Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 26-27
Quyển2 –Chương9: Thề hẹn còn đây, tình khôn giữ
Hoa đào lả tả rợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyên xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
Truyền thuyết kể rằng, trên đại hoang có năm thánh địa. Thang cốc, nơi mặt trời mọc, Ngu uyên, nơi mặt trời lặn, Quy khư, ngàn vạn con nước đổ về và Ngọc sơn, nơi hội tụ ngọc linh – bốn thánh địa này tuy người thường khó mà đến được, nhưng dù hung hiểm như Ngu uyên cũng có người bôn ba tới tận nơi, duy chỉ có Bắc Minh và Nam Minh, được gọi là hai đầu trời đất chưa ai đặt chân đến, chỉ nghe nói hai chỗ đó được gọi là Nam Bắc Minh, nơi cực Nam và cực Bắc hợp lại làm một, càng chẳng hiểu sao rõ ràng một ở cực Nam, một ở cực Bắc mà lại gọi là Nam Bắc hợp nhất.
Vì chưa ai từng đến nên người đại hoang hầu như không tin có Bắc Minh và Nam Minh[1], nhưng trên đời vẫn tồn tại một loài thú thần tên gọi là Côn, đến từ Bắc Minh, nguyên hình là cá, vừa ra đời đã có thể hóa đại bàng, tương truyền một lần sải cánh có thể bay xa chín vạn dặm. Côn không xưng thần với rồng, cũng không cúi đầu trước phượng, sinh ở Bắc Minh, chết lại về Nam Minh.
[1] Theo Tiêu dao du của Trang Tử: Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân lớn không biết mấy nghìn dặm. Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại bàng), sống lưng rộng không biết mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên, sải cánh che phủ cả bầu trời. Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến tận Nam Minh.
Vì Côn có thực, nên sử sách vẫn chép rằng trên đại hoang còn có một thánh địa thứ năm, gọi là Nam Bắc Minh.
Từ đại hoang đi thẳng về hướng Bắc, sẽ đến một vùng hoang dã, băng phủ ngàn năm, tuyết rơi vạn dặm, đi mãi không thấy bến bờ, dù người của Thần tộc thần lực cao cường cũng không sao vượt qua nổi đồng hoang mênh mông tuyết trắng ấy.
Phía cuối đồng hoang bao la buốt giá ấy có một hồ nước thiên nhiên, chính là Bắc Minh.
Tiêu Dao tha thân thể bị ngũ linh phá hủy, chỉ còn thoi thóp của Xi Vưu thả xuống Bắc Minh. Nó làm vậy hoàn toàn dựa vào bản năng của muôn thú, hễ gặp nguy hiểm hoặc bị thương thì quay về nhà tìm nơi trú ngụ.
Xi Vưu nổi lềnh bềnh giữa Bắc Minh, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh, mặc cho Tiêu Dao lay gọi. Dần dà Tiêu Dao cũng chán, bèn để mặc hắn nằm đó, bơi đi ngao du khắp Bắc Minh. Bắc Minh rộng mênh mông, xưa nay nó chưa bao giờ đến được tận cùng, thỉnh thoảng nó cũng nảy dạ tò mò, đi hết đại hoang sẽ đến một vùng băng tuyết, vượt qua đồng băng sẽ đến Bắc Minh, vậy nếu băng qua cả Bắc Minh thì sao? Có lẽ tới khi chết, nó mới giải đáp được câu hỏi này.
Hôn mê hơn ba trăm ngày đêm, cuối cùng Xi Vưu cũng tỉnh lại. Vừa mở mắt, trông thấy Tiêu Dao mừng rỡ lượn vòng quanh mình, Xi Vưu toan giơ tay chạm vào nó, nhưng chẳng nhúc nhích nổi một ngón tay.
Hắn cảm giác mình đang bồng bềnh trong nước, có điều thứ nước này rất lạ, hệt như một loại máu màu lam căng tràn nhựa sống.
Xi Vưu tự ngộ được đạo trời, tuy chẳng có lý luận phương pháp gì nhưng hắn hiểu rất rõ thế nào là hòa hợp với tự nhiên, bèn thả lỏng thân thể, trút bỏ cái tôi hòa mình vào Bắc Minh rồi cười hỏi Tiêu Dao: “Đây là Bắc Minh, nơi mày sinh ra ư?”
Tiêu Dao quẫy đuôi, té nước vào mặt Xi Vưu như oán trách: Nếu chẳng phải vì cứu ngươi, đời nào ta chịu mang thứ dơ bẩn như ngươi về nhà.
Xi Vưu phá lên cười sằng sặc, cười mãi cười mãi, đột nhiên hắn sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra.
Du Võng chết rồi!
Chính Hoàng Đế giết chết Du Võng!
Trong cơn cuồng nộ, hắn đã giết chết Hoàng Đế!
A Hành… nàng chắc đã biết cả rồi, giờ nàng có khỏe không?
Xi Vưu thầm thở dài, nhắm nghiền mắt, những hình ảnh chập chờn đứt quãng cứ xẹt qua xẹt lại trong đầu.
Dường như hắn thấy có đến hai vị Hoàng Đế, nghe tiếng A Hành thét lên, hắn nảy đom đóm mắt, thoáng thấy A Hành bay vụt về phía mình, vẻ mặt đau đớn tột cùng… rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là mơ?
Xi Vưu mở trừng mắt, toan gượng dậy, liền bị Tiêu Dao hậm hực quật đuôi vào mặt.
Hắn khó nhọc lên tiếng: “Ta phải về.”
Tiêu Dao lập tức há miệng phun ra vô số bong bóng nước, trông như thể chạm vào là vỡ, nào ngờ chúng lại khóa chặt tay của Xi Vưu dính vào mặt nước, bất kể hắn vùng vẫy ra sao cũng không làm vỡ nổi. Rõ ràng đây là địa bàn của Tiêu Dao, ở đây, Tiêu Dao mới là lão đại.
Cứng không được, Xi Vưu bèn đổi sang mềm, dịu giọng nài nỉ: “Tiêu Dao, nếu ta lỡ tay giết chết Hoàng Đế, nhất định A Hành sẽ rất đau lòng, ta phải đi an ủi nàng. Còn nếu không phải ta giết lão thì các huynh đệ của ta hẳn đang ác chiến với lão, ta không thể để họ chiến đấu một mình được.”
Tiêu Dao vừa tung tẩy bơi vừa phun bong bóng nô giỡn, chẳng buồn để ý đến Xi Vưu. Dù sao nó không phải là A Tệ ngốc nghếch để Xi Vưu quay như dế.
Xi Vưu lại nói: “Năm xưa chúng ta cắt máu ăn thề, mày cũng ở đó kia mà, bọn họ không phụ ta, ta há lại phụ họ hay sao? Mày tưởng mấy cái bong bóng ấy trói được ta à? Dẫu có phải bò, ta cũng quyết quay trở về!” Tiêu Dao nghe nói chỉ quẩy đuôi bơi ra xa, từ nhỏ, nó bị Xi Vưu dọa dẫm đã quen, cứng mềm gì đều không ăn thua.
“A, phải rồi! Ta vừa nhớ ra, hồi đó cắt máu ăn thề, ta cũng trích ở chân mày vài giọt máu đấy, giờ mày lại định làm giống đại bàng bội tín bạc nghĩa à?”
Tiêu Dao quay ngoắt lại, trợn trừng đôi mắt cá nhìn Xi Vưu, hồi đó nó thấy hay hay nên chen vào góp vui thôi mà, không tính!
Xi Vưu cười ranh mãnh “Mặc kệ!Mày chích máu rồi, cũng uống rượu rồi, không được lật lọng!”
Tiêu Dao phì phì phun ra một chuỗi bong bóng nước rồi lặng yên ngẫm nghĩ, lát sau, nó vẫy vẫy đuôi.
Xi Vưu hiểu ý Tiêu Dao, nó muốn nói thể trạng Xi Vưu phải nghỉ ngơi một thời gian nữa mới được.
Tiêu Dao lặn xuống đáy nước, không nổi lên nữa.
Xi Vưu hiểu Tiêu Dao đã quyết định thì đừng hòng thay đổi, hắn chỉ có thể tranh thủ thời gian dưỡng thương cho mau khỏe lại mà thôi.
Vừa toan nhập định trị thương, hắn sực nhớ ra một chuyện, liền vọt miệng hỏi: “Tiêu Dao, ta hôn mê bao lâu rồi?”
Lâu thật là lâu, vẫn không thấy Tiêu Dao trả lời, có lẽ là tính không ra. Đối với chúng, thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả.
Xi Vưu đổi sang hỏi bằng cách khác: “Mày bay đến sườn núi phía Bắc đại hoang, bẻ một cành đào về đây cho ta. Nhanh lên nhanh lên, quan trọng lắm đó!”
Tiêu Dao nghĩ là trò chơi bèn vọt lên khỏi mặt nước, biến thành đại bàng, nháy mắt đã mất hút. Hồi lâu, nó ngậm một cành đào đang kết nụ bay về.
Vùng núi phía Bắc khí hậu lạnh lẽo vậy mà hoa đào đã bắt đầu kết nụ, chắc hẳn ở Trung nguyên bây giờ đang là tiết hoa đào nở rộ, hắn đã ngủ ròng rã một năm trời.
Xi Vưu nghiêm mặt bảo Tiêu Dao: “Thả ta ra đi, ta phải về gặp A Hành.”
Tiêu Dao trố mắt nhìn hắn như muốn hỏi: Ngươi muốn chết hả?
“Thả ta ra!”
Tiêu Dao thở hồng hộc, trợn mắt nhìn Xi Vưu, bất động.
Xi Vưu không buồn nhiều lời, chỉ nghiến răng gắng bức máu trong tim ra, chẳng nề dùng thọ mạng đổi lấy sức mạnh, phá vỡ trói buộc của Tiêu Dao. Thấy vậy, Tiêu Dao vừa giận dữ đập cánh phành phạch, vừa rít lên với hắn: Ta không chở ngươi về, ngươi có phá vỡ trói buộc cũng công cốc!
Xi Vưu bập bềnh nổi trên mặt nước, nhanh nhẹn rạch tay mình, nhúng cành đào Tiêu Dao vừa bẻ vào máu tươi rồi hóa phép biến nó thành một con chim, cắn đầu lưỡi phun tinh huyết lên cành đào, dùng một trăm năm thọ mạng để biến cành đào kia thành một con chim.
Tiêu Dao nín bặt, trợn mắt kinh hoàng nhìn Xi Vưu, nó quên khuấy rằng hắn vốn là kẻ liều mạng, nói được làm được.
Xi Vưu cưỡi lên lưng chim, ngoảnh lại cười với Tiêu Dao: “Ta biết mày lo cho ta, nhưng ta đã hẹn với A Hành, dưới cội hoa đào, không gặp không về, thất hẹn hai lần rồi, nhất định không thể thêm một lần thứ ba nữa.”
Chú chim cõng Xi Vưu bay thẳng về hướng Nam.
Tiêu Dao ngây ra nhìn sững theo bóng hắn mãi tới khi mất dạng, mới đột nhiên sực tỉnh, lập tức đuổi theo.
Trông thấy Tiêu Dao bay đến, Xi Vưu chẳng hề tỏ vẻ bất ngờ, chỉ cười cười nhún mình nhảy lên lưng nó: “Làm phiền nhé!”
Tiêu Dao cõng Xi Vưu trở về Trung nguyên.
Từ xa hắn đã trông thấy nước dâng trắng xóa đất trời, cuồn cuộn đổ về Trạch Châu, đang lúc căng thẳng, hắn đã nghe thấy một tiếng hú thê lương mà quen thuộc, chẳng đợi hắn ra lệnh, Tiêu Dao đã lần theo âm thanh bay vụt đến.
A Tệ không biết bơi nhưng cứ bì bõm dưới nước, như thể kiếm tìm gì đó, hết lần này sang lần khác, nó cứ ngụp đầu lặn xuống, mãi đến khi nghẹt thở mới ngoi lên, hú vang thảm thiết, hít một hơi thật sâu rồi lại liều mạng ngụp xuống.
Có thể khiến A Tệ thương tâm như thế, chỉ có A Hành và Liệt Dương, Xi Vưu lòng như lửa đốt, vội hỏi: “A Tệ, A Hành đâu rồi?”
A Tệ trừng trừng nhìn Xi Vưu giây lát, tựa hồ nhận định thật hay giả rồi cắn chặt chéo áo hắn, nước mắt lã chã.
Xoáy nước cuồn cuộn dưới sông hệt như một con mãng xà, nhấn chìm A Hành xuống vực sâu thăm thẳm.
Đôi tay ôm lấy bụng càng lúc càng rời rã, A Hành đã hoàn toàn kiệt sức, trong khi đó, một vòng xoáy lớn hơn lại phăng phăng cuốn tới, nuốt chửng nàng.
A Hành òa khóc vì tuyệt vọng, rồi lại phẫn nộ khẩn cầu, nhưng mọi cố gắng đều rơi vào thinh không. Giữa bóng tối vô biên, nàng chỉ thấy mình bị một luồng sức mạnh long trời lở đất dìm xuống tận đáy của sự sống.
Cả người A Hành xoay tít theo xoáy nước, rơi thẳng xuống đáy sâu, hơi thở cuối cùng cũng bị dòng nước xiết nuốt chửng, nàng không sợ chết, nhưng còn đứa nhỏ… Xi Vưu, Xi Vưu, chàng ở đâu rồi?
Xi Vưu… Xi Vưu…
Đột nhiên, một bóng áo đỏ nhanh như chớp lao vào giữa xoáy nước, ôm chặt lấy A Hành, mái tóc pha lẫn sợi bạc xõa tung như hai tấm bình phong, ngăn dòng nước lại. Sóng dữ ngợp trời khiến nhật nguyệt cũng phải biến sắc, vậy mà cơn hồng thủy hung hãn như mãnh thú đó lại e dè nhường bước trước Xi Vưu, vòng qua người hắn rồi chảy tiếp.
Không kịp kéo A Hành ngoi lên, Xi Vưu chỉ còn cách cúi đầu hôn A Hành, phà không khí trong lành vào miệng nàng.
A Hành ho sặc lên, từ từ mở mắt ra.
Vừa mở mắt, nàng liền trông thấy gương mặt tái mét của Xi Vưu đang mỉm cười nhìn mình. A Tệ cưỡi lên lưng Tiêu Dao bấy giờ đã hóa thành cá, nhe răng cười không khép được miệng, trong khi Tiêu Dao phồng mang trợn mắt vẻ giận dữ.
Sóng dữ vẫn cuồn cuộn rít gào xung quanh, nhưng giữa vòng tay chàng, chỉ có bình yên.
“Ta đang mơ ư?”
Xi Vưu dụi đầu vào mặt nàng: “Không đâu!”
A Hành giàn giụa nước mắt, yếu ớt than: “Ta gọi chàng mãi, gọi đến khan cả họng, còn tưởng chàng không tới nữa chứ.”
Xi Vưu dịu giọng dỗ dành: “Nàng quên rồi sao? Dưới cội hoa anh đào, không gặp không về, ta đã hứa với nàng sẽ không thất hứa lần nữa mà, sao có thể không tới chứ?”
A Hành mừng mừng tủi tủi, “Tiếc rằng nơi này chẳng phải Cửu Lê, cũng chẳng phải dưới cội hoa đào.”
Xi Vưu cười: “Chờ ta giải quyết xong trận hồng thủy này, sẽ đưa nàng đi ngắm hoa đào.” Nói rồi hắn lao vút lên mặt nước.
A Hành hai tay ôm bụng, rúc vào lòng Xi Vưu, nàng đã hoàn toàn kiệt sức, bải hoải đến từng lỗ chân lông, nhưng có vòng tay hắn chở che, dù phong ba bão táp xung quanh dữ dội chừng nào, nàng cũng chẳng sợ.
Ứng Long phụng lệnh Hoàng Đế cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu, có điều y vẫn ngỡ đây là kế công thành như lần trước.
Nghe kèn hiệu xung trận, y cùng Hiên Viên Hưu tập trung quân lên gò đất cao, chuẩn bị tấn công Trạch Châu, thì lại được lệnh của Di Bành án binh bất động.
Ứng Long lấy làm lạ, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ đợi lệnh.
Trạch Châu thành nằm lặng bên bờ Hoạch Trạch cạn khô, từ xa trông lại, chỉ thấy từng vệt từng vệt sáng loang loáng, chính là khôi giáp của binh tướng phản chiếu ánh mặt trời, đủ biết trong thành phòng bị nghiêm ngặt tới đâu.
Hồi kèn vừa rúc như một lời tuyên cáo: nếu Trạch Châu thành không chịu đầu hàng, Hiên Viên tộc sẽ phát động tấn công. Lập tức, tất cả các binh sĩ trong thành đều căng thẳng chuẩn bị ứng chiến.
Phong Bá mặc võ phục sát người, ngoài áo khoác choàng đen, hiên ngang đi giữa hàng quân, cả Trạch Châu đều im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chân hắn. Bước lên thành lâu, hắn cao giọng nói: “Quân Hiên Viên đông gấp năm lần chúng ta nên nếu các ngươi muốn bỏ chạy, ta cũng rất thông cảm, ai không muốn đánh thì rời hàng ngũ ngay đi.”
Đợi một hồi, chẳng thấy ai bước ra, Phong Bá bật cười sảng khoái: “Các huynh đệ, đã vậy chúng ta quyết tử chiến đến cùng! Vì Xi Vưu!”
“Vì Xi Vưu!”
Tiếng ba quân hô theo vang dội cả đất trời.
Phong Bá tươi cười, đưa mắt nhìn gã gù đứng khuất trong góc tối, mặt gã đeo một chiếc mặt nạ bạc, tỏa ánh sang lạnh lẽo, cộng thêm ngoại hình dị dạng khiến người ta vừa thấy đã gớm, chỉ muốn quay đi.
Kẻ gù mang mặt nạ này chính là Vũ Sư mà Phong Bá hằng kính trọng, hai người bọn họ đã đồng lòng hợp sức đẩy lùi bao đợt tiến công của Hiên Viên.
Hai bên trao đổi một ánh mắt, đều thấu rõ quyết tâm tử chiến của đối phương.
Phong Bá mỉm cười nhoài người trên đầu thành, nhìn về phía quân lính Hiên Viên, thấy họ án binh bất động, hắn lấy làm thắc mắc: Lẽ nào chúng không hiểu sĩ khí chỉ sôi sục chốc lát, giằng dai càng lâu, sĩ khí sẽ từ từ suy giảm sao?
Thấy dòng Hoạch Trạch cạn khô, lại quan sát kỹ thế trận Hiên Viên, Phong Bá nghĩ chắc đối phương không thể xả nước công thành. Nếu xảy ra, nước Hoạch Trạch ào ào trút xuống như thác lũ, quân lính bên đó sẽ bị cuốn trôi trước.
Đột nhiên, hắn nghe thấy mấy tiếng nổ chát chúa, trên trời bỗng xuất hiện vô sô con cá đỏ ối như ráng chiều, sáng rực cả bầu trời, binh sĩ hai bên đều hiếu kỳ ngẩng đầu lên nhìn.
Ứng Long xuất thân từ Thủy tộc, cảm giác rất nhạy bén, y liếc nhìn phía cuối chân trời, lập tức tái mét mặt, rít lên nhìn Di Bành ngạo nghễ đứng trên cao: “Cửu điện hạ, ngài định làm gì thế?”
Di Bành chỉ cười không đáp. Bấy giờ Ứng Long mới bàng hoàng nhận ra, trong mắt Di Bành, Ứng Long và binh sĩ của y đều là người của Thanh Dương, Di Bành chẳng những muốn trừ khử Thanh Dương mà còn muốn nhổ cỏ tận gốc, diệt sạch những người ủng hộ Đại điện hạ.
Phong Bá ngẩn cao đầu nhìn bầy cá tung tăng bơi lội trên không, dường như đã phát hiện ra gì đó, nheo nheo mắt trông về phía chân trời, đột nhiên, hắn giật thót mình, sững sờ không dám tin Di Bành lại điên cuồng phạm vào trọng tội trong trời đất, xả nước nhấn chìm Trạch Châu thành, khiến sinh linh đồ thán, thậm chí nhẫn tâm tuẫn táng cả quân đội của mình.
Phong Bá nghi hoặc đưa mắt nhìn Vũ Sư, Vũ Sư liền khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Di Bành điên rồi!” Giọng hắn khàn khàn như thể bị bỏng họng.
Sấm rền dậy đất, nước lũ ngợp trời ào ào đổ đến, thoạt thấy một sợi chỉ trắng bạc lấp lánh chậm rãi bò tới, thoắt chốc, nước đã dâng trắng xóa đất trời.
Khắp nơi nhốn nháo tiếng chim thú kêu gào, nước lũ cuốn tới đâu, sinh linh tan tác tới đấy.
Nhìn cảnh thê lương trước mắt, Phong Bá chỉ biết thở dài, nước từ ba con sông đổ dồn lên, thế mạnh như chẻ tre, có thể sánh ngang với kiếp nạn trời giáng, sức người không cách nào xoay chuyển nổi. Hắn sớm đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng hắn muốn chết hiên ngang trên sa trường chứ không phải chết oan chết ức như thế này.
Binh lính canh gác trên thành bẩm: “Ngài biết cưỡi gió mau chạy ngay đi, hồng thủy có nhanh mấy cũng không đuổi kịp ngài đâu.”
Phong Bá đưa mắt nhìn Vũ Sư cười bảo: “Ngươi tu luyện thủy linh, hồng thủy lớn tới đâu, muốn giữa mạng chắc cũng không khó.”
Vũ Sư trân trân nhìn nước lũ cuồn cuộn ập đến, hờ hững đáp: “Trạch Châu bị phá thì Thần Nông sơn cũng khó toàn, nếu quân Hiên Viên muốn tấn công Thần Nông sơn, phải bước qua xác ta trước đã.”
Phong Bá vỗ vỗ vai Vũ Sư rồi quay sang các binh sĩ khuyên mình chạy trốn: “Từ đầu ta đã nói rõ với Xi Vưu, ta chẳng có hứng thú gì với quyền lực, chỉ muốn cùng y sánh vai tác chiến thế thôi. Đi với y cũng như đi với luồn gió lốc mạnh nhất trên đời vậy, chẳng gì gò bó nổi, muốn đến đâu thì đến. Các ngươi từng thấy gió trốn chạy bao giờ chưa? Dù đụng phải thứ gì đi nữa, gió chỉ biết thổi thốc tới mà thôi!”
Dứt lời Phong Bá cười ha hả, cởi bỏ áo choàng, hiên ngang đối diện với cơn sóng dữ ngợp trời đang ập tới. Vũ Sư cũng rút thần khí Vũ Hổ của mình ra, chiếc mặt nạ trên mặt tỏa ánh sáng lành lạnh.
Sau lưng bọn họ, tất cả binh sĩ đều nhất loạt rút vũ khí, quên cả tính mạng, cười cười nói nói bàn luận thế nước nhỏ to, còn hẹn nhau tỉ thí bản lĩnh cưỡi sóng đạp gió.
Dù phải chôn thây trong trận đại hồng thủy này, họ cũng phải cưỡi lên đầu ngọn sóng, đùa với thủy triều mới cam tâm!
Trong khi đó, quân sĩ Hiên Viên đang kêu la khóc lóc loạn cả lên.
Tùy tùng của Ứng Long khuyên y nên đi. Ứng Long vốn là rồng, nước lớn tới đâu cũng thừa sức bỏ đi, nhưng y chỉ điềm đạm bảo chúng thuộc hạ: “Các ngươi chạy mau đi, thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”
Thấy đám tùy tùng định khuyên tiếp, Ứng Long xua tay đi, đi thẳng xuống dưới, xuất cả nguyên thần ra, quyết dốc cạn linh lực và sinh mệnh ngăn cơn hồng thủy lại.
Y biết mình không thể địch nổi thế nước dữ dội nhường này, nhưng ít ra, y chết cũng không hổ thẹn.
Di Bành và Hiên Viên Hưu đóng quân ở nơi địa thế cao nhất, Hiên Viên Hưu có phần bất nhẫn, chẳng nỡ nhìn, bèn quay đầu đi chỗ khác, chỉ mình Di Bành tươi cười thưởng thức thảm cảnh trước mắt.
Nước lũ ngợp trời cuồn cuộn ập tới, bị linh lực của Ứng Long tạm thời chặn lại.
Nhưng trận hồng này do dòng nước tích tụ suốt một tháng của ba con sông dồn lại, dù linh lực của Ứng Long cao cường tới đâu chăng nữa cũng tới lúc cạn kiệt, trong khi nước lũ cứ cuồn cuộn không thôi.
Ứng Long bị ép bật ra khỏi bản thể, hóa thành một con rồng xanh nằm chắn ngang dòng nước.
Nước lũ càng dồn lại càng lớn, nhưng không sao phá nổi sức ngăn của Ứng Long.
Trước sức ép khủng khiếp của dòng nước, vẩy rồng trên mình Ứng Long bắt đầu ứa máu, máu loang đỏ thân rồng, nhuộm đỏ cả lòng sông.
Phong Bá đứng trên thành, gõ nhịp than: “Hảo hán tử! Nếu bỏ mạng dưới tay kẻ này, ta cũng thỏa lòng! Đáng hận! Đáng hận!”
“Đáng hận gì thế?” Bóng áo đỏ nhoáng qua trước mặt Phong Bá, từ trên không nhảy xuống đầu thành.
“Xi Vưu!”
“Đại ca!”
Bốn bề rộn lên tiếng hoan hô, mọi người đều hân hoan mừng rỡ.
Xi Vưu vội đưa tay lên miệng suỵt khẽ, nhưng chẳng kịp, A Hành đã tỉnh giấc. Vừa mở mắt, trông thấy xung quanh toàn người là người, bao cặp mắt sáng rỡ đổ dồn vào mình. A Hành không khỏi đỏ bừng mặt, gắng gượng đứng xuống.
Phong Bá thụi cho Xi Vưu một quả, hỏi: “Đại tẩu đấy à?”
Xi Vưu một tay đỡ A Hành, tay kia thụi lại Phong Bá, một năm qua, tuy trời đất xoay vần nhưng tấm lòng nam tử, tình nghĩa huynh đệ vẫn nồng nàn như thế, chẳng nói vẫn hiểu được lòng nhau.
Phong Bá trỏ Vũ Sư giới thiệu, “Đây là Xích Tùng Tử, ngoại hiệu Vũ Sư, huynh đệ kết bái của đệ sau khi huynh mất tích, huynh đệ của đệ cũng là huynh đệ của huynh.” Tín nhiệm của đàn ông với nhau vốn chẳng cần nhiều lời, chỉ một câu đã có thể giao phó tất cả.
Vũ Sư tuy xấu xí quái dị nhưng lời nói cử chỉ rất lễ độ nho nhã, vội hành lễ ra mắt Xi Vưu.
Phong Bá giơ ngón cái, chỉ chỉ đằng xa cười hì hì bảo Xi Vưu: “Đừng bảo đệ là huynh tới đây tìm chết đấy nhé, có điều…” Hắn ngắm nghía Xi Vưu từ trên xuống dưới, lắc đầu: “Hình như huynh đến tìm chết thật.”
Sóng dữ dâng cao như núi, “ngọn núi” càng cao thì Ứng Long càng đuối sức dần, nhìn đỉnh núi rung rinh chực đổ ập xuống, mọi người đều hiểu, chỉ cần “ngọn núi” kia đổ xuống thì tất cả sẽ chết không có chỗ chôn.
“Đỉnh núi” càng lúc càng rung lên dữ dội.
Xi Vưu vội nói: “Nước lớn như vậy không thể ngăn được, chỉ có thể lựa theo thế nước, mở đường cho nó chảy thôi. Cơn hồng thủy lớn thế này không thể dẫn từ xa tới, dọc đường đến đây, ta thấy ba dòng, Hoạch Trạch, Thấm hà và Đan hà đều cạn trơ đáy, nên biện pháp duy nhất hiện giờ là chia dòng nước lũ thành ba đường, để nó đến từ đâu thì lại chảy về đó. Làm vậy tuy không thể hóa giải nạn lụt nhưng ít ra cũng cứu được một số người. Phong Bá, đệ dẫn người phụ trách Hoạch Trạch, Vũ Sư, ngươi lo phần Thấm hà, còn ta sẽ dẫn nước về Đan hà.”
Mấy tên thuộc hạ linh lực cao cường trợn mắt nhìn đỉnh lũ càng lúc càng cao, mặt xám như tro, lẩm bẩm: “Sao mà làm được, có khi lại như con yêu long kia, cạn kiệt linh lực, bỏ xác dưới đáy nước không chừng.”
Xi Vưu phá lên cười, “Nếu dễ làm như vậy thì còn gì thú vị? Dựa vào năng lực bản thân, biết rõ không thể làm mà vẫn làm mới là bản sắc của đại trượng phu!”
Phong Bá giũ giũ áo choàng, khoác lên người, cười bảo Xi Vưu: “Đệ thì không thành vấn đề, chỉ hy vọng chút nữa huynh vẫn giữ được mạng mà về, đừng làm mồi cho cá thôi.”
Ngoài mặt tếu táo đùa giỡn như vậy nhưng trong lòng Phong Bá rất lo cho Xi Vưu, có điều hắn biết những người khác quyết không có năng lực đối mặt với trận hồng thủy khủng khiếp nhường này, để ngăn được thế nước, không chỉ phụ thuộc vào linh lực cao cường, mà còn đòi hỏi lòng can đảm và quyết đoán nữa.
Mấy người đang chia nhau hành động thì cuồng phong ào ào nổi lên, cùng với nó, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đồng loạt kéo đến.
Cộng Công chưa đến nơi đã cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Để ta đi dẫn nước Đan hà.” Ngoại trừ Thủy thần chuyên thao túng thủy linh, có lẽ chẳng ai dám tự phụ như thế nữa.
Hậu Thổ cười bảo Xi Vưu: “Vũ Sư và Phong Bá đã kết bái, để y đi giúp Phong Bá đi. Ta và Chúc Dung sẽ phụ trách Thấm hà. Đề phòng Hiên Viên thừa dịp công thành, nhờ Đại tướng quân bảo vệ Trạch Châu thành dùm cho.”
Xi Vưu thoáng ngẩn người rồi bật cười sảng khoái, chắp tay thi lễ, “Đa tạ ba vị.”
Chúc Dung ngạo nghễ ngự trên Tất Phương điểu, khinh miệt đáp: “Đừng tưởng ta giúp ngươi, ta mong cho ngươi chết cho mau còn chưa hết nữa là!”
Phong Bá cười ha hả, gọi Vũ Sư: “Đi nào!”, lời vừa ra khỏi miệng, cả hai đã đồng thời biến mất, mọi người chỉ kịp thấy hai luồng gió vút qua mình.
Mấy trăm năm nay, Tứ đại cao thủ Thần Nông mỗi người một cõi, chẳng ai chịu ai, tranh đấu liên miên, đây là lần đầu tiên cả bốn người Xi Vưu, Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công chung tay hợp sức để bảo vệ Trạch Châu thành. Thấy các anh hùng dân tộc mình cùng sát cánh khảng khái chống địch, còn gì cổ vũ được sĩ khí ba quân hơn thế nữa?
Niềm tự hào dân tộc dần bị xói mòn từ khi Du Võng chết đi, một lần nữa lại căng đầy lồng ngực binh lính Thần Nông, khiến toàn quân rộ lên hoan hô vang trời dậy đất.
Toàn thân Ứng Long đầm đìa máu, chỉ biết ngẩng đầu bất lực nhìn ngọn sóng cao ngang trời chực chờ đổ xuống.
Chuyện cũ đột nhiên ùa về trong y. Giữa đầm nước lấp lánh vàng, một con quái vật nửa rồng nửa rắn xấu xí yếu ớt cao ngạo tuyên bố với tất cả cá tôm: sớm muộn sẽ có ngày ta biến thành một con rồng được cả Thủy tộc tôn kính!
Tu hành cả ngàn năm, trải qua mưa dập gió vùi, sấm sét thiêu đốt rút xương rút tủy, cuối cùng y cũng trút bỏ được nửa rắn, trở thành một con rồng hoàn thiện.
Bao nhiêu tráng chí, mộng tưởng…
“Gừ…”
Trong tiếng gầm bi thương, Ứng Long bất lực cúi gục đầu, chỉ chờ có thế, ngọn sóng cao ngất kia lập tức ầm ầm ập xuống, chấn động cả đất trời.
Nhưng ngọn thác khổng lồ lại chẳng hề trút xuống Ứng Long, bởi một con cá xanh khổng lồ đã chắn trước mặt y, vận linh lực chặn đứng dòng nước lũ, phân ra làm ba phần, cho chảy về ba hướng rồi quẫy đuôi giương vây, dẫn dắt thế nước từ từ đổ xuống.
Ầm ầm… Ầm ầm…
Con cá xanh đỡ hộ y một đòn nặng nhất, đoạn vội vã bơi đi. Nước lũ tiếp tục trút xuống người Ứng Long ào ào như xối, nhưng dù sao y cũng là rồng, thân mang trọng thương nhưng thừa sức ứng phó chút nước này.
Ứng Long dùng tiếng Thủy tộc âm thầm cảm tạ nhưng con cá kia chẳng buồn để ý, nó đột ngột teo nhỏ thân mình lại chút ít, quẫy đuôi quay vòng vòng giữa dòng như bông vụ, vừa quay vừa lao phăng phăng về phía trước, lập tức quanh người nó hình thành xoáy nước khổng lồ, cuốn theo nước lũ xa khỏi Trạch Châu thành.
Ứng Long yên lòng nhắm mắt, mặc cho sóng gió cuốn mình ra đại dương. Giống cá dám vênh váo nghênh ngang cả với loài rồng như y chắc chỉ có thần Côn Bắc Minh trong truyền thuyết. Loài cá vạn năm khó gặp này đã xuất hiện, hẳn trận hồng thủy này sẽ bị đẩy lùi thôi.
Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đều cố ý che giấu thân phận nên Di Bành chẳng hề trông thấy bọn họ, chỉ thấy một con cá xanh khổng lồ xuất hiện, trận hồng thủy sắp nhấn chìm cả Trạch Châu thành trong chớp mắt bị ba luồng linh lực mạnh mẽ phân ra, dẫn về ba hướng rồi lần lượt đổ vào ba con sông, tuy dọc đường đã cuốn phăng vô số ruộng nương nhà cửa, để lại vô số cảnh tan tác tiêu điều, nhưng sau cùng cũng chỉ như ba con rồng dữ bị thuần phục, chẳng tác oai tác quái được là bao.
Tuy hậm hực thất vọng, Di Bành vẫn ứng biến hết sức nhanh chóng, lập tức lệnh cho Hiên Viên Hưu đem quân tiến công vào thành. Dù Thần Nông tộc tìm được cách đẩy lui hồng thủy, nhưng toàn bộ linh lực đã dồn vào lo cứu lụt, lực lượng phòng vệ ắt sẽ rất yếu.
Đại quân thừa nước đục thả câu, ùn ùn tiến về phía Trạch Châu thành, đột nhiên, chúng trông thấy một gã đàn ông áo đỏ xếp bằng ngồi trên thành lâu.
“Xi Vưu, là Xi Vưu!”
Quân Hiên Viên đều biết, Xi Vưu cầm quân không khai chiến thì thôi, đã khai chiến, hắn sẽ tàn sát chẳng còn một mống. Thậm chí, rất nhiều người đồn đại rằng hắn thích lấy máu người nhuộm máu nên áo hắn mới đỏ rực như vậy. Nghe tin Xi Vưu bỏ mạng, quân tướng Hiên Viên đều thở phào nhẹ nhõm, nào ngờ hiện giờ hắn lại thình lình xuất hiện trên thành như ma quỷ, khiến bọn chúng trố cả mắt.
Hiên Viên Hưu hốt hoảng hỏi Di Bành: “Chẳng phải hắn chết rồi ư? Sao tự dưng lại lòi ra thế? Giờ tính sao đây?”
Di Bành chắc mẩm lực lượng phòng vệ Trạch Châu hiện giờ rất mỏng nhưng nhìn Xi Vưu ngạo nghễ trên thành, chẳng nói chẳng rằng, cười nửa miệng nhìn xuống dưới, hắn lại phân vân do dự.
Tấn công? Hay là không?
Xi Vưu cười giễu cượt: “Các ngươi có đánh hay không nào?”
Di Bành quay sang hỏi Hiên Viên Hưu: “Chi bằng ta rút quân, lùi lại ba mươi dặm, Ngũ ca thấy sao?”
Hiên Viên Hưu tán đồng ngay: “Ta cũng nghĩ thế. Lương thảo của chúng chẳng cầm cự được bao lâu nữa đâu, sớm muộn cũng phải đầu hàng thôi, ta khỏi cần tốn công nhọc sức.”
Di Bành nhếch mép, âm thầm nhìn Xi Vưu cười lạnh.
Thấy quân Hiên Viên rục rịch rút lui, Xi Vưu như trút được gánh nặng. Hắn đi đứng cũng khó khăn, nói gì đến chiến đấu, nãy giờ đều là gắng gượng đóng kịch mà thôi, chỉ cần một tên tướng lĩnh Thần tộc bình thường xông lên cũng thừa sức hạ gục hắn rồi.
A Hành nấp trong góc khuất quan sát, bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm. Xa xa, đồng hoang quanh Trạch Châu thành trắng xóa nước ngập, vô số ruộng nương nhà cửa tiêu điều tan tác. Trong chiến tranh, nhìn từ góc độ nào đó, cả hai bên tham chiến đều thất bại.
Cộng Công dẫn binh lính quay lại đầu tiên, quả không hổ là Thủy thần, chỉ có vài thuộc hạ bị thương nhẹ.
Lát sau, Chúc Dung và Hậu Thổ lũ lượt dẫn quân trở về, sắc mặt Hậu Thổ tái nhợt, Chúc Dung còn thảm hại hơn, tóc tai bù xù, ngọn lửa ngũ sắc thếp vàng trên áo dính đầy bùn đất, đám thuộc hạ có hai tên bị trọng thương. Xem ra, dù thần lực cao đến đâu chăng nữa, cũng khó mà chống chọi được với thiên nhiên.
Ngay sau đó Phong Bá và Vũ Sư dẫn theo quân sĩ cười cười nói nói quay trở về, cả đoàn người cạn kiệt linh lực, đi đứng loạng choạng nhưng ai nấy đều hớn hở như mở cờ trong bụng, chẳng có vẻ gì là vừa từ cõi chết trở về.
Hóa giải được đại nạn, tất cả đều hân hoan mừng rỡ, nói cười rộn rã.
Phong Bá ngồi phịch xuống đất, tựa vào tường, cao giọng: “Cuối cùng cũng xong. Chi bằng mọi người uống rượu ăn mừng luôn?”
…
Thoắt chốc, không khí vui mừng chợt tan biến. Tất cả đều yên lặng, chẳng nói chẳng rằng, câu hỏi của Phong Bá rơi tõm vào thinh không.
Chúc Dung không buồn chào hỏi, cưỡi Tất Phương điểu bay mất đi.
Cộng Công định nói gì đó, nhưng chẳng biết phải nói gì, mấy trăm năm đấu đá liên miên, tuy chưa tới nỗi không đội trời chung như Xi Vưu và Chúc Dung, nhưng hắn và Xi Vưu cũng bằng mặt chẳng bằng lòng. Hắn đành chắp tay xá xá Xi Vưu rồi cưỡi Tập Tập ngư đi thẳng.
Phong Bá thấy vậy đành lẩm bẩm: “Xem như ta chưa nói gì đi!”
Hậu Thổ cười với Xi Vưu, Phong Bá và Vũ Sư, khách khí cáo từ: “Quân Hiên Viên còn quanh quẩn ngoài trướng của ta, ta cũng phải đi đây, rượu mừng xin hẹn lần sau vậy!” Dứt lời, Hóa xà đã cõng gã bay vút đi.
Xi Vưu nãy giờ vẫn đứng đó cười cười không nói, đột nhiên phun ra một búng máu, ngã ngửa ra sau ngất lịm. Phong Bá hốt hoảng, cuống quýt gọi thầy thuốc.
Thầy thuốc chẩn bệnh xong tái mặt ấp úng: “Tinh khí kiệt quệ, nguyên thần tán loạn, e rằng, e rằng… phải chuẩn bị hậu sự thôi.”
Phong Bá nghe nói sững cả người, bốn tên Si Mỵ Võng Lượng lập tức túm lấy thầy thuốc, vung tay định đánh: “Ngươi nói gì hả?”
A Hành nấp đằng sau thấy vậy liền nhào tới xem xét thân thể Xi Vưu: “Xi Vưu đã bị trọng thương, không chịu tĩnh tâm trị liệu còn hao tổn tinh nguyên, dùng thọ mạng hoán đổi linh lực, khiến thương thế nặng hơn, nếu không cứu chữa kịp thời, e rằng sẽ nguy đến tính mệnh.”
Phong Bá vội hỏi: “Cách tu luyện của Xi Vưu khác hẳn bọn ta nên ta không dám truyền bừa linh lực vào người huynh ấy, liệu có cách nào cứu được không?”
A Hành ngẫm nghĩ một hồi, đoạn đáp: “Ngươi tin ta không? Nếu tin thì giao Xi Vưu cho ta, ta nhất định cứu được chàng.”
Phong Bá không biết A Hành là ai, nhưng nhìn lời nói, cử chỉ của Xi Vưu, hắn cảm thấy tình nhân của Xi Vưu rất có vấn đề, bằng không Xi Vưu ngang ngược liều lĩnh như vậy, hà cớ gì phải đau khổ nhẫn nhịn bấy nhiêu năm?
Đương lúc Phong Bá phân vân do dự, Vũ Sư nãy giờ lặng thinh bỗng khàn khàn cất tiếng: “Xi Vưu đã chọn cô nên ta tin cô.” Thấy Vũ Sư gật đầu ra hiệu cho mình, lại nghĩ đến Xi Vưu đang cơn nguy kịch, Phong Bá đành quyết định: “Ta tin cô.”
“Vậy giao Xi Vưu cho ta. Đợi khi chàng tỉnh lại, linh lực sẽ còn cao hơn bây giờ nữa!” A Hành bế Xi Vưu lên, gọi A Tệ và Tiêu Dao lại nói nhỏ: “Đến Cửu Lê.”
Hoa đào đã nở đỏ sườn núi Cửu Lê, rạng rỡ hơn nắng sớm, mỹ lệ hơn ráng chiều.
Tế đài trắng toát sừng sững giữa rừng hoa, cổ kính tang thương, nghiêm trang tịch mịch.
Dưới bóng hoa rơi rợp trời, những chiếc chuông gió quanh tế đài đinh đinh đang đang, ngân nga reo rắt theo làn gió xuân hây hẩy, như gần như xa. A Hành bề Xi Vưu men theo thềm đá bước lên đài, rồi đặt hắn nằm xuống chính giữa đài tế. Tiêu Dao và A Tệ đã tự động lẩn vào rừng đào, vừa nghỉ ngơi vừa nô giỡn.
Bầu trời tối đen như mực, còn hơn ba canh giờ nữa mới tới bình minh.
A Hành nằm xuống cạnh Xi Vưu, gối lên tay hắn, âu yếm ngắm hắn thiêm thiếp ngủ, ngón tay khe khẽ vuốt ve gương mặt hắn, đắm chìm trong mùi đàn ông phả ra từ hắn, bao lo lắng muộn phiền dồn nén suốt một năm qua đều tan biến cả.
Từ khi quen nhau đến giờ, bọn họ chẳng bao giờ có dịp chuyện trò tâm sự, lúc vắng bóng thì thấy nôn nao trăm ý ngàn lời muốn tỏ bày, nhưng hễ gặp gỡ lại chẳng thốt ra được câu nào.
A Hành tựa vào lòng Xi Vưu, nhắm nghiền mắt thiếp đi.
Đằng Đông dần dần hửng sáng, vầng dương đã bắt đầu nhô lên, nỗ lực xuyên qua tầng mây dày đặc cuối trời, tỏa nắng xuống nhân gian, để vạn vật sinh sôi nảy nở.
A Hành ngồi dậy ngước mắt chăm chú ngắm mặt trời, như thể cảm nhận được những vật lộn và cố gắng không ngừng nghỉ của nó, từng chút từng chút một, bể mây cuồn cuộn mịt mờ cũng bị ánh dương xuyên thấu.
Sau cùng, vầng thái dương cũng nhô hẳn lên, xua tan bóng đêm mù mịt, cả chân trời chan hòa trong ánh nắng mai.
A Hành chẳng nề lòa mắt, cứ đăm đăm nhìn thẳng vào vầng mặt trời vừa ló xuất hiện, tay nắm chặt lấy tay Xi Vưu. Có lẽ tiếp sau bóng tối vẫn là bóng tối, nhưng chỉ cần kiên trì vượt qua vô số bóng tối mênh mông, hẳn sẽ thấy lóe lên một tia sáng cuối đường.
Xi Vưu từ từ mở mắt, thấy nắng vàng ươm rực rỡ quanh mình, đẹp như gấm lụa, nhưng hết thảy những mỹ lệ chói lòa đó đều không sánh nổi người con gái đang nắm tay hắn, ngồi bên cạnh hắn lúc này.
Lòng Xi Vưu rộn lên vui sướng, khẽ thì thầm: “A Hành, chúng mình lại về nhà rồi.”
A Hành đặt ngón tay lên môi hắn lắc đầu, tỏ ý đừng lên tiếng. Nàng cúi đầu lặng thinh ngắm hắn, đầu mày cuối mắt chứa chan tình ý, vấn vấn vương vương, triền miên khắc cốt. Linh lực của A Hành mang theo năng lượng mặt trời từ từ chảy vào thân thể Xi Vưu, khiến lục phủ ngũ tạng, xương cốt tay chân hắn đều giãn ra khoan khoái, đôi mắt từ từ khép lại, ý thức dần chìm vào bóng đêm thăm thẳm dịu dàng, hắn thấy mình bị bao bọc trong một lớp vỏ dày thật dày, dường như đã biến thành một hạt giống vậy, chỉ đợi gieo xuống mảnh đất màu mỡ là nảy mầm bén rễ rồi lớn lên.
Thương thế Xi Vưu dần dần ổn định, nhưng hai tay và vai A Hành lại rộp lên vì bỏng, chỗ đỏ chỗ đen loang lổ, đau đến run bắn người lên. Nàng nén đau bế Xi Vưu bước vào rừng đào, Tiêu Dao lập tức đậu ngay xuống trước mặt.
A Hành hỏi: “Lần này Xi Vưu bị thương rất nặng, nếu linh thể không được bảo quản tại một nơi dồi dào linh khí như Quy khư, e rằng đã hồn phi phách tán từ lâu. Ta nghĩ mãi, thấy nơi ấy chỉ có thể là thành địa Bắc Minh trong truyền thuyết mà thôi, chính mày đã cứu chàng đúng không?”
Tiêu Dao ngẩng cao đầu quác lên một tiếng đầy đắc ý.
“Giữa chàng và mày, chắc chàng sẽ không nói lời cảm tạ đâu, nhưng ta vẫn phải cảm ơn mày.” A Hành giao Xi Vưu cho Tiêu Dao rồi chắp tay hành lễ với nó, “Chàng liều mạng tới tìm ta, đã hao phí quá nhiều tinh nguyên, nếu không lập tức điều dưỡng, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể linh hủy thể tiêu. Bây giờ thiên hạ đang chia năm xẻ bảy, cứ theo tính tình Xi Vưu, ắt chẳng chịu ngồi yên mà dưỡng thương, nên ta đã phong bế linh thức của chàng lại, phiền mày đưa chàng đến Bắc Minh tĩnh dưỡng. Lần sau, khi chàng tỉnh lại, thân thể sẽ khôi phục hoàn toàn, linh lực cũng tiến lên một tầng cao mới.”
Nghe A Hành dặn dò, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu sải cánh bay vút về phía cuối trời. A Tệ ngẩng đầu trông theo, hú lên buồn bã.
A Hành đứng lặng dưới gốc đào hút mắt nhìn theo Tiêu Dao, mãi đến khi bóng chim khuất giữa ngàn mây, nàng vẫn chưa thôi ngơ ngẩn trông vời.
Hồi lâu, nàng quay đầu lại, bắt gặp đôi mắt to tròn long lanh của A Tệ chăm chú nhìn mình như đang hỏi: Mùa hoa đào sang năm lại được cùng Xi Vưu và Tiêu Dao chơi đùa chứ?
Đối diện với ánh mắt chứa chan hy vọng của A Tệ, A Hành nghe lòng xót xa khôn tả, lệ tràn khóe mắt. A Tệ nào biết được cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế đã thay đổi vận mệnh cả đại hoang, nó càng không hiểu cái chết của Thanh Dương đã ngăn cách nàng và Xi Vưu mỗi người một bờ chiến tuyến, sông lớn có thể chèo thuyền mà sang, núi cao có thể cưỡi chim mà lên, nhưng còn hài cốt của người thân sao nỡ bước qua đây?
Hoa đào lả tả ngợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyện xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, mỗi mùa đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
A Hành ròng ròng nước mắt, cắn ngón trỏ vạch lên thân cây một hàng chữ bằng máu: “Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”
Quyển2 –Chương10: Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu[1
Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.
Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.
[1] Câu thơ trích trong tiểu thuyết Hoa nguyệt của Hoàng Tử An, thời nhà Thanh, (ND)
Đợi suốt đêm chẳng thấy A Hành, Xương Ý đang phát hoảng lên vì lo sợ thì bắt gặp nàng quay lại, y thở phào nhẹ nhõm, khẽ trách: “Muội chạy đi đâu thế? Làm ta đợi mãi.”
A Hành cúi đầu làm thinh, vừa lúc đó, Di Bành tươi cười bước vào: “Phải rồi, có tin này chẳng hay Tứ ca đã biết chưa, Xi Vưu vẫn còn sống sờ sờ.”
Xương Ý kinh ngạc quay sang A Hành: “Thật ư?”
Di Bành cướp lời đáp: “Hôm qua, rất nhiều người trông thấy Xi Vưu đứng trên Trạch Châu thành, chẳng phải hôm qua tiểu muội cũng tới Trạch Châu ư? Lẽ nào không thấy hắn?”
Xương Ý trừng mắt nhìn A Hành đầy đau xót rồi đột ngột quay lưng đi thẳng.
A Hành căm hận lườm Di Bành, đoạn vội vã đuổi theo Xương Ý.
“Tứ ca, Tứ ca…”
Xương Ý đanh mặt lại, bỏ ngoài tai tiếng gọi của nàng, đi thẳng vào phòng, quay mình toan đóng cửa nhưng A Hành đã nhanh tay đẩy cửa ra lách người vào. Xương Ý ngồi bịch xuống trước bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn ngực, như đang nhập định. Mặc A Hành cười xí xóa, huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác, y vẫn lặng yên.
“Tứ ca, huynh nói gì đi chứ.”
Xương Ý làm thinh, không trách cứ một lời khiến A Hành thấy lòng đau đớn như dao cắt. Từ nhỏ đến lớn, Tứ ca luôn chiều theo ý nàng, bất kể nàng bày trò gì, gây ra họa lớn đến đâu, y cũng chỉ lắc đầu cười khổ: “Ai bảo muội là muội muội của ta chứ.”
A Hành vội lắc lắc tay Xương Ý, rơm rớm nước mắt khẩn cầu: “Tứ ca, huynh cứ đánh cứ mắng muội đi, đừng bỏ mặc muội như thế này, muội chỉ còn một ca ca là huynh thôi mà.”
Xương Ý nghẹn ngào nói: “Ta chẳng còn vị ca ca nào nữa cả, muội quên Đại ca đã chết thế nào rồi ư?”
A Hành run lên bần bật, khẽ đáp: “Muội không quên đâu!”
“Vậy đêm qua muội đi đâu?”
Gương mặt A Hành lộ vẻ bi thương, nàng lặng thinh không nói.
Xương Ý gằn giọng: “A Hành, cả đời này, ta sẽ không tha thứ cho Xi Vưu đâu!”
A Hành gục đầu xuống, buồn thảm đáp: “Muội biết chứ, muội đã nói rõ với chàng rồi, từ nay về sau, muội sẽ không gặp lại chàng nữa.”
Nghe nàng nói vậy, cơn giận của Xương Ý nguôi dần, thay vào đó là bi ai khôn xiết. Y chẳng muốn bức bách em gái, nhưng cũng không thể chấp nhận để em gái mình ở bên kẻ thù giết Đại ca.
Đột nhiên, Bán Hạ ở ngoài gõ gõ vào song cửa gọi: “Vương cơ.”
A Hành gắng lấy lại bình tĩnh, hé cửa sổ ra, “Gì thế?”
Bán Hạ ghé tai nàng thì thầm mấy câu, A Hành gật đầu rồi quay lại bảo Xương Ý: “Tứ ca, huynh dắt Liệt Dương đi tìm Di Bành, cầm chân hắn dùm muội, muội ra ngoài có chút việc.”
Thấy A Hành lộ vẻ căng thẳng, hơn nữa Bán Hạ là thân tín do Đại ca đích thân huấn luyện, Xương Ý liền đứng dậy: “Muội đi đi, Di Bành cứ giao cho ta và Liệt Dương.”
Bán Hạ dẫn A Hành ra khỏi dịch quán, đi thẳng vào rừng, vừa đến nơi, một nữ tử áo trắng nấp trong bóng tối lập tức bước tới đón nàng, chính là Vân Tang mấy hôm nay không gặp.
A Hành tinh ý, thấy cổ tay Vân Tang hằn lên vết dây trói, vội kinh hoàng hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế, kẻ nào to gan dám trói tỷ vậy?”
Vân Tang buồn bã: “Di Bành và Hậu Thổ đều muốn ngăn Thanh Dương kết hôn với ta. Di Bành bày kế cho Hậu Thổ, chỉ cần bắt giam ta mười ngày, hắn sẽ có cách khiến Hoàng Đế thay đổi chủ ý, Hậu Thổ nghe lời, bèn trói ta nhốt lại. Hôm qua, nhân lúc hắn tất tả ra ngoài, ta liền bỏ trốn, về sau mới nghe nói hắn đi giúp Xi Vưu ngăn lũ. Bao năm nay hắn tranh giành binh quyền với Xi Vưu, thế như nước lửa, vậy mà lần này lại ra tay tương trợ Xi Vưu, không so đo chuyện cũ, xem ra dù hắn hồ đồ chuyện nhỏ, nhưng việc lớn vẫn chu toàn.”
“Di Bành ngăn cản việc kết thông gia vì là căm hận bọn muội, sao Hậu Thổ lại giúp hắn?”
Vân Tang luôn canh cánh mối hận Hiên Viên suýt nữa nhấn chìm Trạch Châu, liền lạnh lùng châm chọc: “Muội sợ Hậu Thổ đầu quân cho Di Bành, đối địch với muội ư? Gã vẫn hàm ơn muội đã bảo vệ mình hồi nhỏ, lại ghét Di Bành nham hiểm tàn độc, nhất định không về phe Di Bành đâu, lần này chúng lợi dụng lẫn nhau đấy thôi.”
“Muội, muội… Hậu Thổ đệ ấy…”
“Đây là chuyện riêng của Thần Nông tộc chúng ta, muội thân là vương cơ Hiên Viên, chớ nên hỏi nhiều.”
Nghe Vân Tang nói, A Hành chợt thấy nghẹn ngào chua xót. Chiến tranh đã đập nát mọi thứ, bao gồm cả tình nghĩa giữa nàng và Vân Tang.
Nhìn nét mặt A Hành, lại hồi tưởng tình thân thuở trước, lòng Vân Tang cũng quặn thắt bi thương, nhưng chẳng biết nói gì, đành kiếm chủ để khác để xoa dịu: “Xi Vưu vẫn còn sống, chúc mừng muội muội.”
A Hành hiểu tâm ý Vân Tang, lòng cũng vơi bớt đôi phần, cười đáp: “Muội cũng chúc mừng tỷ tỷ.”
Vân Tang gật đầu cười, “Mộc Cận đúng là trẻ con, nghe nói Xi Vưu vẫn còn sống bèn tức tốc chạy đến Trạch Châu nhưng không gặp, bèn tức tối báo với ta rằng Xi Vưu trọng thương, bị một yêu nữ đưa đi, đòi ta phái thêm người giúp muội ấy truy tìm yêu nữ kia.” Vân Tang thở dài, “Chắc muội cũng nhận ra Mộc Cận trước giờ nhất mực rất si tình với Xi Vưu, nhưng Xi Vưu chỉ dửng dưng. Muội ấy không biết chuyện giữa Xi Vưu và muội, lỡ như có gì mạo phạm, muội cũng đừng đa nghi ngờ vực Xi Vưu, nên thông cảm cho hắn một chút.”
A Hành khẽ nói: “Muội và Xi Vưu không thể sống bên nhau được, từ nay về sau, muội là muội, hắn là hắn.”
Vân Tang lặng người đi, cuộc chiến này đã xoay chuyển vận mệnh thiên hạ, cũng thay đổi luôn số phận của họ. Lát sau, nàng lại hỏi: “Giờ Xi Vưu đang ở đâu? Thương thế của hắn bao lâu nữa mới lành?”
“Muội đã nhờ Tiêu Dao đưa hắn tới nơi an toàn để dưỡng thương rồi. Đường lối tu luyện của Xi Vưu rất quái dị, có lẽ dăm ba năm là khỏi thôi.”
Vân Tang trầm tư hồi lâu, đoạn nói: “Muội lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông về đỉnh Tử Kim đi, ta sẽ tuyên bố nhận lời gả cho Thanh Dương.”
“Tỷ nghĩ kỹ rồi chứ?”
“Đại quân Hiên Viên vẫn đóng ngoài Trạch Châu thành, nếu đổi lại là muội, muội có thể cự tuyệt yêu cầu của Hoàng Đế chăng? Hai chúng ta đều hiểu Hoàng Đế muốn kết thông gia nhằm tạo cầu nối, tiến tới thu phục các bộ tộc Thần Nông dễ dàng hơn, ta cũng nhận lời gả cho Thanh Dương để đổi lấy hòa bình tạm thời, tranh thủ thời gian cho Xi Vưu thôi.”
A Hành trầm ngâm giây lát: “Muội sẽ đi thông báo với Tứ ca, lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông.”
“Muội thưa lại với Hoàng Đế, tuy ta chấp nhận hôn sự, nhưng còn phải để tang mấy năm cho Du Võng, mong Hoàng Đế hãy tôn trọng lễ tiết Thần Nông.”
“Được!”
Khi A Hành và Vân Tang đến Tử Kim thành, Xương Ý và chư hầu các bên đã tề tựu đông đủ.
Vân Tang cười nhạt bảo A Hành: “Dạo trước mời mọc gãy lưỡi nào thấy mấy tên này đến, hôm nay Hiên Viên vừa hô một tiếng đã có mặt đông đủ. Thần Nông khó khăn lắm mới thắng được một trận, vậy mà chúng càng lúc càng chịu khó khom lưng uốn gối, chỉ nơm nớp sợ Hoàng Đế trút giận lên đầu thôi.”
A Hành cúi đầu nói nhỏ: “Đây là chuyện của Hiên Viên và Thần Nông, vương phi Cao Tân như muội không vào thì hơn.”
Vân Tang gật đầu với nàng, đoạn tiến thẳng vào đại điện.
Nghe tiếng, hết thảy mọi ánh mắt trong điện đều dồn về phía Vân Tang, chỉ thấy nàng mặc váy trắng, đứng ngay cửa điện, dáng như cây ngọc, anh khí bất phàm.
Bị phong thái của nàng chấn nhiếp, mọi người không hẹn mà lần lượt đứng cả dậy.
Đột nhiên, Vân Tang nhớ lại lần đầu tiên bước vào tòa đại điện này thuở nhỏ, nàng đã chỉ lên ngọc đài, nơi đặt vương tọa, hỏi phụ vương: “Sao thị vệ không cho con lên đó chơi?”
Phụ vương đáp: “Người đứng trên đó phải gánh vác mọi vui buồn hờn giận của muôn dân thiên hạ, con còn quá nhỏ, gánh không nổi đâu.”
“Vậy chừng nào con lớn, đủ sức gánh vác, có thể đứng trên đó ư?”
Phụ vương khẽ búng mũi nàng, cười xòa: “Tốt hơn hết là đừng bao giờ có ngày đó.”
Vân Tang nghiêm trang bước qua khung cửa cao cao, tiến vào đại điện, gót sen hương vướng, gió động màn là khiến khắp điện sực lên ngan ngát.
Nàng lướt qua bấy nhiêu chư hầu đang ngây ngẩn, bước tới trước ngọc đài, ngẩng đầu nhìn lên vương tọa bỏ không, như thể trông thấy phụ vương ngồi đó mỉm cười nhìn mình. Mãi đến hôm nay, nàng mới hiểu được nỗi bi ai lặn sâu trong mắt phụ vương.
Vân Tang nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu rồi bước lên ngọc đài, mỉm cười quay lại.
“Vương cơ!” Hậu Thổ từ trên không nhảy xuống, lao thẳng vào điện.
Vân Tang đưa mắt nhìn đám người bên dưới, phớt lờ tiếng gọi của Hậu Thổ, cao giọng tuyên bố: “Thần Nông Vân Tang ta bằng lòng kết hôn với Hiên Viên Thanh Dương.”
Tiếng hoan hô chúc mừng lập tức dậy lên khắp điện đài, át hẳn tiếng gọi tha thiết của Hậu Thổ.
Chỉ một câu, là dâu bể đổi dời, cỏ hoa tàn tạ.
Hậu Thổ đờ người giữa đại điện, mặt như tro tàn, hai mắt trừng trừng dán chặt vào Vân Tang.Vì sao? Vì sao nàng không tin ta có thể bảo vệ trăm họ Thần Nông? Vì sao nàng không để ta đem lại yên bình cho nàng?
Vân Tang một mực mỉm cười nhìn gã, vẻ kiên quyết lộ ra ánh mắt. Ta là Trưởng vương cơ Thần Nông, đây là trách nhiệm của ta! Ta có việc của ta, ngươi cũng có việc của ngươi!
Giữa tiếng cười nói chúc tụng, giữa trùng trùng nhân ảnh, giữa đại đại điện chói lọi vàng son, lung linh châu ngọc… Hậu Thổ khó nhọc quay mình, lết tấm thân đờ dại xuyên qua đám người huyên náo, ra khỏi đại điện.
Hóa xà đã đợi sẵn một bên nhưng gã nhìn mà như không thấy, chỉ men theo thềm điện, lê bước chân cứng ngắc xuống núi.
Bóng Hậu Thổ nhỏ dần nhỏ dần rồi từ từ khuất sau những bậc thềm quanh co ngoắt ngoéo.
Vân Tang đứng giữa thềm ngọc cao cao, đăm đăm trông ra ngoài điện, nụ cười tươi tắn vẫn nguyên vẹn trên môi, eo lưng thẳng tắp.
Vừa về đến Hiên Viên thành, Xương Ý và A Hành đã bị vây chặt giữa đám quần thần tới chúc tụng. Đám đông xúm quanh Xương Ý cười cười nói nói, hàn huyên trò chuyện xôn xao, chỉ có độc Di Bành lẻ loi lút cút đi sau.
Biết ý Hoàng Đế không vui về chuyện ở Trạch Châu, mọi người cũng lợt lạt hẳn đi với Di Bành. Khi trước, hắn chiến công hiển hách, được Hoàng Đế trọng thưởng liên tiếp nên đám triều thần nhất mực vây quanh bợ đỡ, có điều giờ đây gió đã đổi chiều, bao vinh quang xưa đều trở thành quá khứ.
A Hành lẳng lặng quan sát Di Bành nhưng chẳng bao lâu hắn đã phát hiện ra, bèn quay lại cười nhạt với nàng, ánh mắt đầy giễu cợt.
A Hành chợt thấy rùng mình, nàng và Di Bành đều biết, Hoàng Đế làm bộ khiển trách Di Bành như vậy, nhưng thực tế chẳng hề trừng phạt nặng nề gì, mọi thứ mới chỉ bắt đầu mà thôi!
Hoàng Đế ban thưởng cho Xương Ý thật hậu. Đợi hoàn tất mọi lễ tiết, quần thần đều đã cáo lui, chỉ còn lại mấy người bọn họ, Hoàng Đế bèn phán bảo A Hành: “Ta vốn muốn giữ con lại chăm lo cho mẫu hậu một thời gian nữa, nhưng Thiếu Hạo đã phái sứ thần tới đón con về, ta cũng không tiện níu kéo. Hơn nữa, Thanh Dương vẫn phải ở Quy khư bế quan trị thương, con về Cao Tân, nó cũng có người săn sóc.”
A Hành vội dập đầu từ biệt Hoàng Đế: “Con phải về thôi, lần này đi lâu như vậy, cũng là Thiếu Hạo phá lệ đặc cách rồi.”
Hoàng Đế bèn đỡ A Hành dậy, ôn tồn nói: “Con cùng Thiếu Hạo quả là trắc trở, thành hôn chưa lâu thì xảy ra chuyện ở Ngu uyên, con vừa khá lên lại tới lượt Thanh Dương trọng thương, đến giờ mới được sóng yên biển lặng. Con nên về bên Thiếu Hạo, sớm sinh cho nó một đứa con, bằng không dù ta muốn giúp con giành ngôi vương hậu cũng lực bất tòng tâm.”
A Hành dịu dàng đáp: “Phụ vương dạy rất phải.”
Hoàng Đế thở dài: “Con nha đầu này càng lớn càng hay nói dối, con tưởng ta không biết con nghĩ gì hả, con ngỡ ta thèm muốn vương vị Cao Tân chứ gì? Ta là vua một nước, quyền mưu đủ cả, nhưng Hành nhi à, ta cũng là cha con, ta làm vậy là nghĩ cho con thôi.” Nói rồi ông xoa đầu nàng, “Tuấn Đế đời trước vẫn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn, vương vị của Thiếu Hạo còn chưa ổn định, nó ắt sẽ phải cầu đến sự hỗ trợ của các bộ tộc Cao Tân, mà nạp phi là phương pháp đơn giản hữu hiệu nhất, con không thể là người đàn bà duy nhất của nó được, nếu có sự gì, phụ vương nước xa chẳng cứu được lửa gần, chỉ có đứa nhỏ là chỗ dựa lâu dài của con thôi.”
A Hành làm thinh không nói, chỉ mím chặt môi, lộ vẻ quật cường. Hoàng Đế chăm chú nhìn nàng, đột nhiên thấy mệt mỏi vô chừng, bèn xua tay bảo: “Con mau về Triêu Vân phong với mẹ đi, để bà ấy…” Hoàng Đế trầm ngâm, lưỡng lự hoài không nói tiếp, như chẳng hề nhận thấy mình ngập ngừng đã quá lâu, mãi tới khi A Hành ngước lên dò hỏi, ông mới sực tỉnh: “Khuyên bà ấy nên bảo trọng lấy mình.”
“Vâng!”A Hành dập đầu lặng lẽ lui ra.
Sớm hôm sau, A Hành từ biệt mẹ và anh trai, trở về Cao Tân.
Về tới Thừa Ân cung, trời đã ngả chiều, đám cung nữ ra đón nàng thưa: “Bệ hạ đang bận nghị sự, dặn vương phi cứ dùng cơm trước, đừng đợi ngài.”
A Hành gật đầu, đi thẳng vào tẩm cung.
Dọc đường nàng đi san sát đình đài lầu gác, rường cột chạm trổ, tùng bách xanh um tươi tốt, kỳ hoa dị thảo ngan ngát hương đưa, lối trúc bờ sen lại thông thẳng tới một vòm trời khác. A Hành chưa thấy cung điện nào lộng lẫy hơn Thừa Ân cung, chắc hẳn người đời đều cho rằng chủ nhân nơi này rất xa hoa giàu có, nhưng A Hành nghĩ có lẽ Thiếu Hạo cũng chẳng biết bên trong Thừa Ân cung có những gì, bởi cuộc sống của y chỉ gói gọn giữa tẩm cung và chính điện.
A Hành dùng bữa xong, rửa mặt chải đầu tề chỉnh mà Thiếu Hạo vẫn chưa về. Nàng một mình ngồi đợi cũng chán, nhân lúc trăng sáng, bèn ra ngoài tản bộ.
A Hành chẳng mấy thông thạo đường sá, vô tình lại lạc bước tới một khu vườn quen thuộc – chính là Y Thanh viên mà Tuấn Đế yêu thích nhất.Có lẽ Thiếu Hạo chẳng bao giờ lai vãng tới đây, cũng chẳng có phi tần nào qua lại du ngoạn, nên đám cung nhân lười biếng cũng để mặc cho cỏ dại mọc đầy, che kín cả lối đi.
A Hành thả bộ men theo dòng nước quanh co, dưới ánh trăng, rặng trúc bên bờ xanh ngắt một màu, đu đưa trước gió, phất phơ xào xạc, khiến nàng không khỏi chạnh lòng tự hỏi, vị công tử phong lưu nằm dài bên bờ nước, gối đầu lên đá đọc sách giờ đang làm gì? Nếu ông còn ở đây, trước cảnh trăng thanh gió mát thế này, hẳn sẽ thả bước dưới trăng, tay cầm ống tiêu, vừa đi vừa ngâm vịnh dưới bóng trúc nghiêng nghiêng xanh mướt.
“Nàng nghĩ gì thế? Ta vừa đến đã thấy nàng đứng ngây ra đó rồi.” Thiếu Hạo vận bạch y, đạp lên ánh trăng mà đến, đứng ngay cạnh tảng đá xanh bên bờ nước.Y dáng dấp thanh nhã, lại thêm bóng trúc tầng tầng lớp lớp dập dờn xao động sau lưng, thoạt trông chẳng khác nào người đó.
A Hành lặng lẽ thở dài không đáp.
Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng nước chảy róc rách hòa cùng tiếng lá trúc xào xạc, hệt như một khúc nhạc du dương bất tận.
Thiếu Hạo cúi đầu nhìn bóng trăng lấp loáng trên mặt nước, ánh mắt chợt mông lung, “Lâu lắm rồi, ta chẳng có lúc nào bình tâm lắng nghe tiếng nước chảy cả.”
A Hành nghiêng mình ngồi xuống tảng đá bên bờ, “Thiếp chưa kịp hỏi ý kiến chàng về việc kết thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông đã tự tiện đưa ra quyết định mất rồi.”
“Nàng làm đúng lắm, Hoàng Đế muốn thu phục Thần Nông, phải vận dụng cả cứng lẫn mềm, chuyện kết thông gia là đương nhiên thôi, nếu không phải Thanh Dương thì là Di Bành, không phải sống thì là chết, chỉ có một con đường, chúng ta không đi không được.”
“Phụ vương nói hiện giờ chàng đang lâm vào tình thế khó khăn, tốt nhất là dựa vào việc sách phong phi tần để chia rẽ và lôi kéo các gia tộc, chàng đã chọn được ai vừa ý chưa?”
Thiếu Hạo trân trân nhìn A Hành hồi lâu, đoạn cúi đầu hờ hững đáp: “Thân làm đế vương, còn mơ mộng tư tình viển vông sao được. Phụ vương ta một đời ôn nhu đa tình, khiến hai chị em Thường Hy thị thao túng hậu cung, ảnh hưởng cả tới triều chính. Hoàng Đế anh minh thần võ, nhưng cứ dùng dằng mãi không giải quyết được chuyện giữa mẫu hậu nàng và Đồng Ngư thị, đến nỗi tranh đấu hậu cung suýt biến thành mối họa thiên hạ. Thấy bao nhiêu vết xe đổ đó, ta nào dám có tình cảm với ai nữa chứ?”
A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo. Tuy ngoài miệng y khăng khăng không mơ mộng viển vông, nhưng từ lúc đăng cơ tới giờ, mặc cho đế vị chông chênh, y vẫn nhất quyết chẳng nạp thêm phi tần, có lẽ không chỉ ôn nhu đa tình mới được gọi là nặng tình vương vấn, lạnh nhạt hờ hững có khi cũng là tình cảm đấy thôi.
“Chàng còn nhớ giao ước khi xưa của chúng ta không? Thiếp giúp chàng đăng cơ, chàng cho thiếp tự do, nhưng tình hình hiện giờ, thiếp không thể ra đi được nữa, có thể đổi điều kiện khác không?”
Thiếu Hạo giật thót mình, phải trấn tĩnh giây lát mới dè dặt hỏi: “Điều kiện gì?”
“Thiếp có mang rồi.”
Thiếu Hạo lặng người không đáp, chẳng rõ tâm tình biến chuyển ra sao.
A Hành nài nỉ: “Thiếp biết, bắt chàng nhận đứa nhỏ này làm con đúng là làm khó cho chàng, thiếp chỉ mong chàng cho nó mang họ Cao Tân, để nó bình yên trưởng thành mà thôi. Thiếp sẽ viết huyết thư nói rõ thân thế của nó, nhất định nó không dám tranh giành đế vị đâu…”
“Đứa trẻ này là máu mủ ruột rà của ta mà, chẳng phải ta đã nói từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương ư?”
A Hành giàn giụa nước mắt, liền phục xuống lạy tạ Thiếu Hạo, “Đa tạ chàng.” Nào ngờ cả người nàng chợt mềm nhũn, ngã dụi xuống đất. Thiếu Hạo vội vã đỡ lấy, đưa tay thăm mạch, không che giấu được vẻ kinh hoàng: “Sao mạch tượng của nàng loạn lên thế này? Để ta gọi thầy thuốc nhé?”
A Hành gượng cười, “Chàng đừng quên sư phụ thiếp là ai chứ, thân thể thiếp thiếp tự biết mà, vừa nãy thiếp có uống ít thuốc…” Nàng ghé tai Thiếu Hạo nói nhỏ mấy câu.
Thiếu Hạo hỏi ngay: “Liệu có nguy đến tính mạng không?”
A Hành cười, “Ai sinh con mà chẳng mạo hiểm? Không sao đâu, chàng đừng lo, chỉ cần phối hợp cùng thiếp diễn cho trót lọt là được.”
Thiếu Hạo bế nàng đưa về tẩm cung, chờ đám thị nữ sắp xếp cho nàng nghỉ ngơi rồi mới lui ra. Đột nhiên, A Hành nắm lấy tay áo Thiếu Hạo, đưa mắt nhìn y.
Thiếu Hạo hiểu ý, liền quay sang lệnh cho đám thị nữ đứng hầu phía sau: “Tối nay ta sẽ nghỉ lại đây.”
Mấy ả thị nữ nhìn nhau, hầu hạ Thiếu Hạo rửa mặt rồi đồng loạt lui ra.
Giữa đêm khuya, chỉ còn A Hành và Thiếu Hạo nằm song song trên giường, mỗi người ôm một bầu tâm sự.
Ban ngày A Hành đã uống thuốc nên bây giờ dược tính phát tác, tuy khắp người rời rã nhưng không sao ngủ được.
Thiếu Hạo trở mình quay sang, đặt tay lên trán nàng, từ từ truyền năng lượng thủy linh nhu nhuyễn dịu dàng vào người A Hành, giúp nàng bớt bứt rứt khó chịu, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.
“Cảm ơn chàng.”
“Xi Vưu biết chuyện đứa nhỏ chưa?”
A Hành buồn ngủ đến ríu cả mắt, mơ mơ màng màng đáp: “Chưa biết.”
“Nàng có định cho hắn biết không?”
Không nghe tiếng đáp, A Hành đã mê mệt thiếp đi. Thiếu Hạo vẫn đặt tay trên đầu nàng hồi lâu mới thu tay về.
Y khẽ khàng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.
Ánh trăng trong len qua khung cửa gỗ tùng xanh tràn vào phòng như thủy ngân, rọi xuống mặt đất thành từng vũng trăng biêng biếc lập lòe. Bóng cây ngoài song lay động, bóng trăng dưới đất cũng dập dờn theo, chẳng khác nào muôn ngàn đợt sóng. Nhớ lại, sau khi bọn họ thành hôn, lần đầu tiên thẳng thắn trao đổi, kết thành đồng minh, cũng vào một đêm trăng thanh gió mát thế này, đêm ấy, y cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ.
Nếu thời gian có quay trở lại để y được lựa chọn lần nữa, liệu y sẽ chọn cái gì đây?
“Làm vương tử phi, hay làm vợ của chàng?”
“Vợ là người đời này kiếp này chỉ có một mà thôi.”
Giọng nói trong trẻo của A Hành vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng y chẳng còn cơ hội trả lời lại nữa.
Vì Vân Tang đã nhận lời cầu hôn của Thanh Dương, Hoàng Đế lập tức ngừng tiến đánh Thần Nông, hai bên tạm thời đình chiến. Lợi dụng cơ hội này, Thiếu Hạo bắt đầu cải cách mạnh mẽ.
Đằng sau vẻ ngoài bình yên là một cơn sóng gió lớn đang âm thầm dấy động, nhưng dù sao, trước mắt vẫn là hòa bình an ổn.
Sáu tháng sau, A Hành nhận được thư Xương Ý, báo tin Xương Phó đã có thai. Xương Ý hào hứng kể, từ khi biết Xương Phó có mang, tinh thần mẹ khá lên nhiều, sức khỏe cũng ổn hơn, lại bắt tay vào chăn tằm dệt vải, may quần áo cho đứa nhỏ.
A Hành cầm lá thư, mỉm cười.
Lại thêm sáu tháng nữa, Thiếu Hạo công bố việc A Hành có thai với bá quan văn võ. Tin này truyền đến Hiên Viên, Hoàng Đế lập tức phái sứ giả mang đủ thứ dược thảo quý hiếm tới hỏi thăm A Hành, đi cùng sứ giả còn có một danh y.
Danh y thỉnh cầu Thiếu Hạo cho phép mình thăm khám cho A Hành, Thiếu Hạo không nói gì nhưng đám danh y cung đình Cao Tân thì rất khó chịu, cảm thấy danh y này nghi ngờ năng lực của bọn họ, làm nhục cả nền y thuật Cao Tân.
Sứ giả vội cười xoa dịu: “Là Hoàng Đế và vương hậu nương nương cứ thấp thỏm nhớ mong vương cơ, nên sai danh y đến thăm mạch rồi về bẩm cáo với Hoàng Đế và nương nương để hai vị yên tâm đó thôi.”
Đám danh y Cao Tân đang định buông lời chế nhạo, Thiếu Hạo liền cười giảng hòa: “Chuyển lời chẩn đoán của các người tới Hiên Viên dù sao cũng cách một tầng, chi bằng để vị danh y này tự thăm khám rồi về bẩm cáo Hoàng Đế cho tiện, vương phi lấy chồng xa, chiều ý mẹ cha để hai vị yên tâm xem như là tận hiếu.”
Bấy giờ, đám danh y Cao Tân mới hậm hực làm thinh.
Danh y bắt mạch xong một lượt, thần tình hoang mang, vẻ lo âu ra mặt, thấy vậy, Thiếu Hạo ngồi bên vội hỏi: “Sao thế?”
Danh y lau mồ hôi trán, lắp bắp thưa: “Không, không sao cả, thần phải xem lại một lần nữa.”
Mấy vị danh y cung đình cười khinh khỉnh. Dưới ánh mắt chòng chọc của mọi người, gã danh y Hiên Viên lại chẩn đoán thật kỹ lần nữa, một lúc lâu sau, gã buộc phải thừa nhận mình nhất trí với kết quả chẩn đoán của các danh y Cao Tân, A Hành đã mang thai sáu tháng, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, có điều huyết khí hơi kém, song chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng tử tế là ổn.
Rõ ràng đây là tin tốt lành, nhưng tay danh y lại không giấu nỗi vẻ thất vọng, đành gượng tươi tỉnh trả lời Thiếu Hạo mấy câu rồi vội vã cáo lui.
Hơn hai năm sau, Xương Phó mẹ tròn con vuông sinh được một bé trai, Hoàng Đế ban tên là Chuyên Húc.
Hoàng Đế lại phái sứ giả tới Cao Tân thăm hỏi A Hành, lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.
Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.
Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.
Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.
Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.
Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”
Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”
Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”
A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.
Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”
A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.
A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.
“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.
Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.
Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.
Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”
Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.
Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.
Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.
Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.
Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.
Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”
[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.
[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)
A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”
Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”
“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.
[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)
Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.
Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.
Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.
Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”
Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.
A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”
Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.
Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.
Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.
Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.
Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”
“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”
Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”
Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”
Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.
Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”
Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.
Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”
Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.
Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.
Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”
Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”
Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ làm thương tổn đến con, vậy mà… Mọi chuyện cứ như vừa mới hôm qua, nào ngờ thời gian thấm thoắt bấy nhiêu năm, hết thảy đều thay đổi cả rồi!”
Mọi người nghe nói đều cười rộ lên tán thưởng, chỉ riêng A Hành lặng thinh không cười nổi.
Nói đến đó, Tuấn Đế lộ vẻ mệt mỏi, liền xua tay ra hiệu cho thị nữ ẵm lấy Cửu Dao rồi quay sang bảo đám tùy tùng: “Ta mệt, về Kỳ viên thôi.”
Mọi người đều quỳ xuống cung tiễn.
Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành đi theo tiễn Tuấn Đế ra tới ngoài điện, A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo, lần này y nhất định muốn tổ chức sinh nhật cho Tiểu Yêu thật linh đình, không tiếc phô trương lãng phí, chắc hẳn là vì lý do này.
Ngày thứ ba, tất cả muôn dân thiên hạ sẽ tự tay thắp hoa đăng do họ tự làm rồi thả xuống sông, chúc phúc cho Đại vương cơ Cao Tân lớn lên bình an khỏe mạnh, mong sao cô bé sẽ đem lại hạnh phúc và hòa bình cho đất nước.
A Hành cũng tự làm một chiếc đèn hoa sen, gửi gắm tất cả nguyện vọng cầu cho con gái được bình an như ý.
Trời vừa sập tối, Thiếu Hạo và A Hành bước lên thành lâu trông xuống, thấy dân chúng đã tụ tập động nghịt dưới thành, háo hức đợi chiêm ngưỡng ngọn đèn vương phi làm cho vương cơ.
Thiếu Hạo tươi cười cao giọng nói: “Hôm nay ta cũng như tất cả mọi người ở đây, chỉ là một người cha hết lòng mong mỏi cho con mình lớn lên bình an hạnh phúc mà thôi, cảm ơn các người đã tới chúc phúc con gái của ta.”
Dân chúng Cao Tân rộ lên hoan hô như sấm.
A Hành nâng tràn hoa đăng kết bằng tơ băng trên tay, Thiếu Hạo nhanh nhẹn châm lửa, ngọn đèn mỗi lúc một sáng rực lên hệt một đóa sen xanh biếc lung linh giữa lòng bàn tay A Hành, soi tỏ một đôi người ngọc, khiến người ngoài trông thấy cứ ngỡ như cảnh tượng cõi tiên.
Thiếu Hạo cúi xuống bế Tiểu Yêu lên, bước xuống thành lâu, A Hành cũng bưng ngọn hoa đăng, theo sát bên cạnh y.
Xi Vưu đứng giữa đám người, ngẩng đầu nhìn lên thành lâu.
Đêm tối như mực, từ dưới trông lên khó mà nhìn rõ được ba người bọn họ, chỉ thấy một đóa sen xanh biếc nở rộ giữa không trung, tỏa ra ánh xanh nhàn nhạt, bóng dáng ba người nổi lên giữa tầng tầng lớp lớp rường cột trạm trổ, nam tử khôi ngô phóng khoáng, nữ tử thùy mị dịu dàng, lại thêm một cô bé nhỏ xíu cứ cựa quậy nghịch ngợm hoài trong lòng cha, một nhà ba người tràn đầy yêu thương đầm ấm.
Dân chúng Cao Tân ai nấy đều ngưỡng mộ dán mắt vào bọn họ, mãi tới khi ánh đèn xanh biếc xa dần xa dần, bóng ba người họ cũng khuất sau lầu quỳnh điện ngọc, bấy giờ đámg người đông nghịt dưới thành mới lục tục giải tán.
Chỉ còn lại mình Xi Vưu thẫn thờ đứng nguyên chỗ cũ, như không tin nổi vào mắt mình. Nhưng vừa rồi khi Thiếu Hạo châm lửa thắp đèn, hắn đã kịp trông thấy gương mặt A Hành ánh lên bao dịu dàng âu yếm.
Mãi tới hôm qua, Xi Vưu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh giấc, hắn thấy mình đang bồng bềnh giữa Bắc Minh, trước mặt là cả một vòm trời xanh ngăn ngắt, tinh thần sảng khoái, năng lượng tràn trề từng đường gân thớ thịt, trong cái rủi có cái may, nhờ bị thương, thần lực của hắn lạ tiến thêm một bậc. Hắn chẳng rõ mình đã ngủ mất bao lâu, chỉ biết rằng trước khi thiếp đi, A Hành vẫn còn nắm chặt tay hắn, dịu dàng nhìn hắn chìm sâu vào giấc ngủ.
Nghĩ vậy, Xi Vưu chợt bật cười hạnh phúc, liền nhảy vọt lên lưng Tiêu Dao đắc ý ra lệnh: “Ta phải về nhà đây! Nhà của mày lớn thật nhưng chỉ có mỗi mình mày, nhà của ta tuy nhỏ, nhưng lại có A Hành!”
Dọc đường về, hắn thấy nơi nơi đều là trời cao biển rộng, sông núi reo vui.
Vừa trông thấy rừng đào đỏ rực Cửu Lê sơn, Xi Vưu bỗng thấy mắt cay lòng nóng, chẳng đợi Tiêu Dao kịp đỗ đã nhảy luôn xuống, xông thẳng vào rừng đào.
“A Hành, A Hành! Ta về rồi! Ta về rồi đây!”
Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.
Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.
Xi Vưu thẫn thờ nhìn “căn nhà” trước mắt, lòng thắt lại vì hoang mang, không biết mình đã ngủ mất bao lâu? A Hành xảy ra chuyện gì rồi ư?
Hắn điên cuồng xộc vào rừng, chạy đến dưới cội đào, hoa nở đầy cành, rung rinh khoe sắc nhưng chẳng còn người ấy, chỉ còn một hàng chữ đỏ như máu:
“Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”
Thừa Ân điện chính là nơi ở của Thiếu Hạo, cũng là cung điện hoa lệ nhất trên đời.
“Ta không tin!” Xi Vưu tung chưởng nhổ bật cả cội đào lên rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, bay thẳng tới Cao Tân.
Dọc đường hắn thấy nhà nhà đều chăng hoa kết đèn, nói cười rộn rã, xôn xao bàn tán về đại lễ sinh nhật long trọng của con gái Thiếu Hạo.
Xi Vưu nghe nói liền thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Thiếu Hạo đã nạp thêm phi tần mới, bèn níu một người lại hỏi: “Thiếu Hạo cưới nữ tử tộc nào thế?”
“Là Hiên Viên tộc đó!” Người kia tròn mắt nhìn Xi Vưu như nhìn kẻ ngốc.
“Lại cưới một cô gái Hiên Viên tộc nữa ư?” Xi Vưu thấy lòng chùng hẳn xuống, lẽ nào A Hành xảy ra chuyện rồi sao… hắn chẳng lòng dạ nào nghĩ tiếp nữa.
Kẻ kia phì cười: “Ai chẳng biết Thiếu Hạo chỉ có một vị vương phi, chính là vương cơ Hiên Viên tộc đó thôi! Trưởng vương cơ là con gái hai người bọn họ!”
Lời này như sét đánh giữa trời quang, khiến Xi Vưu ngẩn người ra, lỗ tai lùng bùng cả lên. Dù bao nhiêu sự thực phơi bày trước mắt, hắn cũng nhất quyết không tin, chẳng phải A Hành đã tự tay bài trí căn nhà sàn đó, còn nói rằng đó là nhà của hai người đó sao?
Nhưng dưới thành lâu, hắn tận mắt trông thấy Thiếu Hạo và A Hành ẵm con gái nhỏ, tươi cười đón nhận muôn ngàn lời chúc phúc của lê dân bách tính. Niềm hạnh phúc của ba người bọn họ rành rành trước mắt, khiến hắn lần đầu tiên hiểu ra rằng, có những thứ, hắn vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho A Hành được.
Có lẽ, vì lý do này mà nàng rời bỏ hắn.
Cao Tân nhiều hồ ao sông ngòi, đô thành cũng dựa theo dòng nước mà xây nên, phía Bắc thành đô chính là một con sông rộng mênh mông, Thiếu Hạo và A Hành bế Tiểu Yêu men theo thềm đá, xuống gần mép nước.
Thiếu Hạo đặt Tiểu Yêu xuống đất nhưng hai tay vẫn đỡ lấy Tiểu Yêu, sợ cô bé bất cẩn trượt chân ngã xuống sông. A Hành ngội thụp xuống thềm, đặt ngọn đèn hoa sen xuống mặt nước.
Thiếu Hạo dịu dàng: “Nàng cầu nguyện đi.”
A Hành nhắm nghiền mắt, thành tâm cầu nguyện cho con gái bình an hạnh phúc cả đời rồi mở mắt ra, “Thiếp cầu xong rồi.”
Thiếu Hạo chỉ ngọn hoa đăng, nựng nịu Tiểu Yêu: “Cha con ta cùng đẩy cho đèn trôi xa, được không nào?”
Tiểu Yêu rất thích cây đèn xanh biếc này nên chẳng nỡ đẩy đi, ngược lại còn giơ tay níu lại.
Thiếu Hạo tươi cười nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhưng không nắm thật chặt mà cứ vờn đùa với cô bé để bé khỏi chạm tay vào ngọn lửa. Tiểu Yêu thích chí ré lên cười khanh khách, khiến A Hành cũng bật cười theo.
Thấy Tiểu Yêu đùa giỡn đã mệt, Thiếu Hạo bèn nắm lấy bàn tay bé bỏng của cô bé đẩy đẩy ngọn đèn, dỗ dành: “Tiểu Yêu ngoan nào, đẩy đi, lát nữa cho sẽ cho con cái khác đẹp hơn.”
Theo tay Thiếu Hạo và Tiểu Yêu, ngọn đèn lặng lẽ trôi xuôi dòng nước, xa dần xa dần…
Thiếu Hạo ẵm Tiểu Yêu đứng dậy, một nhà ba người đưa mắt nhìn theo ánh đèn xanh biếc càng trôi càng xa rồi nhập vào biển đèn lung linh, chẳng nhận ra đâu là ngọn đèn bọn họ vừa thả nữa, bấy giờ, cả ba mới quay người bước lên, nào ngờ vừa quay lại, họ liền trông thấy một nam tử hồng y khí vũ hiên ngang đứng lặng trên thềm tự lúc nào, chẳng biết hắn tới đây bằng cách gì, cũng chẳng rõ hắn đã đứng đó bao lâu.
Cảm nhận được linh lực mạnh mẽ tỏa ra từ đối phương, Thiếu Hạo vội ngưng tụ linh lực theo phản xạ, toan vung chưởng đánh lui kẻ tự tiện xâm nhập, cả người chợt run lên, hiểu ra ngay người đến là ai.
Y liền trao Tiểu Yêu cho A Hành rồi bước xuống thềm, dõi mắt ngắm muôn vàn ngọn đèn lung linh trên sóng.
Xi Vưu tiến lại gần, sắc mặt tái nhợt, hai mắt tối sầm lại, ngùn ngụt bi ai và phẫn nộ.
“Tại sao hả?” Hắn gắng nén cơn giận, cất giọng khản đặc, hệt như một dã thú bị thương.
A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu, rưng rưng nước mắt, chẳng thốt được tiếng nào.
Tiểu Yêu chẳng hề sợ sệt, cứ giương tròn mắt nhìn Xi Vưu, giơ tay sờ vào người hắn.
Bàn tay măng tơ mềm mại khẽ chạm vào mặt Xi Vưu khiến lòng hắn xao động lạ thường, bèn nắm lấy tay Tiểu Yêu hỏi: “Đây có phải là con ta không?” Tuy biết dựa vào ngày sinh, cô bé khó có thể là con mình, nhưng hắn vẫn ôm ấp chút hy vọng mong manh.
Đột nhiên, trên không trung chợt bay vọt lên mấy quả cầu lửa muôn màu muôn sắc do hỏa linh kết tụ, nở bùng ra thành ngàn vạn đốm pháo hoa rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, mẫu đơn đỏ thắm, mai trắng tinh khôi… Bỗng chốc khắp bầu trời tràn ngập ánh sáng lung linh huyền ảo.
Tiểu Yêu mừng rỡ chỉ tay lên trời, rối rít gọi Thiếu Hạo: “Cha, cha.”
Thiếu Hạo ngoảnh lại theo phản xạ, mỉm cười với cô bé.
Ánh pháo hoa rực rỡ soi tỏ mặt gương mặt của Tiểu Yêu, trông cô bé giống Thiếu Hạo đến bảy tám phần, thoạt nhìn đã biết là con y.
Tiểu Yêu với tay về phía Thiếu Hạo, luôn miệng gọi cha đòi bế.
Xi Vưu chợt thấy toàn thân run bần bật như vừa rơi xuống hố băng lạnh ngắt, ngọn lửa ngùn ngụt trong mắt vụt tắt ngấm, xung quanh xán lạn rực rỡ là thế, vậy mà hắn chỉ thấy một mảnh tối đen mờ mịt.
Tây Lăng Hành đã phản bội hắn, lừa gạt hắn!
Ánh mắt Xi Vưu bỗng trở nên lạnh lùng tàn khốc, hắn bắt đầu nổi sát tâm.
A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu hốt hoảng lùi lại, nhưng Xi Vưu đã giật phăng cô bé ném cho Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo thấy tình hình không ổn, toan xông lại ứng cứu, có điều linh lực của Xi Vưu đã tăng tiến vượt bậc, y đỡ được Tiểu Yêu thì chẳng kịp cứu A Hành nữa.
Xi Vưu và A Hành bị bao phủ trong màn đao gió, những lưỡi đao gió xoay vun vút quanh hai người, một con muỗi cũng không bay lọt, mấy ngọn đao đâm từ sau lưng A Hành nhằm thẳng vào tim nàng, đã cắm vào da thịt.
Cảm nhận được lưỡi đao đâm vào mình đau buốt, nét mặt A Hành chợt giãn ra đầy thanh thản như trút bỏ được mọi ràng buộc và gánh nặng, nàng chẳng hề kháng cự, chỉ đăm đăm nhìn Xi Vưu, nước mắt lăn dài trên mi.
Dường như những giọt lệ của nàng đã chạm đến cõi lòng mềm yếu nhất của Xi Vưu, trái tim hắn run lên vì kích động, linh khí không sao duy trì được nữa. Cuồng phong lặng tắt, chỉ còn tấm lưng A Hành đầm đìa máu tươi, nhỏ tong tong xuống đất.
Xi Vưu trân trân nhìn A Hành, lui lại từng bước từng bước một, cười thê thảm: “Cô biết rõ ta rất khó có thể tin tưởng ai đó kia mà! Ta coi Viêm Đế như cha đẻ, coi Du Võng như huynh đệ, vậy mà vẫn đề phòng họ, nhưng đối với cô…” Hắn điên cuồng đấm ngực như muốn đập vỡ trái tim mình, móc ra cho A Hành thấy, “Ta luôn đặt cô ở đây. Nếu cô đã định phản bội, sao không phản bội từ sớm đi? Sao phải đợi đến khi ta phá hủy mọi thứ phòng bị, để cô tiến thẳng vào nơi sâu thẳm nhất, mềm yếu nhất của ta thì lại giở mặt giày xéo ta? Dẫu kẻ khác chặt đầu lột da ta, ta cũng chẳng thấy gì đau đớn, nhưng cô… ta đau lắm, biết không?” Sắc mặt Xi Vưu tái ngắt, ánh mắt không rời A Hành như khẩn cầu, như van vỉ nàng khẳng định một lời, nói với hắn rằng nàng không phản bội hắn!
A Hành cắn môi không đáp, chỉ có thân mình khe khẽ run lên. Tiểu Yêu nào hay vừa rồi mẹ mình đã lượn một vòng qua cửa tử, cô bé thích thú ngắm trận cuồng phong của Xi Vưu, vỗ tay reo: “Cha, cha nhìn gió nhảy múa kìa, thúc thúc áo đỏ kia lợi hại quá nha!”
Giọng nói non nớt của Tiểu Yêu lọt vào tai Xi Vưu khiến hắn sững sờ như bị sét đánh, cả người run rẩy. Con gái của A Hành gọi hắn là thúc thúc!
Xi Vưu trừng trừng nhìn A Hành, nhưng cất tay lên mấy lần vẫn không sao ngưng tụ linh lực tấn công được, đành cười thảm lắc đầu, “Tây Lăng Hành, cô đã hẹn ước với ta, chưa được ta cho phép cô đừng mong rút lại lời thề!” Trong tiếng cười ha hả, hắn nhảy lên lưng Tiêu Dao bay thẳng.
Xi Vưu đi rồi, Thiếu Hạo thấy lòng bàn tay lạnh ngắt. Y đã nghe nói Xi Vưu tính khí thất thường, hung tàn xảo trá từ lâu nhưng lần này mới tận mắt chứng kiến bản tính cực đoan, quyết liệt của hắn. Hắn đối với A Hành chí tình chí nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể bán mạng vì nàng, vậy mà chỉ trong nháy mắt, vì A Hành phản bội, hắn có thể xuống tay giết nàng bất cứ lúc nào.
Thấy A Hành đứng đờ người ra như mất hồn, Thiếu Hạo ngỡ nàng quá kinh hãi, bèn tiến lại vừa trị thương vừa an ủi nàng: “Tối nay ta sẽ bày trận pháp quanh nhà, chỉ cần Xi Vưu đến, chúng ta lập tức biết ngay thôi.”
A Hành chỉ một mực lắc đầu, thẫn thờ nhìn về phía Tiêu Dao khuất bóng, ánh mắt đầy lo âu. Bấy giờ Thiếu Hạo mới hiểu ra rằng không phải nàng sợ hãi, mà là đang lo lắng cho Xi Vưu.
Thiếu Hạo cùng A Hành lên đến thành lâu, y định đưa nàng về tận Thừa Ân cung, nhưng Tiểu Yêu thấy quang cảnh rực rỡ bên dưới cứ khóc ré lên không chịu về. Y đành sai thị nữ đưa A Hành về trước, để mình bế Tiểu Yêu đứng ngắm cảnh thêm lát nữa.
Từ thành lâu nhìn xuống, mặt sông bạt ngàn ánh đèn lung linh, mỗi lúc một thêm dày đặc, hệt như vô số ngôi sao lấp lánh.
Hai bên bờ sông đông nghịt người tới thả đèn và ngắm cảnh. Bầy con nít xách lồng đèn tung tăng đuổi bắt nhau, các cô gái cứ dăm ba cô tụ lại thành một nhóm, mượn ngọn đèn tự tay chế tác để khoe tài khoe giỏi, trong khi đám đàn ông thơ thẩn men theo bờ nước, vừa ngắm đèn vừa ngắm các thiếu nữ nhà bên, đông nhất là những gia đình đủ cả già trẻ trai gái, bưng đủ loại đủ kiểu hoa đăng, dắt díu nhau đến thả đèn.
Thiếu Hạo chăm chú ngắm cả dòng sông lung linh ánh đèn, đẹp như tranh vẽ dưới thành, ánh mắt mỗi lúc một lạnh dần, y từ từ đi đến chỗ hạ quyết tâm: Xi Vưu đã quay về, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, y không thể cứ phân vân do dự mãi!
Về đến tẩm điện, A Hành cho tất cả thị nữ lui ra, chỉ để lại mình nàng thẫn thờ ngồi đó. Nàng sớm biết sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Xi Vưu nên đã chuẩn bị hết mọi điều cần nói, nào ngờ vừa gặp hắn, nàng đã quên sạch.
Ngồi giữa căn phòng tối mịt nhưng cõi lòng A Hành còn tăm tối hơn, thậm chí vĩnh viễn chẳng thể sáng lên được nữa.
Chẳng biết đã ngồi như vậy bao lâu, đột nhiên, A Hành thoáng nghe thấy phía cuối trời vang lên tiếng đại bàng quang quác, giật thót mình, vội nhìn ra cửa sổ.
Bóng cây bên ngoài được ánh trăng trong như lọc hắt lên tấm rèm che màu tùng biếc ngoài song cửa, khẽ đu đưa theo gió. Chỉ lát sau đã thấy một bóng người từ xa bay đến, từ từ choán cả khung cửa, dáng dấp cao lớn khôi ngô, đầy mạnh mẽ tưởng như sắp phá cửa bay thẳng vào phòng, vậy mà hắn chỉ bi ai đứngbên ngoài, im lìm hệt một bức tranh.
A Hành đờ người vì căng thẳng, nàng không sao nhúc nhích nổi một ngón tay, nhưng hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp. Hiển nhiên, người ngoài song cửa cũng đã nhận ra: “Cô tỉnh rồi à?” Là giọng Xi Vưu.
Thấy A Hành im lặng, hắn chậm rãi nói: “Không phải ta tới giết cô đâu.”
“Ngươi… vậy ngươi quay lại định làm gì?” A Hành cố lấy giọng lạnh lùng hỏi.
“Lúc ở dưới thành, trông thấy cô và Thiếu Hạo, cả… con gái hai người nữa, ta giận quá, không kiềm chế được. Vừa rồi bay đi, gió lạnh tấp vào mặt, ta mới bình tĩnh lại. A Hành, ta biết cô nhất định không phụ lời thề giữa hai chúng ta, chắc chắn cô có nỗi khổ bất đắc dĩ gì đó.”
“Chẳng lẽ sự thật rành rành trước mắt ngươi còn không thấy sao? Ta đã có con với Thiếu Hạo rồi.”
“Ta thấy cả rồi, dù cô có con với Thiếu Hạo cũng chẳng sao, ta biết cô làm vậy nhất định là vì nỗi khổ trong lòng. Mấy năm nay ta không ở bên cô, chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, muốn trách thì phải trách ta chẳng thể bầu bạn bên cô, không bảo vệ được cho cô. Có điều, giờ ta đã về rồi, có gì khó khăn, cô cứ để ta giải quyết.”
A Hành run bắn lên, nước mắt nhòa mi. Kẻ kiêu ngạo, đa nghi, hung tàn như Xi Vưu, lại có thể một lòng một dạ tin tưởng nàng, yêu thương nàng, trân trọng nàng đến thế này.
Đợi hồi lâu không thấy trong phòng có động tĩnh gì, Xi Vưu dịu giọng nói tiếp: “A Hành, có nỗi khổ gì nàng cứ nói ra đi, chúng ta nhất định sẽ tìm được cách giải quyết mà, lẽ nào nàng không tin tưởng năng lực của ta ư?”
A Hành trân trân dán mắt vào bóng dáng Xi Vưu in lên rèm cửa, ầng ậng nước mắt. Cách giải quyết duy nhất là cứu Đại ca nàng sống lại, nhưng trên đời làm gì có thuốc cải tử hoàn sinh kia chứ. Đâu phải gian nan nào cũng có thể đạp bằng như Xi Vưu tưởng, dù thần lực cao cường tới đâu chăng nữa, cũng chẳng cách nào hồi sinh người chết.
“A Hành?” Đợi mãi không thấy nàng trả lời, Xi Vưu giơ tay toan đẩy cửa sổ ra.
A Hành lập tức nhào đến chặn cửa sổ lại. Nàng không dám gặp hắn, bởi nàng sợ đối diện với đôi mắt hắn, tất cả dũng khí của nàng sẽ tan biến mất.
“Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”
“Nói dối! Nếu không muốn gặp ta, tại sao lúc nhìn thấy ta dưới thành lâu, nàng lại rưng rưng chực khóc? Nàng rơi nước mắt vì ai hả?”
A Hành xoay người lại, lấy lưng chèn cửa, ánh mắt trống rỗng nhìn vào bóng đêm thăm thẳm, rành rọt thốt lên từng câu từng chữ đã được chuẩn bị kỹ càng, “Lúc đó ta vừa hổ thẹn, vừa sợ hãi!”
“Hổ thẹn gì chứ?”
“Dù ta lấy Thiếu Hạo vì lý do gì, hiện giờ chúng ta đã có con, nước chảy đá mòn, ta dần dần cũng nảy sinh tình cảm với chàng, khó tránh hổ thẹn với ngươi, mọi chuyện đã hết cách cứu vãn được rồi.”
“Vậy nàng sợ cái gì?”
“Ta sợ làm tổn thương đến con bé. Giờ đây, con bé là người quan trọng nhất trong lòng ta, nếu ngươi muốn giúp đỡ ta, bảo vệ ta, xin ngươi hãy quên ta đi, đừng tới tìm ta nữa. Lỡ như người ngoài trông thấy, ta sẽ mất hết danh tiết, vạ lây cả đến con bé.”
Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ nghe thấy tiếng thở lúc dập dồn, khi từ tốn của hắn. Toàn thân A Hành như biến thành một tảng đá, ra sức chèn chặt cánh cửa, không dám nhúc nhích, tựa hồ không phải đang đóng cửa, mà là đang khép chặt trái tim mình.
Đột nhiên nghe vang lên một tiếng đại bàng kêu quang quác, tiếng thở ngoài song biến mất.
A Hành vẫn chèn chặt cánh cửa sổ, hồi lâu mới như sực tỉnh, vội quay phắt lại, ngơ ngẩn ngóng ra ngoài song, nhưng chỉ thấy bóng cây thấp thoáng, ánh trăng nhạt nhòa, đâu còn bóng người kia nữa. Nước mắt nàng giàn giụa tràn ra hai má.
Hoa đào lả tả rợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyên xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
Truyền thuyết kể rằng, trên đại hoang có năm thánh địa. Thang cốc, nơi mặt trời mọc, Ngu uyên, nơi mặt trời lặn, Quy khư, ngàn vạn con nước đổ về và Ngọc sơn, nơi hội tụ ngọc linh – bốn thánh địa này tuy người thường khó mà đến được, nhưng dù hung hiểm như Ngu uyên cũng có người bôn ba tới tận nơi, duy chỉ có Bắc Minh và Nam Minh, được gọi là hai đầu trời đất chưa ai đặt chân đến, chỉ nghe nói hai chỗ đó được gọi là Nam Bắc Minh, nơi cực Nam và cực Bắc hợp lại làm một, càng chẳng hiểu sao rõ ràng một ở cực Nam, một ở cực Bắc mà lại gọi là Nam Bắc hợp nhất.
Vì chưa ai từng đến nên người đại hoang hầu như không tin có Bắc Minh và Nam Minh[1], nhưng trên đời vẫn tồn tại một loài thú thần tên gọi là Côn, đến từ Bắc Minh, nguyên hình là cá, vừa ra đời đã có thể hóa đại bàng, tương truyền một lần sải cánh có thể bay xa chín vạn dặm. Côn không xưng thần với rồng, cũng không cúi đầu trước phượng, sinh ở Bắc Minh, chết lại về Nam Minh.
[1] Theo Tiêu dao du của Trang Tử: Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân lớn không biết mấy nghìn dặm. Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại bàng), sống lưng rộng không biết mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên, sải cánh che phủ cả bầu trời. Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến tận Nam Minh.
Vì Côn có thực, nên sử sách vẫn chép rằng trên đại hoang còn có một thánh địa thứ năm, gọi là Nam Bắc Minh.
Từ đại hoang đi thẳng về hướng Bắc, sẽ đến một vùng hoang dã, băng phủ ngàn năm, tuyết rơi vạn dặm, đi mãi không thấy bến bờ, dù người của Thần tộc thần lực cao cường cũng không sao vượt qua nổi đồng hoang mênh mông tuyết trắng ấy.
Phía cuối đồng hoang bao la buốt giá ấy có một hồ nước thiên nhiên, chính là Bắc Minh.
Tiêu Dao tha thân thể bị ngũ linh phá hủy, chỉ còn thoi thóp của Xi Vưu thả xuống Bắc Minh. Nó làm vậy hoàn toàn dựa vào bản năng của muôn thú, hễ gặp nguy hiểm hoặc bị thương thì quay về nhà tìm nơi trú ngụ.
Xi Vưu nổi lềnh bềnh giữa Bắc Minh, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh, mặc cho Tiêu Dao lay gọi. Dần dà Tiêu Dao cũng chán, bèn để mặc hắn nằm đó, bơi đi ngao du khắp Bắc Minh. Bắc Minh rộng mênh mông, xưa nay nó chưa bao giờ đến được tận cùng, thỉnh thoảng nó cũng nảy dạ tò mò, đi hết đại hoang sẽ đến một vùng băng tuyết, vượt qua đồng băng sẽ đến Bắc Minh, vậy nếu băng qua cả Bắc Minh thì sao? Có lẽ tới khi chết, nó mới giải đáp được câu hỏi này.
Hôn mê hơn ba trăm ngày đêm, cuối cùng Xi Vưu cũng tỉnh lại. Vừa mở mắt, trông thấy Tiêu Dao mừng rỡ lượn vòng quanh mình, Xi Vưu toan giơ tay chạm vào nó, nhưng chẳng nhúc nhích nổi một ngón tay.
Hắn cảm giác mình đang bồng bềnh trong nước, có điều thứ nước này rất lạ, hệt như một loại máu màu lam căng tràn nhựa sống.
Xi Vưu tự ngộ được đạo trời, tuy chẳng có lý luận phương pháp gì nhưng hắn hiểu rất rõ thế nào là hòa hợp với tự nhiên, bèn thả lỏng thân thể, trút bỏ cái tôi hòa mình vào Bắc Minh rồi cười hỏi Tiêu Dao: “Đây là Bắc Minh, nơi mày sinh ra ư?”
Tiêu Dao quẫy đuôi, té nước vào mặt Xi Vưu như oán trách: Nếu chẳng phải vì cứu ngươi, đời nào ta chịu mang thứ dơ bẩn như ngươi về nhà.
Xi Vưu phá lên cười sằng sặc, cười mãi cười mãi, đột nhiên hắn sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra.
Du Võng chết rồi!
Chính Hoàng Đế giết chết Du Võng!
Trong cơn cuồng nộ, hắn đã giết chết Hoàng Đế!
A Hành… nàng chắc đã biết cả rồi, giờ nàng có khỏe không?
Xi Vưu thầm thở dài, nhắm nghiền mắt, những hình ảnh chập chờn đứt quãng cứ xẹt qua xẹt lại trong đầu.
Dường như hắn thấy có đến hai vị Hoàng Đế, nghe tiếng A Hành thét lên, hắn nảy đom đóm mắt, thoáng thấy A Hành bay vụt về phía mình, vẻ mặt đau đớn tột cùng… rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là mơ?
Xi Vưu mở trừng mắt, toan gượng dậy, liền bị Tiêu Dao hậm hực quật đuôi vào mặt.
Hắn khó nhọc lên tiếng: “Ta phải về.”
Tiêu Dao lập tức há miệng phun ra vô số bong bóng nước, trông như thể chạm vào là vỡ, nào ngờ chúng lại khóa chặt tay của Xi Vưu dính vào mặt nước, bất kể hắn vùng vẫy ra sao cũng không làm vỡ nổi. Rõ ràng đây là địa bàn của Tiêu Dao, ở đây, Tiêu Dao mới là lão đại.
Cứng không được, Xi Vưu bèn đổi sang mềm, dịu giọng nài nỉ: “Tiêu Dao, nếu ta lỡ tay giết chết Hoàng Đế, nhất định A Hành sẽ rất đau lòng, ta phải đi an ủi nàng. Còn nếu không phải ta giết lão thì các huynh đệ của ta hẳn đang ác chiến với lão, ta không thể để họ chiến đấu một mình được.”
Tiêu Dao vừa tung tẩy bơi vừa phun bong bóng nô giỡn, chẳng buồn để ý đến Xi Vưu. Dù sao nó không phải là A Tệ ngốc nghếch để Xi Vưu quay như dế.
Xi Vưu lại nói: “Năm xưa chúng ta cắt máu ăn thề, mày cũng ở đó kia mà, bọn họ không phụ ta, ta há lại phụ họ hay sao? Mày tưởng mấy cái bong bóng ấy trói được ta à? Dẫu có phải bò, ta cũng quyết quay trở về!” Tiêu Dao nghe nói chỉ quẩy đuôi bơi ra xa, từ nhỏ, nó bị Xi Vưu dọa dẫm đã quen, cứng mềm gì đều không ăn thua.
“A, phải rồi! Ta vừa nhớ ra, hồi đó cắt máu ăn thề, ta cũng trích ở chân mày vài giọt máu đấy, giờ mày lại định làm giống đại bàng bội tín bạc nghĩa à?”
Tiêu Dao quay ngoắt lại, trợn trừng đôi mắt cá nhìn Xi Vưu, hồi đó nó thấy hay hay nên chen vào góp vui thôi mà, không tính!
Xi Vưu cười ranh mãnh “Mặc kệ!Mày chích máu rồi, cũng uống rượu rồi, không được lật lọng!”
Tiêu Dao phì phì phun ra một chuỗi bong bóng nước rồi lặng yên ngẫm nghĩ, lát sau, nó vẫy vẫy đuôi.
Xi Vưu hiểu ý Tiêu Dao, nó muốn nói thể trạng Xi Vưu phải nghỉ ngơi một thời gian nữa mới được.
Tiêu Dao lặn xuống đáy nước, không nổi lên nữa.
Xi Vưu hiểu Tiêu Dao đã quyết định thì đừng hòng thay đổi, hắn chỉ có thể tranh thủ thời gian dưỡng thương cho mau khỏe lại mà thôi.
Vừa toan nhập định trị thương, hắn sực nhớ ra một chuyện, liền vọt miệng hỏi: “Tiêu Dao, ta hôn mê bao lâu rồi?”
Lâu thật là lâu, vẫn không thấy Tiêu Dao trả lời, có lẽ là tính không ra. Đối với chúng, thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả.
Xi Vưu đổi sang hỏi bằng cách khác: “Mày bay đến sườn núi phía Bắc đại hoang, bẻ một cành đào về đây cho ta. Nhanh lên nhanh lên, quan trọng lắm đó!”
Tiêu Dao nghĩ là trò chơi bèn vọt lên khỏi mặt nước, biến thành đại bàng, nháy mắt đã mất hút. Hồi lâu, nó ngậm một cành đào đang kết nụ bay về.
Vùng núi phía Bắc khí hậu lạnh lẽo vậy mà hoa đào đã bắt đầu kết nụ, chắc hẳn ở Trung nguyên bây giờ đang là tiết hoa đào nở rộ, hắn đã ngủ ròng rã một năm trời.
Xi Vưu nghiêm mặt bảo Tiêu Dao: “Thả ta ra đi, ta phải về gặp A Hành.”
Tiêu Dao trố mắt nhìn hắn như muốn hỏi: Ngươi muốn chết hả?
“Thả ta ra!”
Tiêu Dao thở hồng hộc, trợn mắt nhìn Xi Vưu, bất động.
Xi Vưu không buồn nhiều lời, chỉ nghiến răng gắng bức máu trong tim ra, chẳng nề dùng thọ mạng đổi lấy sức mạnh, phá vỡ trói buộc của Tiêu Dao. Thấy vậy, Tiêu Dao vừa giận dữ đập cánh phành phạch, vừa rít lên với hắn: Ta không chở ngươi về, ngươi có phá vỡ trói buộc cũng công cốc!
Xi Vưu bập bềnh nổi trên mặt nước, nhanh nhẹn rạch tay mình, nhúng cành đào Tiêu Dao vừa bẻ vào máu tươi rồi hóa phép biến nó thành một con chim, cắn đầu lưỡi phun tinh huyết lên cành đào, dùng một trăm năm thọ mạng để biến cành đào kia thành một con chim.
Tiêu Dao nín bặt, trợn mắt kinh hoàng nhìn Xi Vưu, nó quên khuấy rằng hắn vốn là kẻ liều mạng, nói được làm được.
Xi Vưu cưỡi lên lưng chim, ngoảnh lại cười với Tiêu Dao: “Ta biết mày lo cho ta, nhưng ta đã hẹn với A Hành, dưới cội hoa đào, không gặp không về, thất hẹn hai lần rồi, nhất định không thể thêm một lần thứ ba nữa.”
Chú chim cõng Xi Vưu bay thẳng về hướng Nam.
Tiêu Dao ngây ra nhìn sững theo bóng hắn mãi tới khi mất dạng, mới đột nhiên sực tỉnh, lập tức đuổi theo.
Trông thấy Tiêu Dao bay đến, Xi Vưu chẳng hề tỏ vẻ bất ngờ, chỉ cười cười nhún mình nhảy lên lưng nó: “Làm phiền nhé!”
Tiêu Dao cõng Xi Vưu trở về Trung nguyên.
Từ xa hắn đã trông thấy nước dâng trắng xóa đất trời, cuồn cuộn đổ về Trạch Châu, đang lúc căng thẳng, hắn đã nghe thấy một tiếng hú thê lương mà quen thuộc, chẳng đợi hắn ra lệnh, Tiêu Dao đã lần theo âm thanh bay vụt đến.
A Tệ không biết bơi nhưng cứ bì bõm dưới nước, như thể kiếm tìm gì đó, hết lần này sang lần khác, nó cứ ngụp đầu lặn xuống, mãi đến khi nghẹt thở mới ngoi lên, hú vang thảm thiết, hít một hơi thật sâu rồi lại liều mạng ngụp xuống.
Có thể khiến A Tệ thương tâm như thế, chỉ có A Hành và Liệt Dương, Xi Vưu lòng như lửa đốt, vội hỏi: “A Tệ, A Hành đâu rồi?”
A Tệ trừng trừng nhìn Xi Vưu giây lát, tựa hồ nhận định thật hay giả rồi cắn chặt chéo áo hắn, nước mắt lã chã.
Xoáy nước cuồn cuộn dưới sông hệt như một con mãng xà, nhấn chìm A Hành xuống vực sâu thăm thẳm.
Đôi tay ôm lấy bụng càng lúc càng rời rã, A Hành đã hoàn toàn kiệt sức, trong khi đó, một vòng xoáy lớn hơn lại phăng phăng cuốn tới, nuốt chửng nàng.
A Hành òa khóc vì tuyệt vọng, rồi lại phẫn nộ khẩn cầu, nhưng mọi cố gắng đều rơi vào thinh không. Giữa bóng tối vô biên, nàng chỉ thấy mình bị một luồng sức mạnh long trời lở đất dìm xuống tận đáy của sự sống.
Cả người A Hành xoay tít theo xoáy nước, rơi thẳng xuống đáy sâu, hơi thở cuối cùng cũng bị dòng nước xiết nuốt chửng, nàng không sợ chết, nhưng còn đứa nhỏ… Xi Vưu, Xi Vưu, chàng ở đâu rồi?
Xi Vưu… Xi Vưu…
Đột nhiên, một bóng áo đỏ nhanh như chớp lao vào giữa xoáy nước, ôm chặt lấy A Hành, mái tóc pha lẫn sợi bạc xõa tung như hai tấm bình phong, ngăn dòng nước lại. Sóng dữ ngợp trời khiến nhật nguyệt cũng phải biến sắc, vậy mà cơn hồng thủy hung hãn như mãnh thú đó lại e dè nhường bước trước Xi Vưu, vòng qua người hắn rồi chảy tiếp.
Không kịp kéo A Hành ngoi lên, Xi Vưu chỉ còn cách cúi đầu hôn A Hành, phà không khí trong lành vào miệng nàng.
A Hành ho sặc lên, từ từ mở mắt ra.
Vừa mở mắt, nàng liền trông thấy gương mặt tái mét của Xi Vưu đang mỉm cười nhìn mình. A Tệ cưỡi lên lưng Tiêu Dao bấy giờ đã hóa thành cá, nhe răng cười không khép được miệng, trong khi Tiêu Dao phồng mang trợn mắt vẻ giận dữ.
Sóng dữ vẫn cuồn cuộn rít gào xung quanh, nhưng giữa vòng tay chàng, chỉ có bình yên.
“Ta đang mơ ư?”
Xi Vưu dụi đầu vào mặt nàng: “Không đâu!”
A Hành giàn giụa nước mắt, yếu ớt than: “Ta gọi chàng mãi, gọi đến khan cả họng, còn tưởng chàng không tới nữa chứ.”
Xi Vưu dịu giọng dỗ dành: “Nàng quên rồi sao? Dưới cội hoa anh đào, không gặp không về, ta đã hứa với nàng sẽ không thất hứa lần nữa mà, sao có thể không tới chứ?”
A Hành mừng mừng tủi tủi, “Tiếc rằng nơi này chẳng phải Cửu Lê, cũng chẳng phải dưới cội hoa đào.”
Xi Vưu cười: “Chờ ta giải quyết xong trận hồng thủy này, sẽ đưa nàng đi ngắm hoa đào.” Nói rồi hắn lao vút lên mặt nước.
A Hành hai tay ôm bụng, rúc vào lòng Xi Vưu, nàng đã hoàn toàn kiệt sức, bải hoải đến từng lỗ chân lông, nhưng có vòng tay hắn chở che, dù phong ba bão táp xung quanh dữ dội chừng nào, nàng cũng chẳng sợ.
Ứng Long phụng lệnh Hoàng Đế cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu, có điều y vẫn ngỡ đây là kế công thành như lần trước.
Nghe kèn hiệu xung trận, y cùng Hiên Viên Hưu tập trung quân lên gò đất cao, chuẩn bị tấn công Trạch Châu, thì lại được lệnh của Di Bành án binh bất động.
Ứng Long lấy làm lạ, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ đợi lệnh.
Trạch Châu thành nằm lặng bên bờ Hoạch Trạch cạn khô, từ xa trông lại, chỉ thấy từng vệt từng vệt sáng loang loáng, chính là khôi giáp của binh tướng phản chiếu ánh mặt trời, đủ biết trong thành phòng bị nghiêm ngặt tới đâu.
Hồi kèn vừa rúc như một lời tuyên cáo: nếu Trạch Châu thành không chịu đầu hàng, Hiên Viên tộc sẽ phát động tấn công. Lập tức, tất cả các binh sĩ trong thành đều căng thẳng chuẩn bị ứng chiến.
Phong Bá mặc võ phục sát người, ngoài áo khoác choàng đen, hiên ngang đi giữa hàng quân, cả Trạch Châu đều im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chân hắn. Bước lên thành lâu, hắn cao giọng nói: “Quân Hiên Viên đông gấp năm lần chúng ta nên nếu các ngươi muốn bỏ chạy, ta cũng rất thông cảm, ai không muốn đánh thì rời hàng ngũ ngay đi.”
Đợi một hồi, chẳng thấy ai bước ra, Phong Bá bật cười sảng khoái: “Các huynh đệ, đã vậy chúng ta quyết tử chiến đến cùng! Vì Xi Vưu!”
“Vì Xi Vưu!”
Tiếng ba quân hô theo vang dội cả đất trời.
Phong Bá tươi cười, đưa mắt nhìn gã gù đứng khuất trong góc tối, mặt gã đeo một chiếc mặt nạ bạc, tỏa ánh sang lạnh lẽo, cộng thêm ngoại hình dị dạng khiến người ta vừa thấy đã gớm, chỉ muốn quay đi.
Kẻ gù mang mặt nạ này chính là Vũ Sư mà Phong Bá hằng kính trọng, hai người bọn họ đã đồng lòng hợp sức đẩy lùi bao đợt tiến công của Hiên Viên.
Hai bên trao đổi một ánh mắt, đều thấu rõ quyết tâm tử chiến của đối phương.
Phong Bá mỉm cười nhoài người trên đầu thành, nhìn về phía quân lính Hiên Viên, thấy họ án binh bất động, hắn lấy làm thắc mắc: Lẽ nào chúng không hiểu sĩ khí chỉ sôi sục chốc lát, giằng dai càng lâu, sĩ khí sẽ từ từ suy giảm sao?
Thấy dòng Hoạch Trạch cạn khô, lại quan sát kỹ thế trận Hiên Viên, Phong Bá nghĩ chắc đối phương không thể xả nước công thành. Nếu xảy ra, nước Hoạch Trạch ào ào trút xuống như thác lũ, quân lính bên đó sẽ bị cuốn trôi trước.
Đột nhiên, hắn nghe thấy mấy tiếng nổ chát chúa, trên trời bỗng xuất hiện vô sô con cá đỏ ối như ráng chiều, sáng rực cả bầu trời, binh sĩ hai bên đều hiếu kỳ ngẩng đầu lên nhìn.
Ứng Long xuất thân từ Thủy tộc, cảm giác rất nhạy bén, y liếc nhìn phía cuối chân trời, lập tức tái mét mặt, rít lên nhìn Di Bành ngạo nghễ đứng trên cao: “Cửu điện hạ, ngài định làm gì thế?”
Di Bành chỉ cười không đáp. Bấy giờ Ứng Long mới bàng hoàng nhận ra, trong mắt Di Bành, Ứng Long và binh sĩ của y đều là người của Thanh Dương, Di Bành chẳng những muốn trừ khử Thanh Dương mà còn muốn nhổ cỏ tận gốc, diệt sạch những người ủng hộ Đại điện hạ.
Phong Bá ngẩn cao đầu nhìn bầy cá tung tăng bơi lội trên không, dường như đã phát hiện ra gì đó, nheo nheo mắt trông về phía chân trời, đột nhiên, hắn giật thót mình, sững sờ không dám tin Di Bành lại điên cuồng phạm vào trọng tội trong trời đất, xả nước nhấn chìm Trạch Châu thành, khiến sinh linh đồ thán, thậm chí nhẫn tâm tuẫn táng cả quân đội của mình.
Phong Bá nghi hoặc đưa mắt nhìn Vũ Sư, Vũ Sư liền khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Di Bành điên rồi!” Giọng hắn khàn khàn như thể bị bỏng họng.
Sấm rền dậy đất, nước lũ ngợp trời ào ào đổ đến, thoạt thấy một sợi chỉ trắng bạc lấp lánh chậm rãi bò tới, thoắt chốc, nước đã dâng trắng xóa đất trời.
Khắp nơi nhốn nháo tiếng chim thú kêu gào, nước lũ cuốn tới đâu, sinh linh tan tác tới đấy.
Nhìn cảnh thê lương trước mắt, Phong Bá chỉ biết thở dài, nước từ ba con sông đổ dồn lên, thế mạnh như chẻ tre, có thể sánh ngang với kiếp nạn trời giáng, sức người không cách nào xoay chuyển nổi. Hắn sớm đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng hắn muốn chết hiên ngang trên sa trường chứ không phải chết oan chết ức như thế này.
Binh lính canh gác trên thành bẩm: “Ngài biết cưỡi gió mau chạy ngay đi, hồng thủy có nhanh mấy cũng không đuổi kịp ngài đâu.”
Phong Bá đưa mắt nhìn Vũ Sư cười bảo: “Ngươi tu luyện thủy linh, hồng thủy lớn tới đâu, muốn giữa mạng chắc cũng không khó.”
Vũ Sư trân trân nhìn nước lũ cuồn cuộn ập đến, hờ hững đáp: “Trạch Châu bị phá thì Thần Nông sơn cũng khó toàn, nếu quân Hiên Viên muốn tấn công Thần Nông sơn, phải bước qua xác ta trước đã.”
Phong Bá vỗ vỗ vai Vũ Sư rồi quay sang các binh sĩ khuyên mình chạy trốn: “Từ đầu ta đã nói rõ với Xi Vưu, ta chẳng có hứng thú gì với quyền lực, chỉ muốn cùng y sánh vai tác chiến thế thôi. Đi với y cũng như đi với luồn gió lốc mạnh nhất trên đời vậy, chẳng gì gò bó nổi, muốn đến đâu thì đến. Các ngươi từng thấy gió trốn chạy bao giờ chưa? Dù đụng phải thứ gì đi nữa, gió chỉ biết thổi thốc tới mà thôi!”
Dứt lời Phong Bá cười ha hả, cởi bỏ áo choàng, hiên ngang đối diện với cơn sóng dữ ngợp trời đang ập tới. Vũ Sư cũng rút thần khí Vũ Hổ của mình ra, chiếc mặt nạ trên mặt tỏa ánh sáng lành lạnh.
Sau lưng bọn họ, tất cả binh sĩ đều nhất loạt rút vũ khí, quên cả tính mạng, cười cười nói nói bàn luận thế nước nhỏ to, còn hẹn nhau tỉ thí bản lĩnh cưỡi sóng đạp gió.
Dù phải chôn thây trong trận đại hồng thủy này, họ cũng phải cưỡi lên đầu ngọn sóng, đùa với thủy triều mới cam tâm!
Trong khi đó, quân sĩ Hiên Viên đang kêu la khóc lóc loạn cả lên.
Tùy tùng của Ứng Long khuyên y nên đi. Ứng Long vốn là rồng, nước lớn tới đâu cũng thừa sức bỏ đi, nhưng y chỉ điềm đạm bảo chúng thuộc hạ: “Các ngươi chạy mau đi, thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”
Thấy đám tùy tùng định khuyên tiếp, Ứng Long xua tay đi, đi thẳng xuống dưới, xuất cả nguyên thần ra, quyết dốc cạn linh lực và sinh mệnh ngăn cơn hồng thủy lại.
Y biết mình không thể địch nổi thế nước dữ dội nhường này, nhưng ít ra, y chết cũng không hổ thẹn.
Di Bành và Hiên Viên Hưu đóng quân ở nơi địa thế cao nhất, Hiên Viên Hưu có phần bất nhẫn, chẳng nỡ nhìn, bèn quay đầu đi chỗ khác, chỉ mình Di Bành tươi cười thưởng thức thảm cảnh trước mắt.
Nước lũ ngợp trời cuồn cuộn ập tới, bị linh lực của Ứng Long tạm thời chặn lại.
Nhưng trận hồng này do dòng nước tích tụ suốt một tháng của ba con sông dồn lại, dù linh lực của Ứng Long cao cường tới đâu chăng nữa cũng tới lúc cạn kiệt, trong khi nước lũ cứ cuồn cuộn không thôi.
Ứng Long bị ép bật ra khỏi bản thể, hóa thành một con rồng xanh nằm chắn ngang dòng nước.
Nước lũ càng dồn lại càng lớn, nhưng không sao phá nổi sức ngăn của Ứng Long.
Trước sức ép khủng khiếp của dòng nước, vẩy rồng trên mình Ứng Long bắt đầu ứa máu, máu loang đỏ thân rồng, nhuộm đỏ cả lòng sông.
Phong Bá đứng trên thành, gõ nhịp than: “Hảo hán tử! Nếu bỏ mạng dưới tay kẻ này, ta cũng thỏa lòng! Đáng hận! Đáng hận!”
“Đáng hận gì thế?” Bóng áo đỏ nhoáng qua trước mặt Phong Bá, từ trên không nhảy xuống đầu thành.
“Xi Vưu!”
“Đại ca!”
Bốn bề rộn lên tiếng hoan hô, mọi người đều hân hoan mừng rỡ.
Xi Vưu vội đưa tay lên miệng suỵt khẽ, nhưng chẳng kịp, A Hành đã tỉnh giấc. Vừa mở mắt, trông thấy xung quanh toàn người là người, bao cặp mắt sáng rỡ đổ dồn vào mình. A Hành không khỏi đỏ bừng mặt, gắng gượng đứng xuống.
Phong Bá thụi cho Xi Vưu một quả, hỏi: “Đại tẩu đấy à?”
Xi Vưu một tay đỡ A Hành, tay kia thụi lại Phong Bá, một năm qua, tuy trời đất xoay vần nhưng tấm lòng nam tử, tình nghĩa huynh đệ vẫn nồng nàn như thế, chẳng nói vẫn hiểu được lòng nhau.
Phong Bá trỏ Vũ Sư giới thiệu, “Đây là Xích Tùng Tử, ngoại hiệu Vũ Sư, huynh đệ kết bái của đệ sau khi huynh mất tích, huynh đệ của đệ cũng là huynh đệ của huynh.” Tín nhiệm của đàn ông với nhau vốn chẳng cần nhiều lời, chỉ một câu đã có thể giao phó tất cả.
Vũ Sư tuy xấu xí quái dị nhưng lời nói cử chỉ rất lễ độ nho nhã, vội hành lễ ra mắt Xi Vưu.
Phong Bá giơ ngón cái, chỉ chỉ đằng xa cười hì hì bảo Xi Vưu: “Đừng bảo đệ là huynh tới đây tìm chết đấy nhé, có điều…” Hắn ngắm nghía Xi Vưu từ trên xuống dưới, lắc đầu: “Hình như huynh đến tìm chết thật.”
Sóng dữ dâng cao như núi, “ngọn núi” càng cao thì Ứng Long càng đuối sức dần, nhìn đỉnh núi rung rinh chực đổ ập xuống, mọi người đều hiểu, chỉ cần “ngọn núi” kia đổ xuống thì tất cả sẽ chết không có chỗ chôn.
“Đỉnh núi” càng lúc càng rung lên dữ dội.
Xi Vưu vội nói: “Nước lớn như vậy không thể ngăn được, chỉ có thể lựa theo thế nước, mở đường cho nó chảy thôi. Cơn hồng thủy lớn thế này không thể dẫn từ xa tới, dọc đường đến đây, ta thấy ba dòng, Hoạch Trạch, Thấm hà và Đan hà đều cạn trơ đáy, nên biện pháp duy nhất hiện giờ là chia dòng nước lũ thành ba đường, để nó đến từ đâu thì lại chảy về đó. Làm vậy tuy không thể hóa giải nạn lụt nhưng ít ra cũng cứu được một số người. Phong Bá, đệ dẫn người phụ trách Hoạch Trạch, Vũ Sư, ngươi lo phần Thấm hà, còn ta sẽ dẫn nước về Đan hà.”
Mấy tên thuộc hạ linh lực cao cường trợn mắt nhìn đỉnh lũ càng lúc càng cao, mặt xám như tro, lẩm bẩm: “Sao mà làm được, có khi lại như con yêu long kia, cạn kiệt linh lực, bỏ xác dưới đáy nước không chừng.”
Xi Vưu phá lên cười, “Nếu dễ làm như vậy thì còn gì thú vị? Dựa vào năng lực bản thân, biết rõ không thể làm mà vẫn làm mới là bản sắc của đại trượng phu!”
Phong Bá giũ giũ áo choàng, khoác lên người, cười bảo Xi Vưu: “Đệ thì không thành vấn đề, chỉ hy vọng chút nữa huynh vẫn giữ được mạng mà về, đừng làm mồi cho cá thôi.”
Ngoài mặt tếu táo đùa giỡn như vậy nhưng trong lòng Phong Bá rất lo cho Xi Vưu, có điều hắn biết những người khác quyết không có năng lực đối mặt với trận hồng thủy khủng khiếp nhường này, để ngăn được thế nước, không chỉ phụ thuộc vào linh lực cao cường, mà còn đòi hỏi lòng can đảm và quyết đoán nữa.
Mấy người đang chia nhau hành động thì cuồng phong ào ào nổi lên, cùng với nó, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đồng loạt kéo đến.
Cộng Công chưa đến nơi đã cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Để ta đi dẫn nước Đan hà.” Ngoại trừ Thủy thần chuyên thao túng thủy linh, có lẽ chẳng ai dám tự phụ như thế nữa.
Hậu Thổ cười bảo Xi Vưu: “Vũ Sư và Phong Bá đã kết bái, để y đi giúp Phong Bá đi. Ta và Chúc Dung sẽ phụ trách Thấm hà. Đề phòng Hiên Viên thừa dịp công thành, nhờ Đại tướng quân bảo vệ Trạch Châu thành dùm cho.”
Xi Vưu thoáng ngẩn người rồi bật cười sảng khoái, chắp tay thi lễ, “Đa tạ ba vị.”
Chúc Dung ngạo nghễ ngự trên Tất Phương điểu, khinh miệt đáp: “Đừng tưởng ta giúp ngươi, ta mong cho ngươi chết cho mau còn chưa hết nữa là!”
Phong Bá cười ha hả, gọi Vũ Sư: “Đi nào!”, lời vừa ra khỏi miệng, cả hai đã đồng thời biến mất, mọi người chỉ kịp thấy hai luồng gió vút qua mình.
Mấy trăm năm nay, Tứ đại cao thủ Thần Nông mỗi người một cõi, chẳng ai chịu ai, tranh đấu liên miên, đây là lần đầu tiên cả bốn người Xi Vưu, Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công chung tay hợp sức để bảo vệ Trạch Châu thành. Thấy các anh hùng dân tộc mình cùng sát cánh khảng khái chống địch, còn gì cổ vũ được sĩ khí ba quân hơn thế nữa?
Niềm tự hào dân tộc dần bị xói mòn từ khi Du Võng chết đi, một lần nữa lại căng đầy lồng ngực binh lính Thần Nông, khiến toàn quân rộ lên hoan hô vang trời dậy đất.
Toàn thân Ứng Long đầm đìa máu, chỉ biết ngẩng đầu bất lực nhìn ngọn sóng cao ngang trời chực chờ đổ xuống.
Chuyện cũ đột nhiên ùa về trong y. Giữa đầm nước lấp lánh vàng, một con quái vật nửa rồng nửa rắn xấu xí yếu ớt cao ngạo tuyên bố với tất cả cá tôm: sớm muộn sẽ có ngày ta biến thành một con rồng được cả Thủy tộc tôn kính!
Tu hành cả ngàn năm, trải qua mưa dập gió vùi, sấm sét thiêu đốt rút xương rút tủy, cuối cùng y cũng trút bỏ được nửa rắn, trở thành một con rồng hoàn thiện.
Bao nhiêu tráng chí, mộng tưởng…
“Gừ…”
Trong tiếng gầm bi thương, Ứng Long bất lực cúi gục đầu, chỉ chờ có thế, ngọn sóng cao ngất kia lập tức ầm ầm ập xuống, chấn động cả đất trời.
Nhưng ngọn thác khổng lồ lại chẳng hề trút xuống Ứng Long, bởi một con cá xanh khổng lồ đã chắn trước mặt y, vận linh lực chặn đứng dòng nước lũ, phân ra làm ba phần, cho chảy về ba hướng rồi quẫy đuôi giương vây, dẫn dắt thế nước từ từ đổ xuống.
Ầm ầm… Ầm ầm…
Con cá xanh đỡ hộ y một đòn nặng nhất, đoạn vội vã bơi đi. Nước lũ tiếp tục trút xuống người Ứng Long ào ào như xối, nhưng dù sao y cũng là rồng, thân mang trọng thương nhưng thừa sức ứng phó chút nước này.
Ứng Long dùng tiếng Thủy tộc âm thầm cảm tạ nhưng con cá kia chẳng buồn để ý, nó đột ngột teo nhỏ thân mình lại chút ít, quẫy đuôi quay vòng vòng giữa dòng như bông vụ, vừa quay vừa lao phăng phăng về phía trước, lập tức quanh người nó hình thành xoáy nước khổng lồ, cuốn theo nước lũ xa khỏi Trạch Châu thành.
Ứng Long yên lòng nhắm mắt, mặc cho sóng gió cuốn mình ra đại dương. Giống cá dám vênh váo nghênh ngang cả với loài rồng như y chắc chỉ có thần Côn Bắc Minh trong truyền thuyết. Loài cá vạn năm khó gặp này đã xuất hiện, hẳn trận hồng thủy này sẽ bị đẩy lùi thôi.
Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đều cố ý che giấu thân phận nên Di Bành chẳng hề trông thấy bọn họ, chỉ thấy một con cá xanh khổng lồ xuất hiện, trận hồng thủy sắp nhấn chìm cả Trạch Châu thành trong chớp mắt bị ba luồng linh lực mạnh mẽ phân ra, dẫn về ba hướng rồi lần lượt đổ vào ba con sông, tuy dọc đường đã cuốn phăng vô số ruộng nương nhà cửa, để lại vô số cảnh tan tác tiêu điều, nhưng sau cùng cũng chỉ như ba con rồng dữ bị thuần phục, chẳng tác oai tác quái được là bao.
Tuy hậm hực thất vọng, Di Bành vẫn ứng biến hết sức nhanh chóng, lập tức lệnh cho Hiên Viên Hưu đem quân tiến công vào thành. Dù Thần Nông tộc tìm được cách đẩy lui hồng thủy, nhưng toàn bộ linh lực đã dồn vào lo cứu lụt, lực lượng phòng vệ ắt sẽ rất yếu.
Đại quân thừa nước đục thả câu, ùn ùn tiến về phía Trạch Châu thành, đột nhiên, chúng trông thấy một gã đàn ông áo đỏ xếp bằng ngồi trên thành lâu.
“Xi Vưu, là Xi Vưu!”
Quân Hiên Viên đều biết, Xi Vưu cầm quân không khai chiến thì thôi, đã khai chiến, hắn sẽ tàn sát chẳng còn một mống. Thậm chí, rất nhiều người đồn đại rằng hắn thích lấy máu người nhuộm máu nên áo hắn mới đỏ rực như vậy. Nghe tin Xi Vưu bỏ mạng, quân tướng Hiên Viên đều thở phào nhẹ nhõm, nào ngờ hiện giờ hắn lại thình lình xuất hiện trên thành như ma quỷ, khiến bọn chúng trố cả mắt.
Hiên Viên Hưu hốt hoảng hỏi Di Bành: “Chẳng phải hắn chết rồi ư? Sao tự dưng lại lòi ra thế? Giờ tính sao đây?”
Di Bành chắc mẩm lực lượng phòng vệ Trạch Châu hiện giờ rất mỏng nhưng nhìn Xi Vưu ngạo nghễ trên thành, chẳng nói chẳng rằng, cười nửa miệng nhìn xuống dưới, hắn lại phân vân do dự.
Tấn công? Hay là không?
Xi Vưu cười giễu cượt: “Các ngươi có đánh hay không nào?”
Di Bành quay sang hỏi Hiên Viên Hưu: “Chi bằng ta rút quân, lùi lại ba mươi dặm, Ngũ ca thấy sao?”
Hiên Viên Hưu tán đồng ngay: “Ta cũng nghĩ thế. Lương thảo của chúng chẳng cầm cự được bao lâu nữa đâu, sớm muộn cũng phải đầu hàng thôi, ta khỏi cần tốn công nhọc sức.”
Di Bành nhếch mép, âm thầm nhìn Xi Vưu cười lạnh.
Thấy quân Hiên Viên rục rịch rút lui, Xi Vưu như trút được gánh nặng. Hắn đi đứng cũng khó khăn, nói gì đến chiến đấu, nãy giờ đều là gắng gượng đóng kịch mà thôi, chỉ cần một tên tướng lĩnh Thần tộc bình thường xông lên cũng thừa sức hạ gục hắn rồi.
A Hành nấp trong góc khuất quan sát, bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm. Xa xa, đồng hoang quanh Trạch Châu thành trắng xóa nước ngập, vô số ruộng nương nhà cửa tiêu điều tan tác. Trong chiến tranh, nhìn từ góc độ nào đó, cả hai bên tham chiến đều thất bại.
Cộng Công dẫn binh lính quay lại đầu tiên, quả không hổ là Thủy thần, chỉ có vài thuộc hạ bị thương nhẹ.
Lát sau, Chúc Dung và Hậu Thổ lũ lượt dẫn quân trở về, sắc mặt Hậu Thổ tái nhợt, Chúc Dung còn thảm hại hơn, tóc tai bù xù, ngọn lửa ngũ sắc thếp vàng trên áo dính đầy bùn đất, đám thuộc hạ có hai tên bị trọng thương. Xem ra, dù thần lực cao đến đâu chăng nữa, cũng khó mà chống chọi được với thiên nhiên.
Ngay sau đó Phong Bá và Vũ Sư dẫn theo quân sĩ cười cười nói nói quay trở về, cả đoàn người cạn kiệt linh lực, đi đứng loạng choạng nhưng ai nấy đều hớn hở như mở cờ trong bụng, chẳng có vẻ gì là vừa từ cõi chết trở về.
Hóa giải được đại nạn, tất cả đều hân hoan mừng rỡ, nói cười rộn rã.
Phong Bá ngồi phịch xuống đất, tựa vào tường, cao giọng: “Cuối cùng cũng xong. Chi bằng mọi người uống rượu ăn mừng luôn?”
…
Thoắt chốc, không khí vui mừng chợt tan biến. Tất cả đều yên lặng, chẳng nói chẳng rằng, câu hỏi của Phong Bá rơi tõm vào thinh không.
Chúc Dung không buồn chào hỏi, cưỡi Tất Phương điểu bay mất đi.
Cộng Công định nói gì đó, nhưng chẳng biết phải nói gì, mấy trăm năm đấu đá liên miên, tuy chưa tới nỗi không đội trời chung như Xi Vưu và Chúc Dung, nhưng hắn và Xi Vưu cũng bằng mặt chẳng bằng lòng. Hắn đành chắp tay xá xá Xi Vưu rồi cưỡi Tập Tập ngư đi thẳng.
Phong Bá thấy vậy đành lẩm bẩm: “Xem như ta chưa nói gì đi!”
Hậu Thổ cười với Xi Vưu, Phong Bá và Vũ Sư, khách khí cáo từ: “Quân Hiên Viên còn quanh quẩn ngoài trướng của ta, ta cũng phải đi đây, rượu mừng xin hẹn lần sau vậy!” Dứt lời, Hóa xà đã cõng gã bay vút đi.
Xi Vưu nãy giờ vẫn đứng đó cười cười không nói, đột nhiên phun ra một búng máu, ngã ngửa ra sau ngất lịm. Phong Bá hốt hoảng, cuống quýt gọi thầy thuốc.
Thầy thuốc chẩn bệnh xong tái mặt ấp úng: “Tinh khí kiệt quệ, nguyên thần tán loạn, e rằng, e rằng… phải chuẩn bị hậu sự thôi.”
Phong Bá nghe nói sững cả người, bốn tên Si Mỵ Võng Lượng lập tức túm lấy thầy thuốc, vung tay định đánh: “Ngươi nói gì hả?”
A Hành nấp đằng sau thấy vậy liền nhào tới xem xét thân thể Xi Vưu: “Xi Vưu đã bị trọng thương, không chịu tĩnh tâm trị liệu còn hao tổn tinh nguyên, dùng thọ mạng hoán đổi linh lực, khiến thương thế nặng hơn, nếu không cứu chữa kịp thời, e rằng sẽ nguy đến tính mệnh.”
Phong Bá vội hỏi: “Cách tu luyện của Xi Vưu khác hẳn bọn ta nên ta không dám truyền bừa linh lực vào người huynh ấy, liệu có cách nào cứu được không?”
A Hành ngẫm nghĩ một hồi, đoạn đáp: “Ngươi tin ta không? Nếu tin thì giao Xi Vưu cho ta, ta nhất định cứu được chàng.”
Phong Bá không biết A Hành là ai, nhưng nhìn lời nói, cử chỉ của Xi Vưu, hắn cảm thấy tình nhân của Xi Vưu rất có vấn đề, bằng không Xi Vưu ngang ngược liều lĩnh như vậy, hà cớ gì phải đau khổ nhẫn nhịn bấy nhiêu năm?
Đương lúc Phong Bá phân vân do dự, Vũ Sư nãy giờ lặng thinh bỗng khàn khàn cất tiếng: “Xi Vưu đã chọn cô nên ta tin cô.” Thấy Vũ Sư gật đầu ra hiệu cho mình, lại nghĩ đến Xi Vưu đang cơn nguy kịch, Phong Bá đành quyết định: “Ta tin cô.”
“Vậy giao Xi Vưu cho ta. Đợi khi chàng tỉnh lại, linh lực sẽ còn cao hơn bây giờ nữa!” A Hành bế Xi Vưu lên, gọi A Tệ và Tiêu Dao lại nói nhỏ: “Đến Cửu Lê.”
Hoa đào đã nở đỏ sườn núi Cửu Lê, rạng rỡ hơn nắng sớm, mỹ lệ hơn ráng chiều.
Tế đài trắng toát sừng sững giữa rừng hoa, cổ kính tang thương, nghiêm trang tịch mịch.
Dưới bóng hoa rơi rợp trời, những chiếc chuông gió quanh tế đài đinh đinh đang đang, ngân nga reo rắt theo làn gió xuân hây hẩy, như gần như xa. A Hành bề Xi Vưu men theo thềm đá bước lên đài, rồi đặt hắn nằm xuống chính giữa đài tế. Tiêu Dao và A Tệ đã tự động lẩn vào rừng đào, vừa nghỉ ngơi vừa nô giỡn.
Bầu trời tối đen như mực, còn hơn ba canh giờ nữa mới tới bình minh.
A Hành nằm xuống cạnh Xi Vưu, gối lên tay hắn, âu yếm ngắm hắn thiêm thiếp ngủ, ngón tay khe khẽ vuốt ve gương mặt hắn, đắm chìm trong mùi đàn ông phả ra từ hắn, bao lo lắng muộn phiền dồn nén suốt một năm qua đều tan biến cả.
Từ khi quen nhau đến giờ, bọn họ chẳng bao giờ có dịp chuyện trò tâm sự, lúc vắng bóng thì thấy nôn nao trăm ý ngàn lời muốn tỏ bày, nhưng hễ gặp gỡ lại chẳng thốt ra được câu nào.
A Hành tựa vào lòng Xi Vưu, nhắm nghiền mắt thiếp đi.
Đằng Đông dần dần hửng sáng, vầng dương đã bắt đầu nhô lên, nỗ lực xuyên qua tầng mây dày đặc cuối trời, tỏa nắng xuống nhân gian, để vạn vật sinh sôi nảy nở.
A Hành ngồi dậy ngước mắt chăm chú ngắm mặt trời, như thể cảm nhận được những vật lộn và cố gắng không ngừng nghỉ của nó, từng chút từng chút một, bể mây cuồn cuộn mịt mờ cũng bị ánh dương xuyên thấu.
Sau cùng, vầng thái dương cũng nhô hẳn lên, xua tan bóng đêm mù mịt, cả chân trời chan hòa trong ánh nắng mai.
A Hành chẳng nề lòa mắt, cứ đăm đăm nhìn thẳng vào vầng mặt trời vừa ló xuất hiện, tay nắm chặt lấy tay Xi Vưu. Có lẽ tiếp sau bóng tối vẫn là bóng tối, nhưng chỉ cần kiên trì vượt qua vô số bóng tối mênh mông, hẳn sẽ thấy lóe lên một tia sáng cuối đường.
Xi Vưu từ từ mở mắt, thấy nắng vàng ươm rực rỡ quanh mình, đẹp như gấm lụa, nhưng hết thảy những mỹ lệ chói lòa đó đều không sánh nổi người con gái đang nắm tay hắn, ngồi bên cạnh hắn lúc này.
Lòng Xi Vưu rộn lên vui sướng, khẽ thì thầm: “A Hành, chúng mình lại về nhà rồi.”
A Hành đặt ngón tay lên môi hắn lắc đầu, tỏ ý đừng lên tiếng. Nàng cúi đầu lặng thinh ngắm hắn, đầu mày cuối mắt chứa chan tình ý, vấn vấn vương vương, triền miên khắc cốt. Linh lực của A Hành mang theo năng lượng mặt trời từ từ chảy vào thân thể Xi Vưu, khiến lục phủ ngũ tạng, xương cốt tay chân hắn đều giãn ra khoan khoái, đôi mắt từ từ khép lại, ý thức dần chìm vào bóng đêm thăm thẳm dịu dàng, hắn thấy mình bị bao bọc trong một lớp vỏ dày thật dày, dường như đã biến thành một hạt giống vậy, chỉ đợi gieo xuống mảnh đất màu mỡ là nảy mầm bén rễ rồi lớn lên.
Thương thế Xi Vưu dần dần ổn định, nhưng hai tay và vai A Hành lại rộp lên vì bỏng, chỗ đỏ chỗ đen loang lổ, đau đến run bắn người lên. Nàng nén đau bế Xi Vưu bước vào rừng đào, Tiêu Dao lập tức đậu ngay xuống trước mặt.
A Hành hỏi: “Lần này Xi Vưu bị thương rất nặng, nếu linh thể không được bảo quản tại một nơi dồi dào linh khí như Quy khư, e rằng đã hồn phi phách tán từ lâu. Ta nghĩ mãi, thấy nơi ấy chỉ có thể là thành địa Bắc Minh trong truyền thuyết mà thôi, chính mày đã cứu chàng đúng không?”
Tiêu Dao ngẩng cao đầu quác lên một tiếng đầy đắc ý.
“Giữa chàng và mày, chắc chàng sẽ không nói lời cảm tạ đâu, nhưng ta vẫn phải cảm ơn mày.” A Hành giao Xi Vưu cho Tiêu Dao rồi chắp tay hành lễ với nó, “Chàng liều mạng tới tìm ta, đã hao phí quá nhiều tinh nguyên, nếu không lập tức điều dưỡng, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể linh hủy thể tiêu. Bây giờ thiên hạ đang chia năm xẻ bảy, cứ theo tính tình Xi Vưu, ắt chẳng chịu ngồi yên mà dưỡng thương, nên ta đã phong bế linh thức của chàng lại, phiền mày đưa chàng đến Bắc Minh tĩnh dưỡng. Lần sau, khi chàng tỉnh lại, thân thể sẽ khôi phục hoàn toàn, linh lực cũng tiến lên một tầng cao mới.”
Nghe A Hành dặn dò, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu sải cánh bay vút về phía cuối trời. A Tệ ngẩng đầu trông theo, hú lên buồn bã.
A Hành đứng lặng dưới gốc đào hút mắt nhìn theo Tiêu Dao, mãi đến khi bóng chim khuất giữa ngàn mây, nàng vẫn chưa thôi ngơ ngẩn trông vời.
Hồi lâu, nàng quay đầu lại, bắt gặp đôi mắt to tròn long lanh của A Tệ chăm chú nhìn mình như đang hỏi: Mùa hoa đào sang năm lại được cùng Xi Vưu và Tiêu Dao chơi đùa chứ?
Đối diện với ánh mắt chứa chan hy vọng của A Tệ, A Hành nghe lòng xót xa khôn tả, lệ tràn khóe mắt. A Tệ nào biết được cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế đã thay đổi vận mệnh cả đại hoang, nó càng không hiểu cái chết của Thanh Dương đã ngăn cách nàng và Xi Vưu mỗi người một bờ chiến tuyến, sông lớn có thể chèo thuyền mà sang, núi cao có thể cưỡi chim mà lên, nhưng còn hài cốt của người thân sao nỡ bước qua đây?
Hoa đào lả tả ngợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyện xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.
Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.
Từ nay về sau, mỗi mùa đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.
A Hành ròng ròng nước mắt, cắn ngón trỏ vạch lên thân cây một hàng chữ bằng máu: “Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”
Quyển2 –Chương10: Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu[1
Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.
Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.
[1] Câu thơ trích trong tiểu thuyết Hoa nguyệt của Hoàng Tử An, thời nhà Thanh, (ND)
Đợi suốt đêm chẳng thấy A Hành, Xương Ý đang phát hoảng lên vì lo sợ thì bắt gặp nàng quay lại, y thở phào nhẹ nhõm, khẽ trách: “Muội chạy đi đâu thế? Làm ta đợi mãi.”
A Hành cúi đầu làm thinh, vừa lúc đó, Di Bành tươi cười bước vào: “Phải rồi, có tin này chẳng hay Tứ ca đã biết chưa, Xi Vưu vẫn còn sống sờ sờ.”
Xương Ý kinh ngạc quay sang A Hành: “Thật ư?”
Di Bành cướp lời đáp: “Hôm qua, rất nhiều người trông thấy Xi Vưu đứng trên Trạch Châu thành, chẳng phải hôm qua tiểu muội cũng tới Trạch Châu ư? Lẽ nào không thấy hắn?”
Xương Ý trừng mắt nhìn A Hành đầy đau xót rồi đột ngột quay lưng đi thẳng.
A Hành căm hận lườm Di Bành, đoạn vội vã đuổi theo Xương Ý.
“Tứ ca, Tứ ca…”
Xương Ý đanh mặt lại, bỏ ngoài tai tiếng gọi của nàng, đi thẳng vào phòng, quay mình toan đóng cửa nhưng A Hành đã nhanh tay đẩy cửa ra lách người vào. Xương Ý ngồi bịch xuống trước bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn ngực, như đang nhập định. Mặc A Hành cười xí xóa, huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác, y vẫn lặng yên.
“Tứ ca, huynh nói gì đi chứ.”
Xương Ý làm thinh, không trách cứ một lời khiến A Hành thấy lòng đau đớn như dao cắt. Từ nhỏ đến lớn, Tứ ca luôn chiều theo ý nàng, bất kể nàng bày trò gì, gây ra họa lớn đến đâu, y cũng chỉ lắc đầu cười khổ: “Ai bảo muội là muội muội của ta chứ.”
A Hành vội lắc lắc tay Xương Ý, rơm rớm nước mắt khẩn cầu: “Tứ ca, huynh cứ đánh cứ mắng muội đi, đừng bỏ mặc muội như thế này, muội chỉ còn một ca ca là huynh thôi mà.”
Xương Ý nghẹn ngào nói: “Ta chẳng còn vị ca ca nào nữa cả, muội quên Đại ca đã chết thế nào rồi ư?”
A Hành run lên bần bật, khẽ đáp: “Muội không quên đâu!”
“Vậy đêm qua muội đi đâu?”
Gương mặt A Hành lộ vẻ bi thương, nàng lặng thinh không nói.
Xương Ý gằn giọng: “A Hành, cả đời này, ta sẽ không tha thứ cho Xi Vưu đâu!”
A Hành gục đầu xuống, buồn thảm đáp: “Muội biết chứ, muội đã nói rõ với chàng rồi, từ nay về sau, muội sẽ không gặp lại chàng nữa.”
Nghe nàng nói vậy, cơn giận của Xương Ý nguôi dần, thay vào đó là bi ai khôn xiết. Y chẳng muốn bức bách em gái, nhưng cũng không thể chấp nhận để em gái mình ở bên kẻ thù giết Đại ca.
Đột nhiên, Bán Hạ ở ngoài gõ gõ vào song cửa gọi: “Vương cơ.”
A Hành gắng lấy lại bình tĩnh, hé cửa sổ ra, “Gì thế?”
Bán Hạ ghé tai nàng thì thầm mấy câu, A Hành gật đầu rồi quay lại bảo Xương Ý: “Tứ ca, huynh dắt Liệt Dương đi tìm Di Bành, cầm chân hắn dùm muội, muội ra ngoài có chút việc.”
Thấy A Hành lộ vẻ căng thẳng, hơn nữa Bán Hạ là thân tín do Đại ca đích thân huấn luyện, Xương Ý liền đứng dậy: “Muội đi đi, Di Bành cứ giao cho ta và Liệt Dương.”
Bán Hạ dẫn A Hành ra khỏi dịch quán, đi thẳng vào rừng, vừa đến nơi, một nữ tử áo trắng nấp trong bóng tối lập tức bước tới đón nàng, chính là Vân Tang mấy hôm nay không gặp.
A Hành tinh ý, thấy cổ tay Vân Tang hằn lên vết dây trói, vội kinh hoàng hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế, kẻ nào to gan dám trói tỷ vậy?”
Vân Tang buồn bã: “Di Bành và Hậu Thổ đều muốn ngăn Thanh Dương kết hôn với ta. Di Bành bày kế cho Hậu Thổ, chỉ cần bắt giam ta mười ngày, hắn sẽ có cách khiến Hoàng Đế thay đổi chủ ý, Hậu Thổ nghe lời, bèn trói ta nhốt lại. Hôm qua, nhân lúc hắn tất tả ra ngoài, ta liền bỏ trốn, về sau mới nghe nói hắn đi giúp Xi Vưu ngăn lũ. Bao năm nay hắn tranh giành binh quyền với Xi Vưu, thế như nước lửa, vậy mà lần này lại ra tay tương trợ Xi Vưu, không so đo chuyện cũ, xem ra dù hắn hồ đồ chuyện nhỏ, nhưng việc lớn vẫn chu toàn.”
“Di Bành ngăn cản việc kết thông gia vì là căm hận bọn muội, sao Hậu Thổ lại giúp hắn?”
Vân Tang luôn canh cánh mối hận Hiên Viên suýt nữa nhấn chìm Trạch Châu, liền lạnh lùng châm chọc: “Muội sợ Hậu Thổ đầu quân cho Di Bành, đối địch với muội ư? Gã vẫn hàm ơn muội đã bảo vệ mình hồi nhỏ, lại ghét Di Bành nham hiểm tàn độc, nhất định không về phe Di Bành đâu, lần này chúng lợi dụng lẫn nhau đấy thôi.”
“Muội, muội… Hậu Thổ đệ ấy…”
“Đây là chuyện riêng của Thần Nông tộc chúng ta, muội thân là vương cơ Hiên Viên, chớ nên hỏi nhiều.”
Nghe Vân Tang nói, A Hành chợt thấy nghẹn ngào chua xót. Chiến tranh đã đập nát mọi thứ, bao gồm cả tình nghĩa giữa nàng và Vân Tang.
Nhìn nét mặt A Hành, lại hồi tưởng tình thân thuở trước, lòng Vân Tang cũng quặn thắt bi thương, nhưng chẳng biết nói gì, đành kiếm chủ để khác để xoa dịu: “Xi Vưu vẫn còn sống, chúc mừng muội muội.”
A Hành hiểu tâm ý Vân Tang, lòng cũng vơi bớt đôi phần, cười đáp: “Muội cũng chúc mừng tỷ tỷ.”
Vân Tang gật đầu cười, “Mộc Cận đúng là trẻ con, nghe nói Xi Vưu vẫn còn sống bèn tức tốc chạy đến Trạch Châu nhưng không gặp, bèn tức tối báo với ta rằng Xi Vưu trọng thương, bị một yêu nữ đưa đi, đòi ta phái thêm người giúp muội ấy truy tìm yêu nữ kia.” Vân Tang thở dài, “Chắc muội cũng nhận ra Mộc Cận trước giờ nhất mực rất si tình với Xi Vưu, nhưng Xi Vưu chỉ dửng dưng. Muội ấy không biết chuyện giữa Xi Vưu và muội, lỡ như có gì mạo phạm, muội cũng đừng đa nghi ngờ vực Xi Vưu, nên thông cảm cho hắn một chút.”
A Hành khẽ nói: “Muội và Xi Vưu không thể sống bên nhau được, từ nay về sau, muội là muội, hắn là hắn.”
Vân Tang lặng người đi, cuộc chiến này đã xoay chuyển vận mệnh thiên hạ, cũng thay đổi luôn số phận của họ. Lát sau, nàng lại hỏi: “Giờ Xi Vưu đang ở đâu? Thương thế của hắn bao lâu nữa mới lành?”
“Muội đã nhờ Tiêu Dao đưa hắn tới nơi an toàn để dưỡng thương rồi. Đường lối tu luyện của Xi Vưu rất quái dị, có lẽ dăm ba năm là khỏi thôi.”
Vân Tang trầm tư hồi lâu, đoạn nói: “Muội lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông về đỉnh Tử Kim đi, ta sẽ tuyên bố nhận lời gả cho Thanh Dương.”
“Tỷ nghĩ kỹ rồi chứ?”
“Đại quân Hiên Viên vẫn đóng ngoài Trạch Châu thành, nếu đổi lại là muội, muội có thể cự tuyệt yêu cầu của Hoàng Đế chăng? Hai chúng ta đều hiểu Hoàng Đế muốn kết thông gia nhằm tạo cầu nối, tiến tới thu phục các bộ tộc Thần Nông dễ dàng hơn, ta cũng nhận lời gả cho Thanh Dương để đổi lấy hòa bình tạm thời, tranh thủ thời gian cho Xi Vưu thôi.”
A Hành trầm ngâm giây lát: “Muội sẽ đi thông báo với Tứ ca, lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông.”
“Muội thưa lại với Hoàng Đế, tuy ta chấp nhận hôn sự, nhưng còn phải để tang mấy năm cho Du Võng, mong Hoàng Đế hãy tôn trọng lễ tiết Thần Nông.”
“Được!”
Khi A Hành và Vân Tang đến Tử Kim thành, Xương Ý và chư hầu các bên đã tề tựu đông đủ.
Vân Tang cười nhạt bảo A Hành: “Dạo trước mời mọc gãy lưỡi nào thấy mấy tên này đến, hôm nay Hiên Viên vừa hô một tiếng đã có mặt đông đủ. Thần Nông khó khăn lắm mới thắng được một trận, vậy mà chúng càng lúc càng chịu khó khom lưng uốn gối, chỉ nơm nớp sợ Hoàng Đế trút giận lên đầu thôi.”
A Hành cúi đầu nói nhỏ: “Đây là chuyện của Hiên Viên và Thần Nông, vương phi Cao Tân như muội không vào thì hơn.”
Vân Tang gật đầu với nàng, đoạn tiến thẳng vào đại điện.
Nghe tiếng, hết thảy mọi ánh mắt trong điện đều dồn về phía Vân Tang, chỉ thấy nàng mặc váy trắng, đứng ngay cửa điện, dáng như cây ngọc, anh khí bất phàm.
Bị phong thái của nàng chấn nhiếp, mọi người không hẹn mà lần lượt đứng cả dậy.
Đột nhiên, Vân Tang nhớ lại lần đầu tiên bước vào tòa đại điện này thuở nhỏ, nàng đã chỉ lên ngọc đài, nơi đặt vương tọa, hỏi phụ vương: “Sao thị vệ không cho con lên đó chơi?”
Phụ vương đáp: “Người đứng trên đó phải gánh vác mọi vui buồn hờn giận của muôn dân thiên hạ, con còn quá nhỏ, gánh không nổi đâu.”
“Vậy chừng nào con lớn, đủ sức gánh vác, có thể đứng trên đó ư?”
Phụ vương khẽ búng mũi nàng, cười xòa: “Tốt hơn hết là đừng bao giờ có ngày đó.”
Vân Tang nghiêm trang bước qua khung cửa cao cao, tiến vào đại điện, gót sen hương vướng, gió động màn là khiến khắp điện sực lên ngan ngát.
Nàng lướt qua bấy nhiêu chư hầu đang ngây ngẩn, bước tới trước ngọc đài, ngẩng đầu nhìn lên vương tọa bỏ không, như thể trông thấy phụ vương ngồi đó mỉm cười nhìn mình. Mãi đến hôm nay, nàng mới hiểu được nỗi bi ai lặn sâu trong mắt phụ vương.
Vân Tang nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu rồi bước lên ngọc đài, mỉm cười quay lại.
“Vương cơ!” Hậu Thổ từ trên không nhảy xuống, lao thẳng vào điện.
Vân Tang đưa mắt nhìn đám người bên dưới, phớt lờ tiếng gọi của Hậu Thổ, cao giọng tuyên bố: “Thần Nông Vân Tang ta bằng lòng kết hôn với Hiên Viên Thanh Dương.”
Tiếng hoan hô chúc mừng lập tức dậy lên khắp điện đài, át hẳn tiếng gọi tha thiết của Hậu Thổ.
Chỉ một câu, là dâu bể đổi dời, cỏ hoa tàn tạ.
Hậu Thổ đờ người giữa đại điện, mặt như tro tàn, hai mắt trừng trừng dán chặt vào Vân Tang.Vì sao? Vì sao nàng không tin ta có thể bảo vệ trăm họ Thần Nông? Vì sao nàng không để ta đem lại yên bình cho nàng?
Vân Tang một mực mỉm cười nhìn gã, vẻ kiên quyết lộ ra ánh mắt. Ta là Trưởng vương cơ Thần Nông, đây là trách nhiệm của ta! Ta có việc của ta, ngươi cũng có việc của ngươi!
Giữa tiếng cười nói chúc tụng, giữa trùng trùng nhân ảnh, giữa đại đại điện chói lọi vàng son, lung linh châu ngọc… Hậu Thổ khó nhọc quay mình, lết tấm thân đờ dại xuyên qua đám người huyên náo, ra khỏi đại điện.
Hóa xà đã đợi sẵn một bên nhưng gã nhìn mà như không thấy, chỉ men theo thềm điện, lê bước chân cứng ngắc xuống núi.
Bóng Hậu Thổ nhỏ dần nhỏ dần rồi từ từ khuất sau những bậc thềm quanh co ngoắt ngoéo.
Vân Tang đứng giữa thềm ngọc cao cao, đăm đăm trông ra ngoài điện, nụ cười tươi tắn vẫn nguyên vẹn trên môi, eo lưng thẳng tắp.
Vừa về đến Hiên Viên thành, Xương Ý và A Hành đã bị vây chặt giữa đám quần thần tới chúc tụng. Đám đông xúm quanh Xương Ý cười cười nói nói, hàn huyên trò chuyện xôn xao, chỉ có độc Di Bành lẻ loi lút cút đi sau.
Biết ý Hoàng Đế không vui về chuyện ở Trạch Châu, mọi người cũng lợt lạt hẳn đi với Di Bành. Khi trước, hắn chiến công hiển hách, được Hoàng Đế trọng thưởng liên tiếp nên đám triều thần nhất mực vây quanh bợ đỡ, có điều giờ đây gió đã đổi chiều, bao vinh quang xưa đều trở thành quá khứ.
A Hành lẳng lặng quan sát Di Bành nhưng chẳng bao lâu hắn đã phát hiện ra, bèn quay lại cười nhạt với nàng, ánh mắt đầy giễu cợt.
A Hành chợt thấy rùng mình, nàng và Di Bành đều biết, Hoàng Đế làm bộ khiển trách Di Bành như vậy, nhưng thực tế chẳng hề trừng phạt nặng nề gì, mọi thứ mới chỉ bắt đầu mà thôi!
Hoàng Đế ban thưởng cho Xương Ý thật hậu. Đợi hoàn tất mọi lễ tiết, quần thần đều đã cáo lui, chỉ còn lại mấy người bọn họ, Hoàng Đế bèn phán bảo A Hành: “Ta vốn muốn giữ con lại chăm lo cho mẫu hậu một thời gian nữa, nhưng Thiếu Hạo đã phái sứ thần tới đón con về, ta cũng không tiện níu kéo. Hơn nữa, Thanh Dương vẫn phải ở Quy khư bế quan trị thương, con về Cao Tân, nó cũng có người săn sóc.”
A Hành vội dập đầu từ biệt Hoàng Đế: “Con phải về thôi, lần này đi lâu như vậy, cũng là Thiếu Hạo phá lệ đặc cách rồi.”
Hoàng Đế bèn đỡ A Hành dậy, ôn tồn nói: “Con cùng Thiếu Hạo quả là trắc trở, thành hôn chưa lâu thì xảy ra chuyện ở Ngu uyên, con vừa khá lên lại tới lượt Thanh Dương trọng thương, đến giờ mới được sóng yên biển lặng. Con nên về bên Thiếu Hạo, sớm sinh cho nó một đứa con, bằng không dù ta muốn giúp con giành ngôi vương hậu cũng lực bất tòng tâm.”
A Hành dịu dàng đáp: “Phụ vương dạy rất phải.”
Hoàng Đế thở dài: “Con nha đầu này càng lớn càng hay nói dối, con tưởng ta không biết con nghĩ gì hả, con ngỡ ta thèm muốn vương vị Cao Tân chứ gì? Ta là vua một nước, quyền mưu đủ cả, nhưng Hành nhi à, ta cũng là cha con, ta làm vậy là nghĩ cho con thôi.” Nói rồi ông xoa đầu nàng, “Tuấn Đế đời trước vẫn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn, vương vị của Thiếu Hạo còn chưa ổn định, nó ắt sẽ phải cầu đến sự hỗ trợ của các bộ tộc Cao Tân, mà nạp phi là phương pháp đơn giản hữu hiệu nhất, con không thể là người đàn bà duy nhất của nó được, nếu có sự gì, phụ vương nước xa chẳng cứu được lửa gần, chỉ có đứa nhỏ là chỗ dựa lâu dài của con thôi.”
A Hành làm thinh không nói, chỉ mím chặt môi, lộ vẻ quật cường. Hoàng Đế chăm chú nhìn nàng, đột nhiên thấy mệt mỏi vô chừng, bèn xua tay bảo: “Con mau về Triêu Vân phong với mẹ đi, để bà ấy…” Hoàng Đế trầm ngâm, lưỡng lự hoài không nói tiếp, như chẳng hề nhận thấy mình ngập ngừng đã quá lâu, mãi tới khi A Hành ngước lên dò hỏi, ông mới sực tỉnh: “Khuyên bà ấy nên bảo trọng lấy mình.”
“Vâng!”A Hành dập đầu lặng lẽ lui ra.
Sớm hôm sau, A Hành từ biệt mẹ và anh trai, trở về Cao Tân.
Về tới Thừa Ân cung, trời đã ngả chiều, đám cung nữ ra đón nàng thưa: “Bệ hạ đang bận nghị sự, dặn vương phi cứ dùng cơm trước, đừng đợi ngài.”
A Hành gật đầu, đi thẳng vào tẩm cung.
Dọc đường nàng đi san sát đình đài lầu gác, rường cột chạm trổ, tùng bách xanh um tươi tốt, kỳ hoa dị thảo ngan ngát hương đưa, lối trúc bờ sen lại thông thẳng tới một vòm trời khác. A Hành chưa thấy cung điện nào lộng lẫy hơn Thừa Ân cung, chắc hẳn người đời đều cho rằng chủ nhân nơi này rất xa hoa giàu có, nhưng A Hành nghĩ có lẽ Thiếu Hạo cũng chẳng biết bên trong Thừa Ân cung có những gì, bởi cuộc sống của y chỉ gói gọn giữa tẩm cung và chính điện.
A Hành dùng bữa xong, rửa mặt chải đầu tề chỉnh mà Thiếu Hạo vẫn chưa về. Nàng một mình ngồi đợi cũng chán, nhân lúc trăng sáng, bèn ra ngoài tản bộ.
A Hành chẳng mấy thông thạo đường sá, vô tình lại lạc bước tới một khu vườn quen thuộc – chính là Y Thanh viên mà Tuấn Đế yêu thích nhất.Có lẽ Thiếu Hạo chẳng bao giờ lai vãng tới đây, cũng chẳng có phi tần nào qua lại du ngoạn, nên đám cung nhân lười biếng cũng để mặc cho cỏ dại mọc đầy, che kín cả lối đi.
A Hành thả bộ men theo dòng nước quanh co, dưới ánh trăng, rặng trúc bên bờ xanh ngắt một màu, đu đưa trước gió, phất phơ xào xạc, khiến nàng không khỏi chạnh lòng tự hỏi, vị công tử phong lưu nằm dài bên bờ nước, gối đầu lên đá đọc sách giờ đang làm gì? Nếu ông còn ở đây, trước cảnh trăng thanh gió mát thế này, hẳn sẽ thả bước dưới trăng, tay cầm ống tiêu, vừa đi vừa ngâm vịnh dưới bóng trúc nghiêng nghiêng xanh mướt.
“Nàng nghĩ gì thế? Ta vừa đến đã thấy nàng đứng ngây ra đó rồi.” Thiếu Hạo vận bạch y, đạp lên ánh trăng mà đến, đứng ngay cạnh tảng đá xanh bên bờ nước.Y dáng dấp thanh nhã, lại thêm bóng trúc tầng tầng lớp lớp dập dờn xao động sau lưng, thoạt trông chẳng khác nào người đó.
A Hành lặng lẽ thở dài không đáp.
Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng nước chảy róc rách hòa cùng tiếng lá trúc xào xạc, hệt như một khúc nhạc du dương bất tận.
Thiếu Hạo cúi đầu nhìn bóng trăng lấp loáng trên mặt nước, ánh mắt chợt mông lung, “Lâu lắm rồi, ta chẳng có lúc nào bình tâm lắng nghe tiếng nước chảy cả.”
A Hành nghiêng mình ngồi xuống tảng đá bên bờ, “Thiếp chưa kịp hỏi ý kiến chàng về việc kết thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông đã tự tiện đưa ra quyết định mất rồi.”
“Nàng làm đúng lắm, Hoàng Đế muốn thu phục Thần Nông, phải vận dụng cả cứng lẫn mềm, chuyện kết thông gia là đương nhiên thôi, nếu không phải Thanh Dương thì là Di Bành, không phải sống thì là chết, chỉ có một con đường, chúng ta không đi không được.”
“Phụ vương nói hiện giờ chàng đang lâm vào tình thế khó khăn, tốt nhất là dựa vào việc sách phong phi tần để chia rẽ và lôi kéo các gia tộc, chàng đã chọn được ai vừa ý chưa?”
Thiếu Hạo trân trân nhìn A Hành hồi lâu, đoạn cúi đầu hờ hững đáp: “Thân làm đế vương, còn mơ mộng tư tình viển vông sao được. Phụ vương ta một đời ôn nhu đa tình, khiến hai chị em Thường Hy thị thao túng hậu cung, ảnh hưởng cả tới triều chính. Hoàng Đế anh minh thần võ, nhưng cứ dùng dằng mãi không giải quyết được chuyện giữa mẫu hậu nàng và Đồng Ngư thị, đến nỗi tranh đấu hậu cung suýt biến thành mối họa thiên hạ. Thấy bao nhiêu vết xe đổ đó, ta nào dám có tình cảm với ai nữa chứ?”
A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo. Tuy ngoài miệng y khăng khăng không mơ mộng viển vông, nhưng từ lúc đăng cơ tới giờ, mặc cho đế vị chông chênh, y vẫn nhất quyết chẳng nạp thêm phi tần, có lẽ không chỉ ôn nhu đa tình mới được gọi là nặng tình vương vấn, lạnh nhạt hờ hững có khi cũng là tình cảm đấy thôi.
“Chàng còn nhớ giao ước khi xưa của chúng ta không? Thiếp giúp chàng đăng cơ, chàng cho thiếp tự do, nhưng tình hình hiện giờ, thiếp không thể ra đi được nữa, có thể đổi điều kiện khác không?”
Thiếu Hạo giật thót mình, phải trấn tĩnh giây lát mới dè dặt hỏi: “Điều kiện gì?”
“Thiếp có mang rồi.”
Thiếu Hạo lặng người không đáp, chẳng rõ tâm tình biến chuyển ra sao.
A Hành nài nỉ: “Thiếp biết, bắt chàng nhận đứa nhỏ này làm con đúng là làm khó cho chàng, thiếp chỉ mong chàng cho nó mang họ Cao Tân, để nó bình yên trưởng thành mà thôi. Thiếp sẽ viết huyết thư nói rõ thân thế của nó, nhất định nó không dám tranh giành đế vị đâu…”
“Đứa trẻ này là máu mủ ruột rà của ta mà, chẳng phải ta đã nói từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương ư?”
A Hành giàn giụa nước mắt, liền phục xuống lạy tạ Thiếu Hạo, “Đa tạ chàng.” Nào ngờ cả người nàng chợt mềm nhũn, ngã dụi xuống đất. Thiếu Hạo vội vã đỡ lấy, đưa tay thăm mạch, không che giấu được vẻ kinh hoàng: “Sao mạch tượng của nàng loạn lên thế này? Để ta gọi thầy thuốc nhé?”
A Hành gượng cười, “Chàng đừng quên sư phụ thiếp là ai chứ, thân thể thiếp thiếp tự biết mà, vừa nãy thiếp có uống ít thuốc…” Nàng ghé tai Thiếu Hạo nói nhỏ mấy câu.
Thiếu Hạo hỏi ngay: “Liệu có nguy đến tính mạng không?”
A Hành cười, “Ai sinh con mà chẳng mạo hiểm? Không sao đâu, chàng đừng lo, chỉ cần phối hợp cùng thiếp diễn cho trót lọt là được.”
Thiếu Hạo bế nàng đưa về tẩm cung, chờ đám thị nữ sắp xếp cho nàng nghỉ ngơi rồi mới lui ra. Đột nhiên, A Hành nắm lấy tay áo Thiếu Hạo, đưa mắt nhìn y.
Thiếu Hạo hiểu ý, liền quay sang lệnh cho đám thị nữ đứng hầu phía sau: “Tối nay ta sẽ nghỉ lại đây.”
Mấy ả thị nữ nhìn nhau, hầu hạ Thiếu Hạo rửa mặt rồi đồng loạt lui ra.
Giữa đêm khuya, chỉ còn A Hành và Thiếu Hạo nằm song song trên giường, mỗi người ôm một bầu tâm sự.
Ban ngày A Hành đã uống thuốc nên bây giờ dược tính phát tác, tuy khắp người rời rã nhưng không sao ngủ được.
Thiếu Hạo trở mình quay sang, đặt tay lên trán nàng, từ từ truyền năng lượng thủy linh nhu nhuyễn dịu dàng vào người A Hành, giúp nàng bớt bứt rứt khó chịu, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.
“Cảm ơn chàng.”
“Xi Vưu biết chuyện đứa nhỏ chưa?”
A Hành buồn ngủ đến ríu cả mắt, mơ mơ màng màng đáp: “Chưa biết.”
“Nàng có định cho hắn biết không?”
Không nghe tiếng đáp, A Hành đã mê mệt thiếp đi. Thiếu Hạo vẫn đặt tay trên đầu nàng hồi lâu mới thu tay về.
Y khẽ khàng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.
Ánh trăng trong len qua khung cửa gỗ tùng xanh tràn vào phòng như thủy ngân, rọi xuống mặt đất thành từng vũng trăng biêng biếc lập lòe. Bóng cây ngoài song lay động, bóng trăng dưới đất cũng dập dờn theo, chẳng khác nào muôn ngàn đợt sóng. Nhớ lại, sau khi bọn họ thành hôn, lần đầu tiên thẳng thắn trao đổi, kết thành đồng minh, cũng vào một đêm trăng thanh gió mát thế này, đêm ấy, y cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ.
Nếu thời gian có quay trở lại để y được lựa chọn lần nữa, liệu y sẽ chọn cái gì đây?
“Làm vương tử phi, hay làm vợ của chàng?”
“Vợ là người đời này kiếp này chỉ có một mà thôi.”
Giọng nói trong trẻo của A Hành vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng y chẳng còn cơ hội trả lời lại nữa.
Vì Vân Tang đã nhận lời cầu hôn của Thanh Dương, Hoàng Đế lập tức ngừng tiến đánh Thần Nông, hai bên tạm thời đình chiến. Lợi dụng cơ hội này, Thiếu Hạo bắt đầu cải cách mạnh mẽ.
Đằng sau vẻ ngoài bình yên là một cơn sóng gió lớn đang âm thầm dấy động, nhưng dù sao, trước mắt vẫn là hòa bình an ổn.
Sáu tháng sau, A Hành nhận được thư Xương Ý, báo tin Xương Phó đã có thai. Xương Ý hào hứng kể, từ khi biết Xương Phó có mang, tinh thần mẹ khá lên nhiều, sức khỏe cũng ổn hơn, lại bắt tay vào chăn tằm dệt vải, may quần áo cho đứa nhỏ.
A Hành cầm lá thư, mỉm cười.
Lại thêm sáu tháng nữa, Thiếu Hạo công bố việc A Hành có thai với bá quan văn võ. Tin này truyền đến Hiên Viên, Hoàng Đế lập tức phái sứ giả mang đủ thứ dược thảo quý hiếm tới hỏi thăm A Hành, đi cùng sứ giả còn có một danh y.
Danh y thỉnh cầu Thiếu Hạo cho phép mình thăm khám cho A Hành, Thiếu Hạo không nói gì nhưng đám danh y cung đình Cao Tân thì rất khó chịu, cảm thấy danh y này nghi ngờ năng lực của bọn họ, làm nhục cả nền y thuật Cao Tân.
Sứ giả vội cười xoa dịu: “Là Hoàng Đế và vương hậu nương nương cứ thấp thỏm nhớ mong vương cơ, nên sai danh y đến thăm mạch rồi về bẩm cáo với Hoàng Đế và nương nương để hai vị yên tâm đó thôi.”
Đám danh y Cao Tân đang định buông lời chế nhạo, Thiếu Hạo liền cười giảng hòa: “Chuyển lời chẩn đoán của các người tới Hiên Viên dù sao cũng cách một tầng, chi bằng để vị danh y này tự thăm khám rồi về bẩm cáo Hoàng Đế cho tiện, vương phi lấy chồng xa, chiều ý mẹ cha để hai vị yên tâm xem như là tận hiếu.”
Bấy giờ, đám danh y Cao Tân mới hậm hực làm thinh.
Danh y bắt mạch xong một lượt, thần tình hoang mang, vẻ lo âu ra mặt, thấy vậy, Thiếu Hạo ngồi bên vội hỏi: “Sao thế?”
Danh y lau mồ hôi trán, lắp bắp thưa: “Không, không sao cả, thần phải xem lại một lần nữa.”
Mấy vị danh y cung đình cười khinh khỉnh. Dưới ánh mắt chòng chọc của mọi người, gã danh y Hiên Viên lại chẩn đoán thật kỹ lần nữa, một lúc lâu sau, gã buộc phải thừa nhận mình nhất trí với kết quả chẩn đoán của các danh y Cao Tân, A Hành đã mang thai sáu tháng, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, có điều huyết khí hơi kém, song chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng tử tế là ổn.
Rõ ràng đây là tin tốt lành, nhưng tay danh y lại không giấu nỗi vẻ thất vọng, đành gượng tươi tỉnh trả lời Thiếu Hạo mấy câu rồi vội vã cáo lui.
Hơn hai năm sau, Xương Phó mẹ tròn con vuông sinh được một bé trai, Hoàng Đế ban tên là Chuyên Húc.
Hoàng Đế lại phái sứ giả tới Cao Tân thăm hỏi A Hành, lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.
Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.
Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.
Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.
Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.
Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”
Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”
Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”
A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.
Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”
A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.
A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.
“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.
Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.
Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.
Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”
Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.
Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.
Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.
Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.
Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.
Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”
[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.
[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)
A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”
Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”
“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.
[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)
Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.
Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.
Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.
Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”
Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.
A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”
Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.
Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.
Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.
Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.
Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”
“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”
Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”
Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”
Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.
Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”
Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.
Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”
Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.
Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.
Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”
Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”
Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ làm thương tổn đến con, vậy mà… Mọi chuyện cứ như vừa mới hôm qua, nào ngờ thời gian thấm thoắt bấy nhiêu năm, hết thảy đều thay đổi cả rồi!”
Mọi người nghe nói đều cười rộ lên tán thưởng, chỉ riêng A Hành lặng thinh không cười nổi.
Nói đến đó, Tuấn Đế lộ vẻ mệt mỏi, liền xua tay ra hiệu cho thị nữ ẵm lấy Cửu Dao rồi quay sang bảo đám tùy tùng: “Ta mệt, về Kỳ viên thôi.”
Mọi người đều quỳ xuống cung tiễn.
Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành đi theo tiễn Tuấn Đế ra tới ngoài điện, A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo, lần này y nhất định muốn tổ chức sinh nhật cho Tiểu Yêu thật linh đình, không tiếc phô trương lãng phí, chắc hẳn là vì lý do này.
Ngày thứ ba, tất cả muôn dân thiên hạ sẽ tự tay thắp hoa đăng do họ tự làm rồi thả xuống sông, chúc phúc cho Đại vương cơ Cao Tân lớn lên bình an khỏe mạnh, mong sao cô bé sẽ đem lại hạnh phúc và hòa bình cho đất nước.
A Hành cũng tự làm một chiếc đèn hoa sen, gửi gắm tất cả nguyện vọng cầu cho con gái được bình an như ý.
Trời vừa sập tối, Thiếu Hạo và A Hành bước lên thành lâu trông xuống, thấy dân chúng đã tụ tập động nghịt dưới thành, háo hức đợi chiêm ngưỡng ngọn đèn vương phi làm cho vương cơ.
Thiếu Hạo tươi cười cao giọng nói: “Hôm nay ta cũng như tất cả mọi người ở đây, chỉ là một người cha hết lòng mong mỏi cho con mình lớn lên bình an hạnh phúc mà thôi, cảm ơn các người đã tới chúc phúc con gái của ta.”
Dân chúng Cao Tân rộ lên hoan hô như sấm.
A Hành nâng tràn hoa đăng kết bằng tơ băng trên tay, Thiếu Hạo nhanh nhẹn châm lửa, ngọn đèn mỗi lúc một sáng rực lên hệt một đóa sen xanh biếc lung linh giữa lòng bàn tay A Hành, soi tỏ một đôi người ngọc, khiến người ngoài trông thấy cứ ngỡ như cảnh tượng cõi tiên.
Thiếu Hạo cúi xuống bế Tiểu Yêu lên, bước xuống thành lâu, A Hành cũng bưng ngọn hoa đăng, theo sát bên cạnh y.
Xi Vưu đứng giữa đám người, ngẩng đầu nhìn lên thành lâu.
Đêm tối như mực, từ dưới trông lên khó mà nhìn rõ được ba người bọn họ, chỉ thấy một đóa sen xanh biếc nở rộ giữa không trung, tỏa ra ánh xanh nhàn nhạt, bóng dáng ba người nổi lên giữa tầng tầng lớp lớp rường cột trạm trổ, nam tử khôi ngô phóng khoáng, nữ tử thùy mị dịu dàng, lại thêm một cô bé nhỏ xíu cứ cựa quậy nghịch ngợm hoài trong lòng cha, một nhà ba người tràn đầy yêu thương đầm ấm.
Dân chúng Cao Tân ai nấy đều ngưỡng mộ dán mắt vào bọn họ, mãi tới khi ánh đèn xanh biếc xa dần xa dần, bóng ba người họ cũng khuất sau lầu quỳnh điện ngọc, bấy giờ đámg người đông nghịt dưới thành mới lục tục giải tán.
Chỉ còn lại mình Xi Vưu thẫn thờ đứng nguyên chỗ cũ, như không tin nổi vào mắt mình. Nhưng vừa rồi khi Thiếu Hạo châm lửa thắp đèn, hắn đã kịp trông thấy gương mặt A Hành ánh lên bao dịu dàng âu yếm.
Mãi tới hôm qua, Xi Vưu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh giấc, hắn thấy mình đang bồng bềnh giữa Bắc Minh, trước mặt là cả một vòm trời xanh ngăn ngắt, tinh thần sảng khoái, năng lượng tràn trề từng đường gân thớ thịt, trong cái rủi có cái may, nhờ bị thương, thần lực của hắn lạ tiến thêm một bậc. Hắn chẳng rõ mình đã ngủ mất bao lâu, chỉ biết rằng trước khi thiếp đi, A Hành vẫn còn nắm chặt tay hắn, dịu dàng nhìn hắn chìm sâu vào giấc ngủ.
Nghĩ vậy, Xi Vưu chợt bật cười hạnh phúc, liền nhảy vọt lên lưng Tiêu Dao đắc ý ra lệnh: “Ta phải về nhà đây! Nhà của mày lớn thật nhưng chỉ có mỗi mình mày, nhà của ta tuy nhỏ, nhưng lại có A Hành!”
Dọc đường về, hắn thấy nơi nơi đều là trời cao biển rộng, sông núi reo vui.
Vừa trông thấy rừng đào đỏ rực Cửu Lê sơn, Xi Vưu bỗng thấy mắt cay lòng nóng, chẳng đợi Tiêu Dao kịp đỗ đã nhảy luôn xuống, xông thẳng vào rừng đào.
“A Hành, A Hành! Ta về rồi! Ta về rồi đây!”
Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.
Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.
Xi Vưu thẫn thờ nhìn “căn nhà” trước mắt, lòng thắt lại vì hoang mang, không biết mình đã ngủ mất bao lâu? A Hành xảy ra chuyện gì rồi ư?
Hắn điên cuồng xộc vào rừng, chạy đến dưới cội đào, hoa nở đầy cành, rung rinh khoe sắc nhưng chẳng còn người ấy, chỉ còn một hàng chữ đỏ như máu:
“Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”
Thừa Ân điện chính là nơi ở của Thiếu Hạo, cũng là cung điện hoa lệ nhất trên đời.
“Ta không tin!” Xi Vưu tung chưởng nhổ bật cả cội đào lên rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, bay thẳng tới Cao Tân.
Dọc đường hắn thấy nhà nhà đều chăng hoa kết đèn, nói cười rộn rã, xôn xao bàn tán về đại lễ sinh nhật long trọng của con gái Thiếu Hạo.
Xi Vưu nghe nói liền thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Thiếu Hạo đã nạp thêm phi tần mới, bèn níu một người lại hỏi: “Thiếu Hạo cưới nữ tử tộc nào thế?”
“Là Hiên Viên tộc đó!” Người kia tròn mắt nhìn Xi Vưu như nhìn kẻ ngốc.
“Lại cưới một cô gái Hiên Viên tộc nữa ư?” Xi Vưu thấy lòng chùng hẳn xuống, lẽ nào A Hành xảy ra chuyện rồi sao… hắn chẳng lòng dạ nào nghĩ tiếp nữa.
Kẻ kia phì cười: “Ai chẳng biết Thiếu Hạo chỉ có một vị vương phi, chính là vương cơ Hiên Viên tộc đó thôi! Trưởng vương cơ là con gái hai người bọn họ!”
Lời này như sét đánh giữa trời quang, khiến Xi Vưu ngẩn người ra, lỗ tai lùng bùng cả lên. Dù bao nhiêu sự thực phơi bày trước mắt, hắn cũng nhất quyết không tin, chẳng phải A Hành đã tự tay bài trí căn nhà sàn đó, còn nói rằng đó là nhà của hai người đó sao?
Nhưng dưới thành lâu, hắn tận mắt trông thấy Thiếu Hạo và A Hành ẵm con gái nhỏ, tươi cười đón nhận muôn ngàn lời chúc phúc của lê dân bách tính. Niềm hạnh phúc của ba người bọn họ rành rành trước mắt, khiến hắn lần đầu tiên hiểu ra rằng, có những thứ, hắn vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho A Hành được.
Có lẽ, vì lý do này mà nàng rời bỏ hắn.
Cao Tân nhiều hồ ao sông ngòi, đô thành cũng dựa theo dòng nước mà xây nên, phía Bắc thành đô chính là một con sông rộng mênh mông, Thiếu Hạo và A Hành bế Tiểu Yêu men theo thềm đá, xuống gần mép nước.
Thiếu Hạo đặt Tiểu Yêu xuống đất nhưng hai tay vẫn đỡ lấy Tiểu Yêu, sợ cô bé bất cẩn trượt chân ngã xuống sông. A Hành ngội thụp xuống thềm, đặt ngọn đèn hoa sen xuống mặt nước.
Thiếu Hạo dịu dàng: “Nàng cầu nguyện đi.”
A Hành nhắm nghiền mắt, thành tâm cầu nguyện cho con gái bình an hạnh phúc cả đời rồi mở mắt ra, “Thiếp cầu xong rồi.”
Thiếu Hạo chỉ ngọn hoa đăng, nựng nịu Tiểu Yêu: “Cha con ta cùng đẩy cho đèn trôi xa, được không nào?”
Tiểu Yêu rất thích cây đèn xanh biếc này nên chẳng nỡ đẩy đi, ngược lại còn giơ tay níu lại.
Thiếu Hạo tươi cười nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhưng không nắm thật chặt mà cứ vờn đùa với cô bé để bé khỏi chạm tay vào ngọn lửa. Tiểu Yêu thích chí ré lên cười khanh khách, khiến A Hành cũng bật cười theo.
Thấy Tiểu Yêu đùa giỡn đã mệt, Thiếu Hạo bèn nắm lấy bàn tay bé bỏng của cô bé đẩy đẩy ngọn đèn, dỗ dành: “Tiểu Yêu ngoan nào, đẩy đi, lát nữa cho sẽ cho con cái khác đẹp hơn.”
Theo tay Thiếu Hạo và Tiểu Yêu, ngọn đèn lặng lẽ trôi xuôi dòng nước, xa dần xa dần…
Thiếu Hạo ẵm Tiểu Yêu đứng dậy, một nhà ba người đưa mắt nhìn theo ánh đèn xanh biếc càng trôi càng xa rồi nhập vào biển đèn lung linh, chẳng nhận ra đâu là ngọn đèn bọn họ vừa thả nữa, bấy giờ, cả ba mới quay người bước lên, nào ngờ vừa quay lại, họ liền trông thấy một nam tử hồng y khí vũ hiên ngang đứng lặng trên thềm tự lúc nào, chẳng biết hắn tới đây bằng cách gì, cũng chẳng rõ hắn đã đứng đó bao lâu.
Cảm nhận được linh lực mạnh mẽ tỏa ra từ đối phương, Thiếu Hạo vội ngưng tụ linh lực theo phản xạ, toan vung chưởng đánh lui kẻ tự tiện xâm nhập, cả người chợt run lên, hiểu ra ngay người đến là ai.
Y liền trao Tiểu Yêu cho A Hành rồi bước xuống thềm, dõi mắt ngắm muôn vàn ngọn đèn lung linh trên sóng.
Xi Vưu tiến lại gần, sắc mặt tái nhợt, hai mắt tối sầm lại, ngùn ngụt bi ai và phẫn nộ.
“Tại sao hả?” Hắn gắng nén cơn giận, cất giọng khản đặc, hệt như một dã thú bị thương.
A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu, rưng rưng nước mắt, chẳng thốt được tiếng nào.
Tiểu Yêu chẳng hề sợ sệt, cứ giương tròn mắt nhìn Xi Vưu, giơ tay sờ vào người hắn.
Bàn tay măng tơ mềm mại khẽ chạm vào mặt Xi Vưu khiến lòng hắn xao động lạ thường, bèn nắm lấy tay Tiểu Yêu hỏi: “Đây có phải là con ta không?” Tuy biết dựa vào ngày sinh, cô bé khó có thể là con mình, nhưng hắn vẫn ôm ấp chút hy vọng mong manh.
Đột nhiên, trên không trung chợt bay vọt lên mấy quả cầu lửa muôn màu muôn sắc do hỏa linh kết tụ, nở bùng ra thành ngàn vạn đốm pháo hoa rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, mẫu đơn đỏ thắm, mai trắng tinh khôi… Bỗng chốc khắp bầu trời tràn ngập ánh sáng lung linh huyền ảo.
Tiểu Yêu mừng rỡ chỉ tay lên trời, rối rít gọi Thiếu Hạo: “Cha, cha.”
Thiếu Hạo ngoảnh lại theo phản xạ, mỉm cười với cô bé.
Ánh pháo hoa rực rỡ soi tỏ mặt gương mặt của Tiểu Yêu, trông cô bé giống Thiếu Hạo đến bảy tám phần, thoạt nhìn đã biết là con y.
Tiểu Yêu với tay về phía Thiếu Hạo, luôn miệng gọi cha đòi bế.
Xi Vưu chợt thấy toàn thân run bần bật như vừa rơi xuống hố băng lạnh ngắt, ngọn lửa ngùn ngụt trong mắt vụt tắt ngấm, xung quanh xán lạn rực rỡ là thế, vậy mà hắn chỉ thấy một mảnh tối đen mờ mịt.
Tây Lăng Hành đã phản bội hắn, lừa gạt hắn!
Ánh mắt Xi Vưu bỗng trở nên lạnh lùng tàn khốc, hắn bắt đầu nổi sát tâm.
A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu hốt hoảng lùi lại, nhưng Xi Vưu đã giật phăng cô bé ném cho Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo thấy tình hình không ổn, toan xông lại ứng cứu, có điều linh lực của Xi Vưu đã tăng tiến vượt bậc, y đỡ được Tiểu Yêu thì chẳng kịp cứu A Hành nữa.
Xi Vưu và A Hành bị bao phủ trong màn đao gió, những lưỡi đao gió xoay vun vút quanh hai người, một con muỗi cũng không bay lọt, mấy ngọn đao đâm từ sau lưng A Hành nhằm thẳng vào tim nàng, đã cắm vào da thịt.
Cảm nhận được lưỡi đao đâm vào mình đau buốt, nét mặt A Hành chợt giãn ra đầy thanh thản như trút bỏ được mọi ràng buộc và gánh nặng, nàng chẳng hề kháng cự, chỉ đăm đăm nhìn Xi Vưu, nước mắt lăn dài trên mi.
Dường như những giọt lệ của nàng đã chạm đến cõi lòng mềm yếu nhất của Xi Vưu, trái tim hắn run lên vì kích động, linh khí không sao duy trì được nữa. Cuồng phong lặng tắt, chỉ còn tấm lưng A Hành đầm đìa máu tươi, nhỏ tong tong xuống đất.
Xi Vưu trân trân nhìn A Hành, lui lại từng bước từng bước một, cười thê thảm: “Cô biết rõ ta rất khó có thể tin tưởng ai đó kia mà! Ta coi Viêm Đế như cha đẻ, coi Du Võng như huynh đệ, vậy mà vẫn đề phòng họ, nhưng đối với cô…” Hắn điên cuồng đấm ngực như muốn đập vỡ trái tim mình, móc ra cho A Hành thấy, “Ta luôn đặt cô ở đây. Nếu cô đã định phản bội, sao không phản bội từ sớm đi? Sao phải đợi đến khi ta phá hủy mọi thứ phòng bị, để cô tiến thẳng vào nơi sâu thẳm nhất, mềm yếu nhất của ta thì lại giở mặt giày xéo ta? Dẫu kẻ khác chặt đầu lột da ta, ta cũng chẳng thấy gì đau đớn, nhưng cô… ta đau lắm, biết không?” Sắc mặt Xi Vưu tái ngắt, ánh mắt không rời A Hành như khẩn cầu, như van vỉ nàng khẳng định một lời, nói với hắn rằng nàng không phản bội hắn!
A Hành cắn môi không đáp, chỉ có thân mình khe khẽ run lên. Tiểu Yêu nào hay vừa rồi mẹ mình đã lượn một vòng qua cửa tử, cô bé thích thú ngắm trận cuồng phong của Xi Vưu, vỗ tay reo: “Cha, cha nhìn gió nhảy múa kìa, thúc thúc áo đỏ kia lợi hại quá nha!”
Giọng nói non nớt của Tiểu Yêu lọt vào tai Xi Vưu khiến hắn sững sờ như bị sét đánh, cả người run rẩy. Con gái của A Hành gọi hắn là thúc thúc!
Xi Vưu trừng trừng nhìn A Hành, nhưng cất tay lên mấy lần vẫn không sao ngưng tụ linh lực tấn công được, đành cười thảm lắc đầu, “Tây Lăng Hành, cô đã hẹn ước với ta, chưa được ta cho phép cô đừng mong rút lại lời thề!” Trong tiếng cười ha hả, hắn nhảy lên lưng Tiêu Dao bay thẳng.
Xi Vưu đi rồi, Thiếu Hạo thấy lòng bàn tay lạnh ngắt. Y đã nghe nói Xi Vưu tính khí thất thường, hung tàn xảo trá từ lâu nhưng lần này mới tận mắt chứng kiến bản tính cực đoan, quyết liệt của hắn. Hắn đối với A Hành chí tình chí nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể bán mạng vì nàng, vậy mà chỉ trong nháy mắt, vì A Hành phản bội, hắn có thể xuống tay giết nàng bất cứ lúc nào.
Thấy A Hành đứng đờ người ra như mất hồn, Thiếu Hạo ngỡ nàng quá kinh hãi, bèn tiến lại vừa trị thương vừa an ủi nàng: “Tối nay ta sẽ bày trận pháp quanh nhà, chỉ cần Xi Vưu đến, chúng ta lập tức biết ngay thôi.”
A Hành chỉ một mực lắc đầu, thẫn thờ nhìn về phía Tiêu Dao khuất bóng, ánh mắt đầy lo âu. Bấy giờ Thiếu Hạo mới hiểu ra rằng không phải nàng sợ hãi, mà là đang lo lắng cho Xi Vưu.
Thiếu Hạo cùng A Hành lên đến thành lâu, y định đưa nàng về tận Thừa Ân cung, nhưng Tiểu Yêu thấy quang cảnh rực rỡ bên dưới cứ khóc ré lên không chịu về. Y đành sai thị nữ đưa A Hành về trước, để mình bế Tiểu Yêu đứng ngắm cảnh thêm lát nữa.
Từ thành lâu nhìn xuống, mặt sông bạt ngàn ánh đèn lung linh, mỗi lúc một thêm dày đặc, hệt như vô số ngôi sao lấp lánh.
Hai bên bờ sông đông nghịt người tới thả đèn và ngắm cảnh. Bầy con nít xách lồng đèn tung tăng đuổi bắt nhau, các cô gái cứ dăm ba cô tụ lại thành một nhóm, mượn ngọn đèn tự tay chế tác để khoe tài khoe giỏi, trong khi đám đàn ông thơ thẩn men theo bờ nước, vừa ngắm đèn vừa ngắm các thiếu nữ nhà bên, đông nhất là những gia đình đủ cả già trẻ trai gái, bưng đủ loại đủ kiểu hoa đăng, dắt díu nhau đến thả đèn.
Thiếu Hạo chăm chú ngắm cả dòng sông lung linh ánh đèn, đẹp như tranh vẽ dưới thành, ánh mắt mỗi lúc một lạnh dần, y từ từ đi đến chỗ hạ quyết tâm: Xi Vưu đã quay về, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, y không thể cứ phân vân do dự mãi!
Về đến tẩm điện, A Hành cho tất cả thị nữ lui ra, chỉ để lại mình nàng thẫn thờ ngồi đó. Nàng sớm biết sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Xi Vưu nên đã chuẩn bị hết mọi điều cần nói, nào ngờ vừa gặp hắn, nàng đã quên sạch.
Ngồi giữa căn phòng tối mịt nhưng cõi lòng A Hành còn tăm tối hơn, thậm chí vĩnh viễn chẳng thể sáng lên được nữa.
Chẳng biết đã ngồi như vậy bao lâu, đột nhiên, A Hành thoáng nghe thấy phía cuối trời vang lên tiếng đại bàng quang quác, giật thót mình, vội nhìn ra cửa sổ.
Bóng cây bên ngoài được ánh trăng trong như lọc hắt lên tấm rèm che màu tùng biếc ngoài song cửa, khẽ đu đưa theo gió. Chỉ lát sau đã thấy một bóng người từ xa bay đến, từ từ choán cả khung cửa, dáng dấp cao lớn khôi ngô, đầy mạnh mẽ tưởng như sắp phá cửa bay thẳng vào phòng, vậy mà hắn chỉ bi ai đứngbên ngoài, im lìm hệt một bức tranh.
A Hành đờ người vì căng thẳng, nàng không sao nhúc nhích nổi một ngón tay, nhưng hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp. Hiển nhiên, người ngoài song cửa cũng đã nhận ra: “Cô tỉnh rồi à?” Là giọng Xi Vưu.
Thấy A Hành im lặng, hắn chậm rãi nói: “Không phải ta tới giết cô đâu.”
“Ngươi… vậy ngươi quay lại định làm gì?” A Hành cố lấy giọng lạnh lùng hỏi.
“Lúc ở dưới thành, trông thấy cô và Thiếu Hạo, cả… con gái hai người nữa, ta giận quá, không kiềm chế được. Vừa rồi bay đi, gió lạnh tấp vào mặt, ta mới bình tĩnh lại. A Hành, ta biết cô nhất định không phụ lời thề giữa hai chúng ta, chắc chắn cô có nỗi khổ bất đắc dĩ gì đó.”
“Chẳng lẽ sự thật rành rành trước mắt ngươi còn không thấy sao? Ta đã có con với Thiếu Hạo rồi.”
“Ta thấy cả rồi, dù cô có con với Thiếu Hạo cũng chẳng sao, ta biết cô làm vậy nhất định là vì nỗi khổ trong lòng. Mấy năm nay ta không ở bên cô, chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, muốn trách thì phải trách ta chẳng thể bầu bạn bên cô, không bảo vệ được cho cô. Có điều, giờ ta đã về rồi, có gì khó khăn, cô cứ để ta giải quyết.”
A Hành run bắn lên, nước mắt nhòa mi. Kẻ kiêu ngạo, đa nghi, hung tàn như Xi Vưu, lại có thể một lòng một dạ tin tưởng nàng, yêu thương nàng, trân trọng nàng đến thế này.
Đợi hồi lâu không thấy trong phòng có động tĩnh gì, Xi Vưu dịu giọng nói tiếp: “A Hành, có nỗi khổ gì nàng cứ nói ra đi, chúng ta nhất định sẽ tìm được cách giải quyết mà, lẽ nào nàng không tin tưởng năng lực của ta ư?”
A Hành trân trân dán mắt vào bóng dáng Xi Vưu in lên rèm cửa, ầng ậng nước mắt. Cách giải quyết duy nhất là cứu Đại ca nàng sống lại, nhưng trên đời làm gì có thuốc cải tử hoàn sinh kia chứ. Đâu phải gian nan nào cũng có thể đạp bằng như Xi Vưu tưởng, dù thần lực cao cường tới đâu chăng nữa, cũng chẳng cách nào hồi sinh người chết.
“A Hành?” Đợi mãi không thấy nàng trả lời, Xi Vưu giơ tay toan đẩy cửa sổ ra.
A Hành lập tức nhào đến chặn cửa sổ lại. Nàng không dám gặp hắn, bởi nàng sợ đối diện với đôi mắt hắn, tất cả dũng khí của nàng sẽ tan biến mất.
“Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”
“Nói dối! Nếu không muốn gặp ta, tại sao lúc nhìn thấy ta dưới thành lâu, nàng lại rưng rưng chực khóc? Nàng rơi nước mắt vì ai hả?”
A Hành xoay người lại, lấy lưng chèn cửa, ánh mắt trống rỗng nhìn vào bóng đêm thăm thẳm, rành rọt thốt lên từng câu từng chữ đã được chuẩn bị kỹ càng, “Lúc đó ta vừa hổ thẹn, vừa sợ hãi!”
“Hổ thẹn gì chứ?”
“Dù ta lấy Thiếu Hạo vì lý do gì, hiện giờ chúng ta đã có con, nước chảy đá mòn, ta dần dần cũng nảy sinh tình cảm với chàng, khó tránh hổ thẹn với ngươi, mọi chuyện đã hết cách cứu vãn được rồi.”
“Vậy nàng sợ cái gì?”
“Ta sợ làm tổn thương đến con bé. Giờ đây, con bé là người quan trọng nhất trong lòng ta, nếu ngươi muốn giúp đỡ ta, bảo vệ ta, xin ngươi hãy quên ta đi, đừng tới tìm ta nữa. Lỡ như người ngoài trông thấy, ta sẽ mất hết danh tiết, vạ lây cả đến con bé.”
Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ nghe thấy tiếng thở lúc dập dồn, khi từ tốn của hắn. Toàn thân A Hành như biến thành một tảng đá, ra sức chèn chặt cánh cửa, không dám nhúc nhích, tựa hồ không phải đang đóng cửa, mà là đang khép chặt trái tim mình.
Đột nhiên nghe vang lên một tiếng đại bàng kêu quang quác, tiếng thở ngoài song biến mất.
A Hành vẫn chèn chặt cánh cửa sổ, hồi lâu mới như sực tỉnh, vội quay phắt lại, ngơ ngẩn ngóng ra ngoài song, nhưng chỉ thấy bóng cây thấp thoáng, ánh trăng nhạt nhòa, đâu còn bóng người kia nữa. Nước mắt nàng giàn giụa tràn ra hai má.