Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Suối Nguồn - Phần 2 - Chương 11 b
Căn phòng chỉ là một cái hốc tăm tối. Một chiếc giường bừa bộn ở một góc vụn báo và quần áo cũ; một cái bếp hơi hình tròn, một bức tranh phong cảnh cỡ 5x10 đóng khung có vẻ như vẽ một cảnh đồng quê màu nâu xỉn với những bầy cừu. Không hề có các bức vẽ hoặc tượng mẫu, không hề có dụng cụ của người làm nghề điêu khắc.
Roark đẩy vài quyển sách và một chiếc chảo rán ra khỏi chiếc ghế duy nhất trong phòng. Anh ngồi xuống. Mallory đứng trước mặt anh, vừa cười toe toét vừa đung đưa người.
“Ông đang làm một việc ngược đời” – Mallory nói – “Chả ai làm thế cả. Chắc là ông quẫn lắm thì mới phải chạy theo một gã điêu khắc. Lẽ ra ông phải làm thế này này: Ông phải bắt tôi đến văn phòng ông, và lần đầu tiên tôi đến, ông phải không có mặt. Đến lần thứ hai, ông phải bắt tôi chờ một tiếng rưỡi rồi mới bước vào phòng lễ tân để bắt tay và hỏi xem tôi có biết gia đình Wilson ở Podunk không và nói rằng thật tuyệt vì chúng ta có những người bạn chung, nhưng hôm nay ông đang rất bận và ông sẽ sớm mời tôi đi ăn trưa và sau đó chúng ta sẽ bàn công việc. Ông làm thế này khoảng hai tháng. Sau đó ông giao việc cho tôi. Rồi ông nói với tôi rằng tôi chả có tài quái gì và chưa bao giờ có tài và ông ném cái tôi làm vào thùng rác. Rồi ông thuê Valerian Bronson và anh ta hoàn thành công việc. Đấy, phải làm như thế. Chỉ có điều không phải lần này.”
Nhưng đôi mắt anh ta chăm chú quan sát Roark và hai con mắt đó có sự tự tin của một người lành nghề. Khi anh ta nói, giọng anh ta mất dần sự giễu cợt ngạo mạn và càng về cuối càng trở nên đều đều, bất lực.
“Không, không phải lần này” – Roark nói.
Mallory đứng bất động nhìn Roark.
“Ông là Howard Roark?” – anh ta nói – “Tôi thích cái toà nhà của ông. Chính vì thế mà tôi không muốn gặp ông. Như thế tôi đỡ buồn nôn mỗi lần tôi nhìn thấy chúng. Tôi muốn được tiếp tục nghĩ rằng người xây ra chúng xứng đáng với chúng.”
“Nếu như tôi xứng đáng thì sao?”
“Không đời nào.”
Nhưng anh ta ngồi xuống mép chiếc giường ọp ẹp và rũ người về phía trước. Cái liếc mắt của anh ta giống như một cái cân tinh vi đang cân đo con người Roark. Đấy là một ánh mắt ngạo mạn đang công khai định giá người khác.
“Nghe này” – Roark nói rành rọt và cẩn trọng – “Tôi muốn cậu nặn một bức tượng cho Đền Stoddard của tôi. Đưa tôi một mẩu giấy; tôi sẽ viết hợp đồng với cậu ngay bây giờ; tôi sẽ ghi rõ tôi nợ cậu 1 triệu đô la nếu tôi không thuê cậu hoặc không dùng bức tượng của cậu.”
“Ông có thể ăn nói bình thường. Tôi không say. Không hoàn toàn. Tôi vẫn hiểu.”
“Vậy thì?”
“Tại sao ông chọn tôi?”
“Vì cậu giỏi điêu khắc.”
“Không đúng.”
“Về chuyện cậu giỏi?”
“Không. Về lý do của ông. Ai bảo ông thuê tôi?”
“Không ai cả.”
“Có phải một ả nào đó đã ngủ với tôi không?”
“Tôi chẳng biết ả nào đã ngủ với cậu.”
“Ngân sách hẻo quá hả?”
“Không. Ngân sách không hạn chế.”
“Thương hại tôi à?”
“Không, Tại sao tôi phải thương hại cậu?”
“Muốn được quảng cáo về việc dùng người đã bắn Toohey hả?”
“Vì Chúa, không!”
“Vậy thì vì cái gì?”
“Sao cậu không bỏ mấy thứ vớ vẩn đó đi và nghĩ đến lý do đơn giản nhất?”
“Lý do gì?”
“Vì tôi thích tác phẩm của cậu.”
“Dĩ nhiên. Bọn họ đều nói thế cả. Ai cũng biết cách nói thế và tin thế. Cứ thử tưởng tượng, nếu bóc cái vỏ giả dối ấy ra. Được rồi, ông thích tác phẩm của tôi. Nào, lý do thực sự là gì?”
“Là tôi thích tác phẩm của cậu.”
Mallory nói nghiêm trang, giọng anh hoàn toàn tỉnh táo.
“Ý ông là ông đã nhìn những thứ tôi làm và ông thích chúng – ông – chính ông – một mình ông – chứ không phải vì ai đó bảo rằng ông nên thích chúng hoặc tại sao ông nên thích chúng – và ông đã quyết định rằng ông muốn có tác phẩm của tôi, vì lý do đó – chỉ vì lý do đó – mà không hề biết gì về tôi và cũng cóc quan tâm đến chuyện khác – chỉ vì tác phẩm của tôi và … và cái mà ông nhìn thấy từ chúng – chỉ vì thế mà ông đã quyết định thuê tôi và ông bỏ công tìm tôi và đến tận đây và chịu lăng mạ – chỉ vì ông đã nhìn thấy – và cái mà ông thấy làm cho tôi trở nên quan trọng đối với ông, làm cho ông muốn có tôi? Ý ông là thế à?”
“Chính là thế” Roark trả lời.
Đôi mắt Malloy mở to. Rồi anh lắc đầu và nói cộc lốc, như để an ủi chính mình:
“Không.”
Anh cúi người về phía trước. Giọng anh van nỉ và chết chóc:
“Nghe này, ông Roark. Tôi sẽ không giận ông. Tôi chỉ muốn biết. Thôi được rồi tôi thấy là ông đã nhất định phải bắt tôi làm việc cho ông và ông biết là ông có thể có tôi vì bất cứ lý do nào, ông không phải ký bất kỳ hợp đồng một triệu đô la nào cả; nhìn cái phòng này xem, ông biết là ông đã tóm được tôi, vậy tại sao ông không nói thật với tôi? Với ông thì đằng nào cũng thế - nhưng với tôi thì lại rất quan trọng.”
“Cái gì rất quan trọng với cậu?”
“Không phải để… không phải để … Được rồi. Tôi đã nghĩ chẳng ai còn muốn thuê tôi. Nhưng ông lại muốn thuê tôi. Được rồi. Tôi có thể chịu đựng được việc đi làm trở lại. Có điều, tôi không muốn nghĩ rằng tôi đang làm việc cho một người … thích các tác phẩm của tôi. Cái đó là cái tôi không thể chịu đựng thêm. Tôi sẽ thấy dễ chịu hơn nếu ông nói với tôi, tôi sẽ… tôi sẽ cảm thấy yên ổn hơn. Ông đóng kịch với tôi làm gì? Tôi chẳng là cái thá gì cả. Tôi sẽ không nghĩ xấu về ông, nếu đó là điều ông e ngại. Ông thấy chưa? Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu ông nói cho tôi biết sự thật. Như thế, mọi chuyện sẽ đơn giản và thẳng thắn. Tôi sẽ tôn trọng ông hơn. Thật đấy.”
“Cậu làm sao thế? Họ đã làm những gì với cậu? Tại sao cậu lại muốn nói những thứ như vậy?”
“Bởi vì…” Mallory đột ngột gầm lên, rồi giọng anh ta vỡ ra, đầu anh gục xuống. Anh thì thầm: “bởi vì tôi đã mất hai năm” – anh ta khoát một vòng yếu ớt quanh căn phòng “tôi đã mất hai năm như thế này, – tôi đã cố để quên rằng những gì ông vừa nói với tôi không hề tồn tại…”
Roark bước lại phía anh ta. Anh nâng cằm Mallory lên và giật mạnh:
“Cậu là đồ ngốc. Cậu không có quyền quan tâm đến những gì tôi nghĩ về tác phẩm của cậu, về việc tôi là ai hoặc vì sao tôi đến đây. Cậu quá giỏi để phải quan tâm đến những thứ ấy. Nhưng nếu cậu muốn biết thì thế này – tôi nghĩ rằng cậu là nhà điêu khắc giỏi nhất hiện nay. Tôi nghĩ thế vì những bức tượng của cậu không mô tả con-người-như-đang-là, mà chúng mô tả con-người-như-có-thể-là và phải-là. Bởi vì cậu đã vượt qua cái có-lẽ-tồn-tại để cho xã hội thấy cái có-thể-tồn-tại, nhưng chỉ tồn tại nhờ có lao động của cậu. Bởi vì những tác phẩm của cậu không hề có biểu hiện khinh ghét con người. Vì cậu có một sự kính trọng lớn lao với con người. Bởi vì những tác phẩm của cậu cho thấy bản chất anh hùng của con người. Vì thế, tôi không đến đây để làm ơn cho cậu hoặc vì tôi thương hại cậu hay vì cậu rất cần có việc làm. Tôi đến vì một lý do đơn giản và ích kỷ – nó cũng là lý do mà một người chọn thức ăn sạch sẽ nhất anh ta có thể tìm thấy. Đó là quy luật sinh tồn phải không – quy luật luôn tìm kiếm thứ tốt nhất. Tôi không đến đây vì lợi ích của cậu. Tôi đến vì lợi ích của tôi.”
Mallory vùng ra khỏi tay Roark và gục mặt xuống giường. Hai cánh tay anh duỗi thẳng ở hai bên đầu còn bàn tay thì nắm lại thành hai quả đấm. Lưng áo sơ mi rung rung chứng tỏ anh ta đang khóc; lớp vải áo và hai nắm đấm vặn vẹo chầm chậm, hằn sâu vào chiếc gối. Roark biết rằng mình đang nhìn một người đàn ông chưa từng khóc bao giờ. Anh ngồi xuống bên giường và không thể rời mắt khỏi những cổ tay đang vặn vẹo, mặc dù cảnh tượng đó thật khó chịu đựng.
Một lúc sau, Mallory ngồi dậy. Anh ta nhìn Roark và thấy một khuôn mặt bình thản nhất và nhân từ nhất – một khuôn mặt không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của sự thương hại. Nó không giống sắc mặt của những kẻ nhìn ngắm sự đau đớn tột cùng của người khác với sự thoả mãn thầm kín – hoan hỉ với cảnh một người ăn mày cầu xin sự thương xót của mình. Đó không phải bộ mặt của một tâm hồn đói khát vốn được nuôi sống bằng sự nhục nhã của người khác. Khuôn mặt Roark có vẻ mệt mỏi, hai thái dương gồ lên như thể anh vừa bị đấm. Nhưng đôi mắt trong sáng của anh lặng lẽ nhìn Mallory. Đấy là một cái nhìn trong sáng thể hiện sự thấu hiểu và tôn trọng.
“Giờ thì nằm xuống đi,” Roark nói. “Hãy nằm yên một lúc.”
“Làm sao mà họ lại để ông tồn tại?”
“Nằm xuống. Nghỉ đi. Chúng ta sẽ nói chuyện sau.”
Mallory đứng dậy. Roark ấn vai anh xuống, nhấc chân anh ta lên khỏi sàn nhà và đặt đầu anh ta lên gối. Mallory không kháng cự.
Khi bước lùi lại, Roark vấp phải một chiếc bàn chất đầy thứ linh tinh. Có cái gì đó loảng xoảng trên nền nhà. Mallory nhỏm phắt dậy để cố bắt lấy nó. Roark gạt cánh tay anh ta sang bên và nhặt vật đó lên.
Đó là một miếng thạch cao nhỏ – loại thường được bán ở các cửa hàng quà tặng rẻ tiền. Nó có hình một em bé đang nằm sấp bụng, hai mông nhổm dậy, mắt len lén nhìn qua vai. Chỉ vài đường tiết thể hiện các bắp thịt nhưng nó cho thấy một tài năng nổi bật và không thể bị phủ nhận cho dù phần còn lại các bức tượng cho thấy một nỗ lực cố ý của nhà điêu khắc – rõ ràng anh ta đã cố gắng nặn một cách sỗ sàng, thô tục, và rập khuôn. Đấy là một số nỗ lực vụng về không thuyết phục và vất vả. Bức tượng nhỏ trông như một dụng cụ ở các phòng tra tấn.
Mallory thấy tay Roark bắt đầu run lên. Rồi một tay Roark đưa ra sau, qua đầu, chầm chậm, như thế anh đang thu trọng lượng không khí bằng cử động gập khuỷu tay này; tất cả cử động của anh diễn ra rất nhanh, nhưng nó làm người ta có cảm giác nó kéo dài mấy phút. Cánh tay anh giơ lên, bất động – rồi nó vung mạnh ra phía trước. Miếng thạch cao bay ngang qua phòng, đập vào tường và vỡ tan thành nhiều mảnh. Đấy là lần duy nhất có người nhìn thấy Roark giận dữ tột độ như thể anh có thể giết người.
“Roark.”
“Chuyện gì?”
“Roark, tôi ước gì tôi đã gặp anh trước khi anh có việc phải thuê tôi.” Mallory nói một cách vô cảm, đầu anh ta đặt trên gối còn đôi mắt thì nhắm nghiền. “Như thế, sẽ chẳng có lý do nào khác lẫn vào. Bởi vì, anh thấy đấy, tôi rất biết ơn anh. Không phải là vì đã cho tôi việc làm. Không phải vì đã đến đây. Không phải vì những thứ anh sẽ làm vì tôi. Mà vì chính con người anh.”
Rồi Mallory nằm bất động, người duỗi thẳng và mềm oặt, như một người đã phải chịu đựng quá lâu và đã trở nên vô cảm với sự chịu đựng. Roark đứng bên cửa sổ. Anh nhìn căn phòng bừa bộn và chàng trai đang nằm trên giường. Anh băn khoăn không hiểu tại sao anh có cảm giác chờ đợi. Anh đang chờ một cái gì đó nổ tung trên đầu cả hai. Điều này thật phi lý. Rồi anh hiểu ra. Anh nghĩ rằng đây là cái người ta cảm thấy khi nằm trong một công sự; căn phòng này không phải là một bằng chứng ngẫu nhiên của sự nghèo khổ mà là dấu vết của một cuộc chiến; nó là tàn tích của những loại thuốc nổ còn khủng khiếp hơn bất cứ loại thuốc nổ nào trong các kho vũ khí trên thế giới. Một cuộc chiến … chống lại cái gì nhỉ?... Kẻ thù không có tên và cũng không có mặt. Nhưng chàng trai này là một người đồng chí của anh; cậu ta đã bị thương trên chiến trường. Roark đứng bên cạnh giường. Anh cảm thấy một cảm giác mới lạ, một ham muốn được nhấc Malloy lên và đưa người đồng chí của mình tới nơi an toàn. Chỉ có điều, cả địa ngục và nơi an toàn chưa bao giờ có địa chỉ cụ thể. Anh tiếp tục nghĩ đến Kent Lansing; anh cố nhớ lại một điều gì đó mà Kent Lansing đã nói…
Rồi Mallory mở mắt. Anh chống một khuỷu tay để nhổm người dậy. Roark kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống.
“Giờ thì nói đi” – anh nói. “Hãy nói những điều mà cậu đã thực sự muốn được nói. Đừng kể cho tôi về gia đình cậu, thời niên thiếu của cậu, bạn bè cậu hoặc cảm xúc của cậu. Hãy nói những điều cậu nghĩ.”
Mallory nhìn anh đầy ngờ vực và thầm thì:
“Làm sao anh biết điều đó?”
Roark mỉm cười. Anh không trả lời.
“Làm sao mà anh biết cái gì đã và đang giết tôi? Cứ dần dần, suốt những năm qua … nó làm cho tôi căm ghét con người khi mà tôi không hề muốn căm ghét… Anh cũng từng có cảm giác ấy chứ? Anh đã từng phải thấy những người bạn thân thiết nhất của anh yêu quý mọi thứ về anh – ngoại trừ những điều thực sự quan trọng? Và cái điều quan trọng nhất đối với anh lại chẳng là gì đối với họ, chẳng là cái thá gì, họ không muốn nghe một tiếng nào về chúng. Thế mà anh nói là anh muốn nghe những cái đó? Anh muốn biết tôi làm gì và tại sao tôi lại làm vậy, anh muốn biết tôi nghĩ gì! Anh không thấy chán? Anh thấy chúng quan trọng?”
“Nói đi,” Roark nói.
Rồi anh ngồi hàng giờ lắng nghe, trong khi Mallory kể về tác phẩm của mình, về ý tưởng đằng sau tác phẩm, về những tư tưởng định hình cuộc sống của anh ta. Anh ta nói nghiến ngấu, như một người chết đuối vừa lên được bờ, say sưa hớp những hớp lớn thứ không khí tinh tươm.
*
* *
Sáng hôm sau, Mallory đến văn phòng của Roark. Roark cho anh xem bản thiết kế ngôi đền. Khi đứng ở bên bàn thiết kế với một vấn đề cần giải quyết, Mallory thay đổi hẳn. Không còn vẻ hoài nghi ở anh, không còn dấu ấn những nỗi đau. Anh cầm bản vẽ bằng những cử động dứt khoát, mạnh mẽ, như một người lính đang làm nhiệm vụ. Cử chỉ đó cho thấy những thứ đã xảy ra với anh cũng không thể làm biến đổi chức năng của một thứ nằm trong con người anh – chính thứ đó giờ được huy động để làm việc. Anh tự tin một cách kiên định và vô tư; anh đối diện với Roark như một cá thể bình đẳng.
Anh nghiên cứu các bản vẽ rất lâu rồi ngẩng đầu lên. Khuôn mặt anh hoàn toàn bình thản, trừ đôi mắt.
“Cậu thích không?” Roark hỏi.
“Đừng dùng những từ ngớ ngẩn.”
Anh cầm một bản vẽ và đi đến cửa sổ. Anh đứng nhìn xuống bản vẽ, rồi nhìn xuống đường phố, rồi nhìn khuôn mặt Roark, và nhìn lại bản vẽ.
“Không thể nào” anh ta nói. “Không thể là cái này – và cái kia.” Anh giơ bản vẽ về phía đường phố bên dưới.
Trên phố đó có một phòng chơi bi-a; một nhà trọ có mái hiên kiểu Corinthian; một tấp áp phích quảng cáo một vở nhạc kịch ở Broadway; một dãy phơi đồ lót màu hồng và xám bay phấp phới trên một mái nhà.
“Không thể cùng một thành phố. Không thể trên cùng một quả đất,” Mallory nói. “Nhưng anh đã làm cho nó xảy ra. Nó trở thành cá thể… Tôi sẽ không bao giờ còn sợ hãi nữa.”
“Sợ cái gì?”
Mallory cẩn thận đặt bản thiết kế xuống bàn. Anh trả lời:
“Hôm qua anh nói cái gì đó về quy luật đầu tiên. Một quy luật đòi hỏi con người phải tìm kiếm cái tốt nhất … Thật buồn cười… Một thiên tài không được công nhận – đó là một câu chuyện cũ rích. Anh đã bao giờ nghĩ đến một câu chuyện còn tồi hơn nhiều chưa - một thiên tài được công nhận quá mức? … Có quá nhiều người ngốc nghếch và không nhận ra thế nào là tốt nhất - chuyện đó chẳng sao? Như thế chẳng đáng tức giận. Nhưng anh có hiểu được chuyện có những người nhận ra thế nào là tốt nhất nhưng lại không muốn đạt được điều đó?”
“Không.”
“Không. Anh không thể hiểu đâu. Tôi đã nghĩ về anh cả đêm. Tôi không thể ngủ chút nào. Anh có biết bí mật của anh là gì không? Đó là sự ngây thơ kinh khủng của anh?”
Roark cười phá lên và nhìn vào khuôn mặt trẻ con của Mallory.
“Không.” Mallory nói, “chuyện này chẳng hề buồn cười. Tôi biết tôi đang nói gì – còn anh thì không. Anh không thể biết được điều đó. Bởi vì anh quá mạnh. Anh quá mạnh đến mức anh không có tí ý niệm nào về bệnh tật. Anh có nghe nói về bệnh tật. Nhưng anh không thực sự tin điều đó. Tôi khôn ngoan hơn anh về một số thứ vì tôi yếu hơn anh. Tôi hiểu được những kẻ ở phía bên kia. Chính vì thế nó có tác động vào tôi… như hôm qua anh nhìn thấy.”
“Điều đó kết thúc rồi.”
“Có thể. Nhưng không hoàn toàn. Tôi không còn sợ nữa. Nhưng tôi biết rằng sự kinh sợ của tồn tại. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Nghe này, điều ghê sợ nhất mà anh có thể tưởng tượng được là gì? Đối với tôi – đó là bị bỏ lại tay không, trong một buồng giam khoá trái với một con thú săn mồi đang đói hoặc một kẻ điên mắc một loại bệnh khiến cho hắn hoàn toàn không còn tí não nào. Lúc đó, anh chẳng có gì ngoài tiếng nói của anh - tiếng nói và suy nghĩ của anh. Anh gào thét với con thú đó rằng nó không được chạm vào anh; anh dùng những ngôn từ hùng hồn nhất, những lập luận chặt chẽ nhất, cả con người anh biến thành biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Và rồi anh thấy đôi mắt sống động của nó đang nhìn anh và anh biết rằng nó không thể nghe thấy tiếng anh, rằng anh không thể chạm vào nó, không thể chạm tới bằng bất kỳ cách nào, thế mà nó vẫn đang thở và vẫn tiến tới trước mặt anh, theo mục đích riêng của nó. Đó chính là sự kinh hoàng. Đó là cái đang treo lơ lửng trên đầu thế giới này; đang lảng vảng trong loài người; vẫn là nó, một thứ gì đó khép kín, không có não, hoàn toàn bừa bãi nhưng nó lại cũng có một mục đích và mánh khoé của riêng nó. Tôi không nghĩ là tôi hèn nhát nhưng tôi sợ nó. Tôi chỉ biết được thế – tôi biết là nó có tồn tại. Còn tôi không biết mục đích của nó, tôi không biết bản chất của nó.
“Nguyên tắc của ông Trưởng khoa” Roark nói.
“Cái gì cơ?”
“Đó là điều thỉnh thoảng tôi vẫn boăn khoăn… Mallory, tại sao cậu lại định bắt chết Ellsworth Toohey?” Anh nhìn thấy đôi mắt Mallory và nói thêm: “Cậu không phải kể cho tôi nếu cậu không thích nói đến chuyện đó.”
“Tôi không thích nói đến chuyện đó,” Mallory nói với giọng gay gắt. “Nhưng đúng là phải hỏi câu đó.”
“Ngồi xuống đi” Roark nói “Chúng ta sẽ nói về phần việc của cậu.”
Sau đó Mallory chăm chú lắng nghe Roark nói về công trình và yêu cầu điêu khắc của anh. Anh kết luận:
“Chỉ một bức tượng. Nó sẽ đứng ở đây.” Anh chỉ vào bản thiết kế. “Ngôi đền sẽ bao quanh nó. Bức tượng một người phụ nữ khoả thân. Nếu cậu hiểu về công trình, cậu sẽ hiểu bức tượng phải như thế nào. Linh hồn của nhân loại. Tính anh hùng trong con người. Cả trong khao khát lẫn trong hiện thực. Thăng hoa trong khao khát – và trong bản chất tự thân của con người. Tìm kiếm Đức Chúa – vì tìm thấy chính mình. Hãy cho thấy không còn gì cao hơn ngoài chính nhân dạng con người… Cậu là người duy nhất có thể làm được cho tôi điều đó.
“Được.”
“Cậu sẽ làm việc như tôi làm việc cho các khách hàng của tôi. Cậu biết tôi muốn gì – phần còn lại thì tuỳ cậu. Làm thế nào thì tuỳ cậu. Tôi muốn đề xuất người mẫu, nhưng nếu cô ấy không phù hợp với mục đích của cậu, thì cậu có thể lựa chọn bất cứ người nào mà cậu thích.”
“Anh chọn ai?”
“Dominique Francon.”
“Ôi, lạy Chúa!”
“Cậu biết cô ấy à?”
“Tôi đã thấy cô ấy. Nếu tôi có thể có cô ấy… Chúa ơi! Không có người phụ nữ nào thích hợp hơn cho bức tượng này. Cô ấy …”
Anh ngừng lại. Rồi anh nói tiếp, giọng thất vọng:
“Cô ấy sẽ không chịu đứng làm mẫu đâu. Chắc chắc là không đứng cho anh.”
“Cô ấy sẽ làm mẫu.”
Roark đẩy vài quyển sách và một chiếc chảo rán ra khỏi chiếc ghế duy nhất trong phòng. Anh ngồi xuống. Mallory đứng trước mặt anh, vừa cười toe toét vừa đung đưa người.
“Ông đang làm một việc ngược đời” – Mallory nói – “Chả ai làm thế cả. Chắc là ông quẫn lắm thì mới phải chạy theo một gã điêu khắc. Lẽ ra ông phải làm thế này này: Ông phải bắt tôi đến văn phòng ông, và lần đầu tiên tôi đến, ông phải không có mặt. Đến lần thứ hai, ông phải bắt tôi chờ một tiếng rưỡi rồi mới bước vào phòng lễ tân để bắt tay và hỏi xem tôi có biết gia đình Wilson ở Podunk không và nói rằng thật tuyệt vì chúng ta có những người bạn chung, nhưng hôm nay ông đang rất bận và ông sẽ sớm mời tôi đi ăn trưa và sau đó chúng ta sẽ bàn công việc. Ông làm thế này khoảng hai tháng. Sau đó ông giao việc cho tôi. Rồi ông nói với tôi rằng tôi chả có tài quái gì và chưa bao giờ có tài và ông ném cái tôi làm vào thùng rác. Rồi ông thuê Valerian Bronson và anh ta hoàn thành công việc. Đấy, phải làm như thế. Chỉ có điều không phải lần này.”
Nhưng đôi mắt anh ta chăm chú quan sát Roark và hai con mắt đó có sự tự tin của một người lành nghề. Khi anh ta nói, giọng anh ta mất dần sự giễu cợt ngạo mạn và càng về cuối càng trở nên đều đều, bất lực.
“Không, không phải lần này” – Roark nói.
Mallory đứng bất động nhìn Roark.
“Ông là Howard Roark?” – anh ta nói – “Tôi thích cái toà nhà của ông. Chính vì thế mà tôi không muốn gặp ông. Như thế tôi đỡ buồn nôn mỗi lần tôi nhìn thấy chúng. Tôi muốn được tiếp tục nghĩ rằng người xây ra chúng xứng đáng với chúng.”
“Nếu như tôi xứng đáng thì sao?”
“Không đời nào.”
Nhưng anh ta ngồi xuống mép chiếc giường ọp ẹp và rũ người về phía trước. Cái liếc mắt của anh ta giống như một cái cân tinh vi đang cân đo con người Roark. Đấy là một ánh mắt ngạo mạn đang công khai định giá người khác.
“Nghe này” – Roark nói rành rọt và cẩn trọng – “Tôi muốn cậu nặn một bức tượng cho Đền Stoddard của tôi. Đưa tôi một mẩu giấy; tôi sẽ viết hợp đồng với cậu ngay bây giờ; tôi sẽ ghi rõ tôi nợ cậu 1 triệu đô la nếu tôi không thuê cậu hoặc không dùng bức tượng của cậu.”
“Ông có thể ăn nói bình thường. Tôi không say. Không hoàn toàn. Tôi vẫn hiểu.”
“Vậy thì?”
“Tại sao ông chọn tôi?”
“Vì cậu giỏi điêu khắc.”
“Không đúng.”
“Về chuyện cậu giỏi?”
“Không. Về lý do của ông. Ai bảo ông thuê tôi?”
“Không ai cả.”
“Có phải một ả nào đó đã ngủ với tôi không?”
“Tôi chẳng biết ả nào đã ngủ với cậu.”
“Ngân sách hẻo quá hả?”
“Không. Ngân sách không hạn chế.”
“Thương hại tôi à?”
“Không, Tại sao tôi phải thương hại cậu?”
“Muốn được quảng cáo về việc dùng người đã bắn Toohey hả?”
“Vì Chúa, không!”
“Vậy thì vì cái gì?”
“Sao cậu không bỏ mấy thứ vớ vẩn đó đi và nghĩ đến lý do đơn giản nhất?”
“Lý do gì?”
“Vì tôi thích tác phẩm của cậu.”
“Dĩ nhiên. Bọn họ đều nói thế cả. Ai cũng biết cách nói thế và tin thế. Cứ thử tưởng tượng, nếu bóc cái vỏ giả dối ấy ra. Được rồi, ông thích tác phẩm của tôi. Nào, lý do thực sự là gì?”
“Là tôi thích tác phẩm của cậu.”
Mallory nói nghiêm trang, giọng anh hoàn toàn tỉnh táo.
“Ý ông là ông đã nhìn những thứ tôi làm và ông thích chúng – ông – chính ông – một mình ông – chứ không phải vì ai đó bảo rằng ông nên thích chúng hoặc tại sao ông nên thích chúng – và ông đã quyết định rằng ông muốn có tác phẩm của tôi, vì lý do đó – chỉ vì lý do đó – mà không hề biết gì về tôi và cũng cóc quan tâm đến chuyện khác – chỉ vì tác phẩm của tôi và … và cái mà ông nhìn thấy từ chúng – chỉ vì thế mà ông đã quyết định thuê tôi và ông bỏ công tìm tôi và đến tận đây và chịu lăng mạ – chỉ vì ông đã nhìn thấy – và cái mà ông thấy làm cho tôi trở nên quan trọng đối với ông, làm cho ông muốn có tôi? Ý ông là thế à?”
“Chính là thế” Roark trả lời.
Đôi mắt Malloy mở to. Rồi anh lắc đầu và nói cộc lốc, như để an ủi chính mình:
“Không.”
Anh cúi người về phía trước. Giọng anh van nỉ và chết chóc:
“Nghe này, ông Roark. Tôi sẽ không giận ông. Tôi chỉ muốn biết. Thôi được rồi tôi thấy là ông đã nhất định phải bắt tôi làm việc cho ông và ông biết là ông có thể có tôi vì bất cứ lý do nào, ông không phải ký bất kỳ hợp đồng một triệu đô la nào cả; nhìn cái phòng này xem, ông biết là ông đã tóm được tôi, vậy tại sao ông không nói thật với tôi? Với ông thì đằng nào cũng thế - nhưng với tôi thì lại rất quan trọng.”
“Cái gì rất quan trọng với cậu?”
“Không phải để… không phải để … Được rồi. Tôi đã nghĩ chẳng ai còn muốn thuê tôi. Nhưng ông lại muốn thuê tôi. Được rồi. Tôi có thể chịu đựng được việc đi làm trở lại. Có điều, tôi không muốn nghĩ rằng tôi đang làm việc cho một người … thích các tác phẩm của tôi. Cái đó là cái tôi không thể chịu đựng thêm. Tôi sẽ thấy dễ chịu hơn nếu ông nói với tôi, tôi sẽ… tôi sẽ cảm thấy yên ổn hơn. Ông đóng kịch với tôi làm gì? Tôi chẳng là cái thá gì cả. Tôi sẽ không nghĩ xấu về ông, nếu đó là điều ông e ngại. Ông thấy chưa? Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu ông nói cho tôi biết sự thật. Như thế, mọi chuyện sẽ đơn giản và thẳng thắn. Tôi sẽ tôn trọng ông hơn. Thật đấy.”
“Cậu làm sao thế? Họ đã làm những gì với cậu? Tại sao cậu lại muốn nói những thứ như vậy?”
“Bởi vì…” Mallory đột ngột gầm lên, rồi giọng anh ta vỡ ra, đầu anh gục xuống. Anh thì thầm: “bởi vì tôi đã mất hai năm” – anh ta khoát một vòng yếu ớt quanh căn phòng “tôi đã mất hai năm như thế này, – tôi đã cố để quên rằng những gì ông vừa nói với tôi không hề tồn tại…”
Roark bước lại phía anh ta. Anh nâng cằm Mallory lên và giật mạnh:
“Cậu là đồ ngốc. Cậu không có quyền quan tâm đến những gì tôi nghĩ về tác phẩm của cậu, về việc tôi là ai hoặc vì sao tôi đến đây. Cậu quá giỏi để phải quan tâm đến những thứ ấy. Nhưng nếu cậu muốn biết thì thế này – tôi nghĩ rằng cậu là nhà điêu khắc giỏi nhất hiện nay. Tôi nghĩ thế vì những bức tượng của cậu không mô tả con-người-như-đang-là, mà chúng mô tả con-người-như-có-thể-là và phải-là. Bởi vì cậu đã vượt qua cái có-lẽ-tồn-tại để cho xã hội thấy cái có-thể-tồn-tại, nhưng chỉ tồn tại nhờ có lao động của cậu. Bởi vì những tác phẩm của cậu không hề có biểu hiện khinh ghét con người. Vì cậu có một sự kính trọng lớn lao với con người. Bởi vì những tác phẩm của cậu cho thấy bản chất anh hùng của con người. Vì thế, tôi không đến đây để làm ơn cho cậu hoặc vì tôi thương hại cậu hay vì cậu rất cần có việc làm. Tôi đến vì một lý do đơn giản và ích kỷ – nó cũng là lý do mà một người chọn thức ăn sạch sẽ nhất anh ta có thể tìm thấy. Đó là quy luật sinh tồn phải không – quy luật luôn tìm kiếm thứ tốt nhất. Tôi không đến đây vì lợi ích của cậu. Tôi đến vì lợi ích của tôi.”
Mallory vùng ra khỏi tay Roark và gục mặt xuống giường. Hai cánh tay anh duỗi thẳng ở hai bên đầu còn bàn tay thì nắm lại thành hai quả đấm. Lưng áo sơ mi rung rung chứng tỏ anh ta đang khóc; lớp vải áo và hai nắm đấm vặn vẹo chầm chậm, hằn sâu vào chiếc gối. Roark biết rằng mình đang nhìn một người đàn ông chưa từng khóc bao giờ. Anh ngồi xuống bên giường và không thể rời mắt khỏi những cổ tay đang vặn vẹo, mặc dù cảnh tượng đó thật khó chịu đựng.
Một lúc sau, Mallory ngồi dậy. Anh ta nhìn Roark và thấy một khuôn mặt bình thản nhất và nhân từ nhất – một khuôn mặt không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của sự thương hại. Nó không giống sắc mặt của những kẻ nhìn ngắm sự đau đớn tột cùng của người khác với sự thoả mãn thầm kín – hoan hỉ với cảnh một người ăn mày cầu xin sự thương xót của mình. Đó không phải bộ mặt của một tâm hồn đói khát vốn được nuôi sống bằng sự nhục nhã của người khác. Khuôn mặt Roark có vẻ mệt mỏi, hai thái dương gồ lên như thể anh vừa bị đấm. Nhưng đôi mắt trong sáng của anh lặng lẽ nhìn Mallory. Đấy là một cái nhìn trong sáng thể hiện sự thấu hiểu và tôn trọng.
“Giờ thì nằm xuống đi,” Roark nói. “Hãy nằm yên một lúc.”
“Làm sao mà họ lại để ông tồn tại?”
“Nằm xuống. Nghỉ đi. Chúng ta sẽ nói chuyện sau.”
Mallory đứng dậy. Roark ấn vai anh xuống, nhấc chân anh ta lên khỏi sàn nhà và đặt đầu anh ta lên gối. Mallory không kháng cự.
Khi bước lùi lại, Roark vấp phải một chiếc bàn chất đầy thứ linh tinh. Có cái gì đó loảng xoảng trên nền nhà. Mallory nhỏm phắt dậy để cố bắt lấy nó. Roark gạt cánh tay anh ta sang bên và nhặt vật đó lên.
Đó là một miếng thạch cao nhỏ – loại thường được bán ở các cửa hàng quà tặng rẻ tiền. Nó có hình một em bé đang nằm sấp bụng, hai mông nhổm dậy, mắt len lén nhìn qua vai. Chỉ vài đường tiết thể hiện các bắp thịt nhưng nó cho thấy một tài năng nổi bật và không thể bị phủ nhận cho dù phần còn lại các bức tượng cho thấy một nỗ lực cố ý của nhà điêu khắc – rõ ràng anh ta đã cố gắng nặn một cách sỗ sàng, thô tục, và rập khuôn. Đấy là một số nỗ lực vụng về không thuyết phục và vất vả. Bức tượng nhỏ trông như một dụng cụ ở các phòng tra tấn.
Mallory thấy tay Roark bắt đầu run lên. Rồi một tay Roark đưa ra sau, qua đầu, chầm chậm, như thế anh đang thu trọng lượng không khí bằng cử động gập khuỷu tay này; tất cả cử động của anh diễn ra rất nhanh, nhưng nó làm người ta có cảm giác nó kéo dài mấy phút. Cánh tay anh giơ lên, bất động – rồi nó vung mạnh ra phía trước. Miếng thạch cao bay ngang qua phòng, đập vào tường và vỡ tan thành nhiều mảnh. Đấy là lần duy nhất có người nhìn thấy Roark giận dữ tột độ như thể anh có thể giết người.
“Roark.”
“Chuyện gì?”
“Roark, tôi ước gì tôi đã gặp anh trước khi anh có việc phải thuê tôi.” Mallory nói một cách vô cảm, đầu anh ta đặt trên gối còn đôi mắt thì nhắm nghiền. “Như thế, sẽ chẳng có lý do nào khác lẫn vào. Bởi vì, anh thấy đấy, tôi rất biết ơn anh. Không phải là vì đã cho tôi việc làm. Không phải vì đã đến đây. Không phải vì những thứ anh sẽ làm vì tôi. Mà vì chính con người anh.”
Rồi Mallory nằm bất động, người duỗi thẳng và mềm oặt, như một người đã phải chịu đựng quá lâu và đã trở nên vô cảm với sự chịu đựng. Roark đứng bên cửa sổ. Anh nhìn căn phòng bừa bộn và chàng trai đang nằm trên giường. Anh băn khoăn không hiểu tại sao anh có cảm giác chờ đợi. Anh đang chờ một cái gì đó nổ tung trên đầu cả hai. Điều này thật phi lý. Rồi anh hiểu ra. Anh nghĩ rằng đây là cái người ta cảm thấy khi nằm trong một công sự; căn phòng này không phải là một bằng chứng ngẫu nhiên của sự nghèo khổ mà là dấu vết của một cuộc chiến; nó là tàn tích của những loại thuốc nổ còn khủng khiếp hơn bất cứ loại thuốc nổ nào trong các kho vũ khí trên thế giới. Một cuộc chiến … chống lại cái gì nhỉ?... Kẻ thù không có tên và cũng không có mặt. Nhưng chàng trai này là một người đồng chí của anh; cậu ta đã bị thương trên chiến trường. Roark đứng bên cạnh giường. Anh cảm thấy một cảm giác mới lạ, một ham muốn được nhấc Malloy lên và đưa người đồng chí của mình tới nơi an toàn. Chỉ có điều, cả địa ngục và nơi an toàn chưa bao giờ có địa chỉ cụ thể. Anh tiếp tục nghĩ đến Kent Lansing; anh cố nhớ lại một điều gì đó mà Kent Lansing đã nói…
Rồi Mallory mở mắt. Anh chống một khuỷu tay để nhổm người dậy. Roark kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống.
“Giờ thì nói đi” – anh nói. “Hãy nói những điều mà cậu đã thực sự muốn được nói. Đừng kể cho tôi về gia đình cậu, thời niên thiếu của cậu, bạn bè cậu hoặc cảm xúc của cậu. Hãy nói những điều cậu nghĩ.”
Mallory nhìn anh đầy ngờ vực và thầm thì:
“Làm sao anh biết điều đó?”
Roark mỉm cười. Anh không trả lời.
“Làm sao mà anh biết cái gì đã và đang giết tôi? Cứ dần dần, suốt những năm qua … nó làm cho tôi căm ghét con người khi mà tôi không hề muốn căm ghét… Anh cũng từng có cảm giác ấy chứ? Anh đã từng phải thấy những người bạn thân thiết nhất của anh yêu quý mọi thứ về anh – ngoại trừ những điều thực sự quan trọng? Và cái điều quan trọng nhất đối với anh lại chẳng là gì đối với họ, chẳng là cái thá gì, họ không muốn nghe một tiếng nào về chúng. Thế mà anh nói là anh muốn nghe những cái đó? Anh muốn biết tôi làm gì và tại sao tôi lại làm vậy, anh muốn biết tôi nghĩ gì! Anh không thấy chán? Anh thấy chúng quan trọng?”
“Nói đi,” Roark nói.
Rồi anh ngồi hàng giờ lắng nghe, trong khi Mallory kể về tác phẩm của mình, về ý tưởng đằng sau tác phẩm, về những tư tưởng định hình cuộc sống của anh ta. Anh ta nói nghiến ngấu, như một người chết đuối vừa lên được bờ, say sưa hớp những hớp lớn thứ không khí tinh tươm.
*
* *
Sáng hôm sau, Mallory đến văn phòng của Roark. Roark cho anh xem bản thiết kế ngôi đền. Khi đứng ở bên bàn thiết kế với một vấn đề cần giải quyết, Mallory thay đổi hẳn. Không còn vẻ hoài nghi ở anh, không còn dấu ấn những nỗi đau. Anh cầm bản vẽ bằng những cử động dứt khoát, mạnh mẽ, như một người lính đang làm nhiệm vụ. Cử chỉ đó cho thấy những thứ đã xảy ra với anh cũng không thể làm biến đổi chức năng của một thứ nằm trong con người anh – chính thứ đó giờ được huy động để làm việc. Anh tự tin một cách kiên định và vô tư; anh đối diện với Roark như một cá thể bình đẳng.
Anh nghiên cứu các bản vẽ rất lâu rồi ngẩng đầu lên. Khuôn mặt anh hoàn toàn bình thản, trừ đôi mắt.
“Cậu thích không?” Roark hỏi.
“Đừng dùng những từ ngớ ngẩn.”
Anh cầm một bản vẽ và đi đến cửa sổ. Anh đứng nhìn xuống bản vẽ, rồi nhìn xuống đường phố, rồi nhìn khuôn mặt Roark, và nhìn lại bản vẽ.
“Không thể nào” anh ta nói. “Không thể là cái này – và cái kia.” Anh giơ bản vẽ về phía đường phố bên dưới.
Trên phố đó có một phòng chơi bi-a; một nhà trọ có mái hiên kiểu Corinthian; một tấp áp phích quảng cáo một vở nhạc kịch ở Broadway; một dãy phơi đồ lót màu hồng và xám bay phấp phới trên một mái nhà.
“Không thể cùng một thành phố. Không thể trên cùng một quả đất,” Mallory nói. “Nhưng anh đã làm cho nó xảy ra. Nó trở thành cá thể… Tôi sẽ không bao giờ còn sợ hãi nữa.”
“Sợ cái gì?”
Mallory cẩn thận đặt bản thiết kế xuống bàn. Anh trả lời:
“Hôm qua anh nói cái gì đó về quy luật đầu tiên. Một quy luật đòi hỏi con người phải tìm kiếm cái tốt nhất … Thật buồn cười… Một thiên tài không được công nhận – đó là một câu chuyện cũ rích. Anh đã bao giờ nghĩ đến một câu chuyện còn tồi hơn nhiều chưa - một thiên tài được công nhận quá mức? … Có quá nhiều người ngốc nghếch và không nhận ra thế nào là tốt nhất - chuyện đó chẳng sao? Như thế chẳng đáng tức giận. Nhưng anh có hiểu được chuyện có những người nhận ra thế nào là tốt nhất nhưng lại không muốn đạt được điều đó?”
“Không.”
“Không. Anh không thể hiểu đâu. Tôi đã nghĩ về anh cả đêm. Tôi không thể ngủ chút nào. Anh có biết bí mật của anh là gì không? Đó là sự ngây thơ kinh khủng của anh?”
Roark cười phá lên và nhìn vào khuôn mặt trẻ con của Mallory.
“Không.” Mallory nói, “chuyện này chẳng hề buồn cười. Tôi biết tôi đang nói gì – còn anh thì không. Anh không thể biết được điều đó. Bởi vì anh quá mạnh. Anh quá mạnh đến mức anh không có tí ý niệm nào về bệnh tật. Anh có nghe nói về bệnh tật. Nhưng anh không thực sự tin điều đó. Tôi khôn ngoan hơn anh về một số thứ vì tôi yếu hơn anh. Tôi hiểu được những kẻ ở phía bên kia. Chính vì thế nó có tác động vào tôi… như hôm qua anh nhìn thấy.”
“Điều đó kết thúc rồi.”
“Có thể. Nhưng không hoàn toàn. Tôi không còn sợ nữa. Nhưng tôi biết rằng sự kinh sợ của tồn tại. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Tôi biết nỗi kinh hoàng đó. Anh thì không có khả năng biết đến nó. Nghe này, điều ghê sợ nhất mà anh có thể tưởng tượng được là gì? Đối với tôi – đó là bị bỏ lại tay không, trong một buồng giam khoá trái với một con thú săn mồi đang đói hoặc một kẻ điên mắc một loại bệnh khiến cho hắn hoàn toàn không còn tí não nào. Lúc đó, anh chẳng có gì ngoài tiếng nói của anh - tiếng nói và suy nghĩ của anh. Anh gào thét với con thú đó rằng nó không được chạm vào anh; anh dùng những ngôn từ hùng hồn nhất, những lập luận chặt chẽ nhất, cả con người anh biến thành biểu tượng của chân lý tuyệt đối. Và rồi anh thấy đôi mắt sống động của nó đang nhìn anh và anh biết rằng nó không thể nghe thấy tiếng anh, rằng anh không thể chạm vào nó, không thể chạm tới bằng bất kỳ cách nào, thế mà nó vẫn đang thở và vẫn tiến tới trước mặt anh, theo mục đích riêng của nó. Đó chính là sự kinh hoàng. Đó là cái đang treo lơ lửng trên đầu thế giới này; đang lảng vảng trong loài người; vẫn là nó, một thứ gì đó khép kín, không có não, hoàn toàn bừa bãi nhưng nó lại cũng có một mục đích và mánh khoé của riêng nó. Tôi không nghĩ là tôi hèn nhát nhưng tôi sợ nó. Tôi chỉ biết được thế – tôi biết là nó có tồn tại. Còn tôi không biết mục đích của nó, tôi không biết bản chất của nó.
“Nguyên tắc của ông Trưởng khoa” Roark nói.
“Cái gì cơ?”
“Đó là điều thỉnh thoảng tôi vẫn boăn khoăn… Mallory, tại sao cậu lại định bắt chết Ellsworth Toohey?” Anh nhìn thấy đôi mắt Mallory và nói thêm: “Cậu không phải kể cho tôi nếu cậu không thích nói đến chuyện đó.”
“Tôi không thích nói đến chuyện đó,” Mallory nói với giọng gay gắt. “Nhưng đúng là phải hỏi câu đó.”
“Ngồi xuống đi” Roark nói “Chúng ta sẽ nói về phần việc của cậu.”
Sau đó Mallory chăm chú lắng nghe Roark nói về công trình và yêu cầu điêu khắc của anh. Anh kết luận:
“Chỉ một bức tượng. Nó sẽ đứng ở đây.” Anh chỉ vào bản thiết kế. “Ngôi đền sẽ bao quanh nó. Bức tượng một người phụ nữ khoả thân. Nếu cậu hiểu về công trình, cậu sẽ hiểu bức tượng phải như thế nào. Linh hồn của nhân loại. Tính anh hùng trong con người. Cả trong khao khát lẫn trong hiện thực. Thăng hoa trong khao khát – và trong bản chất tự thân của con người. Tìm kiếm Đức Chúa – vì tìm thấy chính mình. Hãy cho thấy không còn gì cao hơn ngoài chính nhân dạng con người… Cậu là người duy nhất có thể làm được cho tôi điều đó.
“Được.”
“Cậu sẽ làm việc như tôi làm việc cho các khách hàng của tôi. Cậu biết tôi muốn gì – phần còn lại thì tuỳ cậu. Làm thế nào thì tuỳ cậu. Tôi muốn đề xuất người mẫu, nhưng nếu cô ấy không phù hợp với mục đích của cậu, thì cậu có thể lựa chọn bất cứ người nào mà cậu thích.”
“Anh chọn ai?”
“Dominique Francon.”
“Ôi, lạy Chúa!”
“Cậu biết cô ấy à?”
“Tôi đã thấy cô ấy. Nếu tôi có thể có cô ấy… Chúa ơi! Không có người phụ nữ nào thích hợp hơn cho bức tượng này. Cô ấy …”
Anh ngừng lại. Rồi anh nói tiếp, giọng thất vọng:
“Cô ấy sẽ không chịu đứng làm mẫu đâu. Chắc chắc là không đứng cho anh.”
“Cô ấy sẽ làm mẫu.”
Bình luận facebook