Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 4
Chương 8
Langdon mở choàng mắt và hít một hơi thảng thốt. Anh vẫn ngồi nguyên bên bàn của Sienna, tay ôm đầu, tim đập loạn xạ.
Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra với mình thế này?
Hình ảnh người phụ nữ tóc bạc và cái mặt nạ có mỏ cứ lởn vởn trong tấm trí anh. Ta là sự sống. Ta là cái chết. Anh cố gắng xua đi hình ảnh đó, nhưng có cảm giác như nó đã bám rễ vĩnh viễn vào tâm trí mình. Trên bàn phím trước mặt, hai cái mặt nạ trên bìa quyển Chương trình biểu diễn đăm đăm nhìn anh.
Trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không được sắp xếp, Sienna từng nói như vậy. Quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tượng sẽ bị lẫn lộn với nhau.
Langdon cảm thấy chóng mặt.
Đâu đó trong căn hộ, có tiếng điện thoại đổ chuông. Đó là tiếng chuông kiểu cũ, lanh lảnh, vọng đến từ gian bếp.
“Sienna!”, Langdon gọi to và đứng dậy.
Không có tiếng đáp. Cô ấy vẫn chưa về. Chỉ sau hai hồi chương, cơ chế trả lời tự động kích hoạt.
“Xin chào, tôi nghe”, giọng Sienna nghe đầy vui vẻ trong tin nhắn trả lời. “Xin hãy để lại tin nhắn hoặc gọi lai sau.”
Có tiếng bíp, và một phụ nữ vẻ hoảng loạn có chất giọng Đông Âu khá nặng bắt đầu để lại lời nhắn. Giọng bà ấy vang vọng ra tận hành lang.
“Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi? Kinh khủng lắm! Bác sĩ Marconi bạn cô, chết rồi! Bệnh viện đang náo loạn! Cảnh sát đến đây rồi! Mọi người khai với họ rằng cô chạy ra ngoài và tìm cách cứu bệnh nhân! Tại sao thế? Cô không hề biết anh ta. Giờ cảnh sát muốn nói chuyện với cô đấy! Họ đã lấy hồ sơ nhân viên! Tôi biết thông tin trong đó đều sai – địa chỉ sai, không có số điện thoại, thị thực làm việc giả - cho nên hôm nay họ không tìm ra cô, nhưng rồi họ sẽ tìm ra đấy! Tôi cố gắng báo trước cho cô. Rất tiếc, Sienna.”
Cuộc gọi kết thúc.
Langdon lại cảm thấy nỗi ân hận chiếm ngự lấy anh. Căn cứ vào lời lẽ của tin nhắn, bác sĩ Marconi đã cho phép Sienna làm việc tại bệnh viện. Giờ đây sự hiện diện của Langdon đã khiến cho Marconi mất mạng, còn hành động bản năng cứu một người xa lạ của Sienna đã dẫn tới những hệ quả nghiệt ngã cho tương lai của cô.
Đúng lúc đó thì có tiếng của đóng mạnh ở phía bên kia căn hộ.
Cô ấy trở lại rồi.
Một lát sau, tiếng máy trả lời tự động được bật lên. “Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi?”
Langdon nhăn mặt, biết rõ nội dung Sienna sắp nghe thấy. Trong khi máy bật lại tin nhắn, Langdon nhanh tay cất quyển Chương trình biểu diễn, sắp xếp lại mặt bàn. Sau đó, anh luồn qua sảnh để trở lại phòng tắm, cảm thấy bối rối vì đã lờ mờ biết về quá khứ của Sienna.
Mười giây sau, có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng tắm.
“Tôi để quần áo của anh trên tay nắm cửa”, Sienna nói, giọng mang ý trêu chọc.
“Cảm ơn cô rất nhiều”, Langdon đáp.
“Khi nào xong, anh ra ngoài bếp nhé”, cô nói tiếp. “Có thứ rất quan trọng tôi cần cho anh xem trước khi chúng ta gọi cho ai đó.”
***
Sienna mệt mỏi lần qua sảnh về gian buồng ngủ giản dị trong căn hộ. Cô lấy từ tủ quần áo chiếc quần bò xanh và áo lên, mang tất cả vào buồng tắm riêng.
Đăm đăm nhìn bóng mình trong gương, cô giơ tay nắm lấy bím tóc đuôi ngựa dày dặn vàng óng và kéo mạnh, khiến cho mái tóc giả tụt khỏi mảng da dầu trọc lốc.
Cô gái ba mươi hai tuổi không có tóc đăm đăm nhìn mình trong gương.
Sienna đã trải qua không ít thử thách trong cuộc đời, và mặc dù đã cố rèn bản thân luôn dựa vào trí tuệ để vượt qua khó khăn, nhưng tình thế khó xử hiện tại cũng khiến cô chấn động mạnh về mặt tình cảm.
Cô đặt mái tóc giả sang bên và rửa mặt mũi, tay chân. Sau khi lau khô, cô thay quần áo và đội tóc giả trở lại, chỉnh cho ngay ngắn. Sienna hiếm khi chấp nhận chuyện than thân trách phận, nhưng giờ đây, khi nước mắt đang dâng lên từ sâu thẳm trong lòng, cô biết mình không thể làm gì khác ngoài việc để nó trào ra.
Và cô khóc.
Cô khóc vì cuộc sống mà cô không kiểm soát nổi.
Cô khóc vì người thầy bị sát hại ngay trước mắt cô.
Cô khóc vì càm giác cô độc kinh khủng chiếm ngự trong tim cô.
Nhưng, trên hết thảy, cô khóc cho tương lai… bỗng chốc có cảm giác thật bất ổn.
Chương 9
Ở sàn dưới chiếc thuyền sang trọng The Mendacium, chuyên gia điều phối Laurence Knowlton ngồi trong gian buồng kính kín mít của mình, đăm đăm nhìn màn hình máy tính mà không sao tin nổi đoạn video mà vị khách hàng của họ gửi lại.
Theo kế hoạch mình phải đưa thứ này cho giới truyền thông vào sáng mai ư?
Trong suốt mười năm làm việc cho Consortium, Knowlton đã thực hiện đủ mọi nhiệm vụ kỳ quặc mà anh ta biết rõ đều thuộc loại bất chính và phi pháp. Làm việc trong lĩnh vực không lấy gì làm sạch sẽ về mặt đạo đức là chuyện bình thường tại Consortium – một tổ chức với nền tảng đạo đức duy nhất là sẽ làm bất kỳ việc gì để giữ lời hứa với khách hàng.
Tuân thủ. Không hỏi. Bất kể chuyện gì.
Thế nhưng, kịch bản đăng tải video này khiến Knowlton không yên tâm. Trước đây, cho dù có phải thực hiện nhiệm vụ kỳ quặc đến đâu anh ta cũng luôn hiểu lý do… nắm chắc động cơ… hiểu rõ kết quả dự kiến.
Đoạn video đang tạm dừng.
Có gì đó rất khác thường.
Khác hẳn.
Ngồi lại bên máy tính, Knowlton cho video chạy lại lần nữa, hy vọng thêm một giây xem lại có thể hé thêm chút ánh sáng. Anh ta bật to tiếng và đắm mình vào đoạn video dài chín phút.
Vẫn như lần trước, video bắt đầy với tiếng vỗ khe khẽ trong một không gian kín đầy nước chìm vào thứ ánh sáng đỏ bí ẩn. Một lần nữa, máy quay lia xuống dưới, xuyên qua mặt nước được chiếu sáng để hiện rõ nền hang đầy bùn. Và một lần nữa, Knowlton đọc được nội dung trên tấm biển chìm dưới nước.
TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Thật đáng ngại là tấm biển bóng láng đó lại ký tên vị khách của Consortium. Ngày này lại là ngày mai… khiến cho Knowlton càng lúc càng lo lắng. Nhưng chính những gì tiếp theo mới thực sự khiến Knowlton hoảng hồn.
Lúc này máy quay lia ngang sang trái, cho thấy một thứ đáng chú ý lững lờ dưới nước ngay bên cạnh tấm biển.
Ở đây, được cột chặt xuống nền bằng một sợi dây ngắn, là một quả cầu bằng nhựa mỏng đang bập bềnh. Mỏng manh và lập lờ như một bong bóng xà phòng ngoại cỡ, khối cầu trong suốt đó lơ lửng như một trái bóng chìm dưới nước… không phải được bơm đầy helium, mà là một thức chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái túi vô định hình này căng phồng, có đường kính khoảng ba mươi centimet, và bên trong lớp màng trong suốt, đám chất lỏng xỉn màu dường như đang cuộn xoáy chầm chậm, tựa hồ mắt một cơn bão đang âm thầm mạnh dần lên.
Lạy Chúa, Knowlton nghĩ thầm, cảm thấy lạnh buốt. Cái túi đáng ngờ kia thậm chí trông càng đáng ngại hơn trong lần xuất hiện thứ hai.
Hình ảnh từ từ chuyển sang nền đen.
Một hình ảnh mới xuất hiện – vách hang ẩm ướt, phản chiếu bóng nước hắt ánh sáng nhảy nhót. Trên vách xuất hiện một bóng đen… bóng một người… đứng trong hang.
Nhưng đầu người này hình thù… méo mó.
Thay vì có mũi, người này có một cái mỏ dài… cứ như thể một nửa người gã là chim
Khi gã cất tiếng nói, giọng gã nghèn nghẹt… và gã nói bằng giọng điệu hùng biện rất lạ… ngữ điệu đều đặn… như thể gã là người lĩnh xướng trong một dàn hợp xướng cổ điển nào đó.
Knowlton ngồi bất động, hơi thở nặng nề, trong khi bóng đen cái mỏ kia nói.
“Ta là Vong linh.
Nếu các người đang xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta đã yên nghỉ.
Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói chuyện với thế giới từ sâu thẳm trong lòng đất, lẩn trốn đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm không một ánh sao phản chiếu.
Nhưng đây là thiên đường của ta… nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của ta.
Hỏa ngục.
Ít lâu nữa các người sẽ biết đến thứ ta để lại.
Nhưng, ngay tại đây, ta cảm nhận được bước chân của những linh hồn ngu dốt truy lùng ta… sẵn sàng không từ mọi cách để ngăn cản hành động của ta.
Hãy tha thứ cho chúng, có lẽ các người nói vậy, vì chúng không biết chúng làm gì. Nhưng lịch sử sẽ đến khi ngu dốt không còn là một tội lỗi có thể tha thứ nữa… Khi chỉ có trí tuệ mới có quyền được miễn thứ.
Bằng sự thuần khiết của lương tri, ta để lại cho các người toàn bộ món quà của Hy vọng, của cứu rỗi, của ngày mai.
Nhưng vẫn có kẻ săn đuổi ta như một con chó, được tiếp sức bằng niềm tin tự cho là đúng rằng ta là kẻ điên rồ. Có mỹ nhân tóc bạc dám gọi ta là quái vật! Cũng như lũ giáo sĩ đui mù vận động cho cái chết của Copernicus, mụ phỉ báng ta là quỷ dữ, sợ rằng ta đã nhìn ra Chân lý.
Nhưng ta không phải là nhà tiên tri.
Ta chính là sự cứu rỗi của các người.
Ta là Vong linh.”
Chương 10
“Anh ngồi đi”, Sienna nói. “Tôi có vài câu hỏi cho anh.”
Khi vào bếp, Langdon cảm thấy chân mình bước vững vàng hơn. Lúc này anh mặc bộ đồ hiệu Brioni của hàng xóm vừa như in. Ngay cả đôi giày mềm cũng rất thoải mái, và trong đầu Langdon đã có lưu ý sẽ đổi sang đi giày Ý khhi trở về nhà.
Nếu mình về được nhà, anh nghĩ bụng.
Sienna đã thay đổi hẳn – một vẻ đẹp tự nhiên. Cô vừa đổi sang chiếc quần bò rất tôn dáng và áo len màu kem, cả hai thứ trang phục như càng làm thân hình yểu điệu của cô thêm nổi bật. Mái tóc cô vẫn vấn ra sau thành đuôi ngựa, và khi không còn vẻ quyền uy nhờ những vật dung ngành y, dường như cô yếu đuối hơn. Langdon nhận thấy đôi mắt cô sưng đỏ, như thể cô vừa khóc, và cảm giác tội lỗi lại xâm chiếm lấy anh.
“Sienna, tôi rất xin lỗi. Tôi đã nghe hết lời nhắn trên điện thoại. Tôi không biết phải nói sao.”
“Cảm ơn anh”, cô đáp. “Nhưng lúc này chúng ta cần tập trung vào chính bản thân anh. Anh ngồi đi.”
Lúc này giọng cô rắn rỏi hơn, gợi nhớ đến những bài báo mà Langdon vừa đọc về trí tuệ và thời niên thiếu sớm phát triển của cô.
“Tôi cần anh suy nghĩ”, Sienna nói, tay ra hiệu cho anh ngồi xuống. “Anh có nhớ làm thế nào chúng ta tới được căn hộ này không?”
Langdon không dám chắc câu hỏi này có liên quan đến tình hướng trước mặt. “Trên một chiếc taxi”, anh nói, ngồi xuống bên bàn. “Có người bắn chúng ta.”
“Bắn anh, thưa Giáo sư. Chúng ta cần phải rõ ràng về chuyện đó.”
“Vâng. Xin lỗi.”
“Thế anh có nhớ được có mấy phát súng lúc chúng ta còn trên taxi không?”
Câu hỏi ngớ ngẩn. “Có, hai phát. Một trúng gương bên hông xe, và một bắn vỡ cửa kính sau.”
“Tốt lắm, giờ thì anh nhắm mắt lại.”
Langdon nhận ra cô đang kiểm tra trí nhớ của mình. Anh bèn nhắm mắt lại.
“Tôi đang mặc đồ gì?”
Langdon có thể nhìn rõ cô. “Giày đế bằng màu đen, quần bò xanh, và áo len cổ chữ V màu kem. Tóc cô vàng, dài đến vai, vấn ra phía sau. Mắt cô màu nâu.”
Langdon mở mắt và ngắm cô, rất hài lòng khhi thấy trí nhớ thị giác của mình vẫn hoạt động bình thường.
“Tốt lắm. Khả năng nhận thức thị giác của anh rất tốt, càng xác nhận chứng mất trí của anh đã không còn, và anh không hề bị thương tổn gì vĩnh viễn liên quan đến quá trình ghi nhớ. Anh có nhớ được điều gì mới về mấy ngày qua không?”
“Thật tiếc là không hề. Thế nhưng tôi lại nhìn thấy những hình ảnh ấy lúc cô ra ngoài.”
Langdon kể cho cô nghe hình ảnh ảo giác về người phụ nữ che mạng, người chết, và những đôi chân có chữ R bị chôn vùi một nửa quẫy đạp. Rồi anh kể cho cô về cái mặt nạ có mỏ hình quái lơ lửng trên bầu trời.
“‘Ta là cái chết’ ư?”, Sienna hỏi, vẻ mặt bồn chồn.
“Vâng, đó là những gì nó nói.”
“Được rồi… Tôi đoán như thế cũng giống ‘Ta là Vishnu, kẻ hủy diệt thế giới’.”
Người phụ nữ trẻ vừa dẫn lại lời Robert Oppenheimer lúc ông ta thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên.
“Còn cái mặt nạ mắt xanh lè… mũi hình mỏ chim ư?”, Sienna nói, vẻ khó hiểu. “Anh có ý tưởng gì để lý giải tại sao trí nhớ anh lại gợi ra hình ảnh đó không?”
“Chẳng có ý tưởng gì cả, nhưng kiểu mặt nạ đó rất thịnh hành thời trung cổ”, Langdon dừng lại. “Người ta gọi đó là mặt nạ dịch hạch.”
Trông Sienna mất bình tĩnh một cách kỳ lạ. “Mặt nạ dịch hạch ư?”
Langdon giải thích nhanh gọn rằng trong thế giới biểu tượng của anh, hình dáng đặc thù của chiếc mặt nạ mỏ chim gần như đồng nghĩa với Cái chết Đen – trận đại dịch tràn qua châu Âu vào thế kỷ XIV, giết một phần ba dân số ở một vài vùng. Hầu hết mọi người tin rằng chữ “đen” trong tên gọi chỉ tình trạng da thịt nạn nhân tím đen lại do hoại tử và xuất huyết dưới da, nhưng thực tế từ đen là để chị nỗi khiếp sợ mà dịch bệnh này gieo rắc trong dân chúng.
“Cái mặt nạ mỏ dài đó”, Langdon nói, “Được các bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ đeo để ngăn không cho bệnh xâm nhập vào lỗ mũi họ trong lúc điều trị người bị nhiễm bệnh. Còn giờ đây, cô chỉ nhìn thấy chúng được dùng làm phục trang trong lễ hội Venice Carnevale – lời nhắc nhở kì khôi về một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Ý”.
“Và anh chắc chắn mình nhìn thấy cái mặt nạ như thế trong ảo ảnh của mình chứ?”, Sienna hỏi, lúc này giọng cô run run. “Một mặt nạ của bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ à?”
Langdon gật đầu. Một cái mặt nạ mỏ chim thì khó mà nhầm lẫn được.
Cách Sienna nhíu mày khiến Langdon có cảm giác rằng cô đang cố nghĩ ra cách tốt nhất để nói với anh vài tin không hay. “Và người phụ nữ cứ nhắc anh ‘tìm kiếm và sẽ thấy’ phải không?”
“Đúng. Vẫn như lúc trước. Nhưng vấn đề là tôi không rõ mình cần tìm cái gì.”
Siena từ từ thở hắt ra một hơi dài, nét mặt hết sức nghiêm trọng. “Tôi nghĩ có lẽ tôi biết. Và thêm nữa… Tôi nghĩ có thể anh cũng đã tìm thấy nó.”
Langdon trợn mắt nhìn. “Cô đang nói gì thế?!”
“Robert, đêm qua khi anh tới bệnh viện, anh mang theo một thứ rất không bình thường trong túi áo khoác. Anh còn nhớ nó là gì không?”
Langdon lắc đầu.
“Anh mang theo một vật… một vật khá đáng chú ý. Tôi tình cờ thấy nó khi chúng tôi lau rửa cho anh.” Cô làm hiệu về phía chiếc áo Harris Tweed dính máu của Langdon, vẫn còn nằm trên bàn. “Nó vẫn trong túi áo đấy, nếu anh có ý định nhìn xem.”
Vẻ ngập ngừng, Langdon nhìn chiếc áo. Ít nhất điều đó giải thích tại sao cô ấy quay lại vì chiếc áo của mình. Anh vớ lấy chiếc áo khoác dính máu và lần tìm cái túi, từng cái một. Chẳng có gì cả. Anh lục lại lần nữa. Cuối cùng, anh nhún vai quay về phía cô, “Ở đây chẳng có gì hết.”
“Thế còn túi bí mật thì sao?”
“Cái gì? Áo khoác của tôi làm gì có túi bí mật.”
“Không ư?” Trông cô rất bối rối. “Vậy cái áo này… là của người khác ư?”
Đầu óc Langdon lại rối tung lên. “Không, đây là áo khoác của tôi.”
“Anh chắc chứ?”
Quá chắc, anh nghĩ bụng. Thực tế, nó là hiệu Camcerley mà tôi ưa chuộng đấy.
Anh lật ngược lớp lót áo và chìa cho Sienna xem nhãn hiệu có mang biểu tượng mà anh ưa chuộng trong thế giới thời trang – quả cầu của hãng Harris Tweed được trang trí mười ba viên đá quý hình khuy cùng một chữ thập Maltese trên đỉnh.
Hãy để người Scot triệu hồi các chiến binh Thiên Chúa giáo trên vải dệt chéo.
“Nhìn cái này đi”, Langdon nói, tay chỉ hai chữ cái R.L. được thêu bằng tay thêm vào nhãn hiệu. Anh luôn thích thú những mẫu may đo của Harris Tweed, và vì lý do ấy, anh thường trả thêm tiền để người ta thêu chữ cái tên anh vào nhãn hiệu. Ở trường đại học, nơi hàng trăm chiếc áo khoác vải len liên tục được cởi ra rồi mặc vào trong phòng ăn và trên giảng đường, Langdon không hề muốn bị mặc nhầm áo do cẩu thả.
“Tôi tin anh”, cô nói, cầm lấy chiếc áo khoác từ tay anh. “Giờ anh nhìn đây.”
Sienna mở rộng chiếc áo khoác để lộp lớp lót gần gáy. Chỗ đó, được giấy kín trong lớp vải lót, là một cái túi khá lớn có hình thù rất gọn ghẽ.
Thế quái nào nhỉ?!
Langdon chắc chắn rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy cái túi này trước đó.
Cái túi có một đường chỉ giấu kín, được may rất khéo.
“Nó không hề có ở đó lúc trước!”, Langdon dứt khoát.
“Vậy thì tôi đoán rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy… thứ này đúng không?” Sienna thò tay vào túi và moi ra một vật kim loại rất đẹp mà cô nhẹ nhàng đặt vào tay Langdon.
Langdon trợn mắt nhìn xuống vật đó với vẻ hoang mang cực độ.
“Anh có biết thứ này là gì không?”, Sienna hỏi.
“Không…”, anh lắp bắp. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.”
“Chà, thật không may, tôi lại biết rõ đây là gì. Và tôi tin chắc nó chính là lý do có người tìm cách giết anh.”
***
Lúc này điều phối viên Knowlton đang đi đi lại lại trong buồng riêng trên tàu The Mendacium, càng lúc càng thấy bồn chồn khi nghĩ đến đoạn video anh ta được giao phải cung cấp cho cả thế giới biết vào sáng mai.
Ta là Vong linh ư?
Có tin đồn rằng vị khách hàng đặc biệt này bị sang chấn tâm thần trong mấy tháng qua, nhưng đoạn video dường như xác định những lời đồn đó là không có cơ sở.
Knowlton biết mình có hai lựa chọn. Anh ta có thể chuẩn bị phát tán đoạn video vào ngày mai như đã hứa, hoặc có thể mang nó lên gác gặp Thị trưởng để đưa ra ý kiến về quyết định thứ hai.
Mình đã biết ý kiến của ông ấy rồi, Knowlton nghĩ bụng, vì chưa bao giờ thấy Thị trưởng có hành động gì khác ngoài những việc đã hứa với khách hàng. Ông ấy sẽ bảo mình cung cấp đoạn video này cho thế giới, không cần hỏi làm gì… và ông ấy sẽ nổi điên với mình vì việc này.
Knowlton hướng sự chú ý trở lại đoạn video đã được tua đến một vị trí đặc biệt đáng lo ngại. Anh ta bắt đầu cho chạy lại, và cái hang có thứ ánh sáng kỳ dị lại xuất hiện kèm với tiếng nước róc rách. Bóng người hiện ra lù lù trên vách hang đang nhỏ nớc – một gã đàn ông cao lớn với cái mỏ chim dài.
Bằng chất giọng nghèn nghẹt, cái bóng quái dị cất tiếng:
“Đã đến thời kỳ Tăm tối mới.
Nhiều thế kỷ trước, châu Âu chìm sâu trong cảnh khốn cùng – dân chúng túm tụm với nhau, chết đói, chìm trong tội lỗi và vô vọng. Họ giống như một cánh rừng chật chội, ngột ngạt vì những kẻ vô dụng, chờ đợi tia sét của Chúa trời – tia lửa sẽ làm đám cháy bùng lên, lan rộng trên mặt đất và thiêu sạch đám vô dụng, một lần nữa đưa ánh mặt trời tới những gốc cây khỏe mạnh.
Chọn lọc là Quy luật Tự nhiên của Chúa trời.
Hãy tự hỏi bản thân, sau Cái chết Đen là gì?
Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời.
Thời kỳ Phục Hưng.
Sự tái sinh.
Luôn là như thế. Tiếp sau cái chết là sự sinh sôi.
Đã đến được Thiên đường, con người phải đi qua Hỏa ngục.
Điều này, thầy đã dạy chúng ta.
Thế mà kẻ ngu dốt tóc bạc lại dám gọi ta là quái vậy ư? Chắc mụ vẫn không hiểu rõ môn toán học của tương lai chăng? Cả những điều kinh hoàng nó sẽ mang theo nữa?
Ta là Vong linh.
Ta là sự cứu rỗi của các người.
Và vì thế ta đứng lên, sâu trong lòng hàng này, phóng mắt nhìn qua đầm nước không một ánh sao phản chiếu. Tại đây, trong dinh lũy đã bị nhấn chìm này, Hỏa ngục cháy âm ỉ bên dưới làn nước.
Sớm muộn nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa.
Và đến khi đó, chẳng có gì trên trái đất có thể ngăn được nó.”
Langdon mở choàng mắt và hít một hơi thảng thốt. Anh vẫn ngồi nguyên bên bàn của Sienna, tay ôm đầu, tim đập loạn xạ.
Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra với mình thế này?
Hình ảnh người phụ nữ tóc bạc và cái mặt nạ có mỏ cứ lởn vởn trong tấm trí anh. Ta là sự sống. Ta là cái chết. Anh cố gắng xua đi hình ảnh đó, nhưng có cảm giác như nó đã bám rễ vĩnh viễn vào tâm trí mình. Trên bàn phím trước mặt, hai cái mặt nạ trên bìa quyển Chương trình biểu diễn đăm đăm nhìn anh.
Trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không được sắp xếp, Sienna từng nói như vậy. Quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tượng sẽ bị lẫn lộn với nhau.
Langdon cảm thấy chóng mặt.
Đâu đó trong căn hộ, có tiếng điện thoại đổ chuông. Đó là tiếng chuông kiểu cũ, lanh lảnh, vọng đến từ gian bếp.
“Sienna!”, Langdon gọi to và đứng dậy.
Không có tiếng đáp. Cô ấy vẫn chưa về. Chỉ sau hai hồi chương, cơ chế trả lời tự động kích hoạt.
“Xin chào, tôi nghe”, giọng Sienna nghe đầy vui vẻ trong tin nhắn trả lời. “Xin hãy để lại tin nhắn hoặc gọi lai sau.”
Có tiếng bíp, và một phụ nữ vẻ hoảng loạn có chất giọng Đông Âu khá nặng bắt đầu để lại lời nhắn. Giọng bà ấy vang vọng ra tận hành lang.
“Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi? Kinh khủng lắm! Bác sĩ Marconi bạn cô, chết rồi! Bệnh viện đang náo loạn! Cảnh sát đến đây rồi! Mọi người khai với họ rằng cô chạy ra ngoài và tìm cách cứu bệnh nhân! Tại sao thế? Cô không hề biết anh ta. Giờ cảnh sát muốn nói chuyện với cô đấy! Họ đã lấy hồ sơ nhân viên! Tôi biết thông tin trong đó đều sai – địa chỉ sai, không có số điện thoại, thị thực làm việc giả - cho nên hôm nay họ không tìm ra cô, nhưng rồi họ sẽ tìm ra đấy! Tôi cố gắng báo trước cho cô. Rất tiếc, Sienna.”
Cuộc gọi kết thúc.
Langdon lại cảm thấy nỗi ân hận chiếm ngự lấy anh. Căn cứ vào lời lẽ của tin nhắn, bác sĩ Marconi đã cho phép Sienna làm việc tại bệnh viện. Giờ đây sự hiện diện của Langdon đã khiến cho Marconi mất mạng, còn hành động bản năng cứu một người xa lạ của Sienna đã dẫn tới những hệ quả nghiệt ngã cho tương lai của cô.
Đúng lúc đó thì có tiếng của đóng mạnh ở phía bên kia căn hộ.
Cô ấy trở lại rồi.
Một lát sau, tiếng máy trả lời tự động được bật lên. “Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi?”
Langdon nhăn mặt, biết rõ nội dung Sienna sắp nghe thấy. Trong khi máy bật lại tin nhắn, Langdon nhanh tay cất quyển Chương trình biểu diễn, sắp xếp lại mặt bàn. Sau đó, anh luồn qua sảnh để trở lại phòng tắm, cảm thấy bối rối vì đã lờ mờ biết về quá khứ của Sienna.
Mười giây sau, có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng tắm.
“Tôi để quần áo của anh trên tay nắm cửa”, Sienna nói, giọng mang ý trêu chọc.
“Cảm ơn cô rất nhiều”, Langdon đáp.
“Khi nào xong, anh ra ngoài bếp nhé”, cô nói tiếp. “Có thứ rất quan trọng tôi cần cho anh xem trước khi chúng ta gọi cho ai đó.”
***
Sienna mệt mỏi lần qua sảnh về gian buồng ngủ giản dị trong căn hộ. Cô lấy từ tủ quần áo chiếc quần bò xanh và áo lên, mang tất cả vào buồng tắm riêng.
Đăm đăm nhìn bóng mình trong gương, cô giơ tay nắm lấy bím tóc đuôi ngựa dày dặn vàng óng và kéo mạnh, khiến cho mái tóc giả tụt khỏi mảng da dầu trọc lốc.
Cô gái ba mươi hai tuổi không có tóc đăm đăm nhìn mình trong gương.
Sienna đã trải qua không ít thử thách trong cuộc đời, và mặc dù đã cố rèn bản thân luôn dựa vào trí tuệ để vượt qua khó khăn, nhưng tình thế khó xử hiện tại cũng khiến cô chấn động mạnh về mặt tình cảm.
Cô đặt mái tóc giả sang bên và rửa mặt mũi, tay chân. Sau khi lau khô, cô thay quần áo và đội tóc giả trở lại, chỉnh cho ngay ngắn. Sienna hiếm khi chấp nhận chuyện than thân trách phận, nhưng giờ đây, khi nước mắt đang dâng lên từ sâu thẳm trong lòng, cô biết mình không thể làm gì khác ngoài việc để nó trào ra.
Và cô khóc.
Cô khóc vì cuộc sống mà cô không kiểm soát nổi.
Cô khóc vì người thầy bị sát hại ngay trước mắt cô.
Cô khóc vì càm giác cô độc kinh khủng chiếm ngự trong tim cô.
Nhưng, trên hết thảy, cô khóc cho tương lai… bỗng chốc có cảm giác thật bất ổn.
Chương 9
Ở sàn dưới chiếc thuyền sang trọng The Mendacium, chuyên gia điều phối Laurence Knowlton ngồi trong gian buồng kính kín mít của mình, đăm đăm nhìn màn hình máy tính mà không sao tin nổi đoạn video mà vị khách hàng của họ gửi lại.
Theo kế hoạch mình phải đưa thứ này cho giới truyền thông vào sáng mai ư?
Trong suốt mười năm làm việc cho Consortium, Knowlton đã thực hiện đủ mọi nhiệm vụ kỳ quặc mà anh ta biết rõ đều thuộc loại bất chính và phi pháp. Làm việc trong lĩnh vực không lấy gì làm sạch sẽ về mặt đạo đức là chuyện bình thường tại Consortium – một tổ chức với nền tảng đạo đức duy nhất là sẽ làm bất kỳ việc gì để giữ lời hứa với khách hàng.
Tuân thủ. Không hỏi. Bất kể chuyện gì.
Thế nhưng, kịch bản đăng tải video này khiến Knowlton không yên tâm. Trước đây, cho dù có phải thực hiện nhiệm vụ kỳ quặc đến đâu anh ta cũng luôn hiểu lý do… nắm chắc động cơ… hiểu rõ kết quả dự kiến.
Đoạn video đang tạm dừng.
Có gì đó rất khác thường.
Khác hẳn.
Ngồi lại bên máy tính, Knowlton cho video chạy lại lần nữa, hy vọng thêm một giây xem lại có thể hé thêm chút ánh sáng. Anh ta bật to tiếng và đắm mình vào đoạn video dài chín phút.
Vẫn như lần trước, video bắt đầy với tiếng vỗ khe khẽ trong một không gian kín đầy nước chìm vào thứ ánh sáng đỏ bí ẩn. Một lần nữa, máy quay lia xuống dưới, xuyên qua mặt nước được chiếu sáng để hiện rõ nền hang đầy bùn. Và một lần nữa, Knowlton đọc được nội dung trên tấm biển chìm dưới nước.
TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Thật đáng ngại là tấm biển bóng láng đó lại ký tên vị khách của Consortium. Ngày này lại là ngày mai… khiến cho Knowlton càng lúc càng lo lắng. Nhưng chính những gì tiếp theo mới thực sự khiến Knowlton hoảng hồn.
Lúc này máy quay lia ngang sang trái, cho thấy một thứ đáng chú ý lững lờ dưới nước ngay bên cạnh tấm biển.
Ở đây, được cột chặt xuống nền bằng một sợi dây ngắn, là một quả cầu bằng nhựa mỏng đang bập bềnh. Mỏng manh và lập lờ như một bong bóng xà phòng ngoại cỡ, khối cầu trong suốt đó lơ lửng như một trái bóng chìm dưới nước… không phải được bơm đầy helium, mà là một thức chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái túi vô định hình này căng phồng, có đường kính khoảng ba mươi centimet, và bên trong lớp màng trong suốt, đám chất lỏng xỉn màu dường như đang cuộn xoáy chầm chậm, tựa hồ mắt một cơn bão đang âm thầm mạnh dần lên.
Lạy Chúa, Knowlton nghĩ thầm, cảm thấy lạnh buốt. Cái túi đáng ngờ kia thậm chí trông càng đáng ngại hơn trong lần xuất hiện thứ hai.
Hình ảnh từ từ chuyển sang nền đen.
Một hình ảnh mới xuất hiện – vách hang ẩm ướt, phản chiếu bóng nước hắt ánh sáng nhảy nhót. Trên vách xuất hiện một bóng đen… bóng một người… đứng trong hang.
Nhưng đầu người này hình thù… méo mó.
Thay vì có mũi, người này có một cái mỏ dài… cứ như thể một nửa người gã là chim
Khi gã cất tiếng nói, giọng gã nghèn nghẹt… và gã nói bằng giọng điệu hùng biện rất lạ… ngữ điệu đều đặn… như thể gã là người lĩnh xướng trong một dàn hợp xướng cổ điển nào đó.
Knowlton ngồi bất động, hơi thở nặng nề, trong khi bóng đen cái mỏ kia nói.
“Ta là Vong linh.
Nếu các người đang xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta đã yên nghỉ.
Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói chuyện với thế giới từ sâu thẳm trong lòng đất, lẩn trốn đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm không một ánh sao phản chiếu.
Nhưng đây là thiên đường của ta… nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của ta.
Hỏa ngục.
Ít lâu nữa các người sẽ biết đến thứ ta để lại.
Nhưng, ngay tại đây, ta cảm nhận được bước chân của những linh hồn ngu dốt truy lùng ta… sẵn sàng không từ mọi cách để ngăn cản hành động của ta.
Hãy tha thứ cho chúng, có lẽ các người nói vậy, vì chúng không biết chúng làm gì. Nhưng lịch sử sẽ đến khi ngu dốt không còn là một tội lỗi có thể tha thứ nữa… Khi chỉ có trí tuệ mới có quyền được miễn thứ.
Bằng sự thuần khiết của lương tri, ta để lại cho các người toàn bộ món quà của Hy vọng, của cứu rỗi, của ngày mai.
Nhưng vẫn có kẻ săn đuổi ta như một con chó, được tiếp sức bằng niềm tin tự cho là đúng rằng ta là kẻ điên rồ. Có mỹ nhân tóc bạc dám gọi ta là quái vật! Cũng như lũ giáo sĩ đui mù vận động cho cái chết của Copernicus, mụ phỉ báng ta là quỷ dữ, sợ rằng ta đã nhìn ra Chân lý.
Nhưng ta không phải là nhà tiên tri.
Ta chính là sự cứu rỗi của các người.
Ta là Vong linh.”
Chương 10
“Anh ngồi đi”, Sienna nói. “Tôi có vài câu hỏi cho anh.”
Khi vào bếp, Langdon cảm thấy chân mình bước vững vàng hơn. Lúc này anh mặc bộ đồ hiệu Brioni của hàng xóm vừa như in. Ngay cả đôi giày mềm cũng rất thoải mái, và trong đầu Langdon đã có lưu ý sẽ đổi sang đi giày Ý khhi trở về nhà.
Nếu mình về được nhà, anh nghĩ bụng.
Sienna đã thay đổi hẳn – một vẻ đẹp tự nhiên. Cô vừa đổi sang chiếc quần bò rất tôn dáng và áo len màu kem, cả hai thứ trang phục như càng làm thân hình yểu điệu của cô thêm nổi bật. Mái tóc cô vẫn vấn ra sau thành đuôi ngựa, và khi không còn vẻ quyền uy nhờ những vật dung ngành y, dường như cô yếu đuối hơn. Langdon nhận thấy đôi mắt cô sưng đỏ, như thể cô vừa khóc, và cảm giác tội lỗi lại xâm chiếm lấy anh.
“Sienna, tôi rất xin lỗi. Tôi đã nghe hết lời nhắn trên điện thoại. Tôi không biết phải nói sao.”
“Cảm ơn anh”, cô đáp. “Nhưng lúc này chúng ta cần tập trung vào chính bản thân anh. Anh ngồi đi.”
Lúc này giọng cô rắn rỏi hơn, gợi nhớ đến những bài báo mà Langdon vừa đọc về trí tuệ và thời niên thiếu sớm phát triển của cô.
“Tôi cần anh suy nghĩ”, Sienna nói, tay ra hiệu cho anh ngồi xuống. “Anh có nhớ làm thế nào chúng ta tới được căn hộ này không?”
Langdon không dám chắc câu hỏi này có liên quan đến tình hướng trước mặt. “Trên một chiếc taxi”, anh nói, ngồi xuống bên bàn. “Có người bắn chúng ta.”
“Bắn anh, thưa Giáo sư. Chúng ta cần phải rõ ràng về chuyện đó.”
“Vâng. Xin lỗi.”
“Thế anh có nhớ được có mấy phát súng lúc chúng ta còn trên taxi không?”
Câu hỏi ngớ ngẩn. “Có, hai phát. Một trúng gương bên hông xe, và một bắn vỡ cửa kính sau.”
“Tốt lắm, giờ thì anh nhắm mắt lại.”
Langdon nhận ra cô đang kiểm tra trí nhớ của mình. Anh bèn nhắm mắt lại.
“Tôi đang mặc đồ gì?”
Langdon có thể nhìn rõ cô. “Giày đế bằng màu đen, quần bò xanh, và áo len cổ chữ V màu kem. Tóc cô vàng, dài đến vai, vấn ra phía sau. Mắt cô màu nâu.”
Langdon mở mắt và ngắm cô, rất hài lòng khhi thấy trí nhớ thị giác của mình vẫn hoạt động bình thường.
“Tốt lắm. Khả năng nhận thức thị giác của anh rất tốt, càng xác nhận chứng mất trí của anh đã không còn, và anh không hề bị thương tổn gì vĩnh viễn liên quan đến quá trình ghi nhớ. Anh có nhớ được điều gì mới về mấy ngày qua không?”
“Thật tiếc là không hề. Thế nhưng tôi lại nhìn thấy những hình ảnh ấy lúc cô ra ngoài.”
Langdon kể cho cô nghe hình ảnh ảo giác về người phụ nữ che mạng, người chết, và những đôi chân có chữ R bị chôn vùi một nửa quẫy đạp. Rồi anh kể cho cô về cái mặt nạ có mỏ hình quái lơ lửng trên bầu trời.
“‘Ta là cái chết’ ư?”, Sienna hỏi, vẻ mặt bồn chồn.
“Vâng, đó là những gì nó nói.”
“Được rồi… Tôi đoán như thế cũng giống ‘Ta là Vishnu, kẻ hủy diệt thế giới’.”
Người phụ nữ trẻ vừa dẫn lại lời Robert Oppenheimer lúc ông ta thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên.
“Còn cái mặt nạ mắt xanh lè… mũi hình mỏ chim ư?”, Sienna nói, vẻ khó hiểu. “Anh có ý tưởng gì để lý giải tại sao trí nhớ anh lại gợi ra hình ảnh đó không?”
“Chẳng có ý tưởng gì cả, nhưng kiểu mặt nạ đó rất thịnh hành thời trung cổ”, Langdon dừng lại. “Người ta gọi đó là mặt nạ dịch hạch.”
Trông Sienna mất bình tĩnh một cách kỳ lạ. “Mặt nạ dịch hạch ư?”
Langdon giải thích nhanh gọn rằng trong thế giới biểu tượng của anh, hình dáng đặc thù của chiếc mặt nạ mỏ chim gần như đồng nghĩa với Cái chết Đen – trận đại dịch tràn qua châu Âu vào thế kỷ XIV, giết một phần ba dân số ở một vài vùng. Hầu hết mọi người tin rằng chữ “đen” trong tên gọi chỉ tình trạng da thịt nạn nhân tím đen lại do hoại tử và xuất huyết dưới da, nhưng thực tế từ đen là để chị nỗi khiếp sợ mà dịch bệnh này gieo rắc trong dân chúng.
“Cái mặt nạ mỏ dài đó”, Langdon nói, “Được các bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ đeo để ngăn không cho bệnh xâm nhập vào lỗ mũi họ trong lúc điều trị người bị nhiễm bệnh. Còn giờ đây, cô chỉ nhìn thấy chúng được dùng làm phục trang trong lễ hội Venice Carnevale – lời nhắc nhở kì khôi về một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Ý”.
“Và anh chắc chắn mình nhìn thấy cái mặt nạ như thế trong ảo ảnh của mình chứ?”, Sienna hỏi, lúc này giọng cô run run. “Một mặt nạ của bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ à?”
Langdon gật đầu. Một cái mặt nạ mỏ chim thì khó mà nhầm lẫn được.
Cách Sienna nhíu mày khiến Langdon có cảm giác rằng cô đang cố nghĩ ra cách tốt nhất để nói với anh vài tin không hay. “Và người phụ nữ cứ nhắc anh ‘tìm kiếm và sẽ thấy’ phải không?”
“Đúng. Vẫn như lúc trước. Nhưng vấn đề là tôi không rõ mình cần tìm cái gì.”
Siena từ từ thở hắt ra một hơi dài, nét mặt hết sức nghiêm trọng. “Tôi nghĩ có lẽ tôi biết. Và thêm nữa… Tôi nghĩ có thể anh cũng đã tìm thấy nó.”
Langdon trợn mắt nhìn. “Cô đang nói gì thế?!”
“Robert, đêm qua khi anh tới bệnh viện, anh mang theo một thứ rất không bình thường trong túi áo khoác. Anh còn nhớ nó là gì không?”
Langdon lắc đầu.
“Anh mang theo một vật… một vật khá đáng chú ý. Tôi tình cờ thấy nó khi chúng tôi lau rửa cho anh.” Cô làm hiệu về phía chiếc áo Harris Tweed dính máu của Langdon, vẫn còn nằm trên bàn. “Nó vẫn trong túi áo đấy, nếu anh có ý định nhìn xem.”
Vẻ ngập ngừng, Langdon nhìn chiếc áo. Ít nhất điều đó giải thích tại sao cô ấy quay lại vì chiếc áo của mình. Anh vớ lấy chiếc áo khoác dính máu và lần tìm cái túi, từng cái một. Chẳng có gì cả. Anh lục lại lần nữa. Cuối cùng, anh nhún vai quay về phía cô, “Ở đây chẳng có gì hết.”
“Thế còn túi bí mật thì sao?”
“Cái gì? Áo khoác của tôi làm gì có túi bí mật.”
“Không ư?” Trông cô rất bối rối. “Vậy cái áo này… là của người khác ư?”
Đầu óc Langdon lại rối tung lên. “Không, đây là áo khoác của tôi.”
“Anh chắc chứ?”
Quá chắc, anh nghĩ bụng. Thực tế, nó là hiệu Camcerley mà tôi ưa chuộng đấy.
Anh lật ngược lớp lót áo và chìa cho Sienna xem nhãn hiệu có mang biểu tượng mà anh ưa chuộng trong thế giới thời trang – quả cầu của hãng Harris Tweed được trang trí mười ba viên đá quý hình khuy cùng một chữ thập Maltese trên đỉnh.
Hãy để người Scot triệu hồi các chiến binh Thiên Chúa giáo trên vải dệt chéo.
“Nhìn cái này đi”, Langdon nói, tay chỉ hai chữ cái R.L. được thêu bằng tay thêm vào nhãn hiệu. Anh luôn thích thú những mẫu may đo của Harris Tweed, và vì lý do ấy, anh thường trả thêm tiền để người ta thêu chữ cái tên anh vào nhãn hiệu. Ở trường đại học, nơi hàng trăm chiếc áo khoác vải len liên tục được cởi ra rồi mặc vào trong phòng ăn và trên giảng đường, Langdon không hề muốn bị mặc nhầm áo do cẩu thả.
“Tôi tin anh”, cô nói, cầm lấy chiếc áo khoác từ tay anh. “Giờ anh nhìn đây.”
Sienna mở rộng chiếc áo khoác để lộp lớp lót gần gáy. Chỗ đó, được giấy kín trong lớp vải lót, là một cái túi khá lớn có hình thù rất gọn ghẽ.
Thế quái nào nhỉ?!
Langdon chắc chắn rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy cái túi này trước đó.
Cái túi có một đường chỉ giấu kín, được may rất khéo.
“Nó không hề có ở đó lúc trước!”, Langdon dứt khoát.
“Vậy thì tôi đoán rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy… thứ này đúng không?” Sienna thò tay vào túi và moi ra một vật kim loại rất đẹp mà cô nhẹ nhàng đặt vào tay Langdon.
Langdon trợn mắt nhìn xuống vật đó với vẻ hoang mang cực độ.
“Anh có biết thứ này là gì không?”, Sienna hỏi.
“Không…”, anh lắp bắp. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.”
“Chà, thật không may, tôi lại biết rõ đây là gì. Và tôi tin chắc nó chính là lý do có người tìm cách giết anh.”
***
Lúc này điều phối viên Knowlton đang đi đi lại lại trong buồng riêng trên tàu The Mendacium, càng lúc càng thấy bồn chồn khi nghĩ đến đoạn video anh ta được giao phải cung cấp cho cả thế giới biết vào sáng mai.
Ta là Vong linh ư?
Có tin đồn rằng vị khách hàng đặc biệt này bị sang chấn tâm thần trong mấy tháng qua, nhưng đoạn video dường như xác định những lời đồn đó là không có cơ sở.
Knowlton biết mình có hai lựa chọn. Anh ta có thể chuẩn bị phát tán đoạn video vào ngày mai như đã hứa, hoặc có thể mang nó lên gác gặp Thị trưởng để đưa ra ý kiến về quyết định thứ hai.
Mình đã biết ý kiến của ông ấy rồi, Knowlton nghĩ bụng, vì chưa bao giờ thấy Thị trưởng có hành động gì khác ngoài những việc đã hứa với khách hàng. Ông ấy sẽ bảo mình cung cấp đoạn video này cho thế giới, không cần hỏi làm gì… và ông ấy sẽ nổi điên với mình vì việc này.
Knowlton hướng sự chú ý trở lại đoạn video đã được tua đến một vị trí đặc biệt đáng lo ngại. Anh ta bắt đầu cho chạy lại, và cái hang có thứ ánh sáng kỳ dị lại xuất hiện kèm với tiếng nước róc rách. Bóng người hiện ra lù lù trên vách hang đang nhỏ nớc – một gã đàn ông cao lớn với cái mỏ chim dài.
Bằng chất giọng nghèn nghẹt, cái bóng quái dị cất tiếng:
“Đã đến thời kỳ Tăm tối mới.
Nhiều thế kỷ trước, châu Âu chìm sâu trong cảnh khốn cùng – dân chúng túm tụm với nhau, chết đói, chìm trong tội lỗi và vô vọng. Họ giống như một cánh rừng chật chội, ngột ngạt vì những kẻ vô dụng, chờ đợi tia sét của Chúa trời – tia lửa sẽ làm đám cháy bùng lên, lan rộng trên mặt đất và thiêu sạch đám vô dụng, một lần nữa đưa ánh mặt trời tới những gốc cây khỏe mạnh.
Chọn lọc là Quy luật Tự nhiên của Chúa trời.
Hãy tự hỏi bản thân, sau Cái chết Đen là gì?
Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời.
Thời kỳ Phục Hưng.
Sự tái sinh.
Luôn là như thế. Tiếp sau cái chết là sự sinh sôi.
Đã đến được Thiên đường, con người phải đi qua Hỏa ngục.
Điều này, thầy đã dạy chúng ta.
Thế mà kẻ ngu dốt tóc bạc lại dám gọi ta là quái vậy ư? Chắc mụ vẫn không hiểu rõ môn toán học của tương lai chăng? Cả những điều kinh hoàng nó sẽ mang theo nữa?
Ta là Vong linh.
Ta là sự cứu rỗi của các người.
Và vì thế ta đứng lên, sâu trong lòng hàng này, phóng mắt nhìn qua đầm nước không một ánh sao phản chiếu. Tại đây, trong dinh lũy đã bị nhấn chìm này, Hỏa ngục cháy âm ỉ bên dưới làn nước.
Sớm muộn nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa.
Và đến khi đó, chẳng có gì trên trái đất có thể ngăn được nó.”