Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 22-23
Quyển2 –Chương5: Gió Đông Bắc, hoan tình nhạt nhẽo (1)
A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
[1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND)
Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối lại Xi Vưu.
Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau. Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa chọn phương pháp thay đổi từ từ.
Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa thành của Thần Nông.
Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh?
Vì đế vị thay đổi, lại thêm chiến tranh giữa Hiên Viên và Thần Nông đột ngột bùng nổ, Nặc Nại bèn chủ động dâng thư hỏi ý Thiếu Hạo xem có phải lùi ngày cưới của mình và Vân Tang không.
Thiếu Hạo cân nhắc kỹ lưỡng, suy nghĩ rất lâu rồi hạ chỉ: Hôn lễ vẫn cử hành đúng hạn.
Lòng A Hành ngổn ngang muôn mối, lần trước Xi Vưu tới gặp nàng đã thẳng thắn đề nghị nàng rời xa Thiếu Hạo, có điều hiện giờ Hiên Viên vừa tuyên chiến với Thần Nông, tuy Đại ca và Xi Vưu chưa trực diện giao phong nhưng nếu phụ vương muốn Đông tiến, sớm muộn gì bọn họ cũng gặp nhau trên chiến trường.
Nàng xin Thiếu Hạo cho phép mình đi vắng ít ngày, y cũng chấp thuận. Bây giờ tình thế đã khác xưa, chẳng ai giám sát nhất cử nhất động của họ nữa, về phần nghi lễ cung đình, Thiếu Hạo chỉ cần làm một con rối đặt lên giường là xong, dù sao cả thiên hạ cũng biết vương phi ốm yếu lắm bệnh.
A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy.
Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến phong cảnh đượm phần tú lệ.
Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ.
Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn lồng lộng lẫy.
Xương Ý khoác tấm áo thiên thanh nghiêng mình ngồi trước song cửa lục lăng, dung mạo ôn hòa, nụ cười còn động trên môi.
Xương Phó vận chiếc váy hoa đỏ rực, tựa vào người Xương Ý tập thổi tiêu, thổi chưa được mấy câu đã vấp. Xương Ý chỉ cười cầm lấy cây tiêu, biểu diễn lại một lần rồi nhẹ nhàng hướng dẫn thê tử.
Tập đi tập lại mấy lần, cuối cùng Xương Phó cũng thổi mạch lạc được một khúc, bèn nhảy cẫng lên cười vang: “Thiếp biết thổi tiêu rồi nhé!”
Chiếc váy hoa đỏ rực soi vào đôi mắt tràn đầy hạnh phúc của Xương Ý. Xương Phó xoay tròn quanh y, khẽ hôn lên môi y, tươi cười rạng rỡ, trong khi y đỏ mặt vì thẹn, đưa mắt liếc cửa sổ theo phản xạ.
Xương Phó dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, hôn nhiều nhiều mới tình cảm chứ, hôn mãi thành quen, sau này dù đứng trước mặt toàn tộc chàng cũng chẳng ngại nữa đâu!”
Nàng an ủi như thế còn tệ hơn không an ủi, Xương Ý đỏ mặt tía tai, cau mày mắng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”
A Hành chứng kiến từ đầu đến cuối, không nhịn được phì lên cười.
Xương Phó biến sắc, chỉ thấy hàn quang lóe lên, nàng nhanh như chớp, bước đến trước mặt A Hành.
“Tứ tẩu, là muội, là muội đây mà.” A Hành la lên.
Xương Phó vội xoay người, thu chủy thủ lại, “Sao muội lại đến đây?”
A Hành nháy mắt: “Muội đến nghe hai người thổi tiêu.”
Xương Phó mặt dày mày dạn, chẳng hề lấy làm thẹn thùng, chỉ có Xương Ý đỏ mặt mắng: “Đến chẳng gọi người thông báo, lại nấp bên ngoài rình lén, càng ngày càng không ra sao cả!”
A Hành le lưỡi với Xương Phó, cả hai cùng cười.
Xương Ý bó tay, đành giận dỗi cầm sách lên đọc, mặc kệ cả hai.
Xương Phó gọi thị nữ lại, sai lo liệu bữa tối, còn căn dặn nhất định phải chuẩn bị thật nhiều rượu.
Đợi rượu và đồ nhắm bưng lên, ba người quây quần bên bàn, vừa uống rượu vừa trò chuyện.
Xương Ý hỏi A Hành: “Giờ muội là vương phi của Cao Tân rồi, sao nói đi là đi ngay thế?”
“Thiếu Hạo bao che cho muội mà, y nói được, ai dám nói không chứ?”
Xương Phó cười: “Thiếu Hạo đối tốt với muội ghê.”
Xương Ý lạnh lùng: “Hạng người đó có ưu điểm là kỹ lưỡng tỉ mỉ, chăm sóc chu đáo, nhưng chỉ trong mấy việc lặt vặt thôi, hễ động tới lợi ích bản thân, chúng còn tuyệt tình hơn ai hết.”
Xương Phó lại hỏi: “Tiểu muội, muội và Xi Vưu rốt cuộc là sao thế?”
Mặt A Hành đỏ dừ, “Lần này muội đến chính là muốn bàn bạc với Tứ ca Tứ tẩu. Muội và Xi Vưu… đã cùng nhau từ lâu rồi.”
Dứt lời, nàng hồi hộp nhìn Tứ ca Tứ tẩu, đợi phản ứng của bọn họ.
Xương Ý nghe xong vẫn bình thản như thường, chẳng hề lộ vẻ ngạc nhiên, còn Xương Phó lại bật cười khì, “Ta biết ngay mà! Tiểu muội ngoài lạnh trong nóng, phải có một ngọn lửa phừng phừng thiêu hủy lớp vỏ ngoài của muội để muội lộ nguyên hình, cả hai cùng cháy lên hết mình mới được. Gã Xi Vưu đó còn đáng sợ hơn lửa, đúng là hợp với tiểu muội! Thiếu Hạo chính ra lại không ổn, nhìn bề ngoài có vẻ ôn hòa, thực tế còn lạnh lùng hơn Đại ca.”
A Hành nóng bừng hai má, lí nhí: “Xi Vưu bảo muội đi theo hắn, Thiếu Hạo cũng đã hứa với muội, muội có tư cách thoát thân, nhưng xem ra tình thế hiện giờ, chỉ e sớm muộn gì Đại ca và Xi Vưu cũng phải giao chiến, muội thật chẳng biết tính sao nữa cả.
Xương Ý cau mày trầm tư còn Xương Phó thở dài, khuyên: “Nam nhân bọn họ muốn đánh đánh giết giết thì cứ mặc cho bọn họ đánh đánh giết giết, dù thắng dù thua, bọn họ cũng mãn nguyện. Bản thân họ không oán không hối, muội tội gì phải nghĩ ngợi nhiều? Có nghĩ nát óc cũng không cởi được gút mắc này đâu.”
“Tứ tẩu, nếu là tẩu, tẩu sẽ làm sao?”
“Kiếp người ngắn ngủi, ta sẽ lập tức đi tìm Xi Vưu! Nếu muội thật lòng yêu hắn, hẳn có thể vì hắn mà vứ bỏ tất cả mọi thứ. Nếu hắn thật lòng yêu muội, đương nhiên cũng sẽ nghĩ cho muội, không đến nỗi ép muội vào đường cùng đâu!”
Xương Ý gượng cười nhìn thê tử: “Xi Vưu mua chuộc nàng từ bao giờ thế?”
“Không phải mua chuộc, là thiếp ngửi ra được thôi, trên người hắn có mùi giống như bọn thiếp.” Xương Phó đưa tay chỉ dãy núi xanh biếc trập trùng ngoài song cửa, “Hắn cũng sinh ra từ núi rừng mà.”
Xương Ý nói: “Sự tình đâu có đơn giản như thế.”
Xương Phó gượng cười, thở dài nói với A Hành và Xương Ý, “Đó chính là điểm khác biệt giữa bọn ta với các vị, đối với bọn ta, mọi thứ đều hết sức đơn giản, nếu không biết phải làm sao thì chỉ cần nghe theo trái tim mình là đủ.” Nàng chỉ vào lồng ngực mình, “Người già trong tộc từng nói, tiếng tim đập chính là âm thanh chân thực nhất trên đời. Xương Ý, hẳn chàng cho rằng em gái mình yêu Xi Vưu thật là đáng thương, nhưng kỳ thực Xi Vưu yêu tiểu muội còn đáng thương hơn! Hắn phải ra sức kiềm chế dục vọng của mình, học cách thông cảm và thấu hiểu cho sự do dự và đắn đo của tiểu muội, đồng thời cũng chiều theo cách hành xử của muội ấy.”
Xương Ý liếc Xương Phó, như cười mà chẳng phải cười, “Cái gì mà chàng thế này ta thế khác? Thế nàng có đáng thương không?”
Xương Phó chợt đỏ bừng hai má, hạ giọng nói thật nhanh: “Thiếp rất vui… Thiếp rất hạnh phúc mà…”
A Hành thấy thế che miệng cười thầm, đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn.
Xương Ý lại quay sang hỏi nàng: “Muội đã có tính toán gì chưa?”
A Hành đáp: “Muội muốn hỏi ý kiến huynh.”
“Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta, dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ vương và Đại ca không chúc phúc cho muội thì còn có ta và mẹ kia mà.”
Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.”
Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi, không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến trường đâu.”
A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.”
“Muội không muốn nán lại một đêm ư?”
“Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu Hạo giao cho muội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để sơ sẩy điều gì được.”
Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau, thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi vào nhà ta ấy chứ.”
A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.”
Vừa nói tới đó đã thấy A Tệ và Liệt Dương đỗ xuống sân đón nàng.
Từ sau khi “sống lại”, Liệt Dương đối với ai cũng tỏ vẻ lạnh lùng, thù địch, chỉ riêng với Xương Ý là khác, thậm chí còn hành lễ với Xương Ý.
Xương Ý dặn nó: “Ta đã tra cứu điển tịch, theo lý thì chỉ Yêu tộc một khi có thể biến hình, sẽ có khả năng hóa thành người trưởng thành, nhưng mày thì khác, mày hấp thụ sức mạnh của Ngu uyên, linh khí biến đổi, sinh ra biến hình sớm nên chỉ có thể hóa thành trẻ con. Mày đừng nôn nóng, cứ yên tâm tu hành, từ từ thân hình sẽ cao lên.”
A Hành phì cười xoa đầu Liệt Dương, “Ai da, thì ra Liệt Dương công tử của chúng ta sợ rằng sẽ phải làm đứa nhỏ cả đời.”
Liệt Dương hậm hực gạt tay nàng ra, “Đừng coi ta như trẻ con chứ!”
A Hành chẳng thèm để tâm đến thái thái độ của nó, trái lại còn thừa cơ véo đôi má trắng nõn: “Mày đúng là một chú nhóc mà!” Nói rồi trước khi Liệt Dương kịp phát khùng, nàng liền ôm cổ A Tệ bay vút đi, “Tứ ca, Tứ tẩu, muội đi đây.”
Liệt Dương giận dữ giậm chân một cái, biến lại nguyên hình rồi vừa quang quác chửi rủa vừa vỗ cánh đuổi theo.
Xương Ý nhìn theo bóng A Hành xa dần, giơ tay vẫy vẫy.
Xương Phó nép người bên khung cửa tươi cười nhìn phu quân, ánh mắt chan chứa tình nồng.
Sau khi lên ngôi, Thiếu Hạo đã lấy lại nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư từ chỗ Tuấn Đế, chuyên tâm nghĩ cách phá giải, nhưng bất kể thử thế nào cũng vô dụng. Hà Đồ Lạc Thư chỉ có nửa mảnh thì chẳng khác nào phế vật.
Rốt cuộc trong Hà Đồ Lạc Thư ẩn giấu bí mật kinh thiên động địa gì? Tại sao các Thần tộc từ thời thượng cổ đều truyền tụng nhau về nó, coi trọng nó đến vậy?
Thiếu Hạo bất lực thở dài, thu dọn mọi thứ lại, đoạn ra khỏi mật thất.
A Hành chẳng biết về tự khi nào, đang đợi y trong đại điện. Nhìn nàng gục đầu xuống án thư thiêm thiếp ngủ, hẳn đã phải đợi khá lâu.
Thiếu Hạo mỉm cười, lấy áo mình khoác lên vai nàng rồi dẹp hết văn thư tấu chương qua một bên, ngồi lui vào góc phòng, bắt đầu giở ra xem.
Xem xét mãi đến nửa đêm, nghe chừng thấm mệt, y bèn đặt tấu chương xuống, nhắm mắt dưỡng thần.
Thừa Ân điện hiện nay rất vắng người, bởi thế tuy ban ngày tĩnh mịch trang nghiêm nhưng đêm xuống lại im lìm như chết. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng tí ta tí tách của đồng hồ nước nghe vang vang như thể khắp nơi trong tòa cung điện mênh mông này đều có hồi âm vọng lại. Thảng hoặc y cũng nghĩ, có khi nào phụ vương sợ nghe tiếng vọng quạnh quẽ của chiếc đồng hồ nước, nên mới cho tấu đàn thổi sáo suốt ngày hay không?
Vậy mà đêm nay, y chẳng hề nghe thấy âm thanh lạnh lẽo đó.
A Hành đi đường xa đã mệt, lại phải nằm sấp mà ngủ nên cả người dâm dấp mồ hôi, hơi thở dồn dập, càng tăng thêm vẻ thơ ngây đáng yêu của nàng.
Thiếu Hạo chống cằm say sưa ngắm nàng, khóe miệng hé lộ nụ cười.
A Hành chợt động cựa rồi mơ màng mở mắt, trông thấy Thiếu Hạo, nàng thoáng bối rối, vội cau mày cố nhớ xem mình đang ở đâu, dáng vẻ hệt như một chú mèo lười biếng.
“Thiếp ngủ quên mất, sao chàng không gọi dậy?”
Thiếu Hạo cười, “Có sao đâu, ta cũng phải xem tấu chương mà.”
A Hành đưa chiếc áo khoác trên người lại cho y, “Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.”
“Nàng cứ nói đi.”
“Chàng còn nhớ giao ước giữa hai chúng ta hồi mới cưới không? Chàng đã thực hiện được ba điều, chỉ còn một điều nữa thôi.”
Thiếu Hạo rúng động cả cõi lòng, khẽ gật đầu, “Ta nhớ chứ, nàng giúp ta đăng cơ, ta để nàng được tự do lựa chọn, đi hay ở là tùy nàng.”
“Giờ chàng đã đăng cơ, thiếp được tự do lựa chọn rồi chứ?”
Bàn tay Thiếu Hạo giấu trong tay áo khẽ siết lại thành quyền, “Nàng nói đi.”
“Thiếp muốn đi.”
“Nàng định đi đâu?”
A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
Thấy Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước, tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.”
Thiếu Hạo mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.”
A Hành nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của chúng ta thực chất là đại diện cho mối liên minh giữa hai bộ tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.”
“Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.”
Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.”
Thiếu Hạo quả là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm ơn y rối rít.
Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương giành được đế vị.
Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho nàng.”
A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?”
“Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.
Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.”
A Hành đỏ mặt thẹn thùng, khẽ đáp: “Vâng, thiếp về nghĩ đây.” Tiếng vạt áo loạt xoạt xa dần rồi mất hẳn.
Thiếu Hạo vẫn ngồi lặng bên bàn, hồi lâu chẳng hề cử động.
Trong đêm tối, tấm màn xanh biếc như nước tỏa ra lam quang lành lạnh, đồng hồ nước vẫn tí tách đều đều, âm vang, văng vẳng giữa đại điện mênh mông.
Tí tách, tí tách, tí tách…
Được Thiếu Hạo dốc sức ủng hộ, lại có A Hành dày công bố trí, hôn lễ đã được chuẩn bị đâu ra đó, chỉ đợi đến giờ lành ngày mai, Nặc Nại sẽ dẫn đội rước dâu đích thân tới biên giới giữa Cao Tân và Thần Nông đón Vân Tang.
Tối hôm đó, Nặc Nại bị An Dung, An Tấn cùng cả đám bạn bè quây lấy trêu chọc, ồn ào đến nửa đêm, khó khăn lắm mới giản tán được bọn họ. Có điều lòng cứ rộn rã hân hoan, y không sao ngủ nổi, bèn trở dậy kiểm tra lại hành trang thật kỹ, nhất định phải dành cho Vân Tang một hôn lễ hoàn mỹ nhất.
Trời còn chưa sáng, A Hành đã dậy rửa mặt chải đầu, vận cung trang rồi cùng Thiếu Hạo tới tiễn Nặc Nại.
Vừa đến nơi, Nặc Nại đã mũ áo chỉnh tề, phấn chấn đứng đợi, dường như chỉ nôn nóng muốn lên đường lập tức. Thấy vậy, Thiếu Hạo bèn chọc ghẹo y vài câu, khiến cả đám huynh đệ đứng đó cười rộ lên.
Đoàn người rầm rộ tiến thẳng ra ngoại thành, bọn An Tấn còn xoa tay bàn mưu náo loạn động phòng một trận ra trò. Đột nhiên một tiếng thét thất thanh vang lên, dàn nhạc hỷ đang véo von chợt ngưng bặt. Nhóm đi đầu đứng lại, nhưng mọi người ở phía sau vẫn tiến lên, khiến cả đội ngũ nhất thời rối loạn.
Chưa cần biết phía trước có chuyện gì, An Dung lập tức quát gọi người bảo vệ Tuấn Đế, sợ trong lúc hỗn loạn lại xảy ra biến cố. Tức thì, đám thị vệ đang ẩn náu xung quanh rào rào rút binh khí, bóng đao ánh kiếm lạnh ngắt xói vào mắt A Hành, khiến nàng hoảng hốt đưa mắt tìm Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo nắm chặt lấy tay nàng, cao giọng lệnh cho tất cả mọi người đứng yên đợi lệnh.
Giọng nói uy nghiêm trầm tĩnh của y đã trấn áp được cả đoàn, mọi người dần ổn định trật tự. Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành bước lên trước, đoàn người tự động giãn ra, nhường đường cho họ.
Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi.
Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng.
Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ.
An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.”
Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa.
Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?”
Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.”
Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời.
Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?”
Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.”
Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy.
Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.
Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi.
Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”
An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”
Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”
An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.”
Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung.
Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”
A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”
“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”
“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?”
Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi.
“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”
Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!”
“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”
Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.”
Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.
“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”
Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”
Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi.
Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước.
Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại.
Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.
A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.
A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”
Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”
A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!
A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.
Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.
Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.
Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”
A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.
“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”
Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”
A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”
Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.
A Hành sắp xếp phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”
A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.
Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?
Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.
Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.
Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”
A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”
Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.
Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa.
Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.
Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”
A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”
Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.
Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”
Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”
Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.
A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?
Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”
“Cũng là chàng dành cho ta đó.”
“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”
A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”
Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”
A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”
“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”
“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”
“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”
A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”
Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.”
“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”
“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”
A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”
Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”
Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương.
Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.
Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.
Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.
Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ.
Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.
Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.
Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”
“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.
“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.”
Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?
A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư?
Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”
A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”
Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”
Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.
Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”
A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!
Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.
Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.
Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!”
Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.
Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.
Quyển2 –Chương6
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân.
Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ.
Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó.
Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ.
Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ.
Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận.
Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ.
Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến.
Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc.
Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức.
Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.”
A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?”
“Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.”
“Chàng muốn bên nào thắng?”
“Nàng muốn ta nói thật ư?”
“Chàng nói đi.”
“Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.”
A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?”
Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta?
“Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi.
“Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.”
[1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND)
Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi.
“Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].”
[2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND)
“Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?”
“Hậu Thổ.”
Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính.
Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về.
“Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.”
A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.”
“Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.”
A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu.
Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm.
Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên.
Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về.
Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt.
Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.”
A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ?
Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết…
Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.”
Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ?
Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường.
A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.”
Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt.
Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường!
Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào!
A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?”
Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.”
“Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?”
“Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!”
A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi.
Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…”
A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.”
Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế.
Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng!
Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng!
Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu.
Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác.
A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc.
Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét.
Nhanh lên, nhanh nữa lên!
Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay.
Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được.
Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn.
Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu.
Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc.
A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ.
Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt.
Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống!
Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!”
Du Võng chết rồi!
Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ.
Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu.
Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn.
Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi!
Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra.
A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao.
Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng.
Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!”
Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn.
Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc.
Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này.
Uỳnh!
Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất.
Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong.
Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực.
Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác.
Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại.
Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không.
A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói.
Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!”
A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống.
Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương.
Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông.
A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã.
Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải.
Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương.
A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất.
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật.
Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!”
A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ.
Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!”
A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca.
Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.”
Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!”
Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.”
Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.”
“Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?”
“Hơn hai ngàn năm rồi.”
“Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.”
Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm.
Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?”
Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?”
Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.”
Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.”
Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.”
Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.”
A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu.
Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương…
Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi.
Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!”
Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ.
Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!”
“Tấn công!”
“Tấn công!”
“Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận.
Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”.
Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư.
Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!”
Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.”
Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.”
Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại!
Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!”
Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời cho mẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.”
A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu.
Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng.
Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!”
Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ.
“Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca.
Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương.
A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương.
Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai.
Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt.
Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại.
Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi.
Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa.
Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa.
Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa.
Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện…
Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!
A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
[1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND)
Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối lại Xi Vưu.
Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau. Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa chọn phương pháp thay đổi từ từ.
Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa thành của Thần Nông.
Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh?
Vì đế vị thay đổi, lại thêm chiến tranh giữa Hiên Viên và Thần Nông đột ngột bùng nổ, Nặc Nại bèn chủ động dâng thư hỏi ý Thiếu Hạo xem có phải lùi ngày cưới của mình và Vân Tang không.
Thiếu Hạo cân nhắc kỹ lưỡng, suy nghĩ rất lâu rồi hạ chỉ: Hôn lễ vẫn cử hành đúng hạn.
Lòng A Hành ngổn ngang muôn mối, lần trước Xi Vưu tới gặp nàng đã thẳng thắn đề nghị nàng rời xa Thiếu Hạo, có điều hiện giờ Hiên Viên vừa tuyên chiến với Thần Nông, tuy Đại ca và Xi Vưu chưa trực diện giao phong nhưng nếu phụ vương muốn Đông tiến, sớm muộn gì bọn họ cũng gặp nhau trên chiến trường.
Nàng xin Thiếu Hạo cho phép mình đi vắng ít ngày, y cũng chấp thuận. Bây giờ tình thế đã khác xưa, chẳng ai giám sát nhất cử nhất động của họ nữa, về phần nghi lễ cung đình, Thiếu Hạo chỉ cần làm một con rối đặt lên giường là xong, dù sao cả thiên hạ cũng biết vương phi ốm yếu lắm bệnh.
A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy.
Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến phong cảnh đượm phần tú lệ.
Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ.
Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn lồng lộng lẫy.
Xương Ý khoác tấm áo thiên thanh nghiêng mình ngồi trước song cửa lục lăng, dung mạo ôn hòa, nụ cười còn động trên môi.
Xương Phó vận chiếc váy hoa đỏ rực, tựa vào người Xương Ý tập thổi tiêu, thổi chưa được mấy câu đã vấp. Xương Ý chỉ cười cầm lấy cây tiêu, biểu diễn lại một lần rồi nhẹ nhàng hướng dẫn thê tử.
Tập đi tập lại mấy lần, cuối cùng Xương Phó cũng thổi mạch lạc được một khúc, bèn nhảy cẫng lên cười vang: “Thiếp biết thổi tiêu rồi nhé!”
Chiếc váy hoa đỏ rực soi vào đôi mắt tràn đầy hạnh phúc của Xương Ý. Xương Phó xoay tròn quanh y, khẽ hôn lên môi y, tươi cười rạng rỡ, trong khi y đỏ mặt vì thẹn, đưa mắt liếc cửa sổ theo phản xạ.
Xương Phó dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, hôn nhiều nhiều mới tình cảm chứ, hôn mãi thành quen, sau này dù đứng trước mặt toàn tộc chàng cũng chẳng ngại nữa đâu!”
Nàng an ủi như thế còn tệ hơn không an ủi, Xương Ý đỏ mặt tía tai, cau mày mắng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”
A Hành chứng kiến từ đầu đến cuối, không nhịn được phì lên cười.
Xương Phó biến sắc, chỉ thấy hàn quang lóe lên, nàng nhanh như chớp, bước đến trước mặt A Hành.
“Tứ tẩu, là muội, là muội đây mà.” A Hành la lên.
Xương Phó vội xoay người, thu chủy thủ lại, “Sao muội lại đến đây?”
A Hành nháy mắt: “Muội đến nghe hai người thổi tiêu.”
Xương Phó mặt dày mày dạn, chẳng hề lấy làm thẹn thùng, chỉ có Xương Ý đỏ mặt mắng: “Đến chẳng gọi người thông báo, lại nấp bên ngoài rình lén, càng ngày càng không ra sao cả!”
A Hành le lưỡi với Xương Phó, cả hai cùng cười.
Xương Ý bó tay, đành giận dỗi cầm sách lên đọc, mặc kệ cả hai.
Xương Phó gọi thị nữ lại, sai lo liệu bữa tối, còn căn dặn nhất định phải chuẩn bị thật nhiều rượu.
Đợi rượu và đồ nhắm bưng lên, ba người quây quần bên bàn, vừa uống rượu vừa trò chuyện.
Xương Ý hỏi A Hành: “Giờ muội là vương phi của Cao Tân rồi, sao nói đi là đi ngay thế?”
“Thiếu Hạo bao che cho muội mà, y nói được, ai dám nói không chứ?”
Xương Phó cười: “Thiếu Hạo đối tốt với muội ghê.”
Xương Ý lạnh lùng: “Hạng người đó có ưu điểm là kỹ lưỡng tỉ mỉ, chăm sóc chu đáo, nhưng chỉ trong mấy việc lặt vặt thôi, hễ động tới lợi ích bản thân, chúng còn tuyệt tình hơn ai hết.”
Xương Phó lại hỏi: “Tiểu muội, muội và Xi Vưu rốt cuộc là sao thế?”
Mặt A Hành đỏ dừ, “Lần này muội đến chính là muốn bàn bạc với Tứ ca Tứ tẩu. Muội và Xi Vưu… đã cùng nhau từ lâu rồi.”
Dứt lời, nàng hồi hộp nhìn Tứ ca Tứ tẩu, đợi phản ứng của bọn họ.
Xương Ý nghe xong vẫn bình thản như thường, chẳng hề lộ vẻ ngạc nhiên, còn Xương Phó lại bật cười khì, “Ta biết ngay mà! Tiểu muội ngoài lạnh trong nóng, phải có một ngọn lửa phừng phừng thiêu hủy lớp vỏ ngoài của muội để muội lộ nguyên hình, cả hai cùng cháy lên hết mình mới được. Gã Xi Vưu đó còn đáng sợ hơn lửa, đúng là hợp với tiểu muội! Thiếu Hạo chính ra lại không ổn, nhìn bề ngoài có vẻ ôn hòa, thực tế còn lạnh lùng hơn Đại ca.”
A Hành nóng bừng hai má, lí nhí: “Xi Vưu bảo muội đi theo hắn, Thiếu Hạo cũng đã hứa với muội, muội có tư cách thoát thân, nhưng xem ra tình thế hiện giờ, chỉ e sớm muộn gì Đại ca và Xi Vưu cũng phải giao chiến, muội thật chẳng biết tính sao nữa cả.
Xương Ý cau mày trầm tư còn Xương Phó thở dài, khuyên: “Nam nhân bọn họ muốn đánh đánh giết giết thì cứ mặc cho bọn họ đánh đánh giết giết, dù thắng dù thua, bọn họ cũng mãn nguyện. Bản thân họ không oán không hối, muội tội gì phải nghĩ ngợi nhiều? Có nghĩ nát óc cũng không cởi được gút mắc này đâu.”
“Tứ tẩu, nếu là tẩu, tẩu sẽ làm sao?”
“Kiếp người ngắn ngủi, ta sẽ lập tức đi tìm Xi Vưu! Nếu muội thật lòng yêu hắn, hẳn có thể vì hắn mà vứ bỏ tất cả mọi thứ. Nếu hắn thật lòng yêu muội, đương nhiên cũng sẽ nghĩ cho muội, không đến nỗi ép muội vào đường cùng đâu!”
Xương Ý gượng cười nhìn thê tử: “Xi Vưu mua chuộc nàng từ bao giờ thế?”
“Không phải mua chuộc, là thiếp ngửi ra được thôi, trên người hắn có mùi giống như bọn thiếp.” Xương Phó đưa tay chỉ dãy núi xanh biếc trập trùng ngoài song cửa, “Hắn cũng sinh ra từ núi rừng mà.”
Xương Ý nói: “Sự tình đâu có đơn giản như thế.”
Xương Phó gượng cười, thở dài nói với A Hành và Xương Ý, “Đó chính là điểm khác biệt giữa bọn ta với các vị, đối với bọn ta, mọi thứ đều hết sức đơn giản, nếu không biết phải làm sao thì chỉ cần nghe theo trái tim mình là đủ.” Nàng chỉ vào lồng ngực mình, “Người già trong tộc từng nói, tiếng tim đập chính là âm thanh chân thực nhất trên đời. Xương Ý, hẳn chàng cho rằng em gái mình yêu Xi Vưu thật là đáng thương, nhưng kỳ thực Xi Vưu yêu tiểu muội còn đáng thương hơn! Hắn phải ra sức kiềm chế dục vọng của mình, học cách thông cảm và thấu hiểu cho sự do dự và đắn đo của tiểu muội, đồng thời cũng chiều theo cách hành xử của muội ấy.”
Xương Ý liếc Xương Phó, như cười mà chẳng phải cười, “Cái gì mà chàng thế này ta thế khác? Thế nàng có đáng thương không?”
Xương Phó chợt đỏ bừng hai má, hạ giọng nói thật nhanh: “Thiếp rất vui… Thiếp rất hạnh phúc mà…”
A Hành thấy thế che miệng cười thầm, đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn.
Xương Ý lại quay sang hỏi nàng: “Muội đã có tính toán gì chưa?”
A Hành đáp: “Muội muốn hỏi ý kiến huynh.”
“Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta, dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ vương và Đại ca không chúc phúc cho muội thì còn có ta và mẹ kia mà.”
Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.”
Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi, không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến trường đâu.”
A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.”
“Muội không muốn nán lại một đêm ư?”
“Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu Hạo giao cho muội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để sơ sẩy điều gì được.”
Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau, thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi vào nhà ta ấy chứ.”
A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.”
Vừa nói tới đó đã thấy A Tệ và Liệt Dương đỗ xuống sân đón nàng.
Từ sau khi “sống lại”, Liệt Dương đối với ai cũng tỏ vẻ lạnh lùng, thù địch, chỉ riêng với Xương Ý là khác, thậm chí còn hành lễ với Xương Ý.
Xương Ý dặn nó: “Ta đã tra cứu điển tịch, theo lý thì chỉ Yêu tộc một khi có thể biến hình, sẽ có khả năng hóa thành người trưởng thành, nhưng mày thì khác, mày hấp thụ sức mạnh của Ngu uyên, linh khí biến đổi, sinh ra biến hình sớm nên chỉ có thể hóa thành trẻ con. Mày đừng nôn nóng, cứ yên tâm tu hành, từ từ thân hình sẽ cao lên.”
A Hành phì cười xoa đầu Liệt Dương, “Ai da, thì ra Liệt Dương công tử của chúng ta sợ rằng sẽ phải làm đứa nhỏ cả đời.”
Liệt Dương hậm hực gạt tay nàng ra, “Đừng coi ta như trẻ con chứ!”
A Hành chẳng thèm để tâm đến thái thái độ của nó, trái lại còn thừa cơ véo đôi má trắng nõn: “Mày đúng là một chú nhóc mà!” Nói rồi trước khi Liệt Dương kịp phát khùng, nàng liền ôm cổ A Tệ bay vút đi, “Tứ ca, Tứ tẩu, muội đi đây.”
Liệt Dương giận dữ giậm chân một cái, biến lại nguyên hình rồi vừa quang quác chửi rủa vừa vỗ cánh đuổi theo.
Xương Ý nhìn theo bóng A Hành xa dần, giơ tay vẫy vẫy.
Xương Phó nép người bên khung cửa tươi cười nhìn phu quân, ánh mắt chan chứa tình nồng.
Sau khi lên ngôi, Thiếu Hạo đã lấy lại nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư từ chỗ Tuấn Đế, chuyên tâm nghĩ cách phá giải, nhưng bất kể thử thế nào cũng vô dụng. Hà Đồ Lạc Thư chỉ có nửa mảnh thì chẳng khác nào phế vật.
Rốt cuộc trong Hà Đồ Lạc Thư ẩn giấu bí mật kinh thiên động địa gì? Tại sao các Thần tộc từ thời thượng cổ đều truyền tụng nhau về nó, coi trọng nó đến vậy?
Thiếu Hạo bất lực thở dài, thu dọn mọi thứ lại, đoạn ra khỏi mật thất.
A Hành chẳng biết về tự khi nào, đang đợi y trong đại điện. Nhìn nàng gục đầu xuống án thư thiêm thiếp ngủ, hẳn đã phải đợi khá lâu.
Thiếu Hạo mỉm cười, lấy áo mình khoác lên vai nàng rồi dẹp hết văn thư tấu chương qua một bên, ngồi lui vào góc phòng, bắt đầu giở ra xem.
Xem xét mãi đến nửa đêm, nghe chừng thấm mệt, y bèn đặt tấu chương xuống, nhắm mắt dưỡng thần.
Thừa Ân điện hiện nay rất vắng người, bởi thế tuy ban ngày tĩnh mịch trang nghiêm nhưng đêm xuống lại im lìm như chết. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng tí ta tí tách của đồng hồ nước nghe vang vang như thể khắp nơi trong tòa cung điện mênh mông này đều có hồi âm vọng lại. Thảng hoặc y cũng nghĩ, có khi nào phụ vương sợ nghe tiếng vọng quạnh quẽ của chiếc đồng hồ nước, nên mới cho tấu đàn thổi sáo suốt ngày hay không?
Vậy mà đêm nay, y chẳng hề nghe thấy âm thanh lạnh lẽo đó.
A Hành đi đường xa đã mệt, lại phải nằm sấp mà ngủ nên cả người dâm dấp mồ hôi, hơi thở dồn dập, càng tăng thêm vẻ thơ ngây đáng yêu của nàng.
Thiếu Hạo chống cằm say sưa ngắm nàng, khóe miệng hé lộ nụ cười.
A Hành chợt động cựa rồi mơ màng mở mắt, trông thấy Thiếu Hạo, nàng thoáng bối rối, vội cau mày cố nhớ xem mình đang ở đâu, dáng vẻ hệt như một chú mèo lười biếng.
“Thiếp ngủ quên mất, sao chàng không gọi dậy?”
Thiếu Hạo cười, “Có sao đâu, ta cũng phải xem tấu chương mà.”
A Hành đưa chiếc áo khoác trên người lại cho y, “Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.”
“Nàng cứ nói đi.”
“Chàng còn nhớ giao ước giữa hai chúng ta hồi mới cưới không? Chàng đã thực hiện được ba điều, chỉ còn một điều nữa thôi.”
Thiếu Hạo rúng động cả cõi lòng, khẽ gật đầu, “Ta nhớ chứ, nàng giúp ta đăng cơ, ta để nàng được tự do lựa chọn, đi hay ở là tùy nàng.”
“Giờ chàng đã đăng cơ, thiếp được tự do lựa chọn rồi chứ?”
Bàn tay Thiếu Hạo giấu trong tay áo khẽ siết lại thành quyền, “Nàng nói đi.”
“Thiếp muốn đi.”
“Nàng định đi đâu?”
A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.
Thấy Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước, tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.”
Thiếu Hạo mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.”
A Hành nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của chúng ta thực chất là đại diện cho mối liên minh giữa hai bộ tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.”
“Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.”
Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.”
Thiếu Hạo quả là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm ơn y rối rít.
Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương giành được đế vị.
Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho nàng.”
A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?”
“Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.
Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.”
A Hành đỏ mặt thẹn thùng, khẽ đáp: “Vâng, thiếp về nghĩ đây.” Tiếng vạt áo loạt xoạt xa dần rồi mất hẳn.
Thiếu Hạo vẫn ngồi lặng bên bàn, hồi lâu chẳng hề cử động.
Trong đêm tối, tấm màn xanh biếc như nước tỏa ra lam quang lành lạnh, đồng hồ nước vẫn tí tách đều đều, âm vang, văng vẳng giữa đại điện mênh mông.
Tí tách, tí tách, tí tách…
Được Thiếu Hạo dốc sức ủng hộ, lại có A Hành dày công bố trí, hôn lễ đã được chuẩn bị đâu ra đó, chỉ đợi đến giờ lành ngày mai, Nặc Nại sẽ dẫn đội rước dâu đích thân tới biên giới giữa Cao Tân và Thần Nông đón Vân Tang.
Tối hôm đó, Nặc Nại bị An Dung, An Tấn cùng cả đám bạn bè quây lấy trêu chọc, ồn ào đến nửa đêm, khó khăn lắm mới giản tán được bọn họ. Có điều lòng cứ rộn rã hân hoan, y không sao ngủ nổi, bèn trở dậy kiểm tra lại hành trang thật kỹ, nhất định phải dành cho Vân Tang một hôn lễ hoàn mỹ nhất.
Trời còn chưa sáng, A Hành đã dậy rửa mặt chải đầu, vận cung trang rồi cùng Thiếu Hạo tới tiễn Nặc Nại.
Vừa đến nơi, Nặc Nại đã mũ áo chỉnh tề, phấn chấn đứng đợi, dường như chỉ nôn nóng muốn lên đường lập tức. Thấy vậy, Thiếu Hạo bèn chọc ghẹo y vài câu, khiến cả đám huynh đệ đứng đó cười rộ lên.
Đoàn người rầm rộ tiến thẳng ra ngoại thành, bọn An Tấn còn xoa tay bàn mưu náo loạn động phòng một trận ra trò. Đột nhiên một tiếng thét thất thanh vang lên, dàn nhạc hỷ đang véo von chợt ngưng bặt. Nhóm đi đầu đứng lại, nhưng mọi người ở phía sau vẫn tiến lên, khiến cả đội ngũ nhất thời rối loạn.
Chưa cần biết phía trước có chuyện gì, An Dung lập tức quát gọi người bảo vệ Tuấn Đế, sợ trong lúc hỗn loạn lại xảy ra biến cố. Tức thì, đám thị vệ đang ẩn náu xung quanh rào rào rút binh khí, bóng đao ánh kiếm lạnh ngắt xói vào mắt A Hành, khiến nàng hoảng hốt đưa mắt tìm Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo nắm chặt lấy tay nàng, cao giọng lệnh cho tất cả mọi người đứng yên đợi lệnh.
Giọng nói uy nghiêm trầm tĩnh của y đã trấn áp được cả đoàn, mọi người dần ổn định trật tự. Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành bước lên trước, đoàn người tự động giãn ra, nhường đường cho họ.
Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi.
Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng.
Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ.
An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.”
Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa.
Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?”
Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.”
Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời.
Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?”
Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.”
Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy.
Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.
Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi.
Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”
An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”
Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”
An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.”
Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.”
Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung.
Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”
A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”
“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”
“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?”
Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi.
“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”
Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!”
“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”
Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.”
Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.
“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”
Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”
Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi.
Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước.
Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại.
Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.
A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.
A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”
Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”
A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!
A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.
Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.
Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.
Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”
A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.
“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”
Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”
A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”
Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.
A Hành sắp xếp phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”
A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.
Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?
Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.
Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.
Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”
A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”
Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.
Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa.
Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.
Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”
A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”
Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.
Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”
Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”
Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.
A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?
Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”
“Cũng là chàng dành cho ta đó.”
“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”
A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”
Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”
A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”
“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”
“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”
“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”
A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”
Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.”
“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”
“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”
A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”
Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”
Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương.
Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.
Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.
Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.
Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ.
Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.
Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.
Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”
“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.
“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.”
Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?
A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư?
Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”
A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”
Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”
Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.
Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”
A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!
Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.
Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.
Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!”
Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.
Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.
Quyển2 –Chương6
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân.
Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ.
Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó.
Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ.
Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ.
Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận.
Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ.
Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến.
Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc.
Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức.
Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.”
A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?”
“Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.”
“Chàng muốn bên nào thắng?”
“Nàng muốn ta nói thật ư?”
“Chàng nói đi.”
“Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.”
A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?”
Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta?
“Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi.
“Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.”
[1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND)
Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi.
“Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].”
[2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND)
“Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?”
“Hậu Thổ.”
Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính.
Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về.
“Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.”
A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.”
“Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.”
A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu.
Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm.
Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên.
Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về.
Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt.
Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.”
A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ?
Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết…
Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.”
Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ?
Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường.
A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.”
Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt.
Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường!
Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào!
A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?”
Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.”
“Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?”
“Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!”
A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi.
Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…”
A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.”
Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế.
Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng!
Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng!
Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu.
Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác.
A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc.
Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét.
Nhanh lên, nhanh nữa lên!
Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay.
Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được.
Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn.
Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu.
Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc.
A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ.
Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt.
Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống!
Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!”
Du Võng chết rồi!
Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ.
Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu.
Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn.
Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi!
Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra.
A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao.
Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng.
Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!”
Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn.
Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc.
Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này.
Uỳnh!
Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất.
Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong.
Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực.
Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác.
Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại.
Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không.
A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói.
Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!”
A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống.
Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương.
Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông.
A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã.
Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải.
Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương.
A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất.
Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?
Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật.
Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!”
A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ.
Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!”
A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca.
Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.”
Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!”
Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.”
Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.”
“Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?”
“Hơn hai ngàn năm rồi.”
“Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.”
Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm.
Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?”
Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?”
Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.”
Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.”
Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.”
Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.”
A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu.
Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương…
Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi.
Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!”
Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ.
Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!”
“Tấn công!”
“Tấn công!”
“Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận.
Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”.
Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư.
Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!”
Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.”
Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.”
Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại!
Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!”
Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời cho mẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.”
A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu.
Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng.
Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!”
Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ.
“Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca.
Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương.
A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương.
Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai.
Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt.
Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại.
Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi.
Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa.
Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa.
Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa.
Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện…
Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!
Bình luận facebook