hậu nương nương, thần thiếp ăn những thứ thô tục đã quen miệng, thứ này quý hiếm như vậy, xin nương nương cứ giữ lại, thần thiếp nếm một chút là được rồi.”
Ngón tay Hoàng hậu khẽ gẩy một cái hạt nho ra, cái màu tím khói ấy trông phảng phất như viên ngọc quý nàng đeo trên đầu, ngón tay cũng bị dây thứ nước màu tím nhạt, quả nho in vào hai con ngươi, khiến cho đôi mắt cứ như đang chuyển sang màu tím, càng thêm buồn bã.
Tuy trong câu chuyện không hề nhắc đến Sư Viên Viên, nhưng ta biết, hôm nay Hoàng hậu gọi ta đến đây chính là vì Sư Viên Viên chứ không ai khác. Hoàng hậu muốn ta tự mở lời. Ta cười nhạt trong bụng, quả là Hoàng hậu nhân từ, chẳng muốn làm bẩn hình tượng của mình, dù chỉ là vết nhơ nhỏ bé nhất.
Ta chậm rãi đưa quả nho vào miệng, nhâm nhi thật kỹ, vị ngọt ngọt chua chua nhẹ nhàng thấm xuống dạ dày. Ta hành sự có một tật xấu nho nhỏ, Hoàng hậu nếu đã muốn cậy nhờ, thì không thể nào rũ sạch trách nhiệm liên đới được. Đây cũng là cách để ta bảo vệ chính mình, không để ai xem mình như con tốt, khi gặp rắc rối phủi tay một cái là xong xuôi.
Nàng ta chờ mãi không được, đành lên tiếng hỏi: “Ninh muội muội, đêm qua Hoàng thượng đến chỗ muội phải không?”
Sắc mặt ta trở nê ủ rũ, lại đưa một quả nho lên miệng, trầm ngâm hồi lâu: “Tiếc là sau đấy người lại đi.”
Hoàng hậu tỏ vẻ tiếc nuối: “Ninh muội muội, chẳng mấy khi Hoàng thượng đến chỗ muội, vậy mà lại bị…”
Ta khẽ đáp: “Thần thiếp vốn dĩ chẳng sao, có điều đêm qua thần thiếp định tiến cử muội muội, rõ ràng lúc ấy Hoàng thượng đã động lòng, tiếc là…”
Hoàng hậu rốt cuộc không nhịn được nữa, quả nho trong tay chuẩn bị đưa lên miệng trong chốc lát bị bóp nát, thứ nước màu tím tứa ra cả bàn tay. Ta vội cầm cái khăn đặt sẵn trên bàn đưa sang. Có lẽ tự nàng ta cảm thấy làm vậy có phần bẽ mặt, liền chẳng buồn che giấu thêm: “Muội muội, lúc này nên làm thế nào?”
Ta hiểu rõ tâm trạng hoảng hốt lúng túng của Hoàng hậu. Nhà họ Sư sắp sửa ngồi ngang hàng với nhà họ Thời, Sư Viên Viên lại có khả năng sinh hoàng tử trước Hoàng hậu, nếu đứa bé là con trai, sẽ là trưởng tử đích tông, gần như chắc chắn được lập làm thái tử. Nếu vậy, vị Hoàng hậu như nàng ta từ nay đi lại làm việc trong hậu cung sẽ trở ngại rất nhiều.
Nếu muốn ta ra tay, dù ít dù nhiều Thời Phượng Cần cũng phải nhúng tay vào, ta quyết không để phiền phức cho một mình mình chịu, lôi nàng ta vào cuộc chính là cách tốt nhất để bảo vệ bản thân.
Sống trong cung đã quá lâu, ta sớm chẳng còn tin tưởng ai cả, cách bảo vệ bản thân chính là khiến cho kẻ khác không thể không bảo vệ mình.
Ta bật cười khe khẽ, đón lấy cái khăn trong tay Hoàng hậu, để lại chỗ cũ: “Hoàng hậu nương nương muốn thế nào, thần thiếp sẽ tự có cách khiến người được như ý, thần thiếp không bao giờ quên hai ta là tỷ muội tốt ngồi ăn cơm cùng bàn.”
Hoàng hậu hơi an lòng, nắm lấy tay ta nói: “Muội muội, nếu trong cung không có muội giúp đỡ, kẻ làm Hoàng hậu như ta chẳng biết cáng đáng ngai vị này nổi mấy ngày.”
Lòng ta cười nhạt, cô chẳng có bản lĩnh gì, nhưng có gia đình làm hậu thuẫn, họ nhà cô trấn giữ cả triều cang, Hạ Hầu Thần có thế nào cũng chẳng dám phế cô, trừ khi một ngày, nhà họ Thời thực sự bị một gia tộc khác lật đổ.
Chuyện tuy hoang đường, nhưng nhìn những dấu hiệu gần đây, ngày ấy biết đâu lại sắp đến.
Xem ra sau khi quyền lực của tân đế trong triều dần vững chắc, mối thâm tình quyến luyến của Hạ Hầu Thần dành cho Hoàng hậu cũng từ từ chuyển sang cho Sư Viên Viên. Dường như Hoàng đế muốn bồi dưỡng một thế lực có thể đối chọi với Thời gia, có lẽ từ chuyện Thượng Quan Thái hậu, hắn đã rút ra một bài học lớn: Tuyệt không được để cho nhà ngoại chiếm lấy vị trí độc tôn!
Phận ta chỉ cần tìm con đường sống cho mình từ một kẽ hở nhỏ nhoi trong cuộc giao tranh ác liệt kia. Sư Viên Viên giờ đây đắc sủng, nhưng xét quan hệ thân sơ, ta không thể bỏ Hoàng hậu mà chạy sang lấy lòng cô ta được, nên chỉ còn cách nương tựa phe Hoàng hậu.
Ta mỉm cười chân thành nói: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp nhận không ít ân điển của người, sao dám không tận lực phò tá?”
Đúng lúc ấy, có một cung nhân chạy vào bẩm: “Thưa Hoàng hậu nương nương, có Nguyệt Dung Hoa nương nương cầu kiến.”
Gương mặt vốn đang thân thiện của Hoàng hậu lộ ra vài phần chán ghét, lãnh đạm nói: “Cứ nói lại rằng ta nghỉ rồi, bảo cô ta không cần thỉnh an nữa.”
Đầu ta lóe lên một ý, ngăn cung nhân kia lại, bảo: “Hoàng hậu nương nương, Nguyệt Dung Hoa tuy như liễu đầu tường, gió chiều nào ngả chiều ấy, nhưng chúng ta đừng nên tỏ thái độ hỉ nộ quá rõ.”
Hoàng hậu liếc ta một cái, tuy có vẻ hoài nghi nhưng vẫn nói: “Cho Nguyệt Dung Hoa vào đây.”
Nguyệt Dung Hoa vốn dĩ về phe Hoàng hậu, nhưng ngày rộng tháng dài, cảm thấy chẳng được lợi ích gì, lại trông Sư Viên Viên càng lúc càng đắc sủng, bèn thường xuyên lui tới Túy Hà các, Hoàng hậu sớm đã chẳng muốn thấy cô ả nữa. Nghĩ lại Nguyệt Dung Hoa cũng thật đáng thương, xưa kia làm trợ thủ cho Hoàng hậu chẳng lập nên công trạng gì, từ khi ta đến, Hoàng hậu không thèm coi cô ta vào đâu nữa, mới khiến cô ả quyết tâm chuyển hướng sang Sư Viên Viên. Không rõ hôm nay lại đến đây vì việc gì?
Đang lúc hàn huyên, Nguyệt Dung Hoa đủng đỉnh từ cửa cung bước ra vườn, mình mặc áo dài thêu hoa tử đinh hương màu nhạt, trên đầu gài vòng hoa cẩn vàng, tai đính Bích Nguyệt minh châu, nhan sắc tuy không sánh kịp Sư Viên Viên, nhưng cười lên, hai bên má hiện rõ đôi lúm đồng tiền, trông tinh nghịch đáng yêu vô cùng. Nghe nói khi mới nhập cung, cô ta cũng từng được Hoàng thượng đoái thương vài lần, sau này người mới vào không ngớt, Hạ Hầu Thần lóa cả mắt, lẽ dĩ nhiên dần lãng quên hai má lúm duyên dáng ấy, từ đó cô ta cứ mãi dậm chân tại chỗ ở phẩm cấp Dung Hoa.
Nguyệt Dung Hoa thấy ta ở đó, hơi sững ra một lát, lại lập tức tươi cười thân thiết, sải bước đến hành lễ Hoàng hậu, rồi hành lễ với ta, cười nói: “Hóa ra Ninh tỷ tỷ cũng ở đây, gần đây quê nhà gửi tới một ít đặc sản, thần thiếp định mang một phần đến biếu Hoàng hậu nương nương, nếu biết tỷ tỷ cũng ở đây, thần thiếp đã gói thêm một phần.
Cô ta dâng đồ lên, hóa ra là nấm đầu khỉ đặc sản ở Nam Việt, nấm này sinh sôi nơi thâm sơn cùng cốc, hái được không phải chuyện dễ, do đó mỗi năm từ Nam Việt đưa đến kinh thành không nhiều, Ty Thiện Phòng từ lâu đã không có nguồn cung thứ này, thành ra đây được coi là mỹ vị hiếm có trong cung.
Ánh mắt ta lộ vẻ ngưỡng mộ: “Nguyệt muội muội thật là có lòng, ngày nhỏ thiếp từng được nếm thử nấm này, có điều từ khi gia thế lụn bại không còn được ăn lại nữa.”
Nguyệt Dung Hoa vội nói: “Nếu Ninh tỷ tỷ thích, để muội chuẩn bị một phần đem sang Lan Nhược hiên nhé?”
Ta bèn đa tạ ngay: “Vậy phiền Nguyệt muội muội.”
Hoàng hậu đứng bên cạnh cười nói: “Thì ra hôm nay muội đến để vòi quà đó à, vừa mới xin ta cái ghế gỗ tùng của tỉnh Chiết Giang triều cống, giờ lại xin nấm đầu khỉ của Nguyệt Dung Hoa, dạo này Ninh muội muội túng thiếu quá chăng?”
Nguyệt Dung Hoa nghe xong, bèn che miệng cưởi. Ta lúng túng đáp: “Hoàng hậu nương nương, xưa kia thần thiếp còn làm nô tỳ ở Thượng Cung cục, hết ngày này qua ngày khác phải chế tác đồ đạc trang sức, lỡ nhiễm phải bệnh phong thấp, mỗi lần chớm đông là đầu gối đau nhức không thể chịu được, nghe nói chiếc ghế này của người dùng gỗ tử đàn thuợng hạng chế tạo nên, lạ lùng nhất là phần tựa chân được khoét rỗng, bên trong có thể để than hồng, ngồi lên sẽ giảm chứng đau chân. Hoàng hậu thân mình vàng ngọc, dĩ nhiên chẳng thể mắc mấy căn bệnh này, người vốn tính tình hiền từ, rộng rãi, thần thiếp sợ người thưởng ghế cho người dưới mất, nên đành mặt dày chạy tới xin xỏ.”
Nguyệt Dung Hoa tỏ vẻ quan tâm bảo: “Ninh tỷ tỷ hãy cẩn thận, bệnh phong thấp tuy không trầm trọng nhưng cũng phiền phức ghê lắm, nay tỷ đã được Hoàng hậu nương nương thưởng ghế quý, mùa đông này có thể an nhàn dễ chịu hơn rồi.”
Ta gật đầu, lại cảm tạ Nguyệt Dung Hoa lần nữa: “Nghe nói nấm đầu khỉ sẽ giúp lưu thông khí huyết, ta trước đây từng yêu cầu Ty Thiện Phòng làm món này, nhưng Ty Thiện Phòng từ lâu đã mất nguồn cung. Hôm nay được muội muội tặng cho, thực như nắng hạn gặp mưa rào.”
Nguyệt Dung Hoa nghe xong, cười rạng rỡ đáp: “Tỷ tỷ mệnh tốt, vừa đúng lúc…”
Chuyện phiếm thêm một lát, Nguyệt Dung Hoa liền đứng lên cáo từ.
Hoàng hậu đợi cô ta đi khuất, bèn mở chiếc hộp biếu đựng nấm ra, sai người san cho ta một nửa, ta tỏ vẻ không thể chối từ, đứng lên tạ ân rồi nhận lấy.
Hoàng hậu cất tiếng hỏi, giọng có đôi phần âu lo: “Bọn chúng sẽ hành động theo kế hoạch chứ?”
Ta cười cười đáp: “Có vô số cơ hội khiến chúng phải tự động nghe theo, lần này không thành, sẽ có lần sau.”
Ta còn chưa nói một điều, ấy là trong cung cấm, muốn đoạt đi sinh mạng của một bào thai chưa ra đời là chuyện quá đơn giản. Trong cung không như ngoài dân gian, công cụ rất nhiều, những thứ thấy được hoặc ngầm cất giấu lại càng vô số, chẳng ai biết rằng sau phú quý nhung lụa kia là gì.
Ta làm việc trong Thượng Cung cục nhiều năm, mới chỉ được ngó trộm liếc qua vài thứ, nhưng đã đủ rồi.
Vài ngày sau, gió lạnh ùa về, trong Lan Nhược hiên tuy có đốt lò sưởi, nhưng nằm trên giường, đầu gối ta vẫn cảm thấy từng cơn lạnh thâm nhập vào xương tủy. Chiếc ghế dựa tử đàn xin từ chỗ Hoàng hậu vẫn chưa mang sang. Tố Khiết đến ty khố hỏi han vài lần, nhưng quản sự ở đó chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nguyệt Dung Hoa ngược lại thực sự sai người đem biếu nấm đầu khỉ đến, ta bảo Tố Khiết nhờ người của Ty Thiện Phòng nấu giúp, mùi vị quả thực tươi ngon vô cùng.
Một ngày nữa trôi qua, ta không tài nào chờ thêm được, đang định đích thân đến cung Chiêu Thuần một chuyến, thì Hoàng hậu sai người sang tạ lỗi, nói thời tiết gần đây khắc nghiệt, có kẻ đang mang thai sợ không chịu nổi lạnh lẽo, nên Hoàng thượng sai người mang cái ghế ấy đi thưởng cho Sư Quý phi mất rồi. Tố Khiết nghe thấy thế, hậm hực mà rằng: “Rõ ràng nương nương xin trước, mà lại bị người ta cướp đi, trên đời sao lại có cái lẽ ấy.”
Ta chỉ biết cười khổ, bảo Tố Khiết mang mấy cái túi nước đem chườm vào đầu gối, khuyên: “Hoàng thượng đã mở miệng, còn ai dám cưỡng lại?”
Đêm ấy nhiệt độ giảm mạnh, tuy đã thêm túi chườm, ta vẫn đau nhức không thể nào an giấc. Thời còn ở Thượng Cung cục, cả ngày bận bịu, vận động nhiều, thời tiết có chuyển lạnh cũng không đến nỗi khốn khổ, nhưng từ khi được làm chủ nhân, cả ngày chỉ ngồi một chỗ, khiến bệnh càng phát tác dữ dội.
Suốt mấy ngày nay hầu như chẳng được ngon giấc, ta đành cho vời ngự y đến, nhờ làm giúp vài miếng cao đắp ngoài, khổ nỗi căn bệnh này tích tụ ngần ấy năm không chữa, nhất thời làm sao khỏi ngay được?
Chỗ cao thuốc kia chỉ làm giảm đau nhức đi một chút mà thôi.
Những ngày u ám lạnh lẽo cuối cùng đã qua, bầu trời dần trở lại trong sáng, lại nhờ ngự y tận tâm chữa trị, bệnh của ta có phần đỡ đi đôi chút.
Ta thì sống dở chết dở ở Lan Nhược hiên, nhưng nghe nói Túy Hà các đêm nào cũng có đàn ca sáo nhị không dứt. Trời đột nhiên trở lạnh, cái bụng của Sư Viên Viên nay thế này mai thế khác, Hạ Hầu Thần đêm đêm phải túc trực lại Túy Hà các, chiếc ghế tựa bằng gỗ tử đàn kia vốn dĩ rộng rãi, nghe đám cung nhân trong Túy Hà các thi thoảng rỉ tai nhau, rằng Hoàng thượng và Quý phi nương nương đôi khi nằm trên ghế cùng nhau thưởng ca vũ, vui vẻ hòa thuận, ý xuân mặn nồng.
Ta thầm kinh ngạc, Sư Viên Viên quả thật rất được sủng ái, chưa từng có vị phi tần nào được yêu chiều đến thế, thậm chí ngay như Hoàng hậu khi mới nhập cung, Đế Hậu tình ý sâu đậm nhưng vẫn cứ tương kính như tân, điều trái phép tắc nhất chẳng qua là mấy tiếng gọi “biểu ca”, “biểu muội”.
Qua vài ngày gió lạnh ầm ào, hôm nay trời đất bỗng sáng sủa hẳn, mặt trời ló dạng sau từng mây, chiếu xuống ánh nắng ấm áp ôn hòa, Ta bèn sai người dọn một chiếc ghế, nằm dưới gốc cây hoa quế sưởi nắng. Cơ thể rã rời sau mấy ngày bị cơn đau nhức hành hạ được ánh nắng ấm áp chiếu vào, cơn buồn ngủ bỗng đâu kéo đến, đang lúc nửa tỉnh nửa mê, chợt nghe Tố Khiết từ ngoài hoảng hốt chạy vào báo: “Nương nương, nương nương, lớn chuyện rồi…”
Ta sốt ruột bảo: “Chuyện gì mà đến nỗi hô hoán thất thanh lên như thế?”
Tố Khiết vội hành lễ một cái, mới thưa tiếp: “Nương nương, ở Túy Hà các xảy ra chuyện lớn rồi, Sư Quý phi nương nương bị sảy thai, ngự y đều tập trung cả ở đó, nô tỳ không mời được ai về đây cả…”
Ta ngồi bật dậy: “Ngươi nói sao? Sư Quý phi sảy thai à? Sao lại thế được? Mau chuẩn bị, chúng ta đến Túy Hà các…”
Tố Khiết vội ngăn: “Nương nương, nguyên do khiến Quý phi nương nương sảy thai vẫn chưa được làm rõ, đây là lúc nên tránh mặt nhất, chúng ta chờ một thời gian hẵng đến thăm viếng thì tốt hơn?”
Ta lãnh đạm đáp: “Cây ngay sao sợ chết đứng, hơn nữa, trong cung xảy ra chuyện lớn như vậy, Hoàng hậu thế nào cũng có mặt, nếu ta không đến, chẳng hóa ra có tật giật mình.”
Tố Khiết len lén đưa mắt liếc ta một cái, thấy chủ nhân đã quyết, đành ra chuẩn bị kiệu loan.
Từ xa đã thấy xe kiệu của Hoàng đế Hoàng hậu đỗ trước cửa, xem ra đã đến từ lâu. Điện Túy Hà quả đúng như tên gọi, giữa buổi hoàng hôn, ráng chiều ngũ sắc phản chiếu trên lớp ngói men xanh, đẹp không tả xiết, nhưng hôm nay mái điện trông cứ như giội đầy máu tươi, thê lương đến kinh ngạc.
Ta đến nơi đúng lúc mấy phi tần cấp cao khác lũ lượt kéo đến, ai nấy sắc mặt bi thương hoảng hốt, đứa con đầu tiên của Hoàng thượng đã chết yểu, bọn họ dĩ nhiên phải tỏ ra buồn bã.
Hiện nay Sư Viên Viên đang lúc được sủng ái bậc nhất, án này không tra xét đến trời long đất lở không thôi. Nhưng nếu điều tra rõ ràng, e rằng không ít người trong cung sẽ rơi vào nguy hiểm.
Hoàng hậu và Hoàng thượng sớm đã vào tẩm cung, chỉ nghe từ bên trong vọng ra tiếng than khóc nỉ non, thảng hoặc xen lẫn mấy tiếng kêu la thảm thiết: “Hoàng thượng, người nhất định phải làm chủ cho thần thiếp, Hoàng thượng…”