-
Chương 1164: La Bàn Kinh
Lý Dục Thần nghe xong cảm thấy thật khó hiểu, câu chuyện này quá khác truyện Bạch Xà trong truyền thuyết.
"Đây là phiên bản gốc của Hứa Tiên và Bạch Xà sao?"
Trí Nhẫn mỉm cười: "Đây không phải là Truyện Bạch Xà, Truyện Bạch Xà đã là một câu chuyện khác rồi."
"Đã là? Vậy nghĩa là, một Truyện Bạch Xà khác cũng nằm trong những câu chuyện mà ông định kể sao?" Lý Dục Thần kinh ngạc hỏi.
"Thí chủ không cần vội, hãy uống chén trà trước, nghe tôi kể nốt câu chuyện."
Nước trong ấm sắt trên bếp lúc này vừa sôi, Trí Nhẫn mở nắp ấm, dùng muỗng múc nước, rót từng muỗng một vào ấm trà. Động tác của ông ta rất chậm rãi, tay rất vững, không để một giọt nước nào rơi ra ngoài.
Khi nước trong ấm trà chảy ra miệng vòi, rót vào chén trà, hương trà lập tức tỏa ra khắp nơi.
Lý Dục Thần chỉ vừa ngửi đã biết, đây là loại trà thượng hạng, ở bên ngoài có lẽ không thể uống được.
"Bạch xà bị đạo sĩ chém chết, Nhất Tâm đau lòng đến tột cùng, quyết định liều mạng với đạo sĩ. Nhưng từ nhỏ anh ta đã tu hành ở chùa, chỉ biết Phật pháp mà chưa từng học thần thông, làm sao có thể là đối thủ của đạo sĩ. Trước sức mạnh của tiên thuật, anh ta nhỏ yếu chẳng khác gì con kiến. Đạo sĩ thấy anh ta không phải kẻ ác, không nỡ giết anh ta. Nhưng tâm trí anh ta lại kiên định, bất chấp mọi lời khuyên của đạo sĩ, nhất quyết không nghe. Cuối cùng, thấy việc báo thù vô vọng, anh ta nảy sinh ý định tìm cái chết, muốn đi theo Bạch Xà."
"Đạo sĩ hỏi anh ta vì sao lại vì một con yêu quái rắn mà không tiếc cả tính mạng, anh ta bèn kể lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối cho đạo sĩ nghe. Đạo sĩ nghe xong cảm thán, nhân gian vô tình, lại không bằng loài yêu. Đạo sĩ bèn nói với Nhất Tâm rằng, trong chùa Linh Ẩn có một thánh vật, vốn theo Phi Lai Phong từ Linh Sơn mà tới. Vật này có thể chuyển đổi thời không, nếu anh ta lấy được nó, kịp thời truy đuổi, nói không chừng có thể đuổi kịp hồn phách của Bạch Xà, hai người sẽ tái hợp ở một thế giới khác."
"Nhất Tâm từ nhỏ lớn lên ở chùa Linh Ẩn, nhưng chưa từng nghe nói có thánh vật như vậy, bèn hỏi vật ấy tên gì, hình dáng ra sao? Đạo sĩ nói, vật này gọi là la bàn Lục Hư Luân Chuyển, được tạo nên từ sức mạnh của lục đạo luân hồi, hình dáng giống như một chiếc cối xay. Trên đó khắc trời đất, nhật nguyệt, tinh túc sơn hải, còn có sinh tử bát môn, trọng sơn trọng quái."
"Nhất Tâm liền nhớ ra, trong chùa Linh Ẩn quả thật có một chiếc cối xay, nằm ở góc sân sau, trên đó khắc những hình vẽ kỳ lạ. Nhưng từ nhỏ anh ta đã dùng nó để xay đậu, đôi lúc còn lấy để giã thuốc, vật dụng bình thường như thế, làm sao có thể là bảo vật?"
"Đạo sĩ nói, vật này do thần và ma cùng đúc nên, ngay cả người tu hành cũng khó mà hiểu được huyền cơ bên trong, huống chi là người bình thường. Tôi có một cuốn La Bàn Kinh, chính là chìa khóa để giải thần chú trên đó. Nếu cậu có thể lĩnh hội, thì hãy xoay chuyển hư không, đi tìm hồn phách của vợ cậu đi. Nói xong, ông ta để lại cuốn kinh thư rồi biến mất không tung tích."
"Nhất Tâm vui mừng khôn xiết, chợt cảm thấy có hy vọng. Anh ta chưa kịp đọc nội dung kinh thư, đã vội lén quay lại chùa Linh Ẩn, đến sân sau trộm chiếc cối xay. Anh ta mang cối xay về nhà, mở kinh thư ra, tưởng rằng chỉ cần làm theo hướng dẫn của kinh thư là có thể đi tìm hồn phách của vợ. Nhưng khi đọc kinh thư, anh ta mới biết La Bàn Kinh thâm sâu khó hiểu, không phải là một bản hướng dẫn sử dụng la bàn Lục Hư Luân Chuyển, mà là một bộ pháp môn tu hành cao siêu."
"Nhất Tâm đã mất trọn hai mươi năm mới miễn cưỡng lĩnh ngộ được đôi chút. Nhưng anh ta không thể chờ thêm nữa! Nghe nói đầu thai chuyển kiếp là một vòng hai mươi năm, giờ đã hai mươi năm trôi qua, nếu không đi ngay, e rằng sẽ không bao giờ đuổi kịp vợ của mình nữa. Thế là, anh làm theo những gì học được trong La Bàn Kinh, niệm chú ngữ, khởi động la bàn Lục Hư Luân Chuyển..."
Trí Nhẫn kể đến đây thì dừng lại.
Đúng lúc một ấm trà đã pha xong, ông ta lại múc nước từ ấm sắt để pha thêm trà.
Lý Dục Thần không ngờ lại nghe được chuyện về la bàn Lục Hư Luân Chuyển từ hòa thượng Trí Nhẫn.
Từ khi lấy được Định Bàn Châm ở nhà họ Chu tại Kim Lăng, kích hoạt được bảo vật này, anh luôn suy nghĩ về công dụng thực sự của chiếc la bàn.
La bàn có thể xoay chuyển hư không, phá kết giới, điều này anh đã biết từ lâu. Nhưng các không gian trên đó chồng chéo như một khối lập phương kỳ ảo, có thể xoay chuyển theo mọi hướng. Nếu không có mật mã chuyên dụng, người dùng cũng rất dễ lạc lối trong đó.
Nhưng theo lời Trí Nhẫn, khối lập phương này không chỉ xoay chuyển không gian, mà còn có thể xoay chuyển cả thời gian. Đạo sĩ nói rằng nó được tạo ra từ sức mạnh của lục đạo luân hồi, nếu điều này là thật, thì sức mạnh của thứ này có lẽ có thể phá vỡ kết giới Hoàng Tuyền, vào thẳng Cửu U.
Hoặc thậm chí quay trở về hai mươi năm trước?
Lý Dục Thần cảm thấy khó mà tin nổi.
Tuy nhiên, anh tin rằng La Bàn Kinh thực sự tồn tại, bởi vì la bàn Lục Hư Luân Chuyển rõ ràng cần có pháp thuật điều khiển chuyên biệt. Đặc biệt là những bùa chú trên đó, cần một loại sức mạnh tâm niệm đặc thù mới có thể kích hoạt đúng cách.
Anh không vội lấy la bàn ra, không phải vì không tin Trí Nhẫn, mà vì còn một số nghi vấn chưa rõ. Chẳng hạn như, Trí Nhẫn nói đó là một chiếc cối xay, nhưng thứ trong tay anh lại là một chiếc la bàn tinh xảo. Nếu hai thứ này là một, thì giữa chúng hẳn đã xảy ra chuyện gì.
Ngoài ra, tại sao đúng lúc này Trí Nhẫn lại kể cho anh nghe câu chuyện này?
Lý Dục Thần nâng chén trà lên nhấp một ngụm, cười hỏi: "Sau đó thì sao?"
Trí Nhẫn không tiếp tục kể chuyện mà hỏi: "Thí chủ, trà này thế nào?"
"Trà ngon." Lý Dục Thần khen ngợi.
"Loại trà này tên là Vấn Phật, được trồng từ cây trà dời từ chùa Linh Ẩn về, cũng là giống trà cổ nhất ở Tiền Đường. Tuy nhiên, ngày nay phần lớn người không biết đến loại trà này. Vài năm trước, các chuyên gia đến khảo sát và kết luận rằng đây là một loại trà Long Tỉnh."
Trí Nhẫn cười khi nói đến đây: "Người đời ai cũng biết Long Tỉnh, nhưng lại không biết trà Tiền Đường, chính là nhờ Phật sự hưng thịnh mà lan truyền rộng rãi. Tiệc trà đầu tiên ở Tiền Đường bắt đầu từ khi chùa Linh Ẩn mới xây. Khi ấy chưa có tên Long Tỉnh, trong Trà Kinh của Lục Vũ chỉ ghi chép trà Linh Ẩn và Thiên Trúc, mà không có tên Long Tỉnh."
"Trà là dược liệu của linh khí, không phải là đất có linh khí dồi dào thì không sống được. Trà cổ Tiền Đường, từ trà Hương Lâm ở Hạ Thiên Trúc, trà Bạch Vân ở Thượng Thiên Trúc, đến trà Bảo Vân tại nơi luyện đan của Cát Tiên Ông nổi tiếng nhất, qua các triều đại đều là trà để tiến cống. Mãi về sau, trà Tiền Đường mới mang tên Long Tỉnh. Người đời tưởng rằng vì suối Long Tỉnh ở Tây Sơn, nhưng không biết rằng, cái tên ấy chỉ là gán ghép. Phong thủy Tiền Đường hội tụ nơi làn nước xuân của một hồ, Long Tỉnh thực sự, chính là mắt phong thủy nằm ở đó."
Trí Nhẫn chỉ về phía mặt hồ Tiền Đường ở xa.
Lý Dục Thần không cần nhìn cũng biết Trí Nhẫn đang chỉ vào ba tháp đá của Tam Đàm Ấn Nguyệt, một không gian nhỏ bao quanh bởi ba tháp đá ấy.
"Đó mới là Long Tỉnh thực sự!"
Lý Dục Thần nghĩ rằng Trí Nhẫn sắp nói đến trọng tâm, nhưng không ngờ sau khi ông ta pha thêm một bình trà mới thì đột ngột đổi chủ đề, tiếp tục kể chuyện.
"Thời Nam Triều, ở Tiền Đường có một thiếu niên tên là Nguyễn Úc, xuất thân danh môn. Một ngày nọ, khi đi dạo quanh hồ, cậu tình cờ gặp được một ca kỹ trên hồ tên là Tô Tiểu Tiểu. Tô Tiểu Tiểu cũng xuất thân danh môn, tinh thông tài nghệ, khí chất bất phàm, nhưng vì gia cảnh sa sút nên phải lưu lạc làm ca kỹ. Nhưng cô ấy bán nghệ không bán thân, khiến biết bao quan to quý nhân bỏ cả nghìn vàng cũng khó đổi lấy một nụ cười của cô ấy. Nguyễn Úc vừa gặp đã yêu, không thể tự kiềm chế, bèn thổ lộ với cô ấy. Tô Tiểu Tiểu thấy Nguyễn Úc là người tài, trong lòng cũng vui, nên đã hát cho cậu nghe:
'Thiếp ngồi xe ngọc sáng, chàng cưỡi ngựa xanh cao. Kết đồng tâm nơi nào? Dưới tùng bách Tây Lăng.'"
"Nguyễn Úc trở về nhà, bẩm báo cha mẹ, định chuộc thân cho Tô Tiểu Tiểu, nhưng bị gia đình phản đối kịch liệt. Cha của Nguyễn Úc nhậm chức ở Kim Lăng, bèn đưa cậu đến Kim Lăng và quyết định hôn sự cho cậu với con gái nhà quyền quý ở Kim Lăng. Nguyễn Úc quyết chết cũng không nghe theo, tuyệt thực chống đối. Cha cậu không biết làm sao, đành để cậu quay lại Tiền Đường."
"Nguyễn Úc vừa đến Tiền Đường đã vội đi tìm Tô Tiểu Tiểu. Đáng tiếc, trên thuyền hoa giữa hồ không còn bóng dáng Tô Tiểu Tiểu, chỉ còn lại một nấm mộ cô đơn vô chủ ở dưới tùng bách Tây Lăng."
Trí Nhẫn thở dài, nhìn xa về phía hồ Tiền Đường.
"Yến dẫn oanh mời liễu ven đường, từ Chương Đài thẳng đến Tây Hồ. Xuân hoa thu nguyệt nếu tương phùng, nhà ở Tây Linh, thiếp họ Tô…"
Du khách nhộn nhịp qua lại trên hồ, từ đê Tô đến đê Bạch.
Ngôi mộ cô đơn ấy, nghìn năm qua vẫn lặng lẽ nằm đó. Chỉ là trong dòng người đông đúc kia, liệu có người cô ấy chờ đợi?
"Nhiều năm sau, nhà họ Nguyễn suy sụp, khuôn viên đồ sộ của họ cũng bị kẻ trộm và ăn mày chiếm dụng. Đồ đạc bên trong đều bị người khác lấy sạch, chỉ còn lại những bức tường đổ nát, một sân vườn điêu tàn."
Trí Nhẫn kể tiếp.
"Đến thời nhà Tùy, có một thương nhân tên là Võ Sĩ Hoạch, đi ngang qua Tiền Đường, phát hiện một cối xay trong khuôn viên cũ của nhà họ Nguyễn. Thấy hoa văn trên đó kỳ lạ, chữ viết cổ xưa, ông ta nghĩ là báu vật, nên đã mang về. Trên đường trở về, ông gặp được Lý Uyên, phủ úy sử Hà Đông, rồi theo ông ấy khởi binh tiến về Trường An..."
"Đây là phiên bản gốc của Hứa Tiên và Bạch Xà sao?"
Trí Nhẫn mỉm cười: "Đây không phải là Truyện Bạch Xà, Truyện Bạch Xà đã là một câu chuyện khác rồi."
"Đã là? Vậy nghĩa là, một Truyện Bạch Xà khác cũng nằm trong những câu chuyện mà ông định kể sao?" Lý Dục Thần kinh ngạc hỏi.
"Thí chủ không cần vội, hãy uống chén trà trước, nghe tôi kể nốt câu chuyện."
Nước trong ấm sắt trên bếp lúc này vừa sôi, Trí Nhẫn mở nắp ấm, dùng muỗng múc nước, rót từng muỗng một vào ấm trà. Động tác của ông ta rất chậm rãi, tay rất vững, không để một giọt nước nào rơi ra ngoài.
Khi nước trong ấm trà chảy ra miệng vòi, rót vào chén trà, hương trà lập tức tỏa ra khắp nơi.
Lý Dục Thần chỉ vừa ngửi đã biết, đây là loại trà thượng hạng, ở bên ngoài có lẽ không thể uống được.
"Bạch xà bị đạo sĩ chém chết, Nhất Tâm đau lòng đến tột cùng, quyết định liều mạng với đạo sĩ. Nhưng từ nhỏ anh ta đã tu hành ở chùa, chỉ biết Phật pháp mà chưa từng học thần thông, làm sao có thể là đối thủ của đạo sĩ. Trước sức mạnh của tiên thuật, anh ta nhỏ yếu chẳng khác gì con kiến. Đạo sĩ thấy anh ta không phải kẻ ác, không nỡ giết anh ta. Nhưng tâm trí anh ta lại kiên định, bất chấp mọi lời khuyên của đạo sĩ, nhất quyết không nghe. Cuối cùng, thấy việc báo thù vô vọng, anh ta nảy sinh ý định tìm cái chết, muốn đi theo Bạch Xà."
"Đạo sĩ hỏi anh ta vì sao lại vì một con yêu quái rắn mà không tiếc cả tính mạng, anh ta bèn kể lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối cho đạo sĩ nghe. Đạo sĩ nghe xong cảm thán, nhân gian vô tình, lại không bằng loài yêu. Đạo sĩ bèn nói với Nhất Tâm rằng, trong chùa Linh Ẩn có một thánh vật, vốn theo Phi Lai Phong từ Linh Sơn mà tới. Vật này có thể chuyển đổi thời không, nếu anh ta lấy được nó, kịp thời truy đuổi, nói không chừng có thể đuổi kịp hồn phách của Bạch Xà, hai người sẽ tái hợp ở một thế giới khác."
"Nhất Tâm từ nhỏ lớn lên ở chùa Linh Ẩn, nhưng chưa từng nghe nói có thánh vật như vậy, bèn hỏi vật ấy tên gì, hình dáng ra sao? Đạo sĩ nói, vật này gọi là la bàn Lục Hư Luân Chuyển, được tạo nên từ sức mạnh của lục đạo luân hồi, hình dáng giống như một chiếc cối xay. Trên đó khắc trời đất, nhật nguyệt, tinh túc sơn hải, còn có sinh tử bát môn, trọng sơn trọng quái."
"Nhất Tâm liền nhớ ra, trong chùa Linh Ẩn quả thật có một chiếc cối xay, nằm ở góc sân sau, trên đó khắc những hình vẽ kỳ lạ. Nhưng từ nhỏ anh ta đã dùng nó để xay đậu, đôi lúc còn lấy để giã thuốc, vật dụng bình thường như thế, làm sao có thể là bảo vật?"
"Đạo sĩ nói, vật này do thần và ma cùng đúc nên, ngay cả người tu hành cũng khó mà hiểu được huyền cơ bên trong, huống chi là người bình thường. Tôi có một cuốn La Bàn Kinh, chính là chìa khóa để giải thần chú trên đó. Nếu cậu có thể lĩnh hội, thì hãy xoay chuyển hư không, đi tìm hồn phách của vợ cậu đi. Nói xong, ông ta để lại cuốn kinh thư rồi biến mất không tung tích."
"Nhất Tâm vui mừng khôn xiết, chợt cảm thấy có hy vọng. Anh ta chưa kịp đọc nội dung kinh thư, đã vội lén quay lại chùa Linh Ẩn, đến sân sau trộm chiếc cối xay. Anh ta mang cối xay về nhà, mở kinh thư ra, tưởng rằng chỉ cần làm theo hướng dẫn của kinh thư là có thể đi tìm hồn phách của vợ. Nhưng khi đọc kinh thư, anh ta mới biết La Bàn Kinh thâm sâu khó hiểu, không phải là một bản hướng dẫn sử dụng la bàn Lục Hư Luân Chuyển, mà là một bộ pháp môn tu hành cao siêu."
"Nhất Tâm đã mất trọn hai mươi năm mới miễn cưỡng lĩnh ngộ được đôi chút. Nhưng anh ta không thể chờ thêm nữa! Nghe nói đầu thai chuyển kiếp là một vòng hai mươi năm, giờ đã hai mươi năm trôi qua, nếu không đi ngay, e rằng sẽ không bao giờ đuổi kịp vợ của mình nữa. Thế là, anh làm theo những gì học được trong La Bàn Kinh, niệm chú ngữ, khởi động la bàn Lục Hư Luân Chuyển..."
Trí Nhẫn kể đến đây thì dừng lại.
Đúng lúc một ấm trà đã pha xong, ông ta lại múc nước từ ấm sắt để pha thêm trà.
Lý Dục Thần không ngờ lại nghe được chuyện về la bàn Lục Hư Luân Chuyển từ hòa thượng Trí Nhẫn.
Từ khi lấy được Định Bàn Châm ở nhà họ Chu tại Kim Lăng, kích hoạt được bảo vật này, anh luôn suy nghĩ về công dụng thực sự của chiếc la bàn.
La bàn có thể xoay chuyển hư không, phá kết giới, điều này anh đã biết từ lâu. Nhưng các không gian trên đó chồng chéo như một khối lập phương kỳ ảo, có thể xoay chuyển theo mọi hướng. Nếu không có mật mã chuyên dụng, người dùng cũng rất dễ lạc lối trong đó.
Nhưng theo lời Trí Nhẫn, khối lập phương này không chỉ xoay chuyển không gian, mà còn có thể xoay chuyển cả thời gian. Đạo sĩ nói rằng nó được tạo ra từ sức mạnh của lục đạo luân hồi, nếu điều này là thật, thì sức mạnh của thứ này có lẽ có thể phá vỡ kết giới Hoàng Tuyền, vào thẳng Cửu U.
Hoặc thậm chí quay trở về hai mươi năm trước?
Lý Dục Thần cảm thấy khó mà tin nổi.
Tuy nhiên, anh tin rằng La Bàn Kinh thực sự tồn tại, bởi vì la bàn Lục Hư Luân Chuyển rõ ràng cần có pháp thuật điều khiển chuyên biệt. Đặc biệt là những bùa chú trên đó, cần một loại sức mạnh tâm niệm đặc thù mới có thể kích hoạt đúng cách.
Anh không vội lấy la bàn ra, không phải vì không tin Trí Nhẫn, mà vì còn một số nghi vấn chưa rõ. Chẳng hạn như, Trí Nhẫn nói đó là một chiếc cối xay, nhưng thứ trong tay anh lại là một chiếc la bàn tinh xảo. Nếu hai thứ này là một, thì giữa chúng hẳn đã xảy ra chuyện gì.
Ngoài ra, tại sao đúng lúc này Trí Nhẫn lại kể cho anh nghe câu chuyện này?
Lý Dục Thần nâng chén trà lên nhấp một ngụm, cười hỏi: "Sau đó thì sao?"
Trí Nhẫn không tiếp tục kể chuyện mà hỏi: "Thí chủ, trà này thế nào?"
"Trà ngon." Lý Dục Thần khen ngợi.
"Loại trà này tên là Vấn Phật, được trồng từ cây trà dời từ chùa Linh Ẩn về, cũng là giống trà cổ nhất ở Tiền Đường. Tuy nhiên, ngày nay phần lớn người không biết đến loại trà này. Vài năm trước, các chuyên gia đến khảo sát và kết luận rằng đây là một loại trà Long Tỉnh."
Trí Nhẫn cười khi nói đến đây: "Người đời ai cũng biết Long Tỉnh, nhưng lại không biết trà Tiền Đường, chính là nhờ Phật sự hưng thịnh mà lan truyền rộng rãi. Tiệc trà đầu tiên ở Tiền Đường bắt đầu từ khi chùa Linh Ẩn mới xây. Khi ấy chưa có tên Long Tỉnh, trong Trà Kinh của Lục Vũ chỉ ghi chép trà Linh Ẩn và Thiên Trúc, mà không có tên Long Tỉnh."
"Trà là dược liệu của linh khí, không phải là đất có linh khí dồi dào thì không sống được. Trà cổ Tiền Đường, từ trà Hương Lâm ở Hạ Thiên Trúc, trà Bạch Vân ở Thượng Thiên Trúc, đến trà Bảo Vân tại nơi luyện đan của Cát Tiên Ông nổi tiếng nhất, qua các triều đại đều là trà để tiến cống. Mãi về sau, trà Tiền Đường mới mang tên Long Tỉnh. Người đời tưởng rằng vì suối Long Tỉnh ở Tây Sơn, nhưng không biết rằng, cái tên ấy chỉ là gán ghép. Phong thủy Tiền Đường hội tụ nơi làn nước xuân của một hồ, Long Tỉnh thực sự, chính là mắt phong thủy nằm ở đó."
Trí Nhẫn chỉ về phía mặt hồ Tiền Đường ở xa.
Lý Dục Thần không cần nhìn cũng biết Trí Nhẫn đang chỉ vào ba tháp đá của Tam Đàm Ấn Nguyệt, một không gian nhỏ bao quanh bởi ba tháp đá ấy.
"Đó mới là Long Tỉnh thực sự!"
Lý Dục Thần nghĩ rằng Trí Nhẫn sắp nói đến trọng tâm, nhưng không ngờ sau khi ông ta pha thêm một bình trà mới thì đột ngột đổi chủ đề, tiếp tục kể chuyện.
"Thời Nam Triều, ở Tiền Đường có một thiếu niên tên là Nguyễn Úc, xuất thân danh môn. Một ngày nọ, khi đi dạo quanh hồ, cậu tình cờ gặp được một ca kỹ trên hồ tên là Tô Tiểu Tiểu. Tô Tiểu Tiểu cũng xuất thân danh môn, tinh thông tài nghệ, khí chất bất phàm, nhưng vì gia cảnh sa sút nên phải lưu lạc làm ca kỹ. Nhưng cô ấy bán nghệ không bán thân, khiến biết bao quan to quý nhân bỏ cả nghìn vàng cũng khó đổi lấy một nụ cười của cô ấy. Nguyễn Úc vừa gặp đã yêu, không thể tự kiềm chế, bèn thổ lộ với cô ấy. Tô Tiểu Tiểu thấy Nguyễn Úc là người tài, trong lòng cũng vui, nên đã hát cho cậu nghe:
'Thiếp ngồi xe ngọc sáng, chàng cưỡi ngựa xanh cao. Kết đồng tâm nơi nào? Dưới tùng bách Tây Lăng.'"
"Nguyễn Úc trở về nhà, bẩm báo cha mẹ, định chuộc thân cho Tô Tiểu Tiểu, nhưng bị gia đình phản đối kịch liệt. Cha của Nguyễn Úc nhậm chức ở Kim Lăng, bèn đưa cậu đến Kim Lăng và quyết định hôn sự cho cậu với con gái nhà quyền quý ở Kim Lăng. Nguyễn Úc quyết chết cũng không nghe theo, tuyệt thực chống đối. Cha cậu không biết làm sao, đành để cậu quay lại Tiền Đường."
"Nguyễn Úc vừa đến Tiền Đường đã vội đi tìm Tô Tiểu Tiểu. Đáng tiếc, trên thuyền hoa giữa hồ không còn bóng dáng Tô Tiểu Tiểu, chỉ còn lại một nấm mộ cô đơn vô chủ ở dưới tùng bách Tây Lăng."
Trí Nhẫn thở dài, nhìn xa về phía hồ Tiền Đường.
"Yến dẫn oanh mời liễu ven đường, từ Chương Đài thẳng đến Tây Hồ. Xuân hoa thu nguyệt nếu tương phùng, nhà ở Tây Linh, thiếp họ Tô…"
Du khách nhộn nhịp qua lại trên hồ, từ đê Tô đến đê Bạch.
Ngôi mộ cô đơn ấy, nghìn năm qua vẫn lặng lẽ nằm đó. Chỉ là trong dòng người đông đúc kia, liệu có người cô ấy chờ đợi?
"Nhiều năm sau, nhà họ Nguyễn suy sụp, khuôn viên đồ sộ của họ cũng bị kẻ trộm và ăn mày chiếm dụng. Đồ đạc bên trong đều bị người khác lấy sạch, chỉ còn lại những bức tường đổ nát, một sân vườn điêu tàn."
Trí Nhẫn kể tiếp.
"Đến thời nhà Tùy, có một thương nhân tên là Võ Sĩ Hoạch, đi ngang qua Tiền Đường, phát hiện một cối xay trong khuôn viên cũ của nhà họ Nguyễn. Thấy hoa văn trên đó kỳ lạ, chữ viết cổ xưa, ông ta nghĩ là báu vật, nên đã mang về. Trên đường trở về, ông gặp được Lý Uyên, phủ úy sử Hà Đông, rồi theo ông ấy khởi binh tiến về Trường An..."