Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Kafka bên bờ biển - Chương 31-32
Chương 31
Ngay sau một giờ chiều, tôi mang cà phê lên tầng hai. Như mọi khi, cửa phòng vẫn mở. Miss Saeki đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài, một tay đặt trên bậu cửa. Chìm đắm trong suy tư đến độ không biết là những ngón của bàn tay kia đang vân vê khuy áo. Lần này, trên bàn không có cả bút lẫn giấy viết. Tôi đặt tách cà phê lên bàn. Một lớp mây mỏng che phủ bầu trời và không thấy tiếng chim hót bên ngoài.
Cuối cùng, bà cũng nhận thấy sự có mặt của tôi, bứt khỏi dòng suy tưởng, rời cửa sổ, ngồi vào bàn và nhấp một ngụm cà phê. Bà ra hiệu cho tôi ngồi vào chiếc ghế hôm qua. Tôi ngồi xuống và nhìn bà đang nhấp từng ngụm cà phê bên kia bàn. Liệu bà có nhớ gì về chuyện xảy ra đêm hôm qua không? Tôi không cách chi biết được. Bà có vẻ như biết hết đồng thời lại như chẳng biết gì cả. Hình ảnh thân thể bà thoát y trở lại trong trí tôi và tôi nhớ lại cảm giác khi tiếp xúc với những bộ phận khác nhau của bà. Tôi thậm chí không dám chác đó có phải là thân thể người đàn bà đang ngồi trước mặt tôi không. Tuy nhiên, lúc đó thì tôi chắc chắn một trăm phần trăm.
Bà mặc một chiếc áo sơ mi màu xanh nhạt mượt như lụa và một chiếc váy bo màu be, cổ đeo một chiếc vòng bạc mảnh rất sang. Những ngón tay thon thả của bà đan vào nhau trên mặt bàn, đẹp như một món đồ mỹ nghệ. "Vậy bây giờ cháu đã thích vùng này chưa?"
"Cô muốn nói Takamatsu?"
"Phải."
"Cháu không biết. Cháu chưa thăm được nhiều nơi trong thành phố, chỉ mới thấy vài thứ trên dọc đường đi. Nhà ga, một phòng tập thể dục công cộng, khách sạn cháu ở lúc đầu và tất nhiên là thư viện này... đại loại những nơi như thế."
"Cháu có thấy nó buồn chán không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu chưa biết. Cháu chưa có thì giờ để buồn chán, vả chăng các thành phố đều na ná như nhau. Tại sao cô lại hỏi thế? Cô nghĩ đây là một thành phố buồn tẻ chăng?"
Bà khẽ nhún vai. i còn trẻ cô nghĩ thế. Cô cực kỳ muốn thoát khỏi nó. Rời bỏ nó và đến một nơi nào khác, ở đó một cái gì khác thường đang chờ mình, ở đó mình có thể tìm thấy những người thú vị hơn."
"Những người thú vị?"
Miss Saeki khẽ lắc đầu. "Dạo ấy cô còn trẻ," bà nói. "Cô đồ rằng hầu hết những người trẻ tuổi đều có những ý nghĩ như thế. Cháu có thế không?"
"Không, cháu không bao giờ cảm thấy rằng nếu mình đến một nơi nào khác, ở đó sẽ có cái gì đặc biệt đang chờ mình. Cháu chỉ muốn hiện hữu ở một nơi nào khác, đơn giản thế thôi. Bất cứ nơi nào trừ nơi ấy."
"Nơi ấy?"
"Là Nogata, quận Nakano. Nơi cháu sinh ra và lớn lên."
Nghe nhắc đến cái tên ấy, một cái gì vụt lóe lên trong mắt Miss Saeki. Ít nhất là tôi cũng có cảm giác như thế.
"Cháu chẳng mấy quan tâm đến chuyện mình đi đâu, miễn là rời khỏi nơi đó?" bà hỏi.
"Đúng vậy," tôi đáp. "Đi đâu không thành vấn đề. Cháu cần phải ra khỏi đó, bằng không cháu sẽ xong đời, cháu biết thế. Cho nên cháu mới bỏ nhà đi."
Bà nhìn xuống đôi bàn tay đặt trên bàn với một vẻ rất vô tư trong mắt. Rồi rất điềm đạm, bà nói, "Hồi hai mươi tuổi, khi cô rời nơi này, cô cũng nghĩ như cháu - mình phải đi, bằng không sẽ không sống nổi. Và cô tin chắc rằng cô sẽ không bao giờ thấy lại nơi này chừng nào cô còn sống. Cô không bao giờ tính chuyện trở lại, nhưng rồi một số sự việc xảy ra, thế là giờ cô lại ở đây. Như thể lại bắt đầu lại từ đầu vậy." Bà quay mặt đi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Lớp mây che phủ bầu trời vẫn không đổi màu và không một gợn gió nào gọi là có. Tất cả im sững như phông cảnh trong một cuốn phim vậy.
"Trong cuộc đời, có lúc xảy ra những điều không thể tin được," bà nói.
"Cô muốn nói có thể cháu sẽ lại quay về điểm xuất phát?"
"Cô không biết. Cái đó còn tùy thuộc cháu, mà nếu điều đó có xảy ra thì cũng còn lâu. Nhưng cô nghĩ với một con người, nơi sinh ra cũng như nơi chết là rất quan trọng. Anh không thể chọn nơi ra đời, nhưng nơi chết thì anh có thể chọn... trong chừng mực nào đấy." Bà nói những lời này với một giọng bình thản, mắt đăm đăm nhìn qua cửa sổ như đang nói với một người nào ngoài đó. Chợt nhớ đến sự hiện diện của tôi, bà quay lại. "Cô tự hỏi tại sao cô lại tâm sự tất cả những điều đó với cháu."
"Vì cháu không phải là người vùng này và cô cháu mình khác xa nhau về tuổi tác."
"Cô cũng đồ là thế," bà nói.
Trong vòng hai mươi thậm chí là ba mươi giây, chúng tôi lặng thinh, mỗi người chìm đắm trong dòng suy nghĩ của riêng mình. Bà nhấc tách cà phê lên và nhấp một ngụm nữa.
Tôi quyết định nói thẳng ra. "Miss Saeki, cháu cũng có điều cần tâm sự với cô."
Bà nhìn tôi và mỉm cười. "Cô thấy là cô cháu ta đang trao đổi những bí mật riêng tư."
"Về phần cháu thì không phải là một bí mật. Chỉ là một giả thuyết
"Một giả thuyết?"
"Vâng."
"Nghe hay đấy."
"Đó là hệ luận của những gì cô cháu mình đang trao đổi," tôi nói. "Ý cháu muốn hỏi có phải cô trở về thành phố này để chết?"
Như một vành trăng bạc lúc bình minh, một nụ cười thoáng hiện trên môi bà. "Có lẽ thế. Nhưng điều đó không quan trọn. Dù ta đến một nơi để sống hay để chết, những điều ta làm hằng ngày vẫn chẳng khác gì nhau."
"Cô có mong chết không?"
"Cô tự hỏi...," bà nói. "Chính cô cũng không biết."
"Sinh thời, cha cháu đã mong được chết."
"Cha cháu chết rồi ư?"
"Cách đây không lâu," tôi nói. "Thực ra là rất gần đây thôi."
"Tại sao cha cháu muốn chết?"
Tôi hít một hơi thật sâu. "Trong một thời gian dài, cháu không sao đoán được. Nhưng bây giờ thì cháu đã vỡ ra. Sau khi đến đây, rốt cuộc, cháu đã hiểu."
"Tại sao?"
"Cha cháu yêu cô nhưng không thể làm cách nào để khiến cô trở lại. Hoặc có thể là ngay từ đàu, ông đã không sao thực sự chiếm hữu được cô. Ông biết rõ điều đó và chính vì thế mà ông muốn chết. Và cũng vì thế mà ông muốn con trai ông - cũng là con trai của cô - giết ông. Nói cách khác, là cháu đây. Ông muốn cháu ngủ với cô và với cả chị cháu nữa. Đó là lời tiên tri của ông, lời nguyền của ông. Ông đã lập trình như vậy ngay trong nội tạng cháu."
Miss Saeki đặt tách cà phê xuống đĩa đánh cạch một cái. Bà nhìn thẳng vào tôi, nhưng bà không thực sự thấy tôi. Cái nhìn của bà đối với một khoảng chân không nào đó ở một nơi nào khác. "Cô có biết cha cháu không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu đã nói với cô đây chỉ là một giả thuyết mà."
Bà đặt cả hai tay lên bàn, tay nọ chồng lên tay kia. Vẫn còn thấp thoáng một nét cười ở khóe môi. "Vậy trong giả thuyết này, cô là mẹ cháu?"
"Đúng thế," tôi nói. "Cô đã sống với cha cháu, sinh ra cháu và rồi bỏ đi, để cháu lại. Vào cái mùa hè năm cháu vừa lên bốn."
"Vậy giả thuyết của cháu là thế?"
Tôi gật đầu.
"Đó là lý do khiến cháu hôm qua hỏi cô có con hay không?"
Tôi lại gật đầu.
"Cô đã nói với cháu rằng cô không thể trả lời câu hỏi đó. Rằng cô không thể nói đơn giản là có hoặc không."
"Cháu biết."
"Vậy giả thuyết của cháu chỉ là tự biện."
Tôi lại gật đầu. "Đúng thế."
"Vậy hãy nói cho cô nghe cha cháu chết như thế nào?"
"Ông ấy bị ám sát."
"Cháu không giết ông ấy đấy chứ?"
"Không, cháu không giết ông. Cháu có chứng cớ ngoại phạm."
"Nhưng cháu không chắc chắn hoàn toàn, phải không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu không chắc chắn một trăm phần trăm."
Bà lại nhấc tách cà phê lên, nhấp một ngụm nhỏ như thể nó chẳng có vị gì. "Tại sao cha cháu lại trút lên đầu cháu một lời rủa nguyền như vậy?"
"Chắc ông muốn cháu tiếp nối ý chí của ông."
"Tức là thèm muốn cô?"
"Vâng," tôi nói.
Miss Saeki nhìn trân trân vào tách cà phê trong tay, rồi lại ngẩng lên.
"Vậy cháu có... thèm muốn cô không?"
Tôi gật đầu một cách dứt khoát.
Bà nhắm mắt lại. Tôi đăm đăm nhìn cặp mí mắtn hắm nghiền của bà hồi lâu, và qua đó, tôi có thể cảm nhận vùng bóng tối bà đang thấy. Những hình thù kỳ dị nổi lên trong đó, bồng bềnh rồi tan biến.
"Cuối cùng, bà mở mắt ra. "Cháu muốn nói trên giả thuyết đó?"
"Không, không chỉ trên giả thuyết. Cháu thèm muốn cô thật, vượt xa giới hạn của giả thuyết."
"Cháu muốn giao hợp với cô?"
Tôi gật đầu.
Bà him mắt lại như thể bị chói sáng. "Cháu đã bao giờ làm tình với một cô gái chưa?"
Tôi lại gật đầu. Đêm qua... với cô ấy, tôi nghĩ thầm. Nhưng tôi không thể nói thành tiếng. Bà tịnh không nhớ gì hết.
Một cái gì đó gần giống như tiếng thở dài thoát ra khỏi môi bà. "Kafka, cô biết cháu ý thức được điều này: cháu mới mười lăm mà cô thì đã ngoài năm mươi."
"Vấn đề không đơn giản như thế. Ở đây ta không bàn trên bình diện thời gian ấy. Cháu biết một Miss Saeki ở tuổi mười lăm. Và cháu yêu cô ở độ tuổiấy. Người thiếu nữ ấy hiện vẫn ở trong cô, vẫn ngủ trong cô. Tuy nhiên, khi cô ngủ thì nàng thức dậy và cháu đã thấy điều đó."
Bà nhắm mắt lại một lần nữa, mí mắt nhè nhẹ rung.
"Cháu yêu cô, và đối với cháu, đó là điều quan trọng. Cháu nghĩ cô hiểu điều đó."
Như một người từ đáy biển ngoi lên mặt nước, bà hít một hơi thật sâu. Bà cố tìm lời để diễn đạt mà không ra.
"Cô xin lỗi, Kafka, cháu có thể để cô một mình một lúc được không? cuối cùng, bà nói. "Và khi ra nhớ đóng cửa lại giùm cô."
Tôi gật đầu, đứng dậy đi ra, nhưng một cái gì kéo tôi lại. Tôi dừng lại ở cửa, quay lại, bước tới chỗ bà. Tôi đưa tay vuốt tóc bà. Qua những mớ tóc, tay tôi chạm vào vành tai nhỏ nhắn của bà. Tôi không thể ngăn mình lại.
Miss Saeki ngạc nhiênước lên và sau một thoáng lưỡng lự, đặt tay lên tay tôi. "Dù sao chăng nữa, cháu và cái giả thuyết của cháu đã nhắm trúng một mục tiêu xa hơn cháu tưởng nhiều. Cháu có biết thế không?"
Tôi gật đầu. "Cháu biết. Nhưng khoảng cách có thể rút ngắn bằng ẩn dụ."
"Chúng ta không phải là ẩn dụ."
"Cháu biết," tôi nói. "Nhưng ẩn dụ giúp loại bỏ những gì ngăn cách cô với cháu."
Bà thoáng mỉm cười, ngước nhìn tôi. "Đó là lời tán tỉnh kỳ lạ nhất cô từng nghe thấy đấy."
"Có biết bao điều kỳ lạ đang diễn ra, nhưng cháu cảm thấy mình đang từ từ đến gần chân lý hơn."
"Thực sự đến gần một chân lý ẩn dụ, hay đến gần một chân lý đích thực theo nghĩa ẩn dụ? Hay có thể hai đằng bổ sung cho nhau?"
"Đằng nào thì cháu cũng không chịu nổi nỗi buồn cháu đang cảm thấy lúc này đây," tôi nói với bà.
"Cô cũng cảm thấy như cháu."
"Vậy cô trở về đây để chết?"
Bà lắc đầu. "Nói thật tình, cô không tìm đến cái chết. Cô chỉ chờ nó đến thôi. Như kiểu ngồi trên một chiếc ghế băng ở ga, chờ tàu đến vậy."
"Thế cô có biết bao giờ thì tàu đến không?"
Bà cất tay khỏi tay tôi và áp những đầu ngón tay lên mí mắt. "Kafka, cô đã sống đền mòn xơ đời mình, mòn ơ bản thân mình. Đến một độ nào đó, lẽ ra cô đã nên ngừng sống, nhưng cô đã không làm thế. Cô biết đời mình đã hết ý nghĩa mà vẫn không thể từ bỏ nó. Thành thử cô đâm lần lữa, phí phạm thời gian vào những việc vô ích, kết quả là làm tổn thương bản thân mình và những người xung quanh. Vì thế giờ đây, cô đang bị trừng phạt, tựa như chịu một lời rủa nguyền vậy. Cô đã từng có một cái gì đó quá trọn vẹn, quá hoàn hảo, thế rồi sau đó, cô chỉ có thể tự khinh bỉ mình mà thôi. Đó là sự rủa nguyền mà cô không bao giờ thoát được. Cho nên cô chẳng sợ chết. Và để trả lời câu hỏi của cháu - có, cô biết khá rõ khi nào thì tàu đến."
Một lần nữa, tôi lại cầm lấy tay bà. Bàn cân đang chòng chành, chỉ một trọng lượng tí xíu cũng đủ để làm nó nghiêng về bên này hay bên kia. Tôi cần phải suy nghĩ. Tôi cần phải quyết định. Tôi cần tiến một bước. "Miss Saeki, liệu cô có bằng lòng ngủ với cháu không?" tôi hỏi.
"Ngay cả nếu theo giả thuyết của cháu, cô là mẹ cháu ư?"
"Cháu có cảm giác như tất cả xung quanh cháu đều trôi chảy triền miên... như thể tất cả đều có hai nghĩa."
Bà ngẫm nghĩ một lúc về điều tôi vừa nói. "Nhưng với cô, có lẽ không phải như thế. Với cô, có lẽ sự vật không mang sắc thải nửa vời như thế. Nó dứt khoát hơn: hoặc là tất cả, hoặc là không có gì."
"Và cô biết đó là tất cả hay không có gì?"
Bà gật đầu.
"Cháu có thể hỏi cô một câu được không?"
"Về cái gì?"
"Cô kiếm đâu ra hai hợp âm đó?"
"Hợp âm?"
"Hai hợp âm trong điệp khúc bài Kafka bên bờ biển ấy."
Bà nhìn tôi. "Cháu thích những hợp âm ấy à?"
Tôi gật đầu.
"Cô tìm thấy những hợp âm ấy trong một căn phòng cũ, rất xa đây. Cửa phòng lúc ấy để mở," bà nói nhỏ nhẹ. "Một căn phòng rất rất xa."
Bà nhắm mắt lại, đắm mình trong kỷ niệm. "Kafka, đóng cửa lại khi cháu đi ra nhé," bà nói.
Và tôi làm đúng như vậy.
Sau khi chúng tôi đóng cửa thư viện nghỉ đêm, Oshima lái xe đưa tôi đến một nhà hàng hải sản cách thư viện một quãng xa. Qua một cửa sổ rộng của nhà hàng, tôi có thể thấy biển đêm và tôi nghĩ về những sinh vật sống dưới đó.
"Thỉnh thoảng chúng mình cũng phải ra ngoài kiếm chút gì ăn cho ngon miệng," anh bảo tôi. "Thư giãn đi. Mình không nghĩ là cảnh sát canh chừng thư viện đâu. Cả hai chúng ta đều cần phải thay đổi cảnh trí một tí."
Chúng tôi ăn một đĩa xa-lát to tướng rồi gọi một suất paella[28] chia đôi.
"Mình rất thích một ngày nào đó được sang Tây Ban Nha," Oshima nói.
"Tại sao lại Tây Ban Nha?"
"Để tham gia cuộc nội chiến Tây Ban Nha."
"Nhưng nó đã kết thúc từ lâu rồi mà."
"Mình biết chứ. Lorca thì chết, còn Hemingway sống sót," Oshima nói. "Nhưng mình vẫn có quyền muốn sang Tây Ban Nha tham gia cuộc chiến đó."
"Theo nghĩa ẩn dụ?"
"Tất nhiên," anh nói, nhăn nhó nhìn tôi. "Một kẻ giới tính không xác định mắc chứng máu không đông hầu như chưa bao giờ đặt chân ra ngoài vùng Shikoku làm sao có thể thực sự đi chiến đấu ở Tây Ban Nha."
Chúng tôi đả món paella đầy tú ụ, chiêu bằng nước khoáng Perrier.
"Vụ án cha em có diễn biến gì mới không?"
"Không có gì thực sự đáng kể. Trừ một cáo phó não nùng ở trang nghệ thuật, các báo chẳng đưa tin gì nhiều về vụ này. Chắc là cuộc điều tra bị bế tắc. Điều đáng buồn là những ngày này, tỉ lệ bắt giữ tội phạm liên tục đi xuống hệt như thị trường chứng khoán. Mình muốn nói là cảnh sát thậm chí không dò ra tung tích của cậu con trai đã biến mất tăm."
"Một thiếu niên mười lăm tuổi."
"Mười lăm tuổi và những triệu chứng bạo hành," Oshima bổ sung. "Chú bé bỏ nhà mang đầy ám ảnh."
"Còn sự kiện mưa cá thì sao?"
Oshima lắc đầu. "Họ tạm ngừng điều tra vụ này. Không có vật lạ nào khác từ trên trời rơi xuống, ngoại trừ cú sét đáng xếp vào Kỷ lục Guiness cách đây hai ngày."
"Vậy là tình hình đã lắng xuống?”
"Có vẻ thế. Hoặc giả ta đang ở giữa mắt bão."
Tôi gật đầu, nhặt một con ngao lên, dùng dĩa khều ruột ra rồi vứt vỏ vào một chiếc đĩa đựng vỏ.
"Cậu vẫn đang yêu?"
Tôi gật. "Còn anh?"
"Cậu muốn nói là mình có đang yêu không à?"
Tôi lại gật.
"Nói cách khác, cậu đang cả gan tọc mạch hỏi về bản tình ca phản xã hội điểm tô cho đời sống riêng tư của kẻ đồng giới tínhphải dục, ái nam ái nữ là tôi đây?"
Tôi gật và anh cũng gật theo.
"Phải, mình có một bạn tình," anh thừa nhận (anh ăn một con ngao với vẻ mặt nghiêm túc). "Đó không phải là loại tình yêu bão tố, say đắm như trong các vở nhạc kịch của Puccini. Bọn mình giữ một khoảng cách thận trọng vớinhau, không năng gặp nhau lắm, nhưng về cơ bản, bọn mình hiểu nhau sâu sắc."
"Hiểu nhau?"
"Khi sáng tác nhạc, bao giờ Haydn cũng ăn mặc rất chỉnh tề, thậm chí đeo cả tóc giả rắc bột."
Tôi ngạc nhiên nhìn anh. "Haydn thì có liên quan gì đến chuyện này?"
"Ông không thể sáng tác hay nếu không ăn mặc như thế?"
"Tại sao?"
"Mình không biết. Đó là chuyện riêng tư giữa Haydn và bộ tóc giả của ông. Không ai khác hiểu được. Mình nghĩ chuyện đó là bất khả giải thích."
Tôi gật đầu. "Những lúc một mình, anh có thi thoảng nghĩ đến người bạn tình và cảm thấy buồn không?"
"Dĩ nhiên," anh nói. "Điều đó thi thoảng xảy ra. Khi ánh trăng chuyển qua màu xanh, khi chim chóc bay về phương Nam, khi..."
"Tại sao lại dĩ nhiên?" tôi hỏi.
"Bất kỳ ai đang yêu đều tìm cái phần thiếu hụt của bản ngã mình. Cho nên họ cảm thấy buồn khi nghĩ đến người mình yêu. Giống như khi ta bước vào một căn phòng đầy kỷ niệm thân thương mà đã bao lâu ta không trở lại. Đó là một tình cảm rất tự nhiên. Cậu không phải là người phát hiện ra tình cảm ấy, vậy nên đừng có tìm cách giành bằng phát minh ra nó, hiểu không?"
Tôi đặt dĩa xuống và ngước lên.
"Một căn phòng cũ thân thương, xa xưa?"
"Đúng," Oshima nói, giơ thẳng chiếc dĩa như để nhấn mạnh. "Dĩ nhiên đó chỉ là ẩn dụ."
Đêm ấy, Miss Saeki đến phòng tôi sau chín giờ. Tôi đang ngồi ở bàn đọc một cuốn sách thì nghe thấy tiếng chiếc Golf của bà vào bãi đậu xe. Cửa đóng lại đánh sầm. Tiếng giày đế cao su chậm rãi bước lạo xạo qua bãi đậu xe. Và cuối cùng, một tiếng gõ lên cửa phòng tôi. Tôi mở cửa và thấy bà đứng đó. Lần này, rành là bà thức. Bà mặc một chiếc áo sơ miọc hồng, quần jeans mỏng màu xanh lơ, đi giày tennis trắng. Trước đây, tôi chưa từng thấy bà mặc quần tây bao giờ.
"Lâu lắm cô chưa trở lại căn phòng này," bà nói. Bà đứng cạnh tường và nhìn bức tranh. "Cả bức tranh này nữa."
"Cảnh trong tranh có ở gần đây không?"
"Cháu có thích bức tranh này không?"
Tôi gật đầu. "Ai vẽ vậy cô?"
"Một họa sĩ trẻ tạm trú ở nhà Komura mùa hè năm ấy," bà nói. "Hồi ấy, ông ta chưa nổi tiếng lắm. Cô quên mất tên ông ta. Nhưng ông ta là người rất thân thiện và theo cô, đây là một bức tranh đẹp. Nó có một cái gì... cô không biết nói thế nào... một cái gì đầy cường lực. Cô ngồi cạnh ông ta suốt, xem ông làm việc. Cô đưa ra hàng lô gợi ý nửa đùa nửa thật trong khi ông vẽ. Hai người bọn cô rất hợp nhau. Đó là vào mùa hè cách đây lâu lắm rồi. Hồi ấy, cô mới mười hai. Cậu bé trong tranh cũng mười hai."
"Trông giống như biển ở vùng này."
"Ta đi dạo một vòng đi," bà nói. "Cô sẽ dẫn cháu đến đó."
Tôi đi với bà đến bờ biển. Chúng tôi xuyên qua một rừng thông và xuống một bãi cát. Mây hé ra và một vầng trăng bán nguyệt chiếu lấp lánh trên sóng. Những con sóng nhỏ chỉ hơi chạm vào bờ đã vỡ ra. Bà ngồi xuống bãi cát và tôi cũng ngồi xuống cạnh bà. Cát vẫn còn âm ấm.
Đưa tay lên như để kiểm tra góc nhìn, bà chỉ một chỗ trên bờ biển. "Chính xác ở chỗ kia kìa," bà nói. "Ông ấy ngồi dây vẽ. Ông đặt một chiếc ghế bố ở đằng kia để cậu bé ngồi mẫu và dựng giá vẽ ngay đây. Cô nhớ rất rõ. Cháu có nhận tị trí của hòn đảo y hệt như trong tranh không?"
Tôi nhìn theo hướng bà chỉ. Vị trí hòn đảo thì quả đúng như vậy, nhưng, cho dù tôi có nhìn lâu đến mấy, phong cảnh này vẫn không giống trong tranh. Tôi nói với bà thế.
"Cảnh vật đã thay đổi hoàn toàn," Miss Saeki đáp. "Xét cho cùng, đã bốn mươi năm rồi còn gì. Vật đổi sao dời mà. Biết bao nhiêu thứ tác động đến bờ biển - sóng, gió, bão. Cát bị cuốn đi hay lấn vào. Nhưng dứt khoát là chỗ này đấy. Cô nhớ rất rõ, dạo ấy vào mùa hè. Cũng là thời điểm cô thấy kinh lần đầu."
Chúng tôi ngồi đó ngắm cảnh. Mây thay hình đổi dạng và ánh trăng vỡ ra lốm đốm mặt biển. Gió thổi qua rừng thông, nghe như cả đám người quét đất cùng một lúc. Tôi vốc cát, để cho chảy qua kẽ tay. Nó rơi xuống và, giống như thời gian trôi qua, lại hòa làm một với bãi cát bên dưới. Tôi lặp đi lặp lại trò chơi đó.
"Cháu đang nghĩ đến cái gì?" Miss Saeki nói.
"Đến chuyện đi Tây Ban Nha," tôi đáp.
"Cháu sẽ làm gì ở bên đó?"
"Ăn một chầu paella thật khoái khẩu."
"Thế thôi ư?"
"Và tham gia cuộc nội chiến Tây Ban Nha."
"Cuộc chiến đó đã chấm dứt cách đây sáu mươi năm rồi."
"Cháu biết," tôi nói. "Lorca chết và Hemingway sống sót."
"Nhưng cháu vẫn muốn
Tôi gật đầu. "Vâng. Giật mìn phá cầu và các thứ khác."
"Và yêu Ingrid Bergman?"
"Nhưng trong thực tại thì cháu đang ở Takamatsu. Và đang yêu cô."
"Thật không may."
Tôi quàng tay ôm vai bà.
Mày quàng tay ôm vai bà.
Bà dựa người vào mày. Và một quãng thời gian dài trôi qua.
"Cháu có biết cách đây lâu lắm, cô đã làm đúng như thế này?"
"Cháu biết," mày nói với bà vậy.
"Làm sao cháu biết được?"
"Khi đó cháu ở đây mà?"
"Giật mìn phá cầu?"
"Vâng, cháu đã ở đây - giật mìn phá cầu."
"Một cách ẩn dụ?"
"Cố nhiên."
Mày ôm bà trong tay, ghì sát nữa, hôn bà. Mày có thể cảm thấy rõ sức lực từ cơ thể bà.
"Cả hai chúng ta đang mơ, phải không? bà nói.
Phải, tất cả chúng ta đều đang
"Tại sao anh lại phải chết?"
"Anh không thể làm khác được," tôi đáp.
Mày cùng Miss Saeki đi xuôi bãi biển quay về thư viện. Mày tắt đèn trong phòng, kéo rèm và không nói thêm một lời, cả hai lên giường và làm tình. Khá giống cách làm tình đêm hôm trước. Nhưng với hai điểm khác biệt. Sau cuộc ân ái, bà bắt đầu khóc. Đó là một. Bà vùi mặt vào gối và lặng lẽ khóc. Mày không biết nên làm gì. Mày dịu dàng đặt một tay lên bờ vai trần của bà. Mày biết là mày nên nói một điều gì đó, nhưng mày chẳng nghĩ ra ý gì. Lời chữ đã chết hết trong vực thẳm thời gian, lặng lẽ chất đống dưới đáy tăm tối của một cái hồ-miệng-núi-lửa. Và lần này, khi bà rời khỏi thư viện, mày có thể nghe thấy tiếng động cơ của chiếc Golf. Đó là điểm khác biệt thứ hai. Bà khởi động máy, tắt đi một lúc như thể chợt nghĩ điều gì, rồi lại mở khoá công tắc và lái xe ra khỏi bãi đậu xe. Cái khoảng trống im lặng giữa hai lần khởi động ấy làm mày buồn, buồn ghê gớm. Như lớp sương mù trên biển, sự trống trải ấy len vào tim mày và lưu lại đó hồi lâu, rất lâu, để rồi cuối cùng, trở thành một bộ phận của chính mày.
Bà để lại một chiếc gối đẫm nước mắt. Mày đặt tay lên lần vải ướt và ngó nhìn bầu trời bên ngoài dần dần sáng. Đằng xa, một tiếng quạ kêu. Trái Đất vẫn tiếp tục quay chậm rãi. Nhưng bên kia những chi tiết ấy của thực tại, có những giấc mơ. Và mỗi người đều đang sống trong giấc mơ của mình.
Chương 32
Khi Nakata thức giấc vào lúc năm giờ sáng, lão nhìn thấy phiến đá lớn ngay cạnh gối mình. Hoshino vẫn đang ngủ vùi trên tấm nệm futon cạnh đó, miệng hơi hé, tóc rối bù, chiếcũ Chunichi Dragons vứt lăn lóc bên mình. Bộ mặt ngủ say sưa của gã có một vẻ cương quyết như muốn nói: bất kể có chuyện gì cũng đừng đánh thức tôi.
Nakata không quá ngạc nhiên khi thấy phiến đá ở đó. Tâm trí lão thích ứng ngay với cái thực tại mới ấy, chấp nhận nó, không hề tự hỏi tại sao nó lại ở đấy. Suy nghĩ về nguyên nhân và hậu quả không bao giờ là điểm mạnh của lão.
Lão trịnh trọng ngồi xếp bằng bên tấm nệm, chăm chú nhìn ngắm phiến đá một hồi lâu. Cuối cùng, lão với tay ra chạm nhẹ vào nó như vuốt ve một con mèo đang ngủ. Thoạt đầu, rón rén, chỉ bằng đầu ngón tay, rồi khi thấy có vẻ an toàn, lão xòe cả bàn tay thận trọng xoa khắp bề mặt phiến đá. Suốt quãng thời gian đó lão đăm chiêu suy nghĩ – hay ít nhất cũng có vẻ như đang suy nghĩ. Như thể đang đọc một tấm bản đồ, lão sờ lần khắp các mặt và cạnh góc của phiến đá, ghi nhớ từng chỗ lồi lõm, từng vết rạn để có một cảm giác thật chuẩn xác về nó. Rồi đột nhiên, lão đưa tay lên xoa mái tóc húi cua, như thể tìm kiếm một tương quan giữa đầu mình với phiến đá ấy.
Cuối cùng, lão trút ra một tiếng tựa như thở dài, đứng dậy, mở cửa sổ và thò mặt ra ngoài. Từ đây, chỉ còn thể nhìn thấy mặt sau của ngôi nhà bên cạnh. Một ngôi nhà lầm than, bệ rạc. Cái loại nhà trong đó những con người bệ rạc sống lần lữa những ngày bệ rạc của mình, kiếm ăn bằng công việc bệ rạc của mình. Cái loại nhà thất sủng ta có thể gặp ở bất cứ thành phố nào, cái loại nhà mà Charles Dickens có thể dành cả chục trang để mô tả. Những đám mây trôi trên bầu trời giống như những mớ bụi đã vón cục từ một chiếc máy hút bụi mà từ lâu không ai cọ rửa nữa. Hoặc có thể những mâu thuẫn tạo nên bởi cuộc Cách mạng Công nghiệp thứ ba đã đông đặc lại dưới dạng đó để trôi trên trời. Bất kể thế nào thì cũng sắp mưa thôi. Nakata nhìn xuống và thấy một con mèo đen gầy giơ xương, đuôi ngỏng lên, đang rình mò trên bức tường hẹp giữa hai ngôi nhà. “Hôm nay, sẽ có sấm chớp đấy,” lão nói vọng ra. Nhưng con mèo có vẻ như không để tai nghe lão, thậm chí không buồn ngoảnh lại, chỉ tiếp tục uể oải bước rồi biến mất trong bóng râm của ngôi nhà.
Nakata đi xuôi hành lang, tay cầm chiếc túi nhựa đựng đồ dùng vệ sinh, đến phòng tắm công cộng. Lão rửa mặt, đánh răng và cạo râu bằng một lưỡi dao an toàn. Lão nhẩn nha làm từng thao tác một. Lão nhẩn nha rửa mặt thật cẩn thận, nhẩn nha đánh răng thật cẩn thận, nhẩn nha cạo mặt thật cẩn thận. Lão lấy kéo cắt lông mũi, chải lông mày, cọ tai. Lão thuộc loại người làm việc gì cũng nhẩn nha, nhưng sáng nay, thậm chí lão còn đủng đỉnh hơn mọi khi. Không có ai khác rửa mặt vào cái giờ sớm sủa này và còn khá lâu nữa mới đến giờ ăn sáng. Xem ra Hoshino chưa chắc đã dậy ngay được. Một mình chiếm lĩnh cả phòng tắm, Nakata soi gương, ung dung chuẩn bị đón ngày mới và mường tượng mặt mũi tất cả những con mèo trong cuốn sách lão đã xem tại thư viện hai hôm trước. Lão không đọc được nên không biết tên từng giống, loại, nhưng hình ảnh mỗi gương mặt mèo đều được in rõ nét trong trí nhớ của lão.
“Quả thật có vô số mèo trên thế giới, đó là cái chắc,” lão vừa nghĩ thầm vừa ngoáy tai với một que đầu bọc bông mềm. Buổi đầu tiên trong đời đến thăm một thư viện đã khiến lão đau đớn hiểu ra rằng lão biết quá ít. Khối lượng những điều lão chưa biết về thế giới này thật mênh mông vô tận. Cái vô tận, theo định nghĩa, là không biên giới và chỉ nghĩ sơ sơ về nó đã khiến lão đau đầu. Lão bỏ dở, quay sang nghĩ về cuốn Các giống mèo trên thế giới. Giá có thể nói chuyện được với từng con mèo trong đó thì thú biết bao, lão nghĩ. Chắc hẳn trên thế giới có đủ các loại mèo với những cách nghĩ và cách nói chuyện khác nhau. Liệu mèo nước ngoài có nói tiếng nước ngoài không nhỉ? Lão tự hỏi. Nhưng đây lại là một đầu đề khó khác và lão lại bắt đầu nhức đầu.
Rửa ráy xong, lão vào toa-lét đi vệ sinh theo thông lệ hàng ngày. Việc này không mất nhiều thời gian như rửa mặt đánh răng. Xong xuôi, lão xách túi đồ vệ sinh về phòng. Hoshino vẫn ngủ ngon lành, y nguyên như khi lão bỏ gã nằm đó. Nakata nhặt chiếc áo sơ mi Hawai và chiếc quần jeans vứt dưới sàn lên, gấp lại gọn gàng và xếp cạnh tấm nệm futon của Hoshino. Lão đặt thêm chiếc mũ của đội bóng chày Chunichi Dragons lên trên cùng như để đặt tên cho một tập hợp những ý tưởng pha tạp. Lão cởi chiếc áo choàng tắm của khách sạn, mặc sơ mi và quần thường ngày của mình vào rồi xoa tay và hít một hơi thật sâu.
Lão lại ngồi xuống trước phiến đá, nhìn ngắm một hồi trước khi rụt rè đưa tay chạm vào nó. “Hôm nay, sẽ có sấm chớp đây,” lão thông báo, không nhằm cụ thể vào ai. Có thể là lão nói với phiến đá cũng nên. Lão gật đầu hai cái như để chấm câu cho lời thông báo đó.
Cuối cùng, khi Hoshino thức dậy thì Nakata đang đứng cạnh cửa sổ, tập một bài thể dục thông thường. Lão vừa làm các động tác khớp với nhịp của điệu nhạc thể dục trên đài phát thanh vừa khẽ huýt sáo theo.
Hoshino liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ hơn. Gã vươn cổ nhìn để yên trí rằng phiến đá vẫn nằm nguyên ở chỗ gã đã đặt nó. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó xù xì và lớn hơn nhiều so với trong trí nhớ của gã. “Vậy rốt cuộc, không phải là mình nằm mơ,” gã nói.
“Xin lỗi... cậu nói gì?” Nakata hỏi.
“Phiến đá,” Hoshino nói. “Nó thực sự ở đây. Không phải cháu nằm mơ.”
“Chúng ta đã có phiến đá,” vẫn đang đứng giữa chừng bài thể dục, Nakata khẳng định một cách dứt khoát như phát biểu một mệnh đề trung tâm nào đó của triết học Đức thế kỷ XIX.
“Tuy nhiên, làm sao đưa được nó về đây, lại là cả một câu chuyện dài đấy ông nội ạ.”
“Phải, Nakata này cũng nghĩ thế.”
“Dù sao đi nữa,” Hoshino nói, ngồi dậy và thở dài đánh thượt, “cái đó cũng chả thành vấn đề. Điều quan trọng là nó đã ở đây. Nói thế cho nhanh.”
“Chúng ta đã có phiến đá,” Nakata nhắc lại. Đó mới là điều quan trọng.
Hoshino định đáp lại nhưng đột nhiên, gã bỗng nhận ra là mình đang đói muốn chết. “Này ông nội, ta đi kiếm cái gì điểm tâm chứ?”
“Phải, Nakata này cũng đang đói mèm.”
Ăn sáng xong, Hoshino vừa uống trà vừa hỏi. “Thế bây giờ ông định làm gì với phiến đá?”
“Nakata này nên làm gì với nó?”
“Ông phải để cháu nghỉ lấy hơi tý đã chứ,” Hoshino lắc đầu nói. “Ông bảo cháu phải tìm cho ra phiến đá, vì thế đêm qua cháu đã cất công kiếm được nó. Bây giờ, ông lại tra tấn cháu với cái câu hỏi chết tiệt nên làm gì với nó?”
“Phải, cậu có lý. Nhưng nói thật tình, lão vẫn chưa biết mình phải làm gì với nó.”
“Rắc rối đấy.”
“Quả thật là rắc rối,” Nakata đáp, tuy nhiên vẻ mặt lão chẳng biểu lộ điều gì chứng tỏ lão cảm thấy “rắc rối”.
“Nếu ông bỏ thì giờ suy nghĩ, liệu ông có hình dung ra được điều cần làm không?”
“Lão nghĩ là được. Nakata làm gì cũng mất nhiều thời gian hơn mọi người khác.
“Ô-kê nhưng nghe này ông nội.”
“Dạ, thưa cậu Hoshino.”
“Cháu không biết ai đặt tên cho nó, nhưng một khi đã gọi là phiến đá cửa vào thì chắc ngày xưa, nó đã từng là cửa dẫn vào một cái gì đó, phải không nào? Chắc phải có một truyền thuyết gì về nó chứ?”
“Phải, chắc thế.”
“Nhưng ông không biết đó là cửa vào đâu à?”
“Không, lão chưa biết. Trước đây, lão thường trò chuyện với mèo suốt, nhưng chưa bao giờ nói chuyện với đá.”
“Có vẻ như chả dễ gì.”
“Khác xa nói chuyện với mèo, đó là cái chắc.”
“Cơ mà lấy phiến đá đó ra khỏi một miếu thờ, liệu chúng ta có bị thánh vật không nhỉ? Điều đó thực sự khiến cháu áy náy đấy. Lấy được nó là một chuyện, nhưng bây giờ, một khi có nó trong tay, xử trí như thế nào với nó lại là cả một vấn đề hóc búa. Đại tá Sanders bảo cháu là sẽ không có chuyện thánh vật, nhưng cháu không thể tin lão ta hoàn toàn, ông hiểu ý cháu chứ?”
“Đại tá Sanders nào?”
“Có một lão già tên là thế. Cái tay trên các tấm quảng cáo Kentucky Fried Chicken ấy. Lão mặc một bộ com-lê trắng, để râu dê, đeo kính nhỏ xíu. Ông không biết à?”
“Xin lỗi, nhưng lão không quen quý ông ấy.”
“Ông không biết tập đoàn Kentucky Fried Chicken ư? Kể cũng lạ đấy. Mà thôi, chả quan trọng. Dù sao đi nữa, lão cũng chỉ là một khái niệm trừu tượng. Lão không phải là ngườ cũng chẳng là thần phật gì cả. Lão không có hình thù, nhưng vì phải mang một vẻ bề ngoài, nên lão chọn cái lốt Đại tá Sanders.”
Vẻ bối rối, Nakata đưa tay vò mái tóc muối tiêu. “Lão không hiểu.”
“Nói thực tình, cháu cũng chả hiểu, mặc dầu cháu nói chuyện huyên thuyên thế,” Hoshino thú nhận. “Không biết từ đâu, lão già kỳ quặc ấy tự dưng xuất hiện và ba hoa đủ thứ với cháu. Nói cho ngắn gọn, lão giúp cháu tìm ra phiến đá và cháu khuân nó về đây. Không phải cháu kể công để tranh thủ tình cảm của ông, nhưng cháu có thể nói với ông đó là một đêm dài gian truân. Điều cháu thực sự muốn làm ngay lúc này là bàn giao tất tật cả cho ông.”
“Lão xin nhận.”
“Mau lẹ đấy.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì vậy?”
“Sắp sửa có rất nhiều sấm đấy. Ta hãy đợi đến lúc ấy.”
“Ông muốn nói là sấm sẽ tạo ra một cái gì giúp chúng ta xử trí với phiến đá?”
“Lão chưa biết chắc, nhưng lão đã bắt đầu cảm thấy như thế.”
“Sấm ư? Nghe có vẻ lặng lẽ thế này mà. Thôi được, ta sẽ chờ xem điều gì xảy ra.”
Khi trở về phòng Hoshino gieo mình nằm sấp trên tấm nệm futon và bật tivi. Chẳng có gì ngoài một mớ tiết mục tạp kỹ dành cho các bà nội trợ, nhưng vì không có cách nào khác để giết thì giờ nên gã vẫn cứ theo dõi, vừa xem vừa luôn mồm bình luận mọi thứ diễn ra trên màn hình.
Trong khi đó, Nakata ngồi trước phiến đá, mắt nhìn chăm chăm, tay sờ lần khắp mọi chiệng thỉnh thoảng lẩm bẩm điều gì mà Hoshino không nghe được. Gã chỉ đoán là có thể Nakata đang nói chuyện với phiến đá.
Khoảng hai giờ sau, Hoshino chạy ra một cửa hàng gần đấy mua về một bịch đầy sữa và bánh mì ngọt để hai ông con ăn trưa. Trong khi họ ăn, cô phục vụ đến dọn phòng, nhưng Hoshino bảo khỏi phiền, họ thấy thế này được rồi.
“Bác và anh không đi đâu ra ngoài?”
“Không,” gã đáp. “Chúng tôi có việc phải làm ở đây.”
“Bởi vì sắp sửa có sấm,” Nakata nói thêm.
“Sấm ư... ra thế” cô phục vụ nói, vẻ hoài nghi, trước khi rút lui. Coi bộ cô không muốn dính dáng gì với cái bộ đôi kỳ quặc này nữa.
Vào quãng trưa, sấm ì ầm ở đằng xa và như chỉ chờ hiệu lệnh ấy, mưa bắt đầu lắc rắc. Sấm không to lắm, chỉ như một chú lùn uể oải giậm chân lên mặt trống. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, những hạt mưa lớn dần để trở thành một trận hồng thủy thật sự, bao bọc thế giới trong một mùi ẩm ướt, ngột ngạt.
Khi sấm bắt đầu nổi, hai người bèn ngồi xuống đối diện nhau với phiến đá ở giữa, như kiểu những người da đỏ truyền tay nhau tẩu thuốc hòa bình. Nakata vẫn lẩm bẩm một mình, lúc xoa đầu, lúc xoa phiến đá. Hoshino rít một điếu Marlboro và quan sát.
“Cậu Hoshino?” Nakata nói.
“Gì vậy ông?”
“Cậu có vui lòng ở bên lão một lúc không?”
“Tất nhiên rồi. Mưa thế này, cháu còn đi đâu làm gì.”
“Có thể một điều kỳ lạ sắp diễn ra.”
“Ông có giỡn cháu không đấy?” Hoshino hỏi. “Mọi thứ vừa xảy ra đã đủ kỳ lạ rồi.”
“Cậu Hoshino?”
“Sao nữa?”
“Bỗng nhiên, lão tự hỏi – mình là cái gì nhỉ? Phải, Nakata này là cái gì?”
Hoshino ngẫm nghĩ. “Đó là một câu hỏi hóc búa. Hơi xa vời đấy. Cháu thậm chí cũng không biết mình là cái gì nữa, cho nên ông đừng có hỏi cháu. Suy nghĩ không phải là thế mạnh của cháu, ông lạ gì. Nhưng cháu biết ông là người tốt, trung thực. Ông có chập cheng một tí, nhưng là người cháu tin cậy. Vì thế cháu mới đi suốt với ông đến tận Shikoku. Cháu cũng chả thông minh sáng láng gì, nhưng cháu biết nhìn người.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì nữa?”
“Lão không chỉ đần độn mà thôi. Nakata này còn rỗng tuếch nữa. Cuối cùng, lão đã nhận ra điều ấy. Nakata này giống như một cái thư viện chẳng có quyển sách nào vậy. Không phải bao giờ cũng thế: trước kia, đã từng có sách trong bụng lão. Một thời gian dài, lão quên mất, nhưng bây giờ lão đã nhớ ra. Lão đã từng bình thường như mọi người khác. Nhưng một sự việc đã xảy ra, khiến lão trở thành một thứ thùng rỗng chẳng có gì bên trong.”
“Phải, nhưng nếu ông nhìn nhận theo cách ấy thì chúng ta ít nhiều đều rỗng cả. Ta ăn, ta ị, ta làm một công việc tồi tàn để kiếm đồng lương vét đĩa, thi thoảng tẩn bậy một phát nếu gặp dịp. Ngoài ra, còn có gì khác nữa? Tuy nhiên, cũng có những điều thú vị xảy đến trong đời – như với chúng ta bây giờ. Cháu cũng chẳng biết tại sao. Ông nội cháu dạo xưa thường nói sự vật chẳng bao giờ diễn ra như ta tưởng, nhưng chính như thcuộc đời mới lý thú và thế mới hợp lý. Nếu đội Chunichi Dragons trận nào cũng thắng thì ai còn thiết xem bóng chày làm gì?”
“Cậu yêu ông nội mình lắm phải không?”
“Vâng. Không có ông cháu thì chẳng biết đời cháu đã ra sao. Ông đã khiến cháu cảm thấy muốn gắng sức làm một cái gì đó cho nên người. Ông đã khiến cháu cảm thấy... Cháu không biết diễn đạt như thế nào... Cảm thấy mình được gắn liền với cuộc đời. Chính vì thế mà cháu bỏ cái băng mô-tô và gia nhập Lực lượng Tự vệ. Và cháu thoát khỏi rắc rối lúc nào không biết.”
“Nhưng cậu Hoshino, cậu biết đấy, Nakata này chẳng có ai thân thích trên đời. Không gắn liền với bất cứ cái gì. Lão không biết đọc. Và cái bóng của lão teo lại chỉ còn một nửa.”
“Ai chả có nhược điểm.”
“Cậu Hoshino?”
“Dạ?”
“Nếu lão vẫn nguyên là con người bình thường như ban đầu thì hẳn lão đã có một cuộc đời khác hẳn. Giống như hai em trai của lão, hẳn lão đã vào đại học, làm việc ở một công ty nào đó, lấy vợ và có một gia đình hẳn hoi, lái một chiếc xe hơi cỡ bự, chơi golf vào những ngày nghỉ. Cơ mà lão lại không bình thường nên mới ra cái lão Nakata ngày nay. Đã quá muộn để làm lại từ đầu. Lão hiểu thế. Nhưng lão vẫn muốn được là một Nakata bình thường, cho dù chỉ trong một thời gian ngắn. Cho đến nay, lão chưa bao giờ muốn làm một điều gì đặc biệt. Lão chỉ luôn luôn gắng sức làm những gì người ta bảo lão làm. Có thể, điều đó đã thành một thói quen. Nhưng bây giờ, lão muốn trở lại bình thường. Lão muốn là một Nakata với những ý tưởng riêng của mình, với một cuộc đời có ý nghĩa của riêng mình.”
ở dài. “Nếu ông muốn thế thì ông hãy làm đi. Cháu thì chả có tí khái niệm nào về một ông Nakata bình thường cả.”
“Nakata này cũng thế.”
“Cháu chỉ mong điều đó thành sự thật. Cháu sẽ cầu nguyện cho ông... cầu sao ông có thể trở lại bình thường.”
“Trước khi lão trở lại là người bình thường, lão cần phải giải quyết một số chuyện.”
“Chẳng hạn?”
“Chẳng hạn như Johnnie Walker.”
“Johnnie Walker?” Hoshino nói. “Phải, ông đã nhắc đến cái tên này. Có phải thằng cha mang tên hãng rượu whisky không?”
“Phải. Lão đã đến đồn cảnh sát ngay và kể với họ về ông ta. Lão biết là lão phải báo cáo với ngài Tỉnh trưởng, nhưng họ không chịu nghe. Thành thử lão phải tìm một giải pháp của riêng mình. Lão phải lo cho xong chuyện này thì mới trở lại thành Nakata bình thường được. Nếu như có thể trở lại bình thường.”
“Cháu không hiểu thật rõ những gì ông đang nói, nhưng cháu đoán ông cần phiến đá để làm điều ông cần làm.”
“Đúng thế. Lão cần hồi phục nửa kia cho cái bóng của mình.”
Lúc này, sấm đã trở nên đinh tai. Chớp nhằng nhằng trên trời, tiếp theo là sấm ùng oàng. Không khí rung chuyển và những ô kính lỏng lẻo kêu lanh canh. Khắp trời bịt bùng mây đen và trong nhà tối đến nỗi họ hầu như không nhìn rõ mặt nhau. Tuy nhiên, họ vẫn không bật điện. Họ vẫn ngồi nguyên như lúc trước, với phiến đá ở giữa. Mưa quất lồng lộn đến nỗi chỉ nhìn đã đủ nghẹt thở. Mỗi lần chớp lóe, căn phòng lại b một thoáng. Hồi lâu, chẳng ai nói gì.
“Thôi được, nhưng tại sao ông lại dính dáng với cái phiến đá này, ông Nakata?” Hoshino tranh thủ lúc ngơi sấm, hỏi. “Tại sao lại là ông?”
“Bởi vì lão là kẻ đã nhập rồi lại xuất.”
“Cháu không hiểu ông nói gì.”
“Lão đã rời nơi đây một lần và đã quay trở lại. Điều đó xảy ra khi Nhật Bản đang trong một cuộc chiến lớn. Cái vung bật mở và lão thoát ra. Rồi ngẫu nhiên, lão trở lại. Vì thế nên lão không bình thường và bóng lão chỉ còn một nửa. Nhưng bù lại, lão biết nói chuyện với mèo, mặc dù bây giờ không trôi chảy như trước nữa. Lão còn có thể làm cho các thứ rơi từ trên trời xuống.”
“Như trận mưa đỉa bữa nọ?”
“Phải.”
“Một cái tài độc nhất vô nhị, đó là cái chắc.”
“Đúng, không phải ai cũng làm được thế.”
“Và được thế là vì ông xuất rồi lại nhập? Cháu nghĩ ông quả là khác thường đấy.”
“Sau khi trở lại, lão không còn bình thường nữa. Lão hết biết đọc. Và lão chưa bao giờ đụng đến một người đàn bà.”
“Thật khó tin.”
“Cậu Hoshino?”
“Sao?”
“Lão sợ. Như lão đã nói với cậu, bên trong lão hoàn toàn trống rỗng. Cậu có biết hoàn toàn rỗng nghĩa là thế nào không?”
Hoshino lắc đầu. “Cháu nghĩ là không.”
“Nó giống như một cái nhà trống không. Một cái nhà không người ở, cửa không khóa. Bất kỳ ai cũng có thể vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Đó là điều làm lão sợ nhất. Lão có thể khiến các thứ từ trên trời trút xuống, nhưng phần lớn thời gian, lão không biết nên trút thứ gì xuống tiếp theo. Giả dụ lần tới là một vạn con dao, hay một trái bom lớn, hay khí độc... Thì không biết lão phải làm gì... Lão có thể nói lời xin lỗi mọi người, nhưng ích gì...”
“Ông nói đúng,” Hoshino nói. “Chỉ xin lỗi suông thì giải quyết được gì. Đỉa đã là xấu, nhưng những thứ kia còn tệ hại hơn.”
“Johnnie Walker đã nhập vào Nakata này. Ông ta khiến lão làm những điều lão không muốn. Johnnie Walker sử dụng lão, nhưng lão không đủ sức chống lại. Bởi vì lão chẳng có gì bên trong cả.”
“Vì thế nên ông mới mong muốn trở lại là một Nakata bình thường có tố chất bên trong mình?”
“Chính xác, lão chẳng thông minh sáng láng gì, nhưng trước đây, lão có thể đóng đồ gỗ và lão đã làm công việc đó ngày này qua ngày khác. Lão thích làm ra các đồ vật – bàn ghế, hòm tủ. Làm ra những đồ vật có hình dáng đẹp thật là thú vị. Trong những năm làm đồ gỗ ấy, lão không khi nào nghĩ đến chuyện muốn trở lại bình thường. Và không có ai trong số những người quen tìm cách nhập vào lão. Nakata không cảm thấy sợ bất cứ cái gì. Cơ mà sau khi gặp Johnnie Walker, lão thấy rất sợ.”
“Vậy cái cha Johnnie Walker ấy đã khiến ông làm những gì sau khi hắn nhập vào ông?”
Một tiếng ầm dữ dội xé trời, hẳn là sét đánh rất gần. Hoshino cảm thấy màng nhĩ nhoi nh
Nakata hơi nghiêng đầu sang một bên, thận trọng lắng nghe đồng thời chậm rãi xoa bề mặt phiến đá. “Ông ta đã khiến lão gây đổ máu.”
Hoshino ngẫm nghĩ một lúc, vẻ bối rối. “Dù sao đi nữa, một khi ông mở phiến đá cửa vào, thì tất cả mọi thứ tự khắc sẽ đâu lại hoàn đó theo đúng trật tự tự nhiên, phải không? Như nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp?”
Đến lượt Nakata ngẫm nghĩ. “Có thể không đơn giản thế. Nhiệm vụ của Nakata này là tìm phiến đá cửa vào và mở nó. Còn sau đó điều gì xảy ra thì e rằng lão không biết.”
“Thôi được, nhưng tại sao phiến đá lại ở Shikoku?”
“Phiến đá ở khắp nơi. Không chỉ ở Shikoku. Và không nhất thiết phải là một phiến đá.”
“Cháu không hiểu... Nếu nó ở khắp nơi thì ông có thể làm mọi chuyện này tại nhà ở Nakano, tội gì phải mất bao thì giờ và công sức tới đây?”
Nakata đưa tay vò mái tóc húi cua. “Đó là một câu hỏi khó đấy. Lão đã lắng nghe phiến đá suốt từ nãy đến giờ, nhưng vẫn chưa hiểu rõ nó nói gì. Cơ mà lão nghĩ cả hai chúng ta phải tới đây. Chúng ta phải tìm qua một cái cầu lớn. Điều ấy không ứng ở Nakano.”
“Cháu có thể hỏi một điều khác được không?”
“Được.”
“Nếu ông mở phiến đá cửa vào tại đây, liệu có một điều gì kỳ diệu xảy ra không? Như là cái vị thần gì-gì-đó nhảy ra từ cây đèn của A-la-đanh? Hoặc một hoàng tử bị biến thành cóc sẽ ôm chầm lấy cháu mà hôn lên môi? Hoặc nữa những người sao hỏa sẽ xuất hiện và ăn thịt chúng ta?”
“Có thể sẽ có một điều gì xảy ra, mà cũng có thể là chẳng có gì. Lão chưa mở được nên lão chưa biết. Khi nào mở ra mới biết.”
“Nhưng cũng có thể nguy hiểm, hả?”
“Phải, đúng thế.”
“Chà!” Hoshino rút trong túi ra một điếu Marlboro và châm lửa hút. “Ông nội cháu luôn luôn bảo cháu: điểm yếu của cháu là cứ nhắm mắt đi theo những người lạ chẳng cần suy xét xem mình đang làm gì. Cháu nghĩ có lẽ bản chất cháu vốn thế. Như người ta thường nói: ‘Trẻ con là cha người lớn’. Sao cũng được, giờ cháu cũng chả làm cách gì để thay đổi được. Cháu đã theo ông suốt và cất công tìm ra phiến đá, cho nên cháu không thể quay về nhà mà không thấy mọi sự đến đầu đến đũa. Chúng ta biết là có thể nguy hiểm, nhưng thây kệ! Tại sao không mở nó ra xem điều gì sẽ xảy đến? Ít nhất, đó cũng sẽ là một câu chuyện li kỳ để kể cho cháu chắt nghe.”
“Cậu Hoshino, Nakata này muốn nhờ cậu một việc.”
“Việc gì?”
“Cậu có thể nhấc giùm phiến đá lên được không?”
“Không thành vấn đề.”
“Nó nặng hơn nhiều so với lúc cậu mang về đấy.”
“Cháu biết mình không phải là Schwarzenegger[29], nhưng cháu khỏe hơn nhiều so với vẻ bề ngoài đấy. Hồi ở Lực lượng Tự vệ, cháu đoạt giải nhì cuộc thi vật tay của đơn vị đấơn nữa, ông đã chữa cho cháu khỏi bệnh đau lưng, nên cháu phải ra tay để chứng tỏ mình chứ.”
Hoshino đứng dậy, nắm lấy phiến đá bằng cả hai tay và ráng nhấc lên. Phiến đá không nhúc nhích. “Ông nói đúng, nó nặng hơn trước nhiều,” gã nói, thở hắt ra. “Cách đây một lúc, nhấc nó lên chả là vấn đề gì. Bây giờ, nó như bị găm chặt xuống đất.”
“Đây là phiến đá cửa vào nơi đầy giá trị nên không thể xê dịch dễ dàng được. Nếu vậy thì đã rắc rối rồi.”
“Có lẽ thế.”
Đúng lúc đó, mấy lằn chớp loằng ngoằng rạch trời và một loạt sấm làm rung chuyển đến tận lòng sâu trái đất. Như thể ai đó vừa mở nắp địa ngục vậy, Hoshino nghĩ. Một tiếng sấm cuối cùng nổ vang gần đấy và tiếp theo là một im lặng đột ngột, dày đặc đến tức thở. Không khí ẩm ướt và tù đọng, phảng phất một cái gì khả nghi, tựa hồ vô số cái tai đang rình rập trong không trung, nghe ngóng xem có dấu vết âm mưu gì. Hai người ngồi im sững, bao bọc trong bóng tối giữa ban ngày. Thình lình gió lại nổi, quất mưa vào cửa sổ. Sấm ùng oàng nhưng không dữ như trước. Tâm điểm cơn giông đã qua thành phố.
Hoshino ngước lên, đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Mọi thứ dường như lạnh lẽo và xa vời lạ lùng, bốn bức tường trống trơn hơn trước. Mẩu thuốc lá Marlboro trong chiếc gạt tàn đã thành tro. Gã nuốt khan và cất tiếng để xua tan im lặng. “Ông Nakata này!”
“Gì vậy, cậu Hoshino?”
“Cháu cảm thấy như đang ở trong một cơn ác mộng.”
“À, ít nhất thì chúng ta cũng cùng chu
“Ông nói phải, Hoshino nói và gãi tai, vẻ cam chịu. “Ông nói phải, củ cải cũng nghe, le le cũng gật, lật đật đi tìm, con chim bắt được... Ấy, cứ nói lăng nhăng thế mà cũng thấy đỡ.”
Gã đứng dậy, thử nhấc phiến đá một lần nữa. Gã hít một hơi thật sâu, nắm lấy nó, dồn hết sức lực vào đôi tay. Với một tiếng “hự”, gã nhích được phiến đá đi vài phân.
“Cậu dịch nó đi được một tí rồi đấy,” Nakata nói.
“Vậy là ta biết nó không bị găm xuống đất. Chắc cháu phải đẩy nó thêm nữa.”
“Cậu cần phải lật sấp nó hoàn toàn.”
“Như lật cái bánh xèo ấy à?”
Nakata gật đầu. “Phải. Bánh xèo là một món ưa thích của lão.”
“Nghe mà sướng. Ở dưới âm phủ, họ cũng làm bánh xèo hả? Nào, để cháu thử một keo nữa. Cháu nghĩ là có thể lật được đấy.”
Hoshino nhắm mắt lại, huy động toàn bộ sức lực, tập trung vào cú quyết định này. Lần này là phải được! gã tự nhủ. Bây giờ hoặc không bao giờ!
Gã bám thật chắc, thận trọng gì riết hai cạnh rồi hít một hơi dài, “dô huầy!” một tiếng và hấp một cái nhấc nó lên, giữ ở một góc bốn mươi lăm độ. Giới hạn sức lực của gã chỉ đến thế. Cách nào đó, gã đã có thể giữ phiến đá ở tư thế đó. Gã thở hồng hộc, cảm thấy đau khắp người, từng đốt xương, từng bắp thịt, từng thớ thần kinh đều kêu đau, nhưng gã vẫn không chịu bỏ cuộc. Gã hít một hơi dài thét lên một tiếng hò xung trận, nhưng gã không nghe thấy tiếng mình. Gã không biết mình đang nói gì. Mắt nhắm chặt, gã khơi được một nguồn sức mạnh mà gã không ngờ là mình vốn có, một sức mạnh vượt quá tầm của gã. Mặt gã trắng bệch vì thiếu ô-xy. Gã cảm thấy từng sợi thần kinh nối tiếp nhau đứt phựt như những cầu chì nổ. Gã không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy gì, thậm chí không thể nghĩ. Gã ngạt thở. Tuy nhiên, từng tí một, gã vẫn nâng dần phiến đá lên và với một tiếng thét tối hậu, lật sấp được nó. Gã buông tay cho phiến đá tự úp xuống bằng chính trọng lượng của nó. Một tiếng thịch lớn làm rung chuyển cả căn phòng. Tưởng như toàn bộ ngôi nhà cũng chao đi.
Lực giật ngược đẩy Hoshino ngã vật ra sau. Gã nằm đó, quều quào, trên chiếc chiếu tatami, mặt ngửa lên hổn hển lấy hơi, đầu quánh đặc một thứ bùn nhão cứ xoáy lộn, xoáy lộn hoài. Chừng nào mình còn sống, gã nghĩ, chắc mình sẽ chẳng bao giờ nhấc một vật gì nặng như thế này nữa. (Tuy nhiên, sau này, hóa ra sự tiên đoán này lại là quá lạc quan).
“Cậu Hoshino?”
“C... c... cái gì?”
“Nhờ có cậu, cửa vào đã mở.”
“Ông biết không, ông Nakata?”
“Chuyện gì vậy?”
Vẫn trong tư thế nằm ngửa, mắt nhắm nghiền, Hoshino hít một hơi thật dài, thật sâu nữa rồi thở hắt ra: “May mà nó đã mở. Bằng không, cháu đã uổng công hy sinh thân mình.”
Ngay sau một giờ chiều, tôi mang cà phê lên tầng hai. Như mọi khi, cửa phòng vẫn mở. Miss Saeki đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài, một tay đặt trên bậu cửa. Chìm đắm trong suy tư đến độ không biết là những ngón của bàn tay kia đang vân vê khuy áo. Lần này, trên bàn không có cả bút lẫn giấy viết. Tôi đặt tách cà phê lên bàn. Một lớp mây mỏng che phủ bầu trời và không thấy tiếng chim hót bên ngoài.
Cuối cùng, bà cũng nhận thấy sự có mặt của tôi, bứt khỏi dòng suy tưởng, rời cửa sổ, ngồi vào bàn và nhấp một ngụm cà phê. Bà ra hiệu cho tôi ngồi vào chiếc ghế hôm qua. Tôi ngồi xuống và nhìn bà đang nhấp từng ngụm cà phê bên kia bàn. Liệu bà có nhớ gì về chuyện xảy ra đêm hôm qua không? Tôi không cách chi biết được. Bà có vẻ như biết hết đồng thời lại như chẳng biết gì cả. Hình ảnh thân thể bà thoát y trở lại trong trí tôi và tôi nhớ lại cảm giác khi tiếp xúc với những bộ phận khác nhau của bà. Tôi thậm chí không dám chác đó có phải là thân thể người đàn bà đang ngồi trước mặt tôi không. Tuy nhiên, lúc đó thì tôi chắc chắn một trăm phần trăm.
Bà mặc một chiếc áo sơ mi màu xanh nhạt mượt như lụa và một chiếc váy bo màu be, cổ đeo một chiếc vòng bạc mảnh rất sang. Những ngón tay thon thả của bà đan vào nhau trên mặt bàn, đẹp như một món đồ mỹ nghệ. "Vậy bây giờ cháu đã thích vùng này chưa?"
"Cô muốn nói Takamatsu?"
"Phải."
"Cháu không biết. Cháu chưa thăm được nhiều nơi trong thành phố, chỉ mới thấy vài thứ trên dọc đường đi. Nhà ga, một phòng tập thể dục công cộng, khách sạn cháu ở lúc đầu và tất nhiên là thư viện này... đại loại những nơi như thế."
"Cháu có thấy nó buồn chán không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu chưa biết. Cháu chưa có thì giờ để buồn chán, vả chăng các thành phố đều na ná như nhau. Tại sao cô lại hỏi thế? Cô nghĩ đây là một thành phố buồn tẻ chăng?"
Bà khẽ nhún vai. i còn trẻ cô nghĩ thế. Cô cực kỳ muốn thoát khỏi nó. Rời bỏ nó và đến một nơi nào khác, ở đó một cái gì khác thường đang chờ mình, ở đó mình có thể tìm thấy những người thú vị hơn."
"Những người thú vị?"
Miss Saeki khẽ lắc đầu. "Dạo ấy cô còn trẻ," bà nói. "Cô đồ rằng hầu hết những người trẻ tuổi đều có những ý nghĩ như thế. Cháu có thế không?"
"Không, cháu không bao giờ cảm thấy rằng nếu mình đến một nơi nào khác, ở đó sẽ có cái gì đặc biệt đang chờ mình. Cháu chỉ muốn hiện hữu ở một nơi nào khác, đơn giản thế thôi. Bất cứ nơi nào trừ nơi ấy."
"Nơi ấy?"
"Là Nogata, quận Nakano. Nơi cháu sinh ra và lớn lên."
Nghe nhắc đến cái tên ấy, một cái gì vụt lóe lên trong mắt Miss Saeki. Ít nhất là tôi cũng có cảm giác như thế.
"Cháu chẳng mấy quan tâm đến chuyện mình đi đâu, miễn là rời khỏi nơi đó?" bà hỏi.
"Đúng vậy," tôi đáp. "Đi đâu không thành vấn đề. Cháu cần phải ra khỏi đó, bằng không cháu sẽ xong đời, cháu biết thế. Cho nên cháu mới bỏ nhà đi."
Bà nhìn xuống đôi bàn tay đặt trên bàn với một vẻ rất vô tư trong mắt. Rồi rất điềm đạm, bà nói, "Hồi hai mươi tuổi, khi cô rời nơi này, cô cũng nghĩ như cháu - mình phải đi, bằng không sẽ không sống nổi. Và cô tin chắc rằng cô sẽ không bao giờ thấy lại nơi này chừng nào cô còn sống. Cô không bao giờ tính chuyện trở lại, nhưng rồi một số sự việc xảy ra, thế là giờ cô lại ở đây. Như thể lại bắt đầu lại từ đầu vậy." Bà quay mặt đi nhìn ra ngoài cửa sổ.
Lớp mây che phủ bầu trời vẫn không đổi màu và không một gợn gió nào gọi là có. Tất cả im sững như phông cảnh trong một cuốn phim vậy.
"Trong cuộc đời, có lúc xảy ra những điều không thể tin được," bà nói.
"Cô muốn nói có thể cháu sẽ lại quay về điểm xuất phát?"
"Cô không biết. Cái đó còn tùy thuộc cháu, mà nếu điều đó có xảy ra thì cũng còn lâu. Nhưng cô nghĩ với một con người, nơi sinh ra cũng như nơi chết là rất quan trọng. Anh không thể chọn nơi ra đời, nhưng nơi chết thì anh có thể chọn... trong chừng mực nào đấy." Bà nói những lời này với một giọng bình thản, mắt đăm đăm nhìn qua cửa sổ như đang nói với một người nào ngoài đó. Chợt nhớ đến sự hiện diện của tôi, bà quay lại. "Cô tự hỏi tại sao cô lại tâm sự tất cả những điều đó với cháu."
"Vì cháu không phải là người vùng này và cô cháu mình khác xa nhau về tuổi tác."
"Cô cũng đồ là thế," bà nói.
Trong vòng hai mươi thậm chí là ba mươi giây, chúng tôi lặng thinh, mỗi người chìm đắm trong dòng suy nghĩ của riêng mình. Bà nhấc tách cà phê lên và nhấp một ngụm nữa.
Tôi quyết định nói thẳng ra. "Miss Saeki, cháu cũng có điều cần tâm sự với cô."
Bà nhìn tôi và mỉm cười. "Cô thấy là cô cháu ta đang trao đổi những bí mật riêng tư."
"Về phần cháu thì không phải là một bí mật. Chỉ là một giả thuyết
"Một giả thuyết?"
"Vâng."
"Nghe hay đấy."
"Đó là hệ luận của những gì cô cháu mình đang trao đổi," tôi nói. "Ý cháu muốn hỏi có phải cô trở về thành phố này để chết?"
Như một vành trăng bạc lúc bình minh, một nụ cười thoáng hiện trên môi bà. "Có lẽ thế. Nhưng điều đó không quan trọn. Dù ta đến một nơi để sống hay để chết, những điều ta làm hằng ngày vẫn chẳng khác gì nhau."
"Cô có mong chết không?"
"Cô tự hỏi...," bà nói. "Chính cô cũng không biết."
"Sinh thời, cha cháu đã mong được chết."
"Cha cháu chết rồi ư?"
"Cách đây không lâu," tôi nói. "Thực ra là rất gần đây thôi."
"Tại sao cha cháu muốn chết?"
Tôi hít một hơi thật sâu. "Trong một thời gian dài, cháu không sao đoán được. Nhưng bây giờ thì cháu đã vỡ ra. Sau khi đến đây, rốt cuộc, cháu đã hiểu."
"Tại sao?"
"Cha cháu yêu cô nhưng không thể làm cách nào để khiến cô trở lại. Hoặc có thể là ngay từ đàu, ông đã không sao thực sự chiếm hữu được cô. Ông biết rõ điều đó và chính vì thế mà ông muốn chết. Và cũng vì thế mà ông muốn con trai ông - cũng là con trai của cô - giết ông. Nói cách khác, là cháu đây. Ông muốn cháu ngủ với cô và với cả chị cháu nữa. Đó là lời tiên tri của ông, lời nguyền của ông. Ông đã lập trình như vậy ngay trong nội tạng cháu."
Miss Saeki đặt tách cà phê xuống đĩa đánh cạch một cái. Bà nhìn thẳng vào tôi, nhưng bà không thực sự thấy tôi. Cái nhìn của bà đối với một khoảng chân không nào đó ở một nơi nào khác. "Cô có biết cha cháu không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu đã nói với cô đây chỉ là một giả thuyết mà."
Bà đặt cả hai tay lên bàn, tay nọ chồng lên tay kia. Vẫn còn thấp thoáng một nét cười ở khóe môi. "Vậy trong giả thuyết này, cô là mẹ cháu?"
"Đúng thế," tôi nói. "Cô đã sống với cha cháu, sinh ra cháu và rồi bỏ đi, để cháu lại. Vào cái mùa hè năm cháu vừa lên bốn."
"Vậy giả thuyết của cháu là thế?"
Tôi gật đầu.
"Đó là lý do khiến cháu hôm qua hỏi cô có con hay không?"
Tôi lại gật đầu.
"Cô đã nói với cháu rằng cô không thể trả lời câu hỏi đó. Rằng cô không thể nói đơn giản là có hoặc không."
"Cháu biết."
"Vậy giả thuyết của cháu chỉ là tự biện."
Tôi lại gật đầu. "Đúng thế."
"Vậy hãy nói cho cô nghe cha cháu chết như thế nào?"
"Ông ấy bị ám sát."
"Cháu không giết ông ấy đấy chứ?"
"Không, cháu không giết ông. Cháu có chứng cớ ngoại phạm."
"Nhưng cháu không chắc chắn hoàn toàn, phải không?"
Tôi lắc đầu. "Cháu không chắc chắn một trăm phần trăm."
Bà lại nhấc tách cà phê lên, nhấp một ngụm nhỏ như thể nó chẳng có vị gì. "Tại sao cha cháu lại trút lên đầu cháu một lời rủa nguyền như vậy?"
"Chắc ông muốn cháu tiếp nối ý chí của ông."
"Tức là thèm muốn cô?"
"Vâng," tôi nói.
Miss Saeki nhìn trân trân vào tách cà phê trong tay, rồi lại ngẩng lên.
"Vậy cháu có... thèm muốn cô không?"
Tôi gật đầu một cách dứt khoát.
Bà nhắm mắt lại. Tôi đăm đăm nhìn cặp mí mắtn hắm nghiền của bà hồi lâu, và qua đó, tôi có thể cảm nhận vùng bóng tối bà đang thấy. Những hình thù kỳ dị nổi lên trong đó, bồng bềnh rồi tan biến.
"Cuối cùng, bà mở mắt ra. "Cháu muốn nói trên giả thuyết đó?"
"Không, không chỉ trên giả thuyết. Cháu thèm muốn cô thật, vượt xa giới hạn của giả thuyết."
"Cháu muốn giao hợp với cô?"
Tôi gật đầu.
Bà him mắt lại như thể bị chói sáng. "Cháu đã bao giờ làm tình với một cô gái chưa?"
Tôi lại gật đầu. Đêm qua... với cô ấy, tôi nghĩ thầm. Nhưng tôi không thể nói thành tiếng. Bà tịnh không nhớ gì hết.
Một cái gì đó gần giống như tiếng thở dài thoát ra khỏi môi bà. "Kafka, cô biết cháu ý thức được điều này: cháu mới mười lăm mà cô thì đã ngoài năm mươi."
"Vấn đề không đơn giản như thế. Ở đây ta không bàn trên bình diện thời gian ấy. Cháu biết một Miss Saeki ở tuổi mười lăm. Và cháu yêu cô ở độ tuổiấy. Người thiếu nữ ấy hiện vẫn ở trong cô, vẫn ngủ trong cô. Tuy nhiên, khi cô ngủ thì nàng thức dậy và cháu đã thấy điều đó."
Bà nhắm mắt lại một lần nữa, mí mắt nhè nhẹ rung.
"Cháu yêu cô, và đối với cháu, đó là điều quan trọng. Cháu nghĩ cô hiểu điều đó."
Như một người từ đáy biển ngoi lên mặt nước, bà hít một hơi thật sâu. Bà cố tìm lời để diễn đạt mà không ra.
"Cô xin lỗi, Kafka, cháu có thể để cô một mình một lúc được không? cuối cùng, bà nói. "Và khi ra nhớ đóng cửa lại giùm cô."
Tôi gật đầu, đứng dậy đi ra, nhưng một cái gì kéo tôi lại. Tôi dừng lại ở cửa, quay lại, bước tới chỗ bà. Tôi đưa tay vuốt tóc bà. Qua những mớ tóc, tay tôi chạm vào vành tai nhỏ nhắn của bà. Tôi không thể ngăn mình lại.
Miss Saeki ngạc nhiênước lên và sau một thoáng lưỡng lự, đặt tay lên tay tôi. "Dù sao chăng nữa, cháu và cái giả thuyết của cháu đã nhắm trúng một mục tiêu xa hơn cháu tưởng nhiều. Cháu có biết thế không?"
Tôi gật đầu. "Cháu biết. Nhưng khoảng cách có thể rút ngắn bằng ẩn dụ."
"Chúng ta không phải là ẩn dụ."
"Cháu biết," tôi nói. "Nhưng ẩn dụ giúp loại bỏ những gì ngăn cách cô với cháu."
Bà thoáng mỉm cười, ngước nhìn tôi. "Đó là lời tán tỉnh kỳ lạ nhất cô từng nghe thấy đấy."
"Có biết bao điều kỳ lạ đang diễn ra, nhưng cháu cảm thấy mình đang từ từ đến gần chân lý hơn."
"Thực sự đến gần một chân lý ẩn dụ, hay đến gần một chân lý đích thực theo nghĩa ẩn dụ? Hay có thể hai đằng bổ sung cho nhau?"
"Đằng nào thì cháu cũng không chịu nổi nỗi buồn cháu đang cảm thấy lúc này đây," tôi nói với bà.
"Cô cũng cảm thấy như cháu."
"Vậy cô trở về đây để chết?"
Bà lắc đầu. "Nói thật tình, cô không tìm đến cái chết. Cô chỉ chờ nó đến thôi. Như kiểu ngồi trên một chiếc ghế băng ở ga, chờ tàu đến vậy."
"Thế cô có biết bao giờ thì tàu đến không?"
Bà cất tay khỏi tay tôi và áp những đầu ngón tay lên mí mắt. "Kafka, cô đã sống đền mòn xơ đời mình, mòn ơ bản thân mình. Đến một độ nào đó, lẽ ra cô đã nên ngừng sống, nhưng cô đã không làm thế. Cô biết đời mình đã hết ý nghĩa mà vẫn không thể từ bỏ nó. Thành thử cô đâm lần lữa, phí phạm thời gian vào những việc vô ích, kết quả là làm tổn thương bản thân mình và những người xung quanh. Vì thế giờ đây, cô đang bị trừng phạt, tựa như chịu một lời rủa nguyền vậy. Cô đã từng có một cái gì đó quá trọn vẹn, quá hoàn hảo, thế rồi sau đó, cô chỉ có thể tự khinh bỉ mình mà thôi. Đó là sự rủa nguyền mà cô không bao giờ thoát được. Cho nên cô chẳng sợ chết. Và để trả lời câu hỏi của cháu - có, cô biết khá rõ khi nào thì tàu đến."
Một lần nữa, tôi lại cầm lấy tay bà. Bàn cân đang chòng chành, chỉ một trọng lượng tí xíu cũng đủ để làm nó nghiêng về bên này hay bên kia. Tôi cần phải suy nghĩ. Tôi cần phải quyết định. Tôi cần tiến một bước. "Miss Saeki, liệu cô có bằng lòng ngủ với cháu không?" tôi hỏi.
"Ngay cả nếu theo giả thuyết của cháu, cô là mẹ cháu ư?"
"Cháu có cảm giác như tất cả xung quanh cháu đều trôi chảy triền miên... như thể tất cả đều có hai nghĩa."
Bà ngẫm nghĩ một lúc về điều tôi vừa nói. "Nhưng với cô, có lẽ không phải như thế. Với cô, có lẽ sự vật không mang sắc thải nửa vời như thế. Nó dứt khoát hơn: hoặc là tất cả, hoặc là không có gì."
"Và cô biết đó là tất cả hay không có gì?"
Bà gật đầu.
"Cháu có thể hỏi cô một câu được không?"
"Về cái gì?"
"Cô kiếm đâu ra hai hợp âm đó?"
"Hợp âm?"
"Hai hợp âm trong điệp khúc bài Kafka bên bờ biển ấy."
Bà nhìn tôi. "Cháu thích những hợp âm ấy à?"
Tôi gật đầu.
"Cô tìm thấy những hợp âm ấy trong một căn phòng cũ, rất xa đây. Cửa phòng lúc ấy để mở," bà nói nhỏ nhẹ. "Một căn phòng rất rất xa."
Bà nhắm mắt lại, đắm mình trong kỷ niệm. "Kafka, đóng cửa lại khi cháu đi ra nhé," bà nói.
Và tôi làm đúng như vậy.
Sau khi chúng tôi đóng cửa thư viện nghỉ đêm, Oshima lái xe đưa tôi đến một nhà hàng hải sản cách thư viện một quãng xa. Qua một cửa sổ rộng của nhà hàng, tôi có thể thấy biển đêm và tôi nghĩ về những sinh vật sống dưới đó.
"Thỉnh thoảng chúng mình cũng phải ra ngoài kiếm chút gì ăn cho ngon miệng," anh bảo tôi. "Thư giãn đi. Mình không nghĩ là cảnh sát canh chừng thư viện đâu. Cả hai chúng ta đều cần phải thay đổi cảnh trí một tí."
Chúng tôi ăn một đĩa xa-lát to tướng rồi gọi một suất paella[28] chia đôi.
"Mình rất thích một ngày nào đó được sang Tây Ban Nha," Oshima nói.
"Tại sao lại Tây Ban Nha?"
"Để tham gia cuộc nội chiến Tây Ban Nha."
"Nhưng nó đã kết thúc từ lâu rồi mà."
"Mình biết chứ. Lorca thì chết, còn Hemingway sống sót," Oshima nói. "Nhưng mình vẫn có quyền muốn sang Tây Ban Nha tham gia cuộc chiến đó."
"Theo nghĩa ẩn dụ?"
"Tất nhiên," anh nói, nhăn nhó nhìn tôi. "Một kẻ giới tính không xác định mắc chứng máu không đông hầu như chưa bao giờ đặt chân ra ngoài vùng Shikoku làm sao có thể thực sự đi chiến đấu ở Tây Ban Nha."
Chúng tôi đả món paella đầy tú ụ, chiêu bằng nước khoáng Perrier.
"Vụ án cha em có diễn biến gì mới không?"
"Không có gì thực sự đáng kể. Trừ một cáo phó não nùng ở trang nghệ thuật, các báo chẳng đưa tin gì nhiều về vụ này. Chắc là cuộc điều tra bị bế tắc. Điều đáng buồn là những ngày này, tỉ lệ bắt giữ tội phạm liên tục đi xuống hệt như thị trường chứng khoán. Mình muốn nói là cảnh sát thậm chí không dò ra tung tích của cậu con trai đã biến mất tăm."
"Một thiếu niên mười lăm tuổi."
"Mười lăm tuổi và những triệu chứng bạo hành," Oshima bổ sung. "Chú bé bỏ nhà mang đầy ám ảnh."
"Còn sự kiện mưa cá thì sao?"
Oshima lắc đầu. "Họ tạm ngừng điều tra vụ này. Không có vật lạ nào khác từ trên trời rơi xuống, ngoại trừ cú sét đáng xếp vào Kỷ lục Guiness cách đây hai ngày."
"Vậy là tình hình đã lắng xuống?”
"Có vẻ thế. Hoặc giả ta đang ở giữa mắt bão."
Tôi gật đầu, nhặt một con ngao lên, dùng dĩa khều ruột ra rồi vứt vỏ vào một chiếc đĩa đựng vỏ.
"Cậu vẫn đang yêu?"
Tôi gật. "Còn anh?"
"Cậu muốn nói là mình có đang yêu không à?"
Tôi lại gật.
"Nói cách khác, cậu đang cả gan tọc mạch hỏi về bản tình ca phản xã hội điểm tô cho đời sống riêng tư của kẻ đồng giới tínhphải dục, ái nam ái nữ là tôi đây?"
Tôi gật và anh cũng gật theo.
"Phải, mình có một bạn tình," anh thừa nhận (anh ăn một con ngao với vẻ mặt nghiêm túc). "Đó không phải là loại tình yêu bão tố, say đắm như trong các vở nhạc kịch của Puccini. Bọn mình giữ một khoảng cách thận trọng vớinhau, không năng gặp nhau lắm, nhưng về cơ bản, bọn mình hiểu nhau sâu sắc."
"Hiểu nhau?"
"Khi sáng tác nhạc, bao giờ Haydn cũng ăn mặc rất chỉnh tề, thậm chí đeo cả tóc giả rắc bột."
Tôi ngạc nhiên nhìn anh. "Haydn thì có liên quan gì đến chuyện này?"
"Ông không thể sáng tác hay nếu không ăn mặc như thế?"
"Tại sao?"
"Mình không biết. Đó là chuyện riêng tư giữa Haydn và bộ tóc giả của ông. Không ai khác hiểu được. Mình nghĩ chuyện đó là bất khả giải thích."
Tôi gật đầu. "Những lúc một mình, anh có thi thoảng nghĩ đến người bạn tình và cảm thấy buồn không?"
"Dĩ nhiên," anh nói. "Điều đó thi thoảng xảy ra. Khi ánh trăng chuyển qua màu xanh, khi chim chóc bay về phương Nam, khi..."
"Tại sao lại dĩ nhiên?" tôi hỏi.
"Bất kỳ ai đang yêu đều tìm cái phần thiếu hụt của bản ngã mình. Cho nên họ cảm thấy buồn khi nghĩ đến người mình yêu. Giống như khi ta bước vào một căn phòng đầy kỷ niệm thân thương mà đã bao lâu ta không trở lại. Đó là một tình cảm rất tự nhiên. Cậu không phải là người phát hiện ra tình cảm ấy, vậy nên đừng có tìm cách giành bằng phát minh ra nó, hiểu không?"
Tôi đặt dĩa xuống và ngước lên.
"Một căn phòng cũ thân thương, xa xưa?"
"Đúng," Oshima nói, giơ thẳng chiếc dĩa như để nhấn mạnh. "Dĩ nhiên đó chỉ là ẩn dụ."
Đêm ấy, Miss Saeki đến phòng tôi sau chín giờ. Tôi đang ngồi ở bàn đọc một cuốn sách thì nghe thấy tiếng chiếc Golf của bà vào bãi đậu xe. Cửa đóng lại đánh sầm. Tiếng giày đế cao su chậm rãi bước lạo xạo qua bãi đậu xe. Và cuối cùng, một tiếng gõ lên cửa phòng tôi. Tôi mở cửa và thấy bà đứng đó. Lần này, rành là bà thức. Bà mặc một chiếc áo sơ miọc hồng, quần jeans mỏng màu xanh lơ, đi giày tennis trắng. Trước đây, tôi chưa từng thấy bà mặc quần tây bao giờ.
"Lâu lắm cô chưa trở lại căn phòng này," bà nói. Bà đứng cạnh tường và nhìn bức tranh. "Cả bức tranh này nữa."
"Cảnh trong tranh có ở gần đây không?"
"Cháu có thích bức tranh này không?"
Tôi gật đầu. "Ai vẽ vậy cô?"
"Một họa sĩ trẻ tạm trú ở nhà Komura mùa hè năm ấy," bà nói. "Hồi ấy, ông ta chưa nổi tiếng lắm. Cô quên mất tên ông ta. Nhưng ông ta là người rất thân thiện và theo cô, đây là một bức tranh đẹp. Nó có một cái gì... cô không biết nói thế nào... một cái gì đầy cường lực. Cô ngồi cạnh ông ta suốt, xem ông làm việc. Cô đưa ra hàng lô gợi ý nửa đùa nửa thật trong khi ông vẽ. Hai người bọn cô rất hợp nhau. Đó là vào mùa hè cách đây lâu lắm rồi. Hồi ấy, cô mới mười hai. Cậu bé trong tranh cũng mười hai."
"Trông giống như biển ở vùng này."
"Ta đi dạo một vòng đi," bà nói. "Cô sẽ dẫn cháu đến đó."
Tôi đi với bà đến bờ biển. Chúng tôi xuyên qua một rừng thông và xuống một bãi cát. Mây hé ra và một vầng trăng bán nguyệt chiếu lấp lánh trên sóng. Những con sóng nhỏ chỉ hơi chạm vào bờ đã vỡ ra. Bà ngồi xuống bãi cát và tôi cũng ngồi xuống cạnh bà. Cát vẫn còn âm ấm.
Đưa tay lên như để kiểm tra góc nhìn, bà chỉ một chỗ trên bờ biển. "Chính xác ở chỗ kia kìa," bà nói. "Ông ấy ngồi dây vẽ. Ông đặt một chiếc ghế bố ở đằng kia để cậu bé ngồi mẫu và dựng giá vẽ ngay đây. Cô nhớ rất rõ. Cháu có nhận tị trí của hòn đảo y hệt như trong tranh không?"
Tôi nhìn theo hướng bà chỉ. Vị trí hòn đảo thì quả đúng như vậy, nhưng, cho dù tôi có nhìn lâu đến mấy, phong cảnh này vẫn không giống trong tranh. Tôi nói với bà thế.
"Cảnh vật đã thay đổi hoàn toàn," Miss Saeki đáp. "Xét cho cùng, đã bốn mươi năm rồi còn gì. Vật đổi sao dời mà. Biết bao nhiêu thứ tác động đến bờ biển - sóng, gió, bão. Cát bị cuốn đi hay lấn vào. Nhưng dứt khoát là chỗ này đấy. Cô nhớ rất rõ, dạo ấy vào mùa hè. Cũng là thời điểm cô thấy kinh lần đầu."
Chúng tôi ngồi đó ngắm cảnh. Mây thay hình đổi dạng và ánh trăng vỡ ra lốm đốm mặt biển. Gió thổi qua rừng thông, nghe như cả đám người quét đất cùng một lúc. Tôi vốc cát, để cho chảy qua kẽ tay. Nó rơi xuống và, giống như thời gian trôi qua, lại hòa làm một với bãi cát bên dưới. Tôi lặp đi lặp lại trò chơi đó.
"Cháu đang nghĩ đến cái gì?" Miss Saeki nói.
"Đến chuyện đi Tây Ban Nha," tôi đáp.
"Cháu sẽ làm gì ở bên đó?"
"Ăn một chầu paella thật khoái khẩu."
"Thế thôi ư?"
"Và tham gia cuộc nội chiến Tây Ban Nha."
"Cuộc chiến đó đã chấm dứt cách đây sáu mươi năm rồi."
"Cháu biết," tôi nói. "Lorca chết và Hemingway sống sót."
"Nhưng cháu vẫn muốn
Tôi gật đầu. "Vâng. Giật mìn phá cầu và các thứ khác."
"Và yêu Ingrid Bergman?"
"Nhưng trong thực tại thì cháu đang ở Takamatsu. Và đang yêu cô."
"Thật không may."
Tôi quàng tay ôm vai bà.
Mày quàng tay ôm vai bà.
Bà dựa người vào mày. Và một quãng thời gian dài trôi qua.
"Cháu có biết cách đây lâu lắm, cô đã làm đúng như thế này?"
"Cháu biết," mày nói với bà vậy.
"Làm sao cháu biết được?"
"Khi đó cháu ở đây mà?"
"Giật mìn phá cầu?"
"Vâng, cháu đã ở đây - giật mìn phá cầu."
"Một cách ẩn dụ?"
"Cố nhiên."
Mày ôm bà trong tay, ghì sát nữa, hôn bà. Mày có thể cảm thấy rõ sức lực từ cơ thể bà.
"Cả hai chúng ta đang mơ, phải không? bà nói.
Phải, tất cả chúng ta đều đang
"Tại sao anh lại phải chết?"
"Anh không thể làm khác được," tôi đáp.
Mày cùng Miss Saeki đi xuôi bãi biển quay về thư viện. Mày tắt đèn trong phòng, kéo rèm và không nói thêm một lời, cả hai lên giường và làm tình. Khá giống cách làm tình đêm hôm trước. Nhưng với hai điểm khác biệt. Sau cuộc ân ái, bà bắt đầu khóc. Đó là một. Bà vùi mặt vào gối và lặng lẽ khóc. Mày không biết nên làm gì. Mày dịu dàng đặt một tay lên bờ vai trần của bà. Mày biết là mày nên nói một điều gì đó, nhưng mày chẳng nghĩ ra ý gì. Lời chữ đã chết hết trong vực thẳm thời gian, lặng lẽ chất đống dưới đáy tăm tối của một cái hồ-miệng-núi-lửa. Và lần này, khi bà rời khỏi thư viện, mày có thể nghe thấy tiếng động cơ của chiếc Golf. Đó là điểm khác biệt thứ hai. Bà khởi động máy, tắt đi một lúc như thể chợt nghĩ điều gì, rồi lại mở khoá công tắc và lái xe ra khỏi bãi đậu xe. Cái khoảng trống im lặng giữa hai lần khởi động ấy làm mày buồn, buồn ghê gớm. Như lớp sương mù trên biển, sự trống trải ấy len vào tim mày và lưu lại đó hồi lâu, rất lâu, để rồi cuối cùng, trở thành một bộ phận của chính mày.
Bà để lại một chiếc gối đẫm nước mắt. Mày đặt tay lên lần vải ướt và ngó nhìn bầu trời bên ngoài dần dần sáng. Đằng xa, một tiếng quạ kêu. Trái Đất vẫn tiếp tục quay chậm rãi. Nhưng bên kia những chi tiết ấy của thực tại, có những giấc mơ. Và mỗi người đều đang sống trong giấc mơ của mình.
Chương 32
Khi Nakata thức giấc vào lúc năm giờ sáng, lão nhìn thấy phiến đá lớn ngay cạnh gối mình. Hoshino vẫn đang ngủ vùi trên tấm nệm futon cạnh đó, miệng hơi hé, tóc rối bù, chiếcũ Chunichi Dragons vứt lăn lóc bên mình. Bộ mặt ngủ say sưa của gã có một vẻ cương quyết như muốn nói: bất kể có chuyện gì cũng đừng đánh thức tôi.
Nakata không quá ngạc nhiên khi thấy phiến đá ở đó. Tâm trí lão thích ứng ngay với cái thực tại mới ấy, chấp nhận nó, không hề tự hỏi tại sao nó lại ở đấy. Suy nghĩ về nguyên nhân và hậu quả không bao giờ là điểm mạnh của lão.
Lão trịnh trọng ngồi xếp bằng bên tấm nệm, chăm chú nhìn ngắm phiến đá một hồi lâu. Cuối cùng, lão với tay ra chạm nhẹ vào nó như vuốt ve một con mèo đang ngủ. Thoạt đầu, rón rén, chỉ bằng đầu ngón tay, rồi khi thấy có vẻ an toàn, lão xòe cả bàn tay thận trọng xoa khắp bề mặt phiến đá. Suốt quãng thời gian đó lão đăm chiêu suy nghĩ – hay ít nhất cũng có vẻ như đang suy nghĩ. Như thể đang đọc một tấm bản đồ, lão sờ lần khắp các mặt và cạnh góc của phiến đá, ghi nhớ từng chỗ lồi lõm, từng vết rạn để có một cảm giác thật chuẩn xác về nó. Rồi đột nhiên, lão đưa tay lên xoa mái tóc húi cua, như thể tìm kiếm một tương quan giữa đầu mình với phiến đá ấy.
Cuối cùng, lão trút ra một tiếng tựa như thở dài, đứng dậy, mở cửa sổ và thò mặt ra ngoài. Từ đây, chỉ còn thể nhìn thấy mặt sau của ngôi nhà bên cạnh. Một ngôi nhà lầm than, bệ rạc. Cái loại nhà trong đó những con người bệ rạc sống lần lữa những ngày bệ rạc của mình, kiếm ăn bằng công việc bệ rạc của mình. Cái loại nhà thất sủng ta có thể gặp ở bất cứ thành phố nào, cái loại nhà mà Charles Dickens có thể dành cả chục trang để mô tả. Những đám mây trôi trên bầu trời giống như những mớ bụi đã vón cục từ một chiếc máy hút bụi mà từ lâu không ai cọ rửa nữa. Hoặc có thể những mâu thuẫn tạo nên bởi cuộc Cách mạng Công nghiệp thứ ba đã đông đặc lại dưới dạng đó để trôi trên trời. Bất kể thế nào thì cũng sắp mưa thôi. Nakata nhìn xuống và thấy một con mèo đen gầy giơ xương, đuôi ngỏng lên, đang rình mò trên bức tường hẹp giữa hai ngôi nhà. “Hôm nay, sẽ có sấm chớp đấy,” lão nói vọng ra. Nhưng con mèo có vẻ như không để tai nghe lão, thậm chí không buồn ngoảnh lại, chỉ tiếp tục uể oải bước rồi biến mất trong bóng râm của ngôi nhà.
Nakata đi xuôi hành lang, tay cầm chiếc túi nhựa đựng đồ dùng vệ sinh, đến phòng tắm công cộng. Lão rửa mặt, đánh răng và cạo râu bằng một lưỡi dao an toàn. Lão nhẩn nha làm từng thao tác một. Lão nhẩn nha rửa mặt thật cẩn thận, nhẩn nha đánh răng thật cẩn thận, nhẩn nha cạo mặt thật cẩn thận. Lão lấy kéo cắt lông mũi, chải lông mày, cọ tai. Lão thuộc loại người làm việc gì cũng nhẩn nha, nhưng sáng nay, thậm chí lão còn đủng đỉnh hơn mọi khi. Không có ai khác rửa mặt vào cái giờ sớm sủa này và còn khá lâu nữa mới đến giờ ăn sáng. Xem ra Hoshino chưa chắc đã dậy ngay được. Một mình chiếm lĩnh cả phòng tắm, Nakata soi gương, ung dung chuẩn bị đón ngày mới và mường tượng mặt mũi tất cả những con mèo trong cuốn sách lão đã xem tại thư viện hai hôm trước. Lão không đọc được nên không biết tên từng giống, loại, nhưng hình ảnh mỗi gương mặt mèo đều được in rõ nét trong trí nhớ của lão.
“Quả thật có vô số mèo trên thế giới, đó là cái chắc,” lão vừa nghĩ thầm vừa ngoáy tai với một que đầu bọc bông mềm. Buổi đầu tiên trong đời đến thăm một thư viện đã khiến lão đau đớn hiểu ra rằng lão biết quá ít. Khối lượng những điều lão chưa biết về thế giới này thật mênh mông vô tận. Cái vô tận, theo định nghĩa, là không biên giới và chỉ nghĩ sơ sơ về nó đã khiến lão đau đầu. Lão bỏ dở, quay sang nghĩ về cuốn Các giống mèo trên thế giới. Giá có thể nói chuyện được với từng con mèo trong đó thì thú biết bao, lão nghĩ. Chắc hẳn trên thế giới có đủ các loại mèo với những cách nghĩ và cách nói chuyện khác nhau. Liệu mèo nước ngoài có nói tiếng nước ngoài không nhỉ? Lão tự hỏi. Nhưng đây lại là một đầu đề khó khác và lão lại bắt đầu nhức đầu.
Rửa ráy xong, lão vào toa-lét đi vệ sinh theo thông lệ hàng ngày. Việc này không mất nhiều thời gian như rửa mặt đánh răng. Xong xuôi, lão xách túi đồ vệ sinh về phòng. Hoshino vẫn ngủ ngon lành, y nguyên như khi lão bỏ gã nằm đó. Nakata nhặt chiếc áo sơ mi Hawai và chiếc quần jeans vứt dưới sàn lên, gấp lại gọn gàng và xếp cạnh tấm nệm futon của Hoshino. Lão đặt thêm chiếc mũ của đội bóng chày Chunichi Dragons lên trên cùng như để đặt tên cho một tập hợp những ý tưởng pha tạp. Lão cởi chiếc áo choàng tắm của khách sạn, mặc sơ mi và quần thường ngày của mình vào rồi xoa tay và hít một hơi thật sâu.
Lão lại ngồi xuống trước phiến đá, nhìn ngắm một hồi trước khi rụt rè đưa tay chạm vào nó. “Hôm nay, sẽ có sấm chớp đây,” lão thông báo, không nhằm cụ thể vào ai. Có thể là lão nói với phiến đá cũng nên. Lão gật đầu hai cái như để chấm câu cho lời thông báo đó.
Cuối cùng, khi Hoshino thức dậy thì Nakata đang đứng cạnh cửa sổ, tập một bài thể dục thông thường. Lão vừa làm các động tác khớp với nhịp của điệu nhạc thể dục trên đài phát thanh vừa khẽ huýt sáo theo.
Hoshino liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ hơn. Gã vươn cổ nhìn để yên trí rằng phiến đá vẫn nằm nguyên ở chỗ gã đã đặt nó. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó xù xì và lớn hơn nhiều so với trong trí nhớ của gã. “Vậy rốt cuộc, không phải là mình nằm mơ,” gã nói.
“Xin lỗi... cậu nói gì?” Nakata hỏi.
“Phiến đá,” Hoshino nói. “Nó thực sự ở đây. Không phải cháu nằm mơ.”
“Chúng ta đã có phiến đá,” vẫn đang đứng giữa chừng bài thể dục, Nakata khẳng định một cách dứt khoát như phát biểu một mệnh đề trung tâm nào đó của triết học Đức thế kỷ XIX.
“Tuy nhiên, làm sao đưa được nó về đây, lại là cả một câu chuyện dài đấy ông nội ạ.”
“Phải, Nakata này cũng nghĩ thế.”
“Dù sao đi nữa,” Hoshino nói, ngồi dậy và thở dài đánh thượt, “cái đó cũng chả thành vấn đề. Điều quan trọng là nó đã ở đây. Nói thế cho nhanh.”
“Chúng ta đã có phiến đá,” Nakata nhắc lại. Đó mới là điều quan trọng.
Hoshino định đáp lại nhưng đột nhiên, gã bỗng nhận ra là mình đang đói muốn chết. “Này ông nội, ta đi kiếm cái gì điểm tâm chứ?”
“Phải, Nakata này cũng đang đói mèm.”
Ăn sáng xong, Hoshino vừa uống trà vừa hỏi. “Thế bây giờ ông định làm gì với phiến đá?”
“Nakata này nên làm gì với nó?”
“Ông phải để cháu nghỉ lấy hơi tý đã chứ,” Hoshino lắc đầu nói. “Ông bảo cháu phải tìm cho ra phiến đá, vì thế đêm qua cháu đã cất công kiếm được nó. Bây giờ, ông lại tra tấn cháu với cái câu hỏi chết tiệt nên làm gì với nó?”
“Phải, cậu có lý. Nhưng nói thật tình, lão vẫn chưa biết mình phải làm gì với nó.”
“Rắc rối đấy.”
“Quả thật là rắc rối,” Nakata đáp, tuy nhiên vẻ mặt lão chẳng biểu lộ điều gì chứng tỏ lão cảm thấy “rắc rối”.
“Nếu ông bỏ thì giờ suy nghĩ, liệu ông có hình dung ra được điều cần làm không?”
“Lão nghĩ là được. Nakata làm gì cũng mất nhiều thời gian hơn mọi người khác.
“Ô-kê nhưng nghe này ông nội.”
“Dạ, thưa cậu Hoshino.”
“Cháu không biết ai đặt tên cho nó, nhưng một khi đã gọi là phiến đá cửa vào thì chắc ngày xưa, nó đã từng là cửa dẫn vào một cái gì đó, phải không nào? Chắc phải có một truyền thuyết gì về nó chứ?”
“Phải, chắc thế.”
“Nhưng ông không biết đó là cửa vào đâu à?”
“Không, lão chưa biết. Trước đây, lão thường trò chuyện với mèo suốt, nhưng chưa bao giờ nói chuyện với đá.”
“Có vẻ như chả dễ gì.”
“Khác xa nói chuyện với mèo, đó là cái chắc.”
“Cơ mà lấy phiến đá đó ra khỏi một miếu thờ, liệu chúng ta có bị thánh vật không nhỉ? Điều đó thực sự khiến cháu áy náy đấy. Lấy được nó là một chuyện, nhưng bây giờ, một khi có nó trong tay, xử trí như thế nào với nó lại là cả một vấn đề hóc búa. Đại tá Sanders bảo cháu là sẽ không có chuyện thánh vật, nhưng cháu không thể tin lão ta hoàn toàn, ông hiểu ý cháu chứ?”
“Đại tá Sanders nào?”
“Có một lão già tên là thế. Cái tay trên các tấm quảng cáo Kentucky Fried Chicken ấy. Lão mặc một bộ com-lê trắng, để râu dê, đeo kính nhỏ xíu. Ông không biết à?”
“Xin lỗi, nhưng lão không quen quý ông ấy.”
“Ông không biết tập đoàn Kentucky Fried Chicken ư? Kể cũng lạ đấy. Mà thôi, chả quan trọng. Dù sao đi nữa, lão cũng chỉ là một khái niệm trừu tượng. Lão không phải là ngườ cũng chẳng là thần phật gì cả. Lão không có hình thù, nhưng vì phải mang một vẻ bề ngoài, nên lão chọn cái lốt Đại tá Sanders.”
Vẻ bối rối, Nakata đưa tay vò mái tóc muối tiêu. “Lão không hiểu.”
“Nói thực tình, cháu cũng chả hiểu, mặc dầu cháu nói chuyện huyên thuyên thế,” Hoshino thú nhận. “Không biết từ đâu, lão già kỳ quặc ấy tự dưng xuất hiện và ba hoa đủ thứ với cháu. Nói cho ngắn gọn, lão giúp cháu tìm ra phiến đá và cháu khuân nó về đây. Không phải cháu kể công để tranh thủ tình cảm của ông, nhưng cháu có thể nói với ông đó là một đêm dài gian truân. Điều cháu thực sự muốn làm ngay lúc này là bàn giao tất tật cả cho ông.”
“Lão xin nhận.”
“Mau lẹ đấy.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì vậy?”
“Sắp sửa có rất nhiều sấm đấy. Ta hãy đợi đến lúc ấy.”
“Ông muốn nói là sấm sẽ tạo ra một cái gì giúp chúng ta xử trí với phiến đá?”
“Lão chưa biết chắc, nhưng lão đã bắt đầu cảm thấy như thế.”
“Sấm ư? Nghe có vẻ lặng lẽ thế này mà. Thôi được, ta sẽ chờ xem điều gì xảy ra.”
Khi trở về phòng Hoshino gieo mình nằm sấp trên tấm nệm futon và bật tivi. Chẳng có gì ngoài một mớ tiết mục tạp kỹ dành cho các bà nội trợ, nhưng vì không có cách nào khác để giết thì giờ nên gã vẫn cứ theo dõi, vừa xem vừa luôn mồm bình luận mọi thứ diễn ra trên màn hình.
Trong khi đó, Nakata ngồi trước phiến đá, mắt nhìn chăm chăm, tay sờ lần khắp mọi chiệng thỉnh thoảng lẩm bẩm điều gì mà Hoshino không nghe được. Gã chỉ đoán là có thể Nakata đang nói chuyện với phiến đá.
Khoảng hai giờ sau, Hoshino chạy ra một cửa hàng gần đấy mua về một bịch đầy sữa và bánh mì ngọt để hai ông con ăn trưa. Trong khi họ ăn, cô phục vụ đến dọn phòng, nhưng Hoshino bảo khỏi phiền, họ thấy thế này được rồi.
“Bác và anh không đi đâu ra ngoài?”
“Không,” gã đáp. “Chúng tôi có việc phải làm ở đây.”
“Bởi vì sắp sửa có sấm,” Nakata nói thêm.
“Sấm ư... ra thế” cô phục vụ nói, vẻ hoài nghi, trước khi rút lui. Coi bộ cô không muốn dính dáng gì với cái bộ đôi kỳ quặc này nữa.
Vào quãng trưa, sấm ì ầm ở đằng xa và như chỉ chờ hiệu lệnh ấy, mưa bắt đầu lắc rắc. Sấm không to lắm, chỉ như một chú lùn uể oải giậm chân lên mặt trống. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, những hạt mưa lớn dần để trở thành một trận hồng thủy thật sự, bao bọc thế giới trong một mùi ẩm ướt, ngột ngạt.
Khi sấm bắt đầu nổi, hai người bèn ngồi xuống đối diện nhau với phiến đá ở giữa, như kiểu những người da đỏ truyền tay nhau tẩu thuốc hòa bình. Nakata vẫn lẩm bẩm một mình, lúc xoa đầu, lúc xoa phiến đá. Hoshino rít một điếu Marlboro và quan sát.
“Cậu Hoshino?” Nakata nói.
“Gì vậy ông?”
“Cậu có vui lòng ở bên lão một lúc không?”
“Tất nhiên rồi. Mưa thế này, cháu còn đi đâu làm gì.”
“Có thể một điều kỳ lạ sắp diễn ra.”
“Ông có giỡn cháu không đấy?” Hoshino hỏi. “Mọi thứ vừa xảy ra đã đủ kỳ lạ rồi.”
“Cậu Hoshino?”
“Sao nữa?”
“Bỗng nhiên, lão tự hỏi – mình là cái gì nhỉ? Phải, Nakata này là cái gì?”
Hoshino ngẫm nghĩ. “Đó là một câu hỏi hóc búa. Hơi xa vời đấy. Cháu thậm chí cũng không biết mình là cái gì nữa, cho nên ông đừng có hỏi cháu. Suy nghĩ không phải là thế mạnh của cháu, ông lạ gì. Nhưng cháu biết ông là người tốt, trung thực. Ông có chập cheng một tí, nhưng là người cháu tin cậy. Vì thế cháu mới đi suốt với ông đến tận Shikoku. Cháu cũng chả thông minh sáng láng gì, nhưng cháu biết nhìn người.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì nữa?”
“Lão không chỉ đần độn mà thôi. Nakata này còn rỗng tuếch nữa. Cuối cùng, lão đã nhận ra điều ấy. Nakata này giống như một cái thư viện chẳng có quyển sách nào vậy. Không phải bao giờ cũng thế: trước kia, đã từng có sách trong bụng lão. Một thời gian dài, lão quên mất, nhưng bây giờ lão đã nhớ ra. Lão đã từng bình thường như mọi người khác. Nhưng một sự việc đã xảy ra, khiến lão trở thành một thứ thùng rỗng chẳng có gì bên trong.”
“Phải, nhưng nếu ông nhìn nhận theo cách ấy thì chúng ta ít nhiều đều rỗng cả. Ta ăn, ta ị, ta làm một công việc tồi tàn để kiếm đồng lương vét đĩa, thi thoảng tẩn bậy một phát nếu gặp dịp. Ngoài ra, còn có gì khác nữa? Tuy nhiên, cũng có những điều thú vị xảy đến trong đời – như với chúng ta bây giờ. Cháu cũng chẳng biết tại sao. Ông nội cháu dạo xưa thường nói sự vật chẳng bao giờ diễn ra như ta tưởng, nhưng chính như thcuộc đời mới lý thú và thế mới hợp lý. Nếu đội Chunichi Dragons trận nào cũng thắng thì ai còn thiết xem bóng chày làm gì?”
“Cậu yêu ông nội mình lắm phải không?”
“Vâng. Không có ông cháu thì chẳng biết đời cháu đã ra sao. Ông đã khiến cháu cảm thấy muốn gắng sức làm một cái gì đó cho nên người. Ông đã khiến cháu cảm thấy... Cháu không biết diễn đạt như thế nào... Cảm thấy mình được gắn liền với cuộc đời. Chính vì thế mà cháu bỏ cái băng mô-tô và gia nhập Lực lượng Tự vệ. Và cháu thoát khỏi rắc rối lúc nào không biết.”
“Nhưng cậu Hoshino, cậu biết đấy, Nakata này chẳng có ai thân thích trên đời. Không gắn liền với bất cứ cái gì. Lão không biết đọc. Và cái bóng của lão teo lại chỉ còn một nửa.”
“Ai chả có nhược điểm.”
“Cậu Hoshino?”
“Dạ?”
“Nếu lão vẫn nguyên là con người bình thường như ban đầu thì hẳn lão đã có một cuộc đời khác hẳn. Giống như hai em trai của lão, hẳn lão đã vào đại học, làm việc ở một công ty nào đó, lấy vợ và có một gia đình hẳn hoi, lái một chiếc xe hơi cỡ bự, chơi golf vào những ngày nghỉ. Cơ mà lão lại không bình thường nên mới ra cái lão Nakata ngày nay. Đã quá muộn để làm lại từ đầu. Lão hiểu thế. Nhưng lão vẫn muốn được là một Nakata bình thường, cho dù chỉ trong một thời gian ngắn. Cho đến nay, lão chưa bao giờ muốn làm một điều gì đặc biệt. Lão chỉ luôn luôn gắng sức làm những gì người ta bảo lão làm. Có thể, điều đó đã thành một thói quen. Nhưng bây giờ, lão muốn trở lại bình thường. Lão muốn là một Nakata với những ý tưởng riêng của mình, với một cuộc đời có ý nghĩa của riêng mình.”
ở dài. “Nếu ông muốn thế thì ông hãy làm đi. Cháu thì chả có tí khái niệm nào về một ông Nakata bình thường cả.”
“Nakata này cũng thế.”
“Cháu chỉ mong điều đó thành sự thật. Cháu sẽ cầu nguyện cho ông... cầu sao ông có thể trở lại bình thường.”
“Trước khi lão trở lại là người bình thường, lão cần phải giải quyết một số chuyện.”
“Chẳng hạn?”
“Chẳng hạn như Johnnie Walker.”
“Johnnie Walker?” Hoshino nói. “Phải, ông đã nhắc đến cái tên này. Có phải thằng cha mang tên hãng rượu whisky không?”
“Phải. Lão đã đến đồn cảnh sát ngay và kể với họ về ông ta. Lão biết là lão phải báo cáo với ngài Tỉnh trưởng, nhưng họ không chịu nghe. Thành thử lão phải tìm một giải pháp của riêng mình. Lão phải lo cho xong chuyện này thì mới trở lại thành Nakata bình thường được. Nếu như có thể trở lại bình thường.”
“Cháu không hiểu thật rõ những gì ông đang nói, nhưng cháu đoán ông cần phiến đá để làm điều ông cần làm.”
“Đúng thế. Lão cần hồi phục nửa kia cho cái bóng của mình.”
Lúc này, sấm đã trở nên đinh tai. Chớp nhằng nhằng trên trời, tiếp theo là sấm ùng oàng. Không khí rung chuyển và những ô kính lỏng lẻo kêu lanh canh. Khắp trời bịt bùng mây đen và trong nhà tối đến nỗi họ hầu như không nhìn rõ mặt nhau. Tuy nhiên, họ vẫn không bật điện. Họ vẫn ngồi nguyên như lúc trước, với phiến đá ở giữa. Mưa quất lồng lộn đến nỗi chỉ nhìn đã đủ nghẹt thở. Mỗi lần chớp lóe, căn phòng lại b một thoáng. Hồi lâu, chẳng ai nói gì.
“Thôi được, nhưng tại sao ông lại dính dáng với cái phiến đá này, ông Nakata?” Hoshino tranh thủ lúc ngơi sấm, hỏi. “Tại sao lại là ông?”
“Bởi vì lão là kẻ đã nhập rồi lại xuất.”
“Cháu không hiểu ông nói gì.”
“Lão đã rời nơi đây một lần và đã quay trở lại. Điều đó xảy ra khi Nhật Bản đang trong một cuộc chiến lớn. Cái vung bật mở và lão thoát ra. Rồi ngẫu nhiên, lão trở lại. Vì thế nên lão không bình thường và bóng lão chỉ còn một nửa. Nhưng bù lại, lão biết nói chuyện với mèo, mặc dù bây giờ không trôi chảy như trước nữa. Lão còn có thể làm cho các thứ rơi từ trên trời xuống.”
“Như trận mưa đỉa bữa nọ?”
“Phải.”
“Một cái tài độc nhất vô nhị, đó là cái chắc.”
“Đúng, không phải ai cũng làm được thế.”
“Và được thế là vì ông xuất rồi lại nhập? Cháu nghĩ ông quả là khác thường đấy.”
“Sau khi trở lại, lão không còn bình thường nữa. Lão hết biết đọc. Và lão chưa bao giờ đụng đến một người đàn bà.”
“Thật khó tin.”
“Cậu Hoshino?”
“Sao?”
“Lão sợ. Như lão đã nói với cậu, bên trong lão hoàn toàn trống rỗng. Cậu có biết hoàn toàn rỗng nghĩa là thế nào không?”
Hoshino lắc đầu. “Cháu nghĩ là không.”
“Nó giống như một cái nhà trống không. Một cái nhà không người ở, cửa không khóa. Bất kỳ ai cũng có thể vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Đó là điều làm lão sợ nhất. Lão có thể khiến các thứ từ trên trời trút xuống, nhưng phần lớn thời gian, lão không biết nên trút thứ gì xuống tiếp theo. Giả dụ lần tới là một vạn con dao, hay một trái bom lớn, hay khí độc... Thì không biết lão phải làm gì... Lão có thể nói lời xin lỗi mọi người, nhưng ích gì...”
“Ông nói đúng,” Hoshino nói. “Chỉ xin lỗi suông thì giải quyết được gì. Đỉa đã là xấu, nhưng những thứ kia còn tệ hại hơn.”
“Johnnie Walker đã nhập vào Nakata này. Ông ta khiến lão làm những điều lão không muốn. Johnnie Walker sử dụng lão, nhưng lão không đủ sức chống lại. Bởi vì lão chẳng có gì bên trong cả.”
“Vì thế nên ông mới mong muốn trở lại là một Nakata bình thường có tố chất bên trong mình?”
“Chính xác, lão chẳng thông minh sáng láng gì, nhưng trước đây, lão có thể đóng đồ gỗ và lão đã làm công việc đó ngày này qua ngày khác. Lão thích làm ra các đồ vật – bàn ghế, hòm tủ. Làm ra những đồ vật có hình dáng đẹp thật là thú vị. Trong những năm làm đồ gỗ ấy, lão không khi nào nghĩ đến chuyện muốn trở lại bình thường. Và không có ai trong số những người quen tìm cách nhập vào lão. Nakata không cảm thấy sợ bất cứ cái gì. Cơ mà sau khi gặp Johnnie Walker, lão thấy rất sợ.”
“Vậy cái cha Johnnie Walker ấy đã khiến ông làm những gì sau khi hắn nhập vào ông?”
Một tiếng ầm dữ dội xé trời, hẳn là sét đánh rất gần. Hoshino cảm thấy màng nhĩ nhoi nh
Nakata hơi nghiêng đầu sang một bên, thận trọng lắng nghe đồng thời chậm rãi xoa bề mặt phiến đá. “Ông ta đã khiến lão gây đổ máu.”
Hoshino ngẫm nghĩ một lúc, vẻ bối rối. “Dù sao đi nữa, một khi ông mở phiến đá cửa vào, thì tất cả mọi thứ tự khắc sẽ đâu lại hoàn đó theo đúng trật tự tự nhiên, phải không? Như nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp?”
Đến lượt Nakata ngẫm nghĩ. “Có thể không đơn giản thế. Nhiệm vụ của Nakata này là tìm phiến đá cửa vào và mở nó. Còn sau đó điều gì xảy ra thì e rằng lão không biết.”
“Thôi được, nhưng tại sao phiến đá lại ở Shikoku?”
“Phiến đá ở khắp nơi. Không chỉ ở Shikoku. Và không nhất thiết phải là một phiến đá.”
“Cháu không hiểu... Nếu nó ở khắp nơi thì ông có thể làm mọi chuyện này tại nhà ở Nakano, tội gì phải mất bao thì giờ và công sức tới đây?”
Nakata đưa tay vò mái tóc húi cua. “Đó là một câu hỏi khó đấy. Lão đã lắng nghe phiến đá suốt từ nãy đến giờ, nhưng vẫn chưa hiểu rõ nó nói gì. Cơ mà lão nghĩ cả hai chúng ta phải tới đây. Chúng ta phải tìm qua một cái cầu lớn. Điều ấy không ứng ở Nakano.”
“Cháu có thể hỏi một điều khác được không?”
“Được.”
“Nếu ông mở phiến đá cửa vào tại đây, liệu có một điều gì kỳ diệu xảy ra không? Như là cái vị thần gì-gì-đó nhảy ra từ cây đèn của A-la-đanh? Hoặc một hoàng tử bị biến thành cóc sẽ ôm chầm lấy cháu mà hôn lên môi? Hoặc nữa những người sao hỏa sẽ xuất hiện và ăn thịt chúng ta?”
“Có thể sẽ có một điều gì xảy ra, mà cũng có thể là chẳng có gì. Lão chưa mở được nên lão chưa biết. Khi nào mở ra mới biết.”
“Nhưng cũng có thể nguy hiểm, hả?”
“Phải, đúng thế.”
“Chà!” Hoshino rút trong túi ra một điếu Marlboro và châm lửa hút. “Ông nội cháu luôn luôn bảo cháu: điểm yếu của cháu là cứ nhắm mắt đi theo những người lạ chẳng cần suy xét xem mình đang làm gì. Cháu nghĩ có lẽ bản chất cháu vốn thế. Như người ta thường nói: ‘Trẻ con là cha người lớn’. Sao cũng được, giờ cháu cũng chả làm cách gì để thay đổi được. Cháu đã theo ông suốt và cất công tìm ra phiến đá, cho nên cháu không thể quay về nhà mà không thấy mọi sự đến đầu đến đũa. Chúng ta biết là có thể nguy hiểm, nhưng thây kệ! Tại sao không mở nó ra xem điều gì sẽ xảy đến? Ít nhất, đó cũng sẽ là một câu chuyện li kỳ để kể cho cháu chắt nghe.”
“Cậu Hoshino, Nakata này muốn nhờ cậu một việc.”
“Việc gì?”
“Cậu có thể nhấc giùm phiến đá lên được không?”
“Không thành vấn đề.”
“Nó nặng hơn nhiều so với lúc cậu mang về đấy.”
“Cháu biết mình không phải là Schwarzenegger[29], nhưng cháu khỏe hơn nhiều so với vẻ bề ngoài đấy. Hồi ở Lực lượng Tự vệ, cháu đoạt giải nhì cuộc thi vật tay của đơn vị đấơn nữa, ông đã chữa cho cháu khỏi bệnh đau lưng, nên cháu phải ra tay để chứng tỏ mình chứ.”
Hoshino đứng dậy, nắm lấy phiến đá bằng cả hai tay và ráng nhấc lên. Phiến đá không nhúc nhích. “Ông nói đúng, nó nặng hơn trước nhiều,” gã nói, thở hắt ra. “Cách đây một lúc, nhấc nó lên chả là vấn đề gì. Bây giờ, nó như bị găm chặt xuống đất.”
“Đây là phiến đá cửa vào nơi đầy giá trị nên không thể xê dịch dễ dàng được. Nếu vậy thì đã rắc rối rồi.”
“Có lẽ thế.”
Đúng lúc đó, mấy lằn chớp loằng ngoằng rạch trời và một loạt sấm làm rung chuyển đến tận lòng sâu trái đất. Như thể ai đó vừa mở nắp địa ngục vậy, Hoshino nghĩ. Một tiếng sấm cuối cùng nổ vang gần đấy và tiếp theo là một im lặng đột ngột, dày đặc đến tức thở. Không khí ẩm ướt và tù đọng, phảng phất một cái gì khả nghi, tựa hồ vô số cái tai đang rình rập trong không trung, nghe ngóng xem có dấu vết âm mưu gì. Hai người ngồi im sững, bao bọc trong bóng tối giữa ban ngày. Thình lình gió lại nổi, quất mưa vào cửa sổ. Sấm ùng oàng nhưng không dữ như trước. Tâm điểm cơn giông đã qua thành phố.
Hoshino ngước lên, đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Mọi thứ dường như lạnh lẽo và xa vời lạ lùng, bốn bức tường trống trơn hơn trước. Mẩu thuốc lá Marlboro trong chiếc gạt tàn đã thành tro. Gã nuốt khan và cất tiếng để xua tan im lặng. “Ông Nakata này!”
“Gì vậy, cậu Hoshino?”
“Cháu cảm thấy như đang ở trong một cơn ác mộng.”
“À, ít nhất thì chúng ta cũng cùng chu
“Ông nói phải, Hoshino nói và gãi tai, vẻ cam chịu. “Ông nói phải, củ cải cũng nghe, le le cũng gật, lật đật đi tìm, con chim bắt được... Ấy, cứ nói lăng nhăng thế mà cũng thấy đỡ.”
Gã đứng dậy, thử nhấc phiến đá một lần nữa. Gã hít một hơi thật sâu, nắm lấy nó, dồn hết sức lực vào đôi tay. Với một tiếng “hự”, gã nhích được phiến đá đi vài phân.
“Cậu dịch nó đi được một tí rồi đấy,” Nakata nói.
“Vậy là ta biết nó không bị găm xuống đất. Chắc cháu phải đẩy nó thêm nữa.”
“Cậu cần phải lật sấp nó hoàn toàn.”
“Như lật cái bánh xèo ấy à?”
Nakata gật đầu. “Phải. Bánh xèo là một món ưa thích của lão.”
“Nghe mà sướng. Ở dưới âm phủ, họ cũng làm bánh xèo hả? Nào, để cháu thử một keo nữa. Cháu nghĩ là có thể lật được đấy.”
Hoshino nhắm mắt lại, huy động toàn bộ sức lực, tập trung vào cú quyết định này. Lần này là phải được! gã tự nhủ. Bây giờ hoặc không bao giờ!
Gã bám thật chắc, thận trọng gì riết hai cạnh rồi hít một hơi dài, “dô huầy!” một tiếng và hấp một cái nhấc nó lên, giữ ở một góc bốn mươi lăm độ. Giới hạn sức lực của gã chỉ đến thế. Cách nào đó, gã đã có thể giữ phiến đá ở tư thế đó. Gã thở hồng hộc, cảm thấy đau khắp người, từng đốt xương, từng bắp thịt, từng thớ thần kinh đều kêu đau, nhưng gã vẫn không chịu bỏ cuộc. Gã hít một hơi dài thét lên một tiếng hò xung trận, nhưng gã không nghe thấy tiếng mình. Gã không biết mình đang nói gì. Mắt nhắm chặt, gã khơi được một nguồn sức mạnh mà gã không ngờ là mình vốn có, một sức mạnh vượt quá tầm của gã. Mặt gã trắng bệch vì thiếu ô-xy. Gã cảm thấy từng sợi thần kinh nối tiếp nhau đứt phựt như những cầu chì nổ. Gã không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy gì, thậm chí không thể nghĩ. Gã ngạt thở. Tuy nhiên, từng tí một, gã vẫn nâng dần phiến đá lên và với một tiếng thét tối hậu, lật sấp được nó. Gã buông tay cho phiến đá tự úp xuống bằng chính trọng lượng của nó. Một tiếng thịch lớn làm rung chuyển cả căn phòng. Tưởng như toàn bộ ngôi nhà cũng chao đi.
Lực giật ngược đẩy Hoshino ngã vật ra sau. Gã nằm đó, quều quào, trên chiếc chiếu tatami, mặt ngửa lên hổn hển lấy hơi, đầu quánh đặc một thứ bùn nhão cứ xoáy lộn, xoáy lộn hoài. Chừng nào mình còn sống, gã nghĩ, chắc mình sẽ chẳng bao giờ nhấc một vật gì nặng như thế này nữa. (Tuy nhiên, sau này, hóa ra sự tiên đoán này lại là quá lạc quan).
“Cậu Hoshino?”
“C... c... cái gì?”
“Nhờ có cậu, cửa vào đã mở.”
“Ông biết không, ông Nakata?”
“Chuyện gì vậy?”
Vẫn trong tư thế nằm ngửa, mắt nhắm nghiền, Hoshino hít một hơi thật dài, thật sâu nữa rồi thở hắt ra: “May mà nó đã mở. Bằng không, cháu đã uổng công hy sinh thân mình.”