Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ký ức độc quyền - Chương 11 - Phần 2
3
Hôm sau, Trương Lệ Lệ không nhắc một chữ nào về việc say rượu, nói lảm nhảm của mình, tôi không biết cô ấy có nhớ hay không nên cũng giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Công việc bận rộn của tháng huấn luyện quân sự đã dễ dàng xóa nhòa chuyện này trong đầu tôi.
Nhìn những sinh viên mới lớn này rời xa cha mẹ để đến đây học tập, tôi bất giác nhớ lại bóng dáng của mình năm xưa.
“Cô ơi, lúc cô xõa tóc, nhìn hơi giống cô nàng ngổ ngáo.” Một nam sinh nói.
“Cô nàng ngổ ngáo gì?” Tôi không hiểu.
“Thì cái cô nàng ngổ ngáo trong phim Hàn Quốc ý.”
“Thật ra thì vóc dáng thua xa.” Tôi khiêm tốn nói.
“Không phải nói chiều cao, chủ yếu là gương mặt bánh bao kìa.”
“...”
Mấy đứa trẻ này đang châm chọc tôi sao?
Gì mà mặt bánh bao, cái này gọi là mặt phúng phính, tôi kháng cáo trong lòng.
Trong khoảng thời gian đó, tôi và Trương Lệ Lệ có đi nhờ xe về trung tâm thành phố mua ít đồ dùng, không ngờ lại gặp được Trần Đình ở ngoài cổng ký túc xá giáo viên.
“Thầy Trần.” Thấy trốn cũng không kịp nữa, tôi đành ló mặt ra chào.
“Ồ, Tiết Đồng à? May quá lại gặp.” Thầy đến gần. “Tôi có mang ít đặc sản dưới quê lên cho Mộ Thừa Hòa, nhưng họ nói khi năm học vừa bắt đầu, cậu ấy đã phải đi công tác, cứ tưởng là em có ở nhà nên tôi mang đồ tới đây, không ngờ đến hai lần đều không gặp được.”
Tôi nhìn túi đồ trong tay thầy. Người ngay không nói lời mờ ám, xem ra thầy cũng biết tôi sống ở đây rồi. Nếu đã có ý tránh Mộ Thừa Hòa để đến gặp tôi thì có nghĩa là có chuyện muốn nói với tôi rồi.
“Thầy Trần lên đó ngồi một lát nhé!” Tôi nói.
Mở cửa, vào đến nhà, tôi rót cho thầy ly nước, sau đó cũng ngượng ngùng ngồi xuống.
Trần Đình nhìn quanh phòng khách, hồi lâu chẳng nói tiếng nào.
Sự việc giữa tôi và Mộ Thừa Hòa, thật lòng mà nói đối với Trần Đình, tôi hơi chột dạ. Thầy đã từng cho tôi nhiều lời khuyên và cảnh báo đến vậy, vậy mà bây giờ những lời nói đó như gió thổi qua tai.
“Mộ Thừa Hòa đã nói với tôi chuyện của hai người.” Cuối cùng thầy cũng mở lời.
Không ngờ thầy không phải nghe từ những lời nói bóng nói gió ở sau lưng, mà là lời bộc bạch của Mộ Thừa Hòa.
“Dạ!” Tôi đáp.
“Con người của Mộ Thừa Hòa, nhìn thì có vẻ như lúc nào cũng vui vẻ, với ai cũng nói chuyện được, nhưng thật ra lại không mấy dễ gần. Nếu hai người đã lựa chọn như vậy, em đừng phụ lòng cậu ấy, cậu ấy không chịu nổi một đòn như vậy đâu.”
Nghe những lời của Trần Đình, tôi bèn nghĩ, sao mà giống như bố vợ nói chuyện với con rể thế này? Tôi thì có thể làm gì Mộ Thừa Hòa chứ?
Trần Đình châm một điếu thuốc: “Thời gian này em không ở đây à?”
“Trường em đang trong tháng huấn luyện quân sự, hơn nữa, mỗi khi đi công tác, anh ấy đều bảo em về ký túc xá của trường, không cho em ở lại đây một mình.” Có lẽ vì lo tôi sẽ sợ hãi chăng?
Thầy đưa điếu thuốc lên miệng rít một hơi rồi đảo mắt nhìn căn hộ khắp một lượt.
“Tiết Đồng, tôi và Mộ Thừa Hòa quen nhau cũng mười mấy năm rồi. Tôi là con một, không có anh chị em, cậu ấy lại nhỏ hơn tôi bốn tuổi, vì thế tôi luôn xem cậu ấy như em trai. Có lẽ, cậu ấy cũng nghĩ vậy.”
“Anh ấy thường kể chuyện về thầy khi còn học ở Nga.”
“Tôi nói với em những lời này có nghĩa không xem em là học trò của mình nữa, chỉ là bạn bè, hoặc là em dâu.” Chân mày của thầy nhíu lại giữa làn khói trắng. “Vì thế, chúng ta đang nói chuyện với xuất phát điểm là một người trưởng thành.”
“Em hiểu.”
“Tôi sang nước Nga sau khi tốt nghiệp phổ thông, lúc ấy vì điểm thi không cao lắm, hơn nữa, nhà tôi có người thân làm ăn bên ấy nên bố mẹ đã đưa tôi sang đó. Tôi học lớp dự bị, sau đó mới thi vào trường phổ thông.”
Tôi chỉ lắng nghe, không hiểu thầy nói ra những điều này là có ý gì.
“Hai năm sau, tôi mới chính thức quen biết Mộ Thừa Hòa. Lúc ấy...” Trần Đình ngẫm nghĩ đôi chút. “Cậu ấy khoảng mười bảy tuổi. Nghe nói cậu ấy rất nổi tiếng, thứ nhất là vì thông minh, học bổng cao nhất của Đại học Moscow rất ít khi trao cho người nước ngoài, nhưng chỉ duy nhất Mộ Thừa Hòa giành được, trẻ như vậy mà lại học lớp cao hơn tôi, tương lai thật xán lạn. Thứ hai là vì cậu ấy đẹp trai, nữ sinh lớn hơn cậu ấy bảy, tám tuổi cũng thầm yêu, làm mọi người chúng tôi đều rất ấm ức. Thứ ba là tính tình cậu ấy cực kỳ dễ dãi, hiền đến kỳ lạ, thậm chí nếu em đột nhiên tát cậu ấy một cái, cậu ấy không chỉ không giận mà còn cười với em, như là không có chuyện gì xảy ra vậy. Khi đó tôi chỉ cảm thấy, một người trẻ tuổi như vậy mà được giáo dục tốt như thế, thật là quái lạ, con người như vậy mà bình thường sao? Không phải là người chết thì ắt là người điên. Mãi cho đến khi tôi nhìn thấy cậu ấy hút thuốc phiện.”
Tim tôi chợt thiếu mất nửa nhịp. “Ma túy?”
“Cậu ấy che giấu rất tốt, nếu không phải vì ở chung một nhà và đặc biệt để ý quan sát, tôi cũng không thể phát hiện. Và nếu như lúc ấy không phát hiện thì có lẽ em cũng không thể nhìn thấy Mộ Thừa Hòa của ngày hôm nay. Có những người vì ham chơi mà đi du học, có khi chẳng hề tốt nghiệp, chỉ cầm phí sinh hoạt và học phí bố mẹ cung cấp để đi chơi khắp nơi, đến lúc tốt nghiệp thì cầm chứng chỉ giả về nước, loại người như thế không ít. Nhưng Mộ Thừa Hòa thì khác. Chúng tôi đều biết gia cảnh của cậu ấy không bình thường, nếu không vào dịp lễ tết, người của lãnh sự quán cũng không đến thăm cậu ấy. Nhưng cậu ấy lại ngoan đến khác thường, vừa điềm đạm vừa chan hòa. Làm sao ngờ được một thiếu niên ngoan như thế lại hút thuốc phiện, hơn nữa còn không phải là thời gian ngắn.”
“Nhưng... tại sao anh ấy lại...?”
Người tôi hỏi giờ đây là Trần Đình, nhưng người tôi muốn hỏi nhiều hơn là Mộ Thừa Hòa.
Trần Đình đứng dậy, nhìn quanh phòng khách.
“Em có biết vì sao khi phải đi công tác, Mộ Thừa Hòa sẽ không cho em ở đây một mình không?”
Tôi như một khúc gỗ, lắc đầu.
“Nghe nói, căn nhà này đã tu sửa hai lần. Trước đây cửa lớn không phải dạng cửa chống trộm như bây giờ, mà là kiểu cửa cổ xưa, phía trên có một cửa sổ nhỏ lắp kính, phía dưới là cánh cửa bằng gỗ.” Trần Đình miêu tả.
“Em biết loại cửa đó, kính cửa sổ bên trên có thể mở ra.” Tôi đáp.
“Vừa khéo có thể thòng dây vào đấy, rồi thắt nút, mắc vào khung cửa, treo cổ trên đó càng tiện.”
Chuyện này tôi cũng biết, trước đây có một nữ phạm nhân trong trại giam nơi mẹ tôi làm việc đã treo cổ bằng dây giày như thế, lúc tôi đến bệnh viện thăm ông nội còn nhìn thấy cô gái tự tử không thành ấy. Nhưng nghĩ đến những lời Trần Đình nói, và cả sự thật đang dần sáng rõ kia, bàn tay tôi bắt đầu không khống chế được, run lẩy bẩy.
“Bố của Mộ Thừa Hòa đã chết như thế. Sau đó một thời gian, sức khỏe của cậu ấy không tốt, đặc biệt là hay nhiều lời, vì thế cậu ấy mới kể cho tôi nghe những chuyện này. Mộ Thừa Hòa nói, lúc đó, cậu ấy còn đang ngủ trong phòng, sáng sớm thức dậy thì đã thấy bố mình treo trên cửa, toàn thân đã cứng lạnh.”
Lúc sự thật được hé mở, một nỗi đau từ đâu đó ồ ạt kéo đến ép sát vào đầu tôi, nước trong cơ thể tôi dường như đều đã tụ vào hốc mắt, chỉ chực trào ra. Tôi muốn khóc nhưng lại không muốn khóc trước mặt người ngoài như thế này, vì thế tôi đứng dậy thật nhanh, cố hết sức mở căng hai mắt, hít một hơi thật sâu.
“Em biết rồi, em biết rồi, em biết...” Tôi không ngừng nói với Trần Đình.
Trần Đình thấy vậy, bước tới bên cạnh, đưa cánh tay lên xoa xoa đầu tôi.
“Tôi xem em là một cô gái đã trưởng thành nên mới nói với em. Cậu ấy thật không dễ dàng gì mới được như bây giờ, mấy năm trước vẫn phải thường xuyên uống thuốc chống u uất. Suy cho cùng tôi cũng là người ngoài, có một số việc tự cậu ấy sẽ nói với em. Tiết Đồng...” Thầy trầm ngâm một lúc rồi tiếp tục. “Hy vọng em thật lòng yêu cậu ấy. Nếu không, bây giờ rút lui vẫn còn kịp.”
Sau đó, tôi đi đến chỗ đã hẹn với Trương Lệ Lệ để cùng nhau bắt xe quay trở lại ký túc xá, suốt chặng đường, tôi chẳng nói lời nào.
Lần đầu tiên khi đến đó, anh đã dùng giọng điệu trêu ghẹo nói với tôi có người từng treo cổ trên cửa, tôi còn tưởng đó chỉ là một lời nói đùa. Chẳng trách anh có nhà không ở, lại chạy tới chỗ Trần Đình. Chẳng trách anh lại nói, không có tôi, anh không có dũng khí ở lại đó nữa.
Ban đêm khi nói chuyện điện thoại với Mộ Thừa Hòa, tôi thấy chua xót vô cùng, nhưng lại không biết phải mở lời hỏi những chuyện đó thế nào.
4
Mỗi ngày, sau khi ăn cơm tối xong, sinh viên nghỉ ngơi một lát rồi phải tiếp tục tập luyện ca đêm, tuy nhiên cường độ tập luyện nhẹ nhàng hơn nhiều so với ban ngày. Có lúc là dọn dẹp vệ sinh, có lúc lại chia thành đội hát bè.
Đang vui chơi với mọi người, tôi nhận được điện thoại của mẹ.
Ở vùng ngoại ô xa xôi này, buổi tối chẳng có chương trình giải trí gì, đành luân phiên nhận điện thoại của bạn bè và người thân gọi tới để giết thời gian. Và có những lúc mẹ còn siêng gọi cho tôi hơn cả Mộ Thừa Hòa.
“Mẹ!” Tôi hỏi: “Không phải mẹ đang trong ca trực sao?”
“Đáng lẽ là tới phiên mẹ trực, ai ngờ bác Trần đột nhiên đi xe đường dài sang đây nên mẹ đã đổi ca trực với người khác.”
“Ồ!” Lần này, tôi biết người mẹ đang nói là ai rồi.
“Con xem, mẹ đã nói sẽ không nhắc ông ấy trước mặt con...”
“Mẹ à, hai người định khi nào kết hôn?”
“Hả?” Mẹ bất ngờ.
“Chẳng phải từ năm ngoái mẹ đã nói muốn kết hôn sao? Cũng lâu vậy rồi, sao không nghe mẹ nhắc đến?”
“Mẹ... Con...” Hiển nhiên là mẹ có hơi kinh ngạc trước thái độ của tôi.
“Lúc trước con không đồng ý, không có nghĩa là bây giờ con vẫn không đồng ý. Chỉ cần bác ấy tốt với mẹ, mẹ cảm thấy vui là được.” Tôi dịu giọng.
Tôi đã từng hỏi Mộ Thừa Hòa về vấn đề mẹ anh tái hôn, anh đã trả lời rằng: “Khi mới bắt đầu là hận, sau này lớn lên rồi suy nghĩ lại, mới biết thật ra đó là ích kỷ.”
“Bây giờ anh không để tâm nữa sao?”
“Nói hoàn toàn không để tâm là giả thôi. Nhưng chúng ta không có quyền dùng cảm xúc vui sướng của mình để chà đạp lên hạnh phúc của người khác.”
“Tiết Đồng, cảm ơn con.” Mẹ rất vui.
“Mẹ, bố mẹ bắt đầu thường xuyên cãi nhau là từ sau lần con bị bắt cóc trong công viên đúng không? Mẹ trách bố và bố trách mẹ.”
“Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”
“Con luôn tưởng là vậy.”
“Không phải, không phải. Bố mẹ không hợp nhau, chuyện không phải vì con.”
“Vậy là về sau bố có người khác rồi?”
“Sao đột nhiên con lại nói thế?”
“Lần trước khi đứng trước mộ, mẹ giận quá nói nửa câu, lúc ấy con đã đoán ra.”
“Đồng Đồng...”
Không hiểu vì sao mẹ chợt gọi tôi như thế, cũng với giọng điệu ấy, tôi bỗng có cảm giác như mình lại trở về lúc nhỏ, khi chưa đổi tên thành Tiết Đồng. Mọi người đều gọi Đồng Đồng, Đồng Đồng, bởi vì mẹ họ Đồng. Nhưng bà nội tôi lại nói, một người phụ nữ sao có thể chiếm mãi tên của con cháu nhà họ Tiết, cho nên tôi đã bị đổi tên.
“Tại sao mẹ không nói với con sớm hơn?”
“Bố mẹ vốn định chờ con lên đại học rồi mới nói với ông bà nội của con, rằng bố mẹ sẽ ly hôn, ngờ đâu lại xảy ra chuyện đó. Mẹ nghĩ, con yêu bố đến vậy, bây giờ bố cũng mất rồi, hà tất còn phải nói ra?”
“Mẹ, trước đây con đã không hiểu cho mẹ, bây giờ con cũng có người yêu rồi, con biết làm một người phụ nữ không đơn giản.”
Dường như mẹ khóc, một lúc sau mới bảo: “Dắt nó đến gặp mẹ đi. Tiểu Lý bảo Tiểu Mộ rất đẹp trai.”
“Còn một chuyện con phải nói với mẹ.”
“Nói đi.”
“Mộ Thừa Hòa là giáo viên dạy con ở Đại học A trước đây, hiện giờ chúng con đang ở chung một nhà.”
Bên kia điện thoại, mẹ khựng lại một lúc, sau đó như đã lấy lại sự bình tĩnh, mẹ hỏi: “Cậu ta còn độc thân chứ?”
“Dạ!”
“Chưa từng kết hôn?”
“Dạ, chưa.”
“Trong nhà còn ai?”
“Bố của anh ấy trước đây cũng là giáo viên trường Đại học A, đã qua đời. Mẹ anh ấy là công chức, nghe nói chức vụ rất cao. Anh ấy có dượng, còn có một em gái, nhưng không thường xuyên liên lạc.”
“Con cảm thấy Tiểu Mộ có thật lòng với con không?”
“Con...” Mặt tôi chợt đỏ lên. “Làm sao con biết anh ấy có thật lòng không chứ?”
“Con ngốc à, những chuyện này, tự mình sẽ có cảm giác, lừa được người ngoài, không lừa được bản thân đâu.”
Tôi nghiêm túc ngẫm nghĩ, ngẫm rồi lại nghĩ, cuối cùng gật đầu: “Anh ấy thật lòng.”
“Con muốn sống suốt đời với cậu ta chứ?”
“Muốn.”
“Vậy thì đừng quan tâm người khác sẽ nói gì. Áp lực của cậu ta lớn hơn con, chỉ khi con vượt qua được thử thách này, Tiểu Mộ mới có thể vượt qua.”
Câu nói này của mẹ giống như một viên thuốc an thần vậy, tôi chợt hiểu ra.
Tôi sợ gì chứ?
Chuyện đáng sợ nhất chẳng còn gì khác ngoài việc mất anh.
Trước khi ngủ, tôi không biết phải làm gì, bèn cầm điện thoại lên xem ảnh trong bộ sưu tập, đến những tấm gần cuối, tôi nhìn thấy tấm hình của hai năm trước.
Đó là buổi hội thảo hàng không của hai năm trước, tôi trốn học, theo Lý sư huynh vào nghe bài diễn thuyết của Mộ Thừa Hòa. Bạch Lâm gửi tin nhắn nằng nặc bắt tôi phải chụp một tấm ở hiện trường về.
Mộ Thừa Hòa đứng trên khán đài, áo vest phẳng phiu, nụ cười ung dung, phong thái rất lịch lãm.
Vì khoảng cách quá xa, độ phân giải lại không cao, do đó tấm hình không rõ một chút nào, đến khi tôi phóng to hết cỡ thì gương mặt anh lại càng mơ hồ.
Nhưng khi tôi nhắm mắt lại, lập tức có thể nhớ ra thần sắc của anh lúc đó.
Trí tuệ đến thế.
Nho nhã đến thế.
Trương Lệ Lệ đang đập muỗi trên giường.
“Lúc nhỏ, cô có ước mơ gì không?” Tôi nằm ngửa người, hỏi bâng quơ.
Trương Lệ Lệ suy nghĩ một lúc: “Mơ được làm thị trưởng, tôi đã viết bài tập làm văn như thế, còn được giải thưởng nữa, ai ngờ bây giờ lại thế này.”
Tôi cười, áp điện thoại lên ngực: “Tôi có quen một người, người đó nói với tôi ước mơ và lý tưởng không giống nhau. Ước mơ nhiều lúc ở xa tầm với, nhưng lý tưởng thì có thể thành hiện thực. Chúng ta nỗ lực vì nó, thì sẽ thực hiện được mục tiêu. Khi hoàn thành từng lý tưởng một, chúng ta sẽ đến gần ước mơ ban đầu.”
“Chuyện đó khó biết chừng nào, y như Đường Tăng đi thỉnh kinh vậy.”
“Lúc trước tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng người mà tôi quen biết ấy đã gần thực hiện được rồi. Anh ấy đang từng bước thực hiện ước mơ của mình, kiên định và quật cường đến thế, khiến tôi phải ghen tỵ.”
Tôi như bị trúng tà thuật vậy, cứ thao thao bất tuyệt mãi không thôi.
“Bây giờ tôi nhớ ra rồi, tôi cũng có ước mơ.” Tôi nói. “Phiếu đăng ký nguyện vọng khi thi đại học là do tôi tự điền, tôi chỉ chọn ngoại ngữ, vì tôi đã từng muốn làm một người phiên dịch. Khi còn nhỏ, mới tiếp xúc với ngoại ngữ, tôi không thích chút nào. Nhưng bố tôi lại rất thích theo dõi tin tức thời sự, thường có những chương mục phỏng vấn trực tiếp, bố rất thích xem. Tôi vừa làm bài tập vừa nghe, trong lòng rất khâm phục những người phiên dịch ấy, có thể vừa nghe vừa dịch lại lời của người khác. Sau này người lớn nói với tôi, đó không phải là phiên dịch thông thường, đó là dịch cabin, là một loại phiên dịch cao cấp.
Thế là tôi nghĩ, tôi cũng phải làm một người như thế, vì vậy tôi mới chọn ngành ngoại ngữ.
Nhưng trong bốn năm học ấy, tôi lại chỉ biết phải lấy điểm cao, phải thi đỗ, phải tìm một công việc tốt. Nhưng công việc thế nào mới được cho là tốt? Ở lại thành phố, lương cao, công việc nhẹ nhàng, sếp dễ tính. Tôi đã dần quên mất lý tưởng ban đầu.”
Hai chúng tôi cùng im lặng rất lâu, rất lâu.
Cuối cùng Trương Lệ Lệ hỏi: “Cô muốn dịch cabin?”
“Ừm.”
“Nhưng đâu có dễ như vậy?”
“Lúc nãy tôi cũng suy nghĩ rồi, tôi sẽ thi vào làm nghiên cứu sinh trong Học viện Phiên dịch trước, sau đó thử xem sao.”
Tôi cầm điện thoại lên, nhìn tấm ảnh ấy một lần nữa, trong bóng đêm, luồng sáng xanh mờ từ màn hình tỏa ra.
“Cô có nhớ bài thơ của Thư Đình mà chúng ta được học hồi trung học không?” Tôi hỏi.
“Gửi cây sồi?”
“Tôi đã học thuộc lòng bài thơ đó rất nhiều lần nhưng không thuộc, cuối cùng bị cô giáo dạy văn phạt chép mấy chục lần.”
Trương Lệ Lệ cười nói. “Tất cả những bài thơ hay áng văn có liên quan đến tình yêu, tôi đều thuộc rất nhanh.” Nói xong, Trương Lệ Lệ khẽ đọc lại bài thơ ấy.
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối sẽ không làm dây hoa lăng tiêu bấu víu
Bám vào cành của anh để thể hiện bản thân mình;
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối không học theo những con chim si tình
Vì sự chở che mà hót mãi một khúc ca đơn điệu;
Cũng không làm suối nguồn,
Quanh năm mang tặng sự thảnh thơi mát mẻ
Cũng không làm núi đèo cao hiểm trở
Để anh cao hơn, điểm thêm nét oai hùng.
Thậm chí ánh mặt trời.
Thậm chí giọt mưa xuân.
Không, tất cả những điều này vẫn là chưa đủ!
Em nhất định sẽ phải là cây gạo mọc bên anh,
Phải là một cái cây mọc cạnh anh tương xứng.
Rễ, bám chặt dưới đất
Lá, vươn lên trời xanh
Mỗi trận gió thổi qua
Chúng ta lại cùng nhau thăm hỏi
Nhưng mỗi người
Đều hiểu được lời nói của nhau
Anh có cành đồng thân sắt
Giống đao, giống kiếm, giống thương;
Em cũng có những đóa hoa rực đỏ
Giống tiếng thở dài nặng nề,
Và giống cả những đóa lửa anh hùng.
Chúng ta cùng sẻ chia giá lạnh, gió mưa và sấm chớp;
Chúng ta cùng chung hưởng sương mai, nước đọng, cầu vồng.
Tưởng như là mãi mãi song song,
Nhưng lại vẫn suốt đời nương tựa.
Đây mới thực là tình yêu vĩ đại,
Kiên trung một chữ chốn này:
Yêu.
Không chỉ yêu anh bởi tầm vóc lớn lao
Mà cũng yêu anh bởi kiên định bám sâu vào lòng đất.
Giọng nói của Trương Lệ Lệ ngày thường đã rất hay, giờ cô ấy lại thấp giọng khẽ ngâm. Ngâm thơ trong màn đêm yên tĩnh, nghe thật êm tai và rung động lòng người. Chẳng biết câu thơ nào đã chạm vào trái tim cô ấy, mà khi cô ấy đọc đến chữ cuối cùng của bài thơ, tôi nghe thấy tiếng nấc nghẹn ngào.
“Tiết Đồng, cô nói xem, tôi còn có thể gặp được một tình yêu như vậy không?” Cô ấy hỏi.
“Còn phải hỏi sao? Chắc chắn là có.” Tôi vừa đáp vừa quay mặt vào tường vờ như muốn ngủ.
Rất lâu, rất lâu sau, tôi mới lại mở mắt ra, lặng lẽ lau nước mắt, trong lòng thầm nói: “Mộ Thừa Hòa, em cũng sẽ làm cây gạo của anh.”
Hôm sau, Trương Lệ Lệ không nhắc một chữ nào về việc say rượu, nói lảm nhảm của mình, tôi không biết cô ấy có nhớ hay không nên cũng giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Công việc bận rộn của tháng huấn luyện quân sự đã dễ dàng xóa nhòa chuyện này trong đầu tôi.
Nhìn những sinh viên mới lớn này rời xa cha mẹ để đến đây học tập, tôi bất giác nhớ lại bóng dáng của mình năm xưa.
“Cô ơi, lúc cô xõa tóc, nhìn hơi giống cô nàng ngổ ngáo.” Một nam sinh nói.
“Cô nàng ngổ ngáo gì?” Tôi không hiểu.
“Thì cái cô nàng ngổ ngáo trong phim Hàn Quốc ý.”
“Thật ra thì vóc dáng thua xa.” Tôi khiêm tốn nói.
“Không phải nói chiều cao, chủ yếu là gương mặt bánh bao kìa.”
“...”
Mấy đứa trẻ này đang châm chọc tôi sao?
Gì mà mặt bánh bao, cái này gọi là mặt phúng phính, tôi kháng cáo trong lòng.
Trong khoảng thời gian đó, tôi và Trương Lệ Lệ có đi nhờ xe về trung tâm thành phố mua ít đồ dùng, không ngờ lại gặp được Trần Đình ở ngoài cổng ký túc xá giáo viên.
“Thầy Trần.” Thấy trốn cũng không kịp nữa, tôi đành ló mặt ra chào.
“Ồ, Tiết Đồng à? May quá lại gặp.” Thầy đến gần. “Tôi có mang ít đặc sản dưới quê lên cho Mộ Thừa Hòa, nhưng họ nói khi năm học vừa bắt đầu, cậu ấy đã phải đi công tác, cứ tưởng là em có ở nhà nên tôi mang đồ tới đây, không ngờ đến hai lần đều không gặp được.”
Tôi nhìn túi đồ trong tay thầy. Người ngay không nói lời mờ ám, xem ra thầy cũng biết tôi sống ở đây rồi. Nếu đã có ý tránh Mộ Thừa Hòa để đến gặp tôi thì có nghĩa là có chuyện muốn nói với tôi rồi.
“Thầy Trần lên đó ngồi một lát nhé!” Tôi nói.
Mở cửa, vào đến nhà, tôi rót cho thầy ly nước, sau đó cũng ngượng ngùng ngồi xuống.
Trần Đình nhìn quanh phòng khách, hồi lâu chẳng nói tiếng nào.
Sự việc giữa tôi và Mộ Thừa Hòa, thật lòng mà nói đối với Trần Đình, tôi hơi chột dạ. Thầy đã từng cho tôi nhiều lời khuyên và cảnh báo đến vậy, vậy mà bây giờ những lời nói đó như gió thổi qua tai.
“Mộ Thừa Hòa đã nói với tôi chuyện của hai người.” Cuối cùng thầy cũng mở lời.
Không ngờ thầy không phải nghe từ những lời nói bóng nói gió ở sau lưng, mà là lời bộc bạch của Mộ Thừa Hòa.
“Dạ!” Tôi đáp.
“Con người của Mộ Thừa Hòa, nhìn thì có vẻ như lúc nào cũng vui vẻ, với ai cũng nói chuyện được, nhưng thật ra lại không mấy dễ gần. Nếu hai người đã lựa chọn như vậy, em đừng phụ lòng cậu ấy, cậu ấy không chịu nổi một đòn như vậy đâu.”
Nghe những lời của Trần Đình, tôi bèn nghĩ, sao mà giống như bố vợ nói chuyện với con rể thế này? Tôi thì có thể làm gì Mộ Thừa Hòa chứ?
Trần Đình châm một điếu thuốc: “Thời gian này em không ở đây à?”
“Trường em đang trong tháng huấn luyện quân sự, hơn nữa, mỗi khi đi công tác, anh ấy đều bảo em về ký túc xá của trường, không cho em ở lại đây một mình.” Có lẽ vì lo tôi sẽ sợ hãi chăng?
Thầy đưa điếu thuốc lên miệng rít một hơi rồi đảo mắt nhìn căn hộ khắp một lượt.
“Tiết Đồng, tôi và Mộ Thừa Hòa quen nhau cũng mười mấy năm rồi. Tôi là con một, không có anh chị em, cậu ấy lại nhỏ hơn tôi bốn tuổi, vì thế tôi luôn xem cậu ấy như em trai. Có lẽ, cậu ấy cũng nghĩ vậy.”
“Anh ấy thường kể chuyện về thầy khi còn học ở Nga.”
“Tôi nói với em những lời này có nghĩa không xem em là học trò của mình nữa, chỉ là bạn bè, hoặc là em dâu.” Chân mày của thầy nhíu lại giữa làn khói trắng. “Vì thế, chúng ta đang nói chuyện với xuất phát điểm là một người trưởng thành.”
“Em hiểu.”
“Tôi sang nước Nga sau khi tốt nghiệp phổ thông, lúc ấy vì điểm thi không cao lắm, hơn nữa, nhà tôi có người thân làm ăn bên ấy nên bố mẹ đã đưa tôi sang đó. Tôi học lớp dự bị, sau đó mới thi vào trường phổ thông.”
Tôi chỉ lắng nghe, không hiểu thầy nói ra những điều này là có ý gì.
“Hai năm sau, tôi mới chính thức quen biết Mộ Thừa Hòa. Lúc ấy...” Trần Đình ngẫm nghĩ đôi chút. “Cậu ấy khoảng mười bảy tuổi. Nghe nói cậu ấy rất nổi tiếng, thứ nhất là vì thông minh, học bổng cao nhất của Đại học Moscow rất ít khi trao cho người nước ngoài, nhưng chỉ duy nhất Mộ Thừa Hòa giành được, trẻ như vậy mà lại học lớp cao hơn tôi, tương lai thật xán lạn. Thứ hai là vì cậu ấy đẹp trai, nữ sinh lớn hơn cậu ấy bảy, tám tuổi cũng thầm yêu, làm mọi người chúng tôi đều rất ấm ức. Thứ ba là tính tình cậu ấy cực kỳ dễ dãi, hiền đến kỳ lạ, thậm chí nếu em đột nhiên tát cậu ấy một cái, cậu ấy không chỉ không giận mà còn cười với em, như là không có chuyện gì xảy ra vậy. Khi đó tôi chỉ cảm thấy, một người trẻ tuổi như vậy mà được giáo dục tốt như thế, thật là quái lạ, con người như vậy mà bình thường sao? Không phải là người chết thì ắt là người điên. Mãi cho đến khi tôi nhìn thấy cậu ấy hút thuốc phiện.”
Tim tôi chợt thiếu mất nửa nhịp. “Ma túy?”
“Cậu ấy che giấu rất tốt, nếu không phải vì ở chung một nhà và đặc biệt để ý quan sát, tôi cũng không thể phát hiện. Và nếu như lúc ấy không phát hiện thì có lẽ em cũng không thể nhìn thấy Mộ Thừa Hòa của ngày hôm nay. Có những người vì ham chơi mà đi du học, có khi chẳng hề tốt nghiệp, chỉ cầm phí sinh hoạt và học phí bố mẹ cung cấp để đi chơi khắp nơi, đến lúc tốt nghiệp thì cầm chứng chỉ giả về nước, loại người như thế không ít. Nhưng Mộ Thừa Hòa thì khác. Chúng tôi đều biết gia cảnh của cậu ấy không bình thường, nếu không vào dịp lễ tết, người của lãnh sự quán cũng không đến thăm cậu ấy. Nhưng cậu ấy lại ngoan đến khác thường, vừa điềm đạm vừa chan hòa. Làm sao ngờ được một thiếu niên ngoan như thế lại hút thuốc phiện, hơn nữa còn không phải là thời gian ngắn.”
“Nhưng... tại sao anh ấy lại...?”
Người tôi hỏi giờ đây là Trần Đình, nhưng người tôi muốn hỏi nhiều hơn là Mộ Thừa Hòa.
Trần Đình đứng dậy, nhìn quanh phòng khách.
“Em có biết vì sao khi phải đi công tác, Mộ Thừa Hòa sẽ không cho em ở đây một mình không?”
Tôi như một khúc gỗ, lắc đầu.
“Nghe nói, căn nhà này đã tu sửa hai lần. Trước đây cửa lớn không phải dạng cửa chống trộm như bây giờ, mà là kiểu cửa cổ xưa, phía trên có một cửa sổ nhỏ lắp kính, phía dưới là cánh cửa bằng gỗ.” Trần Đình miêu tả.
“Em biết loại cửa đó, kính cửa sổ bên trên có thể mở ra.” Tôi đáp.
“Vừa khéo có thể thòng dây vào đấy, rồi thắt nút, mắc vào khung cửa, treo cổ trên đó càng tiện.”
Chuyện này tôi cũng biết, trước đây có một nữ phạm nhân trong trại giam nơi mẹ tôi làm việc đã treo cổ bằng dây giày như thế, lúc tôi đến bệnh viện thăm ông nội còn nhìn thấy cô gái tự tử không thành ấy. Nhưng nghĩ đến những lời Trần Đình nói, và cả sự thật đang dần sáng rõ kia, bàn tay tôi bắt đầu không khống chế được, run lẩy bẩy.
“Bố của Mộ Thừa Hòa đã chết như thế. Sau đó một thời gian, sức khỏe của cậu ấy không tốt, đặc biệt là hay nhiều lời, vì thế cậu ấy mới kể cho tôi nghe những chuyện này. Mộ Thừa Hòa nói, lúc đó, cậu ấy còn đang ngủ trong phòng, sáng sớm thức dậy thì đã thấy bố mình treo trên cửa, toàn thân đã cứng lạnh.”
Lúc sự thật được hé mở, một nỗi đau từ đâu đó ồ ạt kéo đến ép sát vào đầu tôi, nước trong cơ thể tôi dường như đều đã tụ vào hốc mắt, chỉ chực trào ra. Tôi muốn khóc nhưng lại không muốn khóc trước mặt người ngoài như thế này, vì thế tôi đứng dậy thật nhanh, cố hết sức mở căng hai mắt, hít một hơi thật sâu.
“Em biết rồi, em biết rồi, em biết...” Tôi không ngừng nói với Trần Đình.
Trần Đình thấy vậy, bước tới bên cạnh, đưa cánh tay lên xoa xoa đầu tôi.
“Tôi xem em là một cô gái đã trưởng thành nên mới nói với em. Cậu ấy thật không dễ dàng gì mới được như bây giờ, mấy năm trước vẫn phải thường xuyên uống thuốc chống u uất. Suy cho cùng tôi cũng là người ngoài, có một số việc tự cậu ấy sẽ nói với em. Tiết Đồng...” Thầy trầm ngâm một lúc rồi tiếp tục. “Hy vọng em thật lòng yêu cậu ấy. Nếu không, bây giờ rút lui vẫn còn kịp.”
Sau đó, tôi đi đến chỗ đã hẹn với Trương Lệ Lệ để cùng nhau bắt xe quay trở lại ký túc xá, suốt chặng đường, tôi chẳng nói lời nào.
Lần đầu tiên khi đến đó, anh đã dùng giọng điệu trêu ghẹo nói với tôi có người từng treo cổ trên cửa, tôi còn tưởng đó chỉ là một lời nói đùa. Chẳng trách anh có nhà không ở, lại chạy tới chỗ Trần Đình. Chẳng trách anh lại nói, không có tôi, anh không có dũng khí ở lại đó nữa.
Ban đêm khi nói chuyện điện thoại với Mộ Thừa Hòa, tôi thấy chua xót vô cùng, nhưng lại không biết phải mở lời hỏi những chuyện đó thế nào.
4
Mỗi ngày, sau khi ăn cơm tối xong, sinh viên nghỉ ngơi một lát rồi phải tiếp tục tập luyện ca đêm, tuy nhiên cường độ tập luyện nhẹ nhàng hơn nhiều so với ban ngày. Có lúc là dọn dẹp vệ sinh, có lúc lại chia thành đội hát bè.
Đang vui chơi với mọi người, tôi nhận được điện thoại của mẹ.
Ở vùng ngoại ô xa xôi này, buổi tối chẳng có chương trình giải trí gì, đành luân phiên nhận điện thoại của bạn bè và người thân gọi tới để giết thời gian. Và có những lúc mẹ còn siêng gọi cho tôi hơn cả Mộ Thừa Hòa.
“Mẹ!” Tôi hỏi: “Không phải mẹ đang trong ca trực sao?”
“Đáng lẽ là tới phiên mẹ trực, ai ngờ bác Trần đột nhiên đi xe đường dài sang đây nên mẹ đã đổi ca trực với người khác.”
“Ồ!” Lần này, tôi biết người mẹ đang nói là ai rồi.
“Con xem, mẹ đã nói sẽ không nhắc ông ấy trước mặt con...”
“Mẹ à, hai người định khi nào kết hôn?”
“Hả?” Mẹ bất ngờ.
“Chẳng phải từ năm ngoái mẹ đã nói muốn kết hôn sao? Cũng lâu vậy rồi, sao không nghe mẹ nhắc đến?”
“Mẹ... Con...” Hiển nhiên là mẹ có hơi kinh ngạc trước thái độ của tôi.
“Lúc trước con không đồng ý, không có nghĩa là bây giờ con vẫn không đồng ý. Chỉ cần bác ấy tốt với mẹ, mẹ cảm thấy vui là được.” Tôi dịu giọng.
Tôi đã từng hỏi Mộ Thừa Hòa về vấn đề mẹ anh tái hôn, anh đã trả lời rằng: “Khi mới bắt đầu là hận, sau này lớn lên rồi suy nghĩ lại, mới biết thật ra đó là ích kỷ.”
“Bây giờ anh không để tâm nữa sao?”
“Nói hoàn toàn không để tâm là giả thôi. Nhưng chúng ta không có quyền dùng cảm xúc vui sướng của mình để chà đạp lên hạnh phúc của người khác.”
“Tiết Đồng, cảm ơn con.” Mẹ rất vui.
“Mẹ, bố mẹ bắt đầu thường xuyên cãi nhau là từ sau lần con bị bắt cóc trong công viên đúng không? Mẹ trách bố và bố trách mẹ.”
“Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”
“Con luôn tưởng là vậy.”
“Không phải, không phải. Bố mẹ không hợp nhau, chuyện không phải vì con.”
“Vậy là về sau bố có người khác rồi?”
“Sao đột nhiên con lại nói thế?”
“Lần trước khi đứng trước mộ, mẹ giận quá nói nửa câu, lúc ấy con đã đoán ra.”
“Đồng Đồng...”
Không hiểu vì sao mẹ chợt gọi tôi như thế, cũng với giọng điệu ấy, tôi bỗng có cảm giác như mình lại trở về lúc nhỏ, khi chưa đổi tên thành Tiết Đồng. Mọi người đều gọi Đồng Đồng, Đồng Đồng, bởi vì mẹ họ Đồng. Nhưng bà nội tôi lại nói, một người phụ nữ sao có thể chiếm mãi tên của con cháu nhà họ Tiết, cho nên tôi đã bị đổi tên.
“Tại sao mẹ không nói với con sớm hơn?”
“Bố mẹ vốn định chờ con lên đại học rồi mới nói với ông bà nội của con, rằng bố mẹ sẽ ly hôn, ngờ đâu lại xảy ra chuyện đó. Mẹ nghĩ, con yêu bố đến vậy, bây giờ bố cũng mất rồi, hà tất còn phải nói ra?”
“Mẹ, trước đây con đã không hiểu cho mẹ, bây giờ con cũng có người yêu rồi, con biết làm một người phụ nữ không đơn giản.”
Dường như mẹ khóc, một lúc sau mới bảo: “Dắt nó đến gặp mẹ đi. Tiểu Lý bảo Tiểu Mộ rất đẹp trai.”
“Còn một chuyện con phải nói với mẹ.”
“Nói đi.”
“Mộ Thừa Hòa là giáo viên dạy con ở Đại học A trước đây, hiện giờ chúng con đang ở chung một nhà.”
Bên kia điện thoại, mẹ khựng lại một lúc, sau đó như đã lấy lại sự bình tĩnh, mẹ hỏi: “Cậu ta còn độc thân chứ?”
“Dạ!”
“Chưa từng kết hôn?”
“Dạ, chưa.”
“Trong nhà còn ai?”
“Bố của anh ấy trước đây cũng là giáo viên trường Đại học A, đã qua đời. Mẹ anh ấy là công chức, nghe nói chức vụ rất cao. Anh ấy có dượng, còn có một em gái, nhưng không thường xuyên liên lạc.”
“Con cảm thấy Tiểu Mộ có thật lòng với con không?”
“Con...” Mặt tôi chợt đỏ lên. “Làm sao con biết anh ấy có thật lòng không chứ?”
“Con ngốc à, những chuyện này, tự mình sẽ có cảm giác, lừa được người ngoài, không lừa được bản thân đâu.”
Tôi nghiêm túc ngẫm nghĩ, ngẫm rồi lại nghĩ, cuối cùng gật đầu: “Anh ấy thật lòng.”
“Con muốn sống suốt đời với cậu ta chứ?”
“Muốn.”
“Vậy thì đừng quan tâm người khác sẽ nói gì. Áp lực của cậu ta lớn hơn con, chỉ khi con vượt qua được thử thách này, Tiểu Mộ mới có thể vượt qua.”
Câu nói này của mẹ giống như một viên thuốc an thần vậy, tôi chợt hiểu ra.
Tôi sợ gì chứ?
Chuyện đáng sợ nhất chẳng còn gì khác ngoài việc mất anh.
Trước khi ngủ, tôi không biết phải làm gì, bèn cầm điện thoại lên xem ảnh trong bộ sưu tập, đến những tấm gần cuối, tôi nhìn thấy tấm hình của hai năm trước.
Đó là buổi hội thảo hàng không của hai năm trước, tôi trốn học, theo Lý sư huynh vào nghe bài diễn thuyết của Mộ Thừa Hòa. Bạch Lâm gửi tin nhắn nằng nặc bắt tôi phải chụp một tấm ở hiện trường về.
Mộ Thừa Hòa đứng trên khán đài, áo vest phẳng phiu, nụ cười ung dung, phong thái rất lịch lãm.
Vì khoảng cách quá xa, độ phân giải lại không cao, do đó tấm hình không rõ một chút nào, đến khi tôi phóng to hết cỡ thì gương mặt anh lại càng mơ hồ.
Nhưng khi tôi nhắm mắt lại, lập tức có thể nhớ ra thần sắc của anh lúc đó.
Trí tuệ đến thế.
Nho nhã đến thế.
Trương Lệ Lệ đang đập muỗi trên giường.
“Lúc nhỏ, cô có ước mơ gì không?” Tôi nằm ngửa người, hỏi bâng quơ.
Trương Lệ Lệ suy nghĩ một lúc: “Mơ được làm thị trưởng, tôi đã viết bài tập làm văn như thế, còn được giải thưởng nữa, ai ngờ bây giờ lại thế này.”
Tôi cười, áp điện thoại lên ngực: “Tôi có quen một người, người đó nói với tôi ước mơ và lý tưởng không giống nhau. Ước mơ nhiều lúc ở xa tầm với, nhưng lý tưởng thì có thể thành hiện thực. Chúng ta nỗ lực vì nó, thì sẽ thực hiện được mục tiêu. Khi hoàn thành từng lý tưởng một, chúng ta sẽ đến gần ước mơ ban đầu.”
“Chuyện đó khó biết chừng nào, y như Đường Tăng đi thỉnh kinh vậy.”
“Lúc trước tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng người mà tôi quen biết ấy đã gần thực hiện được rồi. Anh ấy đang từng bước thực hiện ước mơ của mình, kiên định và quật cường đến thế, khiến tôi phải ghen tỵ.”
Tôi như bị trúng tà thuật vậy, cứ thao thao bất tuyệt mãi không thôi.
“Bây giờ tôi nhớ ra rồi, tôi cũng có ước mơ.” Tôi nói. “Phiếu đăng ký nguyện vọng khi thi đại học là do tôi tự điền, tôi chỉ chọn ngoại ngữ, vì tôi đã từng muốn làm một người phiên dịch. Khi còn nhỏ, mới tiếp xúc với ngoại ngữ, tôi không thích chút nào. Nhưng bố tôi lại rất thích theo dõi tin tức thời sự, thường có những chương mục phỏng vấn trực tiếp, bố rất thích xem. Tôi vừa làm bài tập vừa nghe, trong lòng rất khâm phục những người phiên dịch ấy, có thể vừa nghe vừa dịch lại lời của người khác. Sau này người lớn nói với tôi, đó không phải là phiên dịch thông thường, đó là dịch cabin, là một loại phiên dịch cao cấp.
Thế là tôi nghĩ, tôi cũng phải làm một người như thế, vì vậy tôi mới chọn ngành ngoại ngữ.
Nhưng trong bốn năm học ấy, tôi lại chỉ biết phải lấy điểm cao, phải thi đỗ, phải tìm một công việc tốt. Nhưng công việc thế nào mới được cho là tốt? Ở lại thành phố, lương cao, công việc nhẹ nhàng, sếp dễ tính. Tôi đã dần quên mất lý tưởng ban đầu.”
Hai chúng tôi cùng im lặng rất lâu, rất lâu.
Cuối cùng Trương Lệ Lệ hỏi: “Cô muốn dịch cabin?”
“Ừm.”
“Nhưng đâu có dễ như vậy?”
“Lúc nãy tôi cũng suy nghĩ rồi, tôi sẽ thi vào làm nghiên cứu sinh trong Học viện Phiên dịch trước, sau đó thử xem sao.”
Tôi cầm điện thoại lên, nhìn tấm ảnh ấy một lần nữa, trong bóng đêm, luồng sáng xanh mờ từ màn hình tỏa ra.
“Cô có nhớ bài thơ của Thư Đình mà chúng ta được học hồi trung học không?” Tôi hỏi.
“Gửi cây sồi?”
“Tôi đã học thuộc lòng bài thơ đó rất nhiều lần nhưng không thuộc, cuối cùng bị cô giáo dạy văn phạt chép mấy chục lần.”
Trương Lệ Lệ cười nói. “Tất cả những bài thơ hay áng văn có liên quan đến tình yêu, tôi đều thuộc rất nhanh.” Nói xong, Trương Lệ Lệ khẽ đọc lại bài thơ ấy.
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối sẽ không làm dây hoa lăng tiêu bấu víu
Bám vào cành của anh để thể hiện bản thân mình;
Nếu như em yêu anh
Em tuyệt đối không học theo những con chim si tình
Vì sự chở che mà hót mãi một khúc ca đơn điệu;
Cũng không làm suối nguồn,
Quanh năm mang tặng sự thảnh thơi mát mẻ
Cũng không làm núi đèo cao hiểm trở
Để anh cao hơn, điểm thêm nét oai hùng.
Thậm chí ánh mặt trời.
Thậm chí giọt mưa xuân.
Không, tất cả những điều này vẫn là chưa đủ!
Em nhất định sẽ phải là cây gạo mọc bên anh,
Phải là một cái cây mọc cạnh anh tương xứng.
Rễ, bám chặt dưới đất
Lá, vươn lên trời xanh
Mỗi trận gió thổi qua
Chúng ta lại cùng nhau thăm hỏi
Nhưng mỗi người
Đều hiểu được lời nói của nhau
Anh có cành đồng thân sắt
Giống đao, giống kiếm, giống thương;
Em cũng có những đóa hoa rực đỏ
Giống tiếng thở dài nặng nề,
Và giống cả những đóa lửa anh hùng.
Chúng ta cùng sẻ chia giá lạnh, gió mưa và sấm chớp;
Chúng ta cùng chung hưởng sương mai, nước đọng, cầu vồng.
Tưởng như là mãi mãi song song,
Nhưng lại vẫn suốt đời nương tựa.
Đây mới thực là tình yêu vĩ đại,
Kiên trung một chữ chốn này:
Yêu.
Không chỉ yêu anh bởi tầm vóc lớn lao
Mà cũng yêu anh bởi kiên định bám sâu vào lòng đất.
Giọng nói của Trương Lệ Lệ ngày thường đã rất hay, giờ cô ấy lại thấp giọng khẽ ngâm. Ngâm thơ trong màn đêm yên tĩnh, nghe thật êm tai và rung động lòng người. Chẳng biết câu thơ nào đã chạm vào trái tim cô ấy, mà khi cô ấy đọc đến chữ cuối cùng của bài thơ, tôi nghe thấy tiếng nấc nghẹn ngào.
“Tiết Đồng, cô nói xem, tôi còn có thể gặp được một tình yêu như vậy không?” Cô ấy hỏi.
“Còn phải hỏi sao? Chắc chắn là có.” Tôi vừa đáp vừa quay mặt vào tường vờ như muốn ngủ.
Rất lâu, rất lâu sau, tôi mới lại mở mắt ra, lặng lẽ lau nước mắt, trong lòng thầm nói: “Mộ Thừa Hòa, em cũng sẽ làm cây gạo của anh.”
Bình luận facebook