Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ký ức độc quyền - Chương 01 - Phần 1
Chương 1
Hải Ly tiên sinh và A Đồng Mộc tiểu thư
1
Hôm nay thi hai môn, sáng Khái luận tư tưởng Mao Trạch Đông, chiều Pháp luật đại cương.
Trước đó, tôi đã vất vả, cực nhọc đi xin chỉ giáo đáp án của toàn bộ câu hỏi ôn tập, chép lại một lần, rồi mang đi photo thu nhỏ, thu nhỏ xong mang về phòng dùng kéo cắt thành những đoạn có hình dạng giống như miếng đậu phụ khô, sau đó lại mang đi in. Đi đi về về, tất bật cả ngày, rõ ràng là chăm chỉ hơn nhiều so với những kẻ có chuyện mới ôm chân Phật[1], sáng mai thi thì nửa đêm mới bò ra học thuộc lòng.
[1] Tương ứng với câu “Nước đến chân mới nhảy”.
Lúc nhận đề thi, nhìn thấy những câu hỏi đó, tôi chợt mừng đến muốn khóc, đúng là không uổng công, mà hôm qua trong lúc chép đáp án, tôi cũng đã nhớ qua nội dung của một số kiến thức đó.
Tôi phấn chấn hẳn lên, vừa định cất mảnh giấy ấy đi thì chợt cảm thấy có một ánh mắt vô cùng nóng bỏng kèm theo chút nịnh nọt đang chiếu thẳng vào người mình.
“Tiết Đồng, cho tôi mượn dùng nhé!” Chung Cường, người ngồi gần tôi, cách nhau lối đi ở giữa, nhỏ nhẹ nài nỉ: “Cứu một mạng người còn hơn xây một tòa tháp bảy tầng đấy.”
Tôi nhìn cậu ta, rồi lại nhìn cái thứ đang cầm trong tay, khẽ cắn răng đưa qua: “Nhớ trả tôi đấy.”
Hai mươi phút sau khi phát đề, cô La - giám thị coi thi cầm tờ đề môn Khái luận tư tưởng Mao Trạch Đông lên, bắt đầu trầm tư, một lát sau ánh mắt cô trở nên mơ hồ, như có như không, và cuối cùng cô ấy bắt đầu bay vào cõi thần tiên, phiêu du cùng mộng tưởng, thế là cả phòng thi cũng bước vào thời kỳ hoàng kim quay bài. Gan của mọi người dần to lên, các kiểu bản lĩnh siêu cường đều lộ rõ.
Bạch Lâm ngồi sau lưng tôi sáng sớm nay đã chạy vào phòng thi, dùng bút chì chép đáp án lên mặt bàn, giờ đây cũng đang vùi đầu cặm cụi múa bút thành văn. Còn Chung Cường len lén nhìn cô La trên bục giảng sau đó mới thò tay vào túi lục lục tìm tìm, mãi sau mới rút ra được hai mảnh giấy nhỏ cứu mạng.
Tôi không thèm nhìn dáng vẻ lóng ngóng, vụng về của cậu ta nữa, cắn cắn đầu bút, nhíu mày, bắt đầu nghiêm túc suy nghĩ đến những tinh hoa có trong tư tưởng của Mao Chủ tịch vĩ đại.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Một lát sau, tôi nghe thấy Chung Cường ho liên tục không ngừng, vừa ngẩng lên đã thấy cậu ta đang nháy mắt lia lịa với tôi. Tôi cúi đầu nhìn xuống theo ánh mắt cậu ta - tờ giấy tôi cho cậu ta mượn để cứu mạng đã bị gió thổi bay xuống chân bàn tôi đang ngồi, trịnh trọng nằm ngay trên lối đi thoáng đãng.
Một tờ giấy in chi chít những chữ lít nha lít nhít, nhỏ hơn cả con kiến, để cho thuận tiện, tôi đã in hết đáp án hai môn thi trong ngày hôm nay lên một tờ giấy, mặt trước là “Khái luận Mao”, mặt sau là “Pháp luật”, tờ giấy ấy chỉ bằng một phần hai đĩa CD.
Giờ tôi nhìn tờ giấy đó mà có chút đau lòng. Tôi ngẩng lên, liếc xéo Chung Cường một cái, cái tên này chỉ mỗi việc chép lại đáp án mà cũng không xong, còn làm rơi xuống đất. Tôi tức giận khom lưng đưa chân định khều nó lên, nhưng lần đầu tiên khều không được, lần thứ hai đang cố khom lưng thấp hơn nữa thì một bàn chân đã giẫm lên nó.
Tôi đau lòng, luyến tiếc kéo một góc của tờ giấy, hạ thấp giọng nói: “Này bạn, giẫm lên đồ của tôi rồi kìa.” Người này thật không biết điều, nộp bài thì nộp đi, muốn đi thì đi nhanh lên, suýt chút nữa làm hỏng việc của tôi rồi.
Thế nhưng, cái chân đó vẫn không nhấc ra.
Tôi lại nói: “Bạn à!” Nói xong, tôi định ngẩng đầu nhìn đối phương, nhưng tiếc là góc nhìn quá lớn, cái cổ chỉ ngẩng lên được một nửa, nên mới nhìn được đến đầu gối.
Nếu không phải vì cô giáo còn ngồi trên bục giảng thì như thường ngày, tôi dám đảm bảo mình sẽ cắn cho người này một miếng.
Chung Cường ở bên kia lại ho khù khụ, còn dữ dội hơn trước.
“Này!” Tôi bực mình.
Người này không phải chỉ vì có đôi chân dài mà cứ giẫm mãi lên đồ của tôi không chịu đi đấy chứ?
Bạch Lâm cũng bắt đầu ho.
Lúc này tôi thấy có chút khó hiểu, ở trường đâu có dịch cúm mà sao hết người này đến người kia cứ ho thành chuỗi như vậy, cố tình để cô La phát hiện ra tôi hay sao?
Đúng lúc này, đối phương cũng nhấc chân lên, nhờ vậy tôi mới có thể lấy được đồ của mình, đang định thở phào một cái, không ngờ chủ nhân của đôi chân ấy lại khom lưng, ngồi xổm xuống.
Ngay lập tức, gương mặt của một chàng trai trẻ từ từ lọt vào tầm mắt tôi.
Tôi nhìn khuôn mặt đột nhiên phóng to trước mắt mình, não bộ nhất thời đông cứng.
Người đó toét miệng cười, chỉ chỉ vào thứ mà tôi đang cầm trong lòng tay, thân mật hỏi: “Bạn à, bạn đang cầm gì thế?”
Lời vừa dứt, thẻ công tác đeo trên cổ người đó cũng rủ xuống, đung đưa, ba chữ to tướng in trang trọng trên mặt thẻ lập tức khiến tôi xa xẩm mặt mày - Ban Giám thị.
Chung Cường vừa thấy thế, lập tức đứng dậy nộp bài, sau đó biến mất khỏi phòng thi với tốc độ cực nhanh.
Tôi nhìn theo bóng dáng đã mất dạng của Chung Cường, cuối cùng nhìn xuống thứ đang nắm trong tay mình, miệng há ra nhưng biết là vô ích, rõ ràng đã bị đối phương bắt ngay tại trận, có trăm miệng cũng không biện bạch được gì.
Đầu tiên tôi thấy sợ hãi, sau đó là xấu hổ, tiếp đến là bắt đầu nhìn thẳng vào cuộc đời thê lương, và cuối cùng là tạo dáng vẻ hiên ngang lẫm liệt, xả thân vì nghĩa lớn.
Vốn dĩ thứ đó rơi trên mặt đất, mọi người xung quanh không ai chịu nhận, nên chỉ cần giải quyết qua loa cho xong chuyện là được. Nhưng người này lại không sớm không muộn, cố ý chọn đúng thời điểm đẹp nhất để bắt quả tang, tôi thật là oan hơn cả Đậu Nga[2].
[2] Đậu Nga: tên nhân vật nữ chính trong vở kịch Đậu Nga oan của Quan Hán Khanh, nội dung kể về một người đàn bà bình thường chết oan, khiến trời đất cũng phải rung động.
“Còn không cam tâm ư?” Trong văn phòng, thầy giám thị cười cười hỏi tôi.
“Hơi hơi.” Tôi lạnh lùng.
“Cái này không phải của em à?”
“... Phải ạ!” Tôi viết đấy, tôi in đấy, tôi cắt đấy!
“Không phải do em mang vào phòng thi đấy chứ?”
“... Phải ạ!”
“Vậy thì em đừng nói với tôi, em vốn định quay bài nhưng trước khi làm bài, em đột nhiên cắn rứt lương tâm, quyết định ăn năn hối lỗi, rồi em đã tốt bụng cho bạn mượn tờ giấy đó, kết quả là bạn em bất cẩn để nó rơi xuống chân em, và đúng lúc ấy tôi xuất hiện...” Người đó nhướn mày, nói tiếp: “Cô học trò, lời giải thích thế này từ vài năm trước đã không còn thịnh hành ở trường chúng ta nữa rồi.”
Mặt tôi từ đỏ tím biến thành xanh đen, người này đã nói một lèo tất tần tật những gì tôi muốn nói. Tôi hít một hơi thật sâu, thầm nghĩ, sao trên đời lại có kiểu giáo viên vậy chứ?
Khi nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã thong dong, vẻ mặt dương dương tự đắc của đối phương, tôi càng thấy phẫn nộ, tức giận đến mức chỉ muốn lập tức bổ nhào đến bóp chết lão.
Trước khi rời đi, tôi còn hằm hằm quay đầu lại: “Thầy!” Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
“Ừm. Còn gì muốn nói à?”
“Làm phiền thầy trả nó cho em.”
“Để làm gì?” Đối phương thờ ơ hỏi.
“Chiều nay thi Pháp luật đại cương, em còn phải dùng.” Tôi đáp.
Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch ngoài cửa, chắc là Bạch Lâm nghe lén bên ngoài hành lang bị vấp ngã rồi.
Thật không ngờ người thầy trẻ măng kia không hề tức giận chút nào, trái lại còn khẽ mỉm cười, hất cằm về phía chứng cứ phạm tội của tôi đang để ở trên bàn, nói: “Lấy rồi đi đi. Nhưng mà, học trò này, chiều nay em muốn quay bài thì phải chọn cách nào tốt hơn một chút, chứ lén mang phao vào phòng thi là cách ngốc nhất đấy.”
Tôi: “...”
Bạch Lâm: “...”
Hết ngày này qua ngày khác, đến khi thi xong tất cả các môn, tôi vẫn không bị thầy phụ đạo triệu tập, cũng không nhận được bất kỳ thông tin xử phạt nào từ khoa.
Bẩm sinh tôi đã ít hơn người khác một dây thần kinh nên dần dần tôi cũng chẳng để tâm đến chuyện này nữa. Về đến nhà là toàn tâm toàn ý ăn no ngủ kỹ, chăm sóc bản thân béo lên một chút để nhiệt liệt chào đón cuộc sống mới của một sinh viên năm ba.
2
Dưới sự chỉ đạo tuyển sinh của Bộ Giáo dục, hằng năm số lượng sinh viên được tuyển của Đại học A đều tăng lên, ngôi trường cũ trở nên vô cùng chật chội, không còn đủ chỗ. Vì vậy nhà trường đã sắp xếp cho sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba học ở khu Tây, khu này đã được sửa chữa lại, đến năm thứ tư hoặc làm nghiên cứu sinh mới được trở về cơ sở chính của trường.
Khu Tây của trường nằm trong một thị trấn nhỏ, cách thành phố A mấy chục kilômét, phần lớn xung quanh đều là cánh đồng, cho nên, đừng nói là dạo phố, ngay đến việc tìm một chỗ để giải trí cũng rất khó khăn.
Phòng ký túc của chúng tôi có bốn người: tôi, Bạch Lâm, Tống Kỳ Kỳ và Triệu Hiểu Đường, chúng tôi học chung một lớp.
Cứ đến cuối tuần, sau khi ăn bữa tối buồn tẻ, tôi cùng Tống Kỳ Kỳ ra ngoài trường xem phim. Cái được gọi là rạp chiếu phim ở đây thực ra chỉ là một phòng chiếu, luôn chiếu bản lậu, không có bản gốc. Vì thế, nếu muốn xem một bộ phim điện ảnh mới thì phải đợi lâu hơn trong thành phố rất nhiều ngày. Nhưng đổi lại, một vé chỉ mất có tám tệ. Nếu có một trăm tệ nộp trước thì có thể làm thẻ hội viên, giá vé mỗi lần giảm xuống chỉ còn năm tệ, mức giá này quả thực vô cùng hấp dẫn.
Tôi và Tống Kỳ Kỳ không có thẻ, nhưng chúng tôi cũng tiếc ba đồng phải trả chênh đó.
“Cháu mua hai vé lúc bảy giờ.” Tống Kỳ Kỳ đưa cho người bán vé hai mươi đồng.
“Có thẻ không?” Cô bán vé hỏi.
“Có, có.” Tống Kỳ Kỳ quay đầu lại nháy mắt với tôi: “Tiểu Đồng, thẻ của cậu đâu?”
“À.” Tôi mở túi ra, giả vờ lục ví.
“Nhanh lên, có mang không?” Tống Kỳ Kỳ hỏi.
“Ôi trời! Hình như quên mang rồi!” Tôi la lên.
“Hả, vậy phải làm sao đây?” Tống Kỳ Kỳ thở dài, thu lại tờ hai mươi đồng.
“Đành thôi, không xem nữa vậy.” Tôi nói.
“Haizz...” Tống Kỳ Kỳ lại thở dài.
“Cô ơi!” Tôi bước lên trước, nhỏ nhẹ nói: “Cô ơi, chúng cháu có thẻ, nhưng hôm nay vội quá nên cháu quên mang theo, cô bán cho chúng cháu hai vé hội viên đi ạ!”
Cô ấy bán tín bán nghi: “Thật chứ?”
“Thật ạ, hôm nay chúng cháu quên mang thẻ.” Tôi vội vàng gật đầu, nhìn cô bán vé với vẻ mặt đáng thương. “Nếu chạy về lấy thì không kịp giờ chiếu nữa. Một tuần chúng cháu chỉ có mỗi hôm nay là rảnh rỗi, những buổi tối khác đều phải tự học, học hành rất chăm chỉ đấy ạ! Tiền sinh hoạt của cháu một ngày chỉ có mười đồng, nếu có thể tiết kiệm ba đồng một vé xem phim thì cũng đủ cho cháu mua thêm một ít thịt rồi...”
Tôi nói như sắp khóc vậy.
Cô bán vé nhìn tôi: “Cô bé này đúng là gầy thật. Thôi được, lần sau nhớ phải mang thẻ đấy.”
Tôi cầm vé, quay đầu lại nhìn Tống Kỳ Kỳ, lén giơ hai ngón tay hình chữ V.
Cách này đã dùng n lần, lần nào cũng thành công. Về sau, chỉ cần bà cô tốt bụng đó nhìn thấy tôi thì chẳng cần hỏi thẻ nữa, nói ngay với người bên cạnh: “Hì, cô nhóc này tôi quen, hội viên ruột đấy!”
Trong tiết trời cuối hạ đầu thu này, khi ve sầu còn cố kéo dài chút hơi tàn trên những cành cây, cũng là lúc tôi bắt đầu bước vào năm thứ ba đại học. Học kỳ này có một môn tự chọn bắt buộc mà chúng tôi đã trông mong từ lâu - Ngoại ngữ 2.
Học viện Ngoại ngữ của Đại học A chia thành năm chuyên ngành: Anh, Nhật, Đức, Nga, Pháp, do đó môn Ngoại ngữ 2 của chúng tôi chỉ có thể chọn lựa giữa Nhật, Đức, Nga, Pháp. Vài năm gần đây, tiếng Nhật và tiếng Pháp rất thịnh hành nên sinh viên trong khoa Anh chọn học thêm tiếng Nhật và tiếng Pháp rất nhiều, nhiều lúc phòng học không đủ chỗ cho sinh viên, nên nhà trường phải tăng thêm lớp.
Phòng bên phải ký túc chúng tôi là của sinh viên khoa Nhật, trong đó có một người là bạn đồng hương với Tống Kỳ Kỳ, ngày nào cũng chạy qua nói sư huynh nào đó của khoa họ học tiếng Nhật xong, có tiền đồ tốt như thế nào, vào làm trong công ty do Nhật đầu tư, cuộc sống thoải mái ra sao.
“Haizz, thật ra tôi thấy ban đầu các cậu không nên chọn khoa Anh.” “Tiểu Nhật ngữ” lại bắt đầu than thở.
“Tại sao?” Tống Kỳ Kỳ hỏi lại.
“Chỉ cần là người có học thì ai cũng biết, học cái này ra thì làm được gì chứ?”
Tống Kỳ Kỳ tính tình thoải mái, chỉ cười cười cho qua chuyện.
“Chị bạn mới tốt nghiệp năm ngoái của khoa tôi, sau khi ra trường, đi dịch truyện tranh của Nhật, kiếm được rất nhiều tiền. Sau đó, người ta cảm thấy giọng chị ấy hay, đưa chị ấy sang Nhật đào tạo để chị ấy lồng tiếng Hoa cho phim Nhật đấy.”
Tôi không nhịn nổi nữa, từ giường trên nhảy xuống, lạnh lùng nói: “Phải đó, học tiếng Nhật thật là tốt, xem AV[3] cũng không cần phiên dịch.”
[3] Adult Video: phim người lớn.
“Tiểu Nhật ngữ” lặng thinh không nói gì.
Tôi soi gương, chải đầu, lại nói: “Bà chị đó của cậu lồng tiếng gì cho tiểu Nhật Bản vậy, có phải lúc nào cũng nói “yamete”, “kimochi” không?”
(Bây giờ là thời gian phổ cập kiến thức ngoại ngữ của Mộc Đầu: “yamete” trong tiếng Nhật tương đương với “Đừng mà” của tiếng Hoa, “kimochi” là “Sướng quá” = . =)
Mặt của “Tiểu Nhật ngữ” lập tức co giật.
Trước đây, cô nàng này rất thích khoe khoang trước mặt Tống Kỳ Kỳ, là vì Tống Kỳ Kỳ tính tình ôn hòa, không bao giờ phản bác lại, bởi thế mà cô nàng cũng càng ngày càng quá đáng. Giờ bị tôi châm chọc lại, chắc là cảm thấy vô cùng khó chịu.
“Tôi đi ăn cơm đây, thật là “hatsukashi[4]”!” Sau đó, tôi cầm hộp cơm lên che mặt, tỏ vẻ mắc cỡ rồi đi ra ngoài.
[4] Hatsukashi: tiếng Nhật, dịch ra có nghĩa là “xấu hổ quá đi mất”.
Ban đầu, tôi luôn ôm mộng gây dựng sự nghiệp màn bạc nên mới quyết chí chọn tiếng Nhật làm môn Ngoại ngữ 2, nhưng sự xuất hiện hết lần này đến lần khác của “Tiểu Nhật ngữ” đã khiến suy nghĩ này của tôi tan thành mây khói.
Chính trong lúc tôi đang cảm thấy hoang mang chưa biết quyết định thế nào thì Bạch Lâm đã mang đến một gợi ý.
“Mình muốn chọn tiếng Nga!” Bạch Lâm đứng trong phòng nói lớn.
“Tiếng Nga?” Tôi nuốt vội miếng cơm. “Cậu muốn làm người Eskimo à?”
“Tiểu Đồng...” Bạch Lâm liếc tôi một cái. “Bệnh mù đường của cậu lại trầm trọng hơn rồi, có thể kéo người Russia với người Eskimo vào làm một được sao?”
“Chẳng phải đều là “s”, “ i” cả hay sao? Không phải đều ở Bắc Cực à?” Tôi cố cãi lý.
Tống Kỳ Kỳ nói xen vào: “Sao đột nhiên muốn học tiếng Nga vậy? Thời gian trước chẳng phải cậu nói muốn học tiếng Pháp cơ mà?”
Bạch Lâm cười híp mắt, nói: “Năm nay khoa cử một thầy giáo siêu đẹp trai đến dạy tiếng Nga cho chúng mình. Chính là thầy ủy viên đoàn Thanh niên đó, hôm nay, lúc thầy ấy vừa xuất hiện trong phòng ăn, tất cả sinh viên có mặt ở đó lập tức bị chinh phục.”
Chính nhờ câu nói có tính kích động ấy của Bạch Lâm, tôi đã bị lôi kéo chọn môn tiếng Nga.
3
Môn tiếng Nga một tuần có hai tiết, được xếp vào tối thứ Hai.
Không ngờ số lượng sinh viên đăng ký học tiếng Nga năm nay lại tăng vọt như thế, hoàn toàn vượt khỏi dự tính của khoa, bởi thế chúng tôi không thể không chuyển qua phòng học lớn hơn, lớp học tiếng Nga này hoàn toàn có xu thế đuổi kịp tiếng Pháp và trội hơn cả lớp tiếng Nhật, tiếng Đức.
Trước khi tiết học đầu tiên bắt đầu, thầy chủ nhiệm khoa tiếng Nga ưu ái đến thăm lớp, thực ra là thầy đến cổ vũ, động viên mọi người cố gắng học tập. Nhìn những học trò ham học hỏi ngồi chật cả giảng đường, thầy nghẹn ngào nói: “Các trò, nhớ năm xưa, Học viện Ngoại ngữ của chúng ta chỉ mới là khoa Ngoại ngữ, và chỉ có một chuyên ngành tiếng Nga. Lúc ấy, khắp nơi trong cả nước đều dấy lên phong trào học tiếng Nga, người không biết tiếng Nga cũng xem như mù chữ. Sau này, cùng với sự giải thể của Liên Xô, thực lực của Nga ngày càng suy yếu, có người thậm chí còn cho rằng môn tiếng Nga của chúng ta đã đi đến đường cùng. Hôm nay, nhìn thấy các em như thế này, tôi mới biết mùa xuân thứ hai của tiếng Nga lại sắp đến rồi!”
“Thầy chủ nhiệm khoa xem ra xúc động ghê!” Tôi nói. “Xúc động đến sắp khóc rồi kìa!”
“Đúng vậy. Thầy ấy mà biết được sự thật, chắc sẽ khóc ghê hơn.” Bạch Lâm nói.
Giảng viên dạy tiếng Nga tên là Trần Đình, từng du học ở Moscow, bắt đầu dạy học từ năm ngoái. Học viện Ngoại ngữ rất ít nam sinh, giảng viên nam lại càng ít, giảng viên nam trẻ tuổi thì đếm trên đầu ngón tay, cho nên, chỉ cần là thầy giáo hơi trẻ tuổi một chút, mà chưa có vợ thì quả thật là động vật quý hiếm, nếu như người đó lại có gương mặt điển trai một chút nữa thì đúng là thần tượng cấp ngôi sao quốc tế của đa số sinh viên.
Trần Đình chính là một trong số đó. Dáng người cao to, đeo cặp kính trông rất trí thức, nghe nói thầy ấy còn rất nho nhã.
Nhưng trong tiết tiếng Nga đầu tiên, khi nhìn thấy thầy ấy, tôi đã thất vọng tràn trề: “Như vậy mà cũng gọi là đẹp trai à?”
Bị người khác lừa rồi! Thật hối hận vì đã không tự mình đi kiểm chứng.
Bạch Lâm nói, hai mắt sáng lấp lánh: “Như thế còn không đẹp trai ư? Cậu thử nói cho mình nghe xem một người đẹp trai là thế nào?”
Tôi lấy ví tiền, rút tấm hình trong đó ra, nói: “Người này mới là người đẹp trai nhất thế giới.”
Bạch Lâm vô cùng hào hứng cầm tấm hình xem. Bức ảnh chụp hai người, đứng bên cạnh tôi là một người trung niên mập mạp, trắng trẻo với cái bụng bia nhô ra, gương mặt tươi cười vui vẻ như Phật Di Lặc.
“Thôi, đừng có mà lấy tư thế oai hùng của bố cậu ra để chế giễu tụi này nữa.” Bạch Lâm nói chẳng nể nang: “Cũng chẳng biết là hình tượng của bố cậu quá vĩ đại, hay là toàn bộ tam quan: nhân sinh quan, giá trị quan, thẩm mỹ quan của cậu có vấn đề đây?”
“Cậu mới là tam quan có vấn đề ấy.” Tôi luôn cảm thấy đàn ông phải như bố tôi mới được gọi là đẹp trai.
Trần Đình đứng trên bục giảng, nói: “Tôi là người không có thói quen điểm danh. Tôi luôn cảm thấy nếu phải dùng cách điểm danh để duy trì số lượng sinh viên đến lớp thì thật là việc rất đáng buồn.”
Bên dưới có nam sinh lén vỗ tay.
“Nếu các bạn cảm thấy tôi giảng bài tẻ nhạt, hoặc có chuyện đột xuất thì có thể không đến, cũng không cần phải xin phép, nhưng...” Trần Đình mỉm cười. “Đã đến rồi thì phải trăm phần trăm nghiêm túc.”
Thật ra, môn Ngoại ngữ 2 này và những môn đại cương kia đều là những môn học bắt buộc, có chút cảm giác vô bổ, chẳng mang lại lợi ích gì. Nhưng Trần Đình là người rất kiên nhẫn, làm việc cũng vô cùng trách nhiệm. Lớp học mở đầu với ba mươi ba chữ cái tiếng Nga, bắt đầu cuộc sống Anh - Nga lẫn lộn.
Sau giờ tự học, tôi và Bạch Lâm xách ấm đi lấy nước, trên đường đi, bất ngờ bắt gặp tên Chung Cường hại tôi phải chịu oan ức đang học ở lớp kế bên.
Tôi dùng ánh mắt lạnh như băng lườm cậu ta một cái.
“Tiểu Đồng à, về sau cậu cũng có bị sao đâu, cậu tha cho tôi đi mà!” Chung Cường nói.
“Hừ... Tiểu Đồng, Tiểu Đồng là để cậu gọi sao?” Bạch Lâm mắng. “Loại đàn ông không có trách nhiệm, mặc kệ cậu ta đi.” Dứt lời, Bạch Lâm liền kéo tôi đi.
Trên đường đi, Bạch Lâm nói với tôi: “Ông thầy bắt cậu lần trước xem ra cũng tốt đó chứ, chẳng làm gì cậu cả, mà sao tụi mình chưa từng gặp thầy ấy trong trường nhỉ?”
“Có phải là thầy giáo hay không còn chưa chắc ấy chứ. Nhìn dáng vẻ của lão y như là du côn, không chừng còn là một tên giả mạo.”
Mặc dù sự việc đã trôi qua được hai tháng, nhưng hễ nhắc đến ông thầy ấy là tôi lại thấy tức tối.
Tiết học của Trần Đình quả nhiên rất thú vị, thầy ấy cũng rất vui tính. Nhưng sức hút của giáo viên nói thế nào thì cũng vẫn không bằng chốn phồn hoa và phòng game online bên ngoài. Qua một tháng, sau khi tất cả sinh viên phát hiện thầy thật sự không điểm danh thì bắt đầu trốn tiết.
Nào ngờ hôm nay, bảy giờ một phút, Trần Đình chưa đến.
Bảy giờ năm phút, Trần Đình vẫn chưa đến.
Trong phòng học, mọi người bắt đầu rù rì to nhỏ.
“Không phải là quên rồi chứ?” Có người hỏi.
“Không thể thế được, chẳng phải mọi lần thầy Trần đến rất đúng giờ sao?” Có người nói.
Trong lúc tiếng ồn ào, huyên náo trong lớp càng lúc càng to thì một người đàn ông bước vào. Người đó, tay kẹp một quyển sách, thong dong bước lên bục giảng, rồi nhìn xuống lớp học, khẽ nở nụ cười: “Thầy Trần có việc không lên lớp được, tôi đến dạy thay, không ngờ phòng học lại khó tìm đến vậy.”
Toàn bộ nữ sinh trong lớp bị vẻ ngoài của người này hớp hồn, ngồi thừ cả ra... ngoại trừ tôi!
Tôi nắm chặt tay, đột nhiên nhớ đến câu tục ngữ: “Gặp được kẻ thù, muốn lòi con mắt.” Người đàn ông này chẳng phải ai khác, chính là ông thầy giả mạo sau khi bắt quả tang tôi quay bài xong đã biến mất tăm mất tích trong trường như một làn khói trắng.
Giờ đây, đúng thật là lê gót khắp hang cùng ngõ hẻm tìm không thấy, khi tìm được lại chẳng tốn chút hơi sức.
“Thầy Trần tạm thời đi công tác xa, tôi sẽ thay thầy Trần dạy các em môn tiếng Nga.” Người đó nói.
Có nữ sinh giơ tay lên: “Thưa thầy, thầy dạy môn tiếng Nga sao? Sao chúng em chưa từng thấy thầy?”
Tôi hiểu, ý của bạn đó là: “Thầy ơi, nếu như thầy là giảng viên của Học viện Ngoại ngữ, vậy thì thầy đã trốn khỏi vòng điều tra của chúng em bằng cách nào thế?”
Người đó nói: “Không phải, tôi không phải giảng viên tiếng Nga.”
Mọi người đồng thanh “ồ” lên một tiếng.
“Không phải dạy tiếng Nga mà cũng dám nói là đến dạy thay.” Tôi nói đầy vẻ oán hận.
“Nhưng mà...” Người đó ngừng lại. “Tôi từng sống ở Nga sáu, bảy năm, chắc là trình độ cũng không kém thầy Trần của các em đâu.”
Mọi người lại “ồ” lên một tiếng, ý nghĩa hoàn toàn khác với tiếng “ồ” lúc nãy.
Tôi bĩu môi, đúng là kiêu căng.
Biết nói vài câu tiếng Nga thì giỏi lắm sao? Tôi nói tiếng Anh, thầy có hiểu không? Đã là người đáng ghét thì từ đầu tới chân, từ trong ra ngoài, đều khiến người ta phát ghét.
Một nữ sinh khác hỏi: “Thầy ơi, có thể cho chúng em biết tên của thầy được không ạ?”
“Tôi họ Mộ.” Người ấy nói xong liền cầm viên phấn ở trên mặt bàn lên, lướt soạt soạt trên bảng đen, ba chữ với nét viết rất tự nhiên, phóng khoáng hiện lên: Mộ Thừa Hòa.
Người đó quay lại, đôi mày dãn ra: “Các bạn có thể gọi tôi là thầy Mộ, Tiểu Mộ, Lão Mộ. Đương nhiên...” Thầy ném viên phấn kẹp giữa hai ngón tay vào hộp, đuôi mắt nhướn lên, cười dịu dàng. “... Sau giờ học, muốn gọi tôi là Thừa Hòa cũng được.”
Bạch Lâm bất chợt nắm lấy tay tôi, xúc động nói: “Tiểu Đồng, thầy này cười trông thật là...” Cô ấy chau mày. “Hình dung thế nào nhỉ, là một câu thành ngữ bốn chữ, có ý diễn tả đối phương rất đẹp, câu ấy là gì nhỉ?”
Tôi nghiến răng đáp: “Hại nước hại dân!”
Bạch Lâm: “...”
Hải Ly tiên sinh và A Đồng Mộc tiểu thư
1
Hôm nay thi hai môn, sáng Khái luận tư tưởng Mao Trạch Đông, chiều Pháp luật đại cương.
Trước đó, tôi đã vất vả, cực nhọc đi xin chỉ giáo đáp án của toàn bộ câu hỏi ôn tập, chép lại một lần, rồi mang đi photo thu nhỏ, thu nhỏ xong mang về phòng dùng kéo cắt thành những đoạn có hình dạng giống như miếng đậu phụ khô, sau đó lại mang đi in. Đi đi về về, tất bật cả ngày, rõ ràng là chăm chỉ hơn nhiều so với những kẻ có chuyện mới ôm chân Phật[1], sáng mai thi thì nửa đêm mới bò ra học thuộc lòng.
[1] Tương ứng với câu “Nước đến chân mới nhảy”.
Lúc nhận đề thi, nhìn thấy những câu hỏi đó, tôi chợt mừng đến muốn khóc, đúng là không uổng công, mà hôm qua trong lúc chép đáp án, tôi cũng đã nhớ qua nội dung của một số kiến thức đó.
Tôi phấn chấn hẳn lên, vừa định cất mảnh giấy ấy đi thì chợt cảm thấy có một ánh mắt vô cùng nóng bỏng kèm theo chút nịnh nọt đang chiếu thẳng vào người mình.
“Tiết Đồng, cho tôi mượn dùng nhé!” Chung Cường, người ngồi gần tôi, cách nhau lối đi ở giữa, nhỏ nhẹ nài nỉ: “Cứu một mạng người còn hơn xây một tòa tháp bảy tầng đấy.”
Tôi nhìn cậu ta, rồi lại nhìn cái thứ đang cầm trong tay, khẽ cắn răng đưa qua: “Nhớ trả tôi đấy.”
Hai mươi phút sau khi phát đề, cô La - giám thị coi thi cầm tờ đề môn Khái luận tư tưởng Mao Trạch Đông lên, bắt đầu trầm tư, một lát sau ánh mắt cô trở nên mơ hồ, như có như không, và cuối cùng cô ấy bắt đầu bay vào cõi thần tiên, phiêu du cùng mộng tưởng, thế là cả phòng thi cũng bước vào thời kỳ hoàng kim quay bài. Gan của mọi người dần to lên, các kiểu bản lĩnh siêu cường đều lộ rõ.
Bạch Lâm ngồi sau lưng tôi sáng sớm nay đã chạy vào phòng thi, dùng bút chì chép đáp án lên mặt bàn, giờ đây cũng đang vùi đầu cặm cụi múa bút thành văn. Còn Chung Cường len lén nhìn cô La trên bục giảng sau đó mới thò tay vào túi lục lục tìm tìm, mãi sau mới rút ra được hai mảnh giấy nhỏ cứu mạng.
Tôi không thèm nhìn dáng vẻ lóng ngóng, vụng về của cậu ta nữa, cắn cắn đầu bút, nhíu mày, bắt đầu nghiêm túc suy nghĩ đến những tinh hoa có trong tư tưởng của Mao Chủ tịch vĩ đại.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Một lát sau, tôi nghe thấy Chung Cường ho liên tục không ngừng, vừa ngẩng lên đã thấy cậu ta đang nháy mắt lia lịa với tôi. Tôi cúi đầu nhìn xuống theo ánh mắt cậu ta - tờ giấy tôi cho cậu ta mượn để cứu mạng đã bị gió thổi bay xuống chân bàn tôi đang ngồi, trịnh trọng nằm ngay trên lối đi thoáng đãng.
Một tờ giấy in chi chít những chữ lít nha lít nhít, nhỏ hơn cả con kiến, để cho thuận tiện, tôi đã in hết đáp án hai môn thi trong ngày hôm nay lên một tờ giấy, mặt trước là “Khái luận Mao”, mặt sau là “Pháp luật”, tờ giấy ấy chỉ bằng một phần hai đĩa CD.
Giờ tôi nhìn tờ giấy đó mà có chút đau lòng. Tôi ngẩng lên, liếc xéo Chung Cường một cái, cái tên này chỉ mỗi việc chép lại đáp án mà cũng không xong, còn làm rơi xuống đất. Tôi tức giận khom lưng đưa chân định khều nó lên, nhưng lần đầu tiên khều không được, lần thứ hai đang cố khom lưng thấp hơn nữa thì một bàn chân đã giẫm lên nó.
Tôi đau lòng, luyến tiếc kéo một góc của tờ giấy, hạ thấp giọng nói: “Này bạn, giẫm lên đồ của tôi rồi kìa.” Người này thật không biết điều, nộp bài thì nộp đi, muốn đi thì đi nhanh lên, suýt chút nữa làm hỏng việc của tôi rồi.
Thế nhưng, cái chân đó vẫn không nhấc ra.
Tôi lại nói: “Bạn à!” Nói xong, tôi định ngẩng đầu nhìn đối phương, nhưng tiếc là góc nhìn quá lớn, cái cổ chỉ ngẩng lên được một nửa, nên mới nhìn được đến đầu gối.
Nếu không phải vì cô giáo còn ngồi trên bục giảng thì như thường ngày, tôi dám đảm bảo mình sẽ cắn cho người này một miếng.
Chung Cường ở bên kia lại ho khù khụ, còn dữ dội hơn trước.
“Này!” Tôi bực mình.
Người này không phải chỉ vì có đôi chân dài mà cứ giẫm mãi lên đồ của tôi không chịu đi đấy chứ?
Bạch Lâm cũng bắt đầu ho.
Lúc này tôi thấy có chút khó hiểu, ở trường đâu có dịch cúm mà sao hết người này đến người kia cứ ho thành chuỗi như vậy, cố tình để cô La phát hiện ra tôi hay sao?
Đúng lúc này, đối phương cũng nhấc chân lên, nhờ vậy tôi mới có thể lấy được đồ của mình, đang định thở phào một cái, không ngờ chủ nhân của đôi chân ấy lại khom lưng, ngồi xổm xuống.
Ngay lập tức, gương mặt của một chàng trai trẻ từ từ lọt vào tầm mắt tôi.
Tôi nhìn khuôn mặt đột nhiên phóng to trước mắt mình, não bộ nhất thời đông cứng.
Người đó toét miệng cười, chỉ chỉ vào thứ mà tôi đang cầm trong lòng tay, thân mật hỏi: “Bạn à, bạn đang cầm gì thế?”
Lời vừa dứt, thẻ công tác đeo trên cổ người đó cũng rủ xuống, đung đưa, ba chữ to tướng in trang trọng trên mặt thẻ lập tức khiến tôi xa xẩm mặt mày - Ban Giám thị.
Chung Cường vừa thấy thế, lập tức đứng dậy nộp bài, sau đó biến mất khỏi phòng thi với tốc độ cực nhanh.
Tôi nhìn theo bóng dáng đã mất dạng của Chung Cường, cuối cùng nhìn xuống thứ đang nắm trong tay mình, miệng há ra nhưng biết là vô ích, rõ ràng đã bị đối phương bắt ngay tại trận, có trăm miệng cũng không biện bạch được gì.
Đầu tiên tôi thấy sợ hãi, sau đó là xấu hổ, tiếp đến là bắt đầu nhìn thẳng vào cuộc đời thê lương, và cuối cùng là tạo dáng vẻ hiên ngang lẫm liệt, xả thân vì nghĩa lớn.
Vốn dĩ thứ đó rơi trên mặt đất, mọi người xung quanh không ai chịu nhận, nên chỉ cần giải quyết qua loa cho xong chuyện là được. Nhưng người này lại không sớm không muộn, cố ý chọn đúng thời điểm đẹp nhất để bắt quả tang, tôi thật là oan hơn cả Đậu Nga[2].
[2] Đậu Nga: tên nhân vật nữ chính trong vở kịch Đậu Nga oan của Quan Hán Khanh, nội dung kể về một người đàn bà bình thường chết oan, khiến trời đất cũng phải rung động.
“Còn không cam tâm ư?” Trong văn phòng, thầy giám thị cười cười hỏi tôi.
“Hơi hơi.” Tôi lạnh lùng.
“Cái này không phải của em à?”
“... Phải ạ!” Tôi viết đấy, tôi in đấy, tôi cắt đấy!
“Không phải do em mang vào phòng thi đấy chứ?”
“... Phải ạ!”
“Vậy thì em đừng nói với tôi, em vốn định quay bài nhưng trước khi làm bài, em đột nhiên cắn rứt lương tâm, quyết định ăn năn hối lỗi, rồi em đã tốt bụng cho bạn mượn tờ giấy đó, kết quả là bạn em bất cẩn để nó rơi xuống chân em, và đúng lúc ấy tôi xuất hiện...” Người đó nhướn mày, nói tiếp: “Cô học trò, lời giải thích thế này từ vài năm trước đã không còn thịnh hành ở trường chúng ta nữa rồi.”
Mặt tôi từ đỏ tím biến thành xanh đen, người này đã nói một lèo tất tần tật những gì tôi muốn nói. Tôi hít một hơi thật sâu, thầm nghĩ, sao trên đời lại có kiểu giáo viên vậy chứ?
Khi nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã thong dong, vẻ mặt dương dương tự đắc của đối phương, tôi càng thấy phẫn nộ, tức giận đến mức chỉ muốn lập tức bổ nhào đến bóp chết lão.
Trước khi rời đi, tôi còn hằm hằm quay đầu lại: “Thầy!” Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
“Ừm. Còn gì muốn nói à?”
“Làm phiền thầy trả nó cho em.”
“Để làm gì?” Đối phương thờ ơ hỏi.
“Chiều nay thi Pháp luật đại cương, em còn phải dùng.” Tôi đáp.
Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch ngoài cửa, chắc là Bạch Lâm nghe lén bên ngoài hành lang bị vấp ngã rồi.
Thật không ngờ người thầy trẻ măng kia không hề tức giận chút nào, trái lại còn khẽ mỉm cười, hất cằm về phía chứng cứ phạm tội của tôi đang để ở trên bàn, nói: “Lấy rồi đi đi. Nhưng mà, học trò này, chiều nay em muốn quay bài thì phải chọn cách nào tốt hơn một chút, chứ lén mang phao vào phòng thi là cách ngốc nhất đấy.”
Tôi: “...”
Bạch Lâm: “...”
Hết ngày này qua ngày khác, đến khi thi xong tất cả các môn, tôi vẫn không bị thầy phụ đạo triệu tập, cũng không nhận được bất kỳ thông tin xử phạt nào từ khoa.
Bẩm sinh tôi đã ít hơn người khác một dây thần kinh nên dần dần tôi cũng chẳng để tâm đến chuyện này nữa. Về đến nhà là toàn tâm toàn ý ăn no ngủ kỹ, chăm sóc bản thân béo lên một chút để nhiệt liệt chào đón cuộc sống mới của một sinh viên năm ba.
2
Dưới sự chỉ đạo tuyển sinh của Bộ Giáo dục, hằng năm số lượng sinh viên được tuyển của Đại học A đều tăng lên, ngôi trường cũ trở nên vô cùng chật chội, không còn đủ chỗ. Vì vậy nhà trường đã sắp xếp cho sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba học ở khu Tây, khu này đã được sửa chữa lại, đến năm thứ tư hoặc làm nghiên cứu sinh mới được trở về cơ sở chính của trường.
Khu Tây của trường nằm trong một thị trấn nhỏ, cách thành phố A mấy chục kilômét, phần lớn xung quanh đều là cánh đồng, cho nên, đừng nói là dạo phố, ngay đến việc tìm một chỗ để giải trí cũng rất khó khăn.
Phòng ký túc của chúng tôi có bốn người: tôi, Bạch Lâm, Tống Kỳ Kỳ và Triệu Hiểu Đường, chúng tôi học chung một lớp.
Cứ đến cuối tuần, sau khi ăn bữa tối buồn tẻ, tôi cùng Tống Kỳ Kỳ ra ngoài trường xem phim. Cái được gọi là rạp chiếu phim ở đây thực ra chỉ là một phòng chiếu, luôn chiếu bản lậu, không có bản gốc. Vì thế, nếu muốn xem một bộ phim điện ảnh mới thì phải đợi lâu hơn trong thành phố rất nhiều ngày. Nhưng đổi lại, một vé chỉ mất có tám tệ. Nếu có một trăm tệ nộp trước thì có thể làm thẻ hội viên, giá vé mỗi lần giảm xuống chỉ còn năm tệ, mức giá này quả thực vô cùng hấp dẫn.
Tôi và Tống Kỳ Kỳ không có thẻ, nhưng chúng tôi cũng tiếc ba đồng phải trả chênh đó.
“Cháu mua hai vé lúc bảy giờ.” Tống Kỳ Kỳ đưa cho người bán vé hai mươi đồng.
“Có thẻ không?” Cô bán vé hỏi.
“Có, có.” Tống Kỳ Kỳ quay đầu lại nháy mắt với tôi: “Tiểu Đồng, thẻ của cậu đâu?”
“À.” Tôi mở túi ra, giả vờ lục ví.
“Nhanh lên, có mang không?” Tống Kỳ Kỳ hỏi.
“Ôi trời! Hình như quên mang rồi!” Tôi la lên.
“Hả, vậy phải làm sao đây?” Tống Kỳ Kỳ thở dài, thu lại tờ hai mươi đồng.
“Đành thôi, không xem nữa vậy.” Tôi nói.
“Haizz...” Tống Kỳ Kỳ lại thở dài.
“Cô ơi!” Tôi bước lên trước, nhỏ nhẹ nói: “Cô ơi, chúng cháu có thẻ, nhưng hôm nay vội quá nên cháu quên mang theo, cô bán cho chúng cháu hai vé hội viên đi ạ!”
Cô ấy bán tín bán nghi: “Thật chứ?”
“Thật ạ, hôm nay chúng cháu quên mang thẻ.” Tôi vội vàng gật đầu, nhìn cô bán vé với vẻ mặt đáng thương. “Nếu chạy về lấy thì không kịp giờ chiếu nữa. Một tuần chúng cháu chỉ có mỗi hôm nay là rảnh rỗi, những buổi tối khác đều phải tự học, học hành rất chăm chỉ đấy ạ! Tiền sinh hoạt của cháu một ngày chỉ có mười đồng, nếu có thể tiết kiệm ba đồng một vé xem phim thì cũng đủ cho cháu mua thêm một ít thịt rồi...”
Tôi nói như sắp khóc vậy.
Cô bán vé nhìn tôi: “Cô bé này đúng là gầy thật. Thôi được, lần sau nhớ phải mang thẻ đấy.”
Tôi cầm vé, quay đầu lại nhìn Tống Kỳ Kỳ, lén giơ hai ngón tay hình chữ V.
Cách này đã dùng n lần, lần nào cũng thành công. Về sau, chỉ cần bà cô tốt bụng đó nhìn thấy tôi thì chẳng cần hỏi thẻ nữa, nói ngay với người bên cạnh: “Hì, cô nhóc này tôi quen, hội viên ruột đấy!”
Trong tiết trời cuối hạ đầu thu này, khi ve sầu còn cố kéo dài chút hơi tàn trên những cành cây, cũng là lúc tôi bắt đầu bước vào năm thứ ba đại học. Học kỳ này có một môn tự chọn bắt buộc mà chúng tôi đã trông mong từ lâu - Ngoại ngữ 2.
Học viện Ngoại ngữ của Đại học A chia thành năm chuyên ngành: Anh, Nhật, Đức, Nga, Pháp, do đó môn Ngoại ngữ 2 của chúng tôi chỉ có thể chọn lựa giữa Nhật, Đức, Nga, Pháp. Vài năm gần đây, tiếng Nhật và tiếng Pháp rất thịnh hành nên sinh viên trong khoa Anh chọn học thêm tiếng Nhật và tiếng Pháp rất nhiều, nhiều lúc phòng học không đủ chỗ cho sinh viên, nên nhà trường phải tăng thêm lớp.
Phòng bên phải ký túc chúng tôi là của sinh viên khoa Nhật, trong đó có một người là bạn đồng hương với Tống Kỳ Kỳ, ngày nào cũng chạy qua nói sư huynh nào đó của khoa họ học tiếng Nhật xong, có tiền đồ tốt như thế nào, vào làm trong công ty do Nhật đầu tư, cuộc sống thoải mái ra sao.
“Haizz, thật ra tôi thấy ban đầu các cậu không nên chọn khoa Anh.” “Tiểu Nhật ngữ” lại bắt đầu than thở.
“Tại sao?” Tống Kỳ Kỳ hỏi lại.
“Chỉ cần là người có học thì ai cũng biết, học cái này ra thì làm được gì chứ?”
Tống Kỳ Kỳ tính tình thoải mái, chỉ cười cười cho qua chuyện.
“Chị bạn mới tốt nghiệp năm ngoái của khoa tôi, sau khi ra trường, đi dịch truyện tranh của Nhật, kiếm được rất nhiều tiền. Sau đó, người ta cảm thấy giọng chị ấy hay, đưa chị ấy sang Nhật đào tạo để chị ấy lồng tiếng Hoa cho phim Nhật đấy.”
Tôi không nhịn nổi nữa, từ giường trên nhảy xuống, lạnh lùng nói: “Phải đó, học tiếng Nhật thật là tốt, xem AV[3] cũng không cần phiên dịch.”
[3] Adult Video: phim người lớn.
“Tiểu Nhật ngữ” lặng thinh không nói gì.
Tôi soi gương, chải đầu, lại nói: “Bà chị đó của cậu lồng tiếng gì cho tiểu Nhật Bản vậy, có phải lúc nào cũng nói “yamete”, “kimochi” không?”
(Bây giờ là thời gian phổ cập kiến thức ngoại ngữ của Mộc Đầu: “yamete” trong tiếng Nhật tương đương với “Đừng mà” của tiếng Hoa, “kimochi” là “Sướng quá” = . =)
Mặt của “Tiểu Nhật ngữ” lập tức co giật.
Trước đây, cô nàng này rất thích khoe khoang trước mặt Tống Kỳ Kỳ, là vì Tống Kỳ Kỳ tính tình ôn hòa, không bao giờ phản bác lại, bởi thế mà cô nàng cũng càng ngày càng quá đáng. Giờ bị tôi châm chọc lại, chắc là cảm thấy vô cùng khó chịu.
“Tôi đi ăn cơm đây, thật là “hatsukashi[4]”!” Sau đó, tôi cầm hộp cơm lên che mặt, tỏ vẻ mắc cỡ rồi đi ra ngoài.
[4] Hatsukashi: tiếng Nhật, dịch ra có nghĩa là “xấu hổ quá đi mất”.
Ban đầu, tôi luôn ôm mộng gây dựng sự nghiệp màn bạc nên mới quyết chí chọn tiếng Nhật làm môn Ngoại ngữ 2, nhưng sự xuất hiện hết lần này đến lần khác của “Tiểu Nhật ngữ” đã khiến suy nghĩ này của tôi tan thành mây khói.
Chính trong lúc tôi đang cảm thấy hoang mang chưa biết quyết định thế nào thì Bạch Lâm đã mang đến một gợi ý.
“Mình muốn chọn tiếng Nga!” Bạch Lâm đứng trong phòng nói lớn.
“Tiếng Nga?” Tôi nuốt vội miếng cơm. “Cậu muốn làm người Eskimo à?”
“Tiểu Đồng...” Bạch Lâm liếc tôi một cái. “Bệnh mù đường của cậu lại trầm trọng hơn rồi, có thể kéo người Russia với người Eskimo vào làm một được sao?”
“Chẳng phải đều là “s”, “ i” cả hay sao? Không phải đều ở Bắc Cực à?” Tôi cố cãi lý.
Tống Kỳ Kỳ nói xen vào: “Sao đột nhiên muốn học tiếng Nga vậy? Thời gian trước chẳng phải cậu nói muốn học tiếng Pháp cơ mà?”
Bạch Lâm cười híp mắt, nói: “Năm nay khoa cử một thầy giáo siêu đẹp trai đến dạy tiếng Nga cho chúng mình. Chính là thầy ủy viên đoàn Thanh niên đó, hôm nay, lúc thầy ấy vừa xuất hiện trong phòng ăn, tất cả sinh viên có mặt ở đó lập tức bị chinh phục.”
Chính nhờ câu nói có tính kích động ấy của Bạch Lâm, tôi đã bị lôi kéo chọn môn tiếng Nga.
3
Môn tiếng Nga một tuần có hai tiết, được xếp vào tối thứ Hai.
Không ngờ số lượng sinh viên đăng ký học tiếng Nga năm nay lại tăng vọt như thế, hoàn toàn vượt khỏi dự tính của khoa, bởi thế chúng tôi không thể không chuyển qua phòng học lớn hơn, lớp học tiếng Nga này hoàn toàn có xu thế đuổi kịp tiếng Pháp và trội hơn cả lớp tiếng Nhật, tiếng Đức.
Trước khi tiết học đầu tiên bắt đầu, thầy chủ nhiệm khoa tiếng Nga ưu ái đến thăm lớp, thực ra là thầy đến cổ vũ, động viên mọi người cố gắng học tập. Nhìn những học trò ham học hỏi ngồi chật cả giảng đường, thầy nghẹn ngào nói: “Các trò, nhớ năm xưa, Học viện Ngoại ngữ của chúng ta chỉ mới là khoa Ngoại ngữ, và chỉ có một chuyên ngành tiếng Nga. Lúc ấy, khắp nơi trong cả nước đều dấy lên phong trào học tiếng Nga, người không biết tiếng Nga cũng xem như mù chữ. Sau này, cùng với sự giải thể của Liên Xô, thực lực của Nga ngày càng suy yếu, có người thậm chí còn cho rằng môn tiếng Nga của chúng ta đã đi đến đường cùng. Hôm nay, nhìn thấy các em như thế này, tôi mới biết mùa xuân thứ hai của tiếng Nga lại sắp đến rồi!”
“Thầy chủ nhiệm khoa xem ra xúc động ghê!” Tôi nói. “Xúc động đến sắp khóc rồi kìa!”
“Đúng vậy. Thầy ấy mà biết được sự thật, chắc sẽ khóc ghê hơn.” Bạch Lâm nói.
Giảng viên dạy tiếng Nga tên là Trần Đình, từng du học ở Moscow, bắt đầu dạy học từ năm ngoái. Học viện Ngoại ngữ rất ít nam sinh, giảng viên nam lại càng ít, giảng viên nam trẻ tuổi thì đếm trên đầu ngón tay, cho nên, chỉ cần là thầy giáo hơi trẻ tuổi một chút, mà chưa có vợ thì quả thật là động vật quý hiếm, nếu như người đó lại có gương mặt điển trai một chút nữa thì đúng là thần tượng cấp ngôi sao quốc tế của đa số sinh viên.
Trần Đình chính là một trong số đó. Dáng người cao to, đeo cặp kính trông rất trí thức, nghe nói thầy ấy còn rất nho nhã.
Nhưng trong tiết tiếng Nga đầu tiên, khi nhìn thấy thầy ấy, tôi đã thất vọng tràn trề: “Như vậy mà cũng gọi là đẹp trai à?”
Bị người khác lừa rồi! Thật hối hận vì đã không tự mình đi kiểm chứng.
Bạch Lâm nói, hai mắt sáng lấp lánh: “Như thế còn không đẹp trai ư? Cậu thử nói cho mình nghe xem một người đẹp trai là thế nào?”
Tôi lấy ví tiền, rút tấm hình trong đó ra, nói: “Người này mới là người đẹp trai nhất thế giới.”
Bạch Lâm vô cùng hào hứng cầm tấm hình xem. Bức ảnh chụp hai người, đứng bên cạnh tôi là một người trung niên mập mạp, trắng trẻo với cái bụng bia nhô ra, gương mặt tươi cười vui vẻ như Phật Di Lặc.
“Thôi, đừng có mà lấy tư thế oai hùng của bố cậu ra để chế giễu tụi này nữa.” Bạch Lâm nói chẳng nể nang: “Cũng chẳng biết là hình tượng của bố cậu quá vĩ đại, hay là toàn bộ tam quan: nhân sinh quan, giá trị quan, thẩm mỹ quan của cậu có vấn đề đây?”
“Cậu mới là tam quan có vấn đề ấy.” Tôi luôn cảm thấy đàn ông phải như bố tôi mới được gọi là đẹp trai.
Trần Đình đứng trên bục giảng, nói: “Tôi là người không có thói quen điểm danh. Tôi luôn cảm thấy nếu phải dùng cách điểm danh để duy trì số lượng sinh viên đến lớp thì thật là việc rất đáng buồn.”
Bên dưới có nam sinh lén vỗ tay.
“Nếu các bạn cảm thấy tôi giảng bài tẻ nhạt, hoặc có chuyện đột xuất thì có thể không đến, cũng không cần phải xin phép, nhưng...” Trần Đình mỉm cười. “Đã đến rồi thì phải trăm phần trăm nghiêm túc.”
Thật ra, môn Ngoại ngữ 2 này và những môn đại cương kia đều là những môn học bắt buộc, có chút cảm giác vô bổ, chẳng mang lại lợi ích gì. Nhưng Trần Đình là người rất kiên nhẫn, làm việc cũng vô cùng trách nhiệm. Lớp học mở đầu với ba mươi ba chữ cái tiếng Nga, bắt đầu cuộc sống Anh - Nga lẫn lộn.
Sau giờ tự học, tôi và Bạch Lâm xách ấm đi lấy nước, trên đường đi, bất ngờ bắt gặp tên Chung Cường hại tôi phải chịu oan ức đang học ở lớp kế bên.
Tôi dùng ánh mắt lạnh như băng lườm cậu ta một cái.
“Tiểu Đồng à, về sau cậu cũng có bị sao đâu, cậu tha cho tôi đi mà!” Chung Cường nói.
“Hừ... Tiểu Đồng, Tiểu Đồng là để cậu gọi sao?” Bạch Lâm mắng. “Loại đàn ông không có trách nhiệm, mặc kệ cậu ta đi.” Dứt lời, Bạch Lâm liền kéo tôi đi.
Trên đường đi, Bạch Lâm nói với tôi: “Ông thầy bắt cậu lần trước xem ra cũng tốt đó chứ, chẳng làm gì cậu cả, mà sao tụi mình chưa từng gặp thầy ấy trong trường nhỉ?”
“Có phải là thầy giáo hay không còn chưa chắc ấy chứ. Nhìn dáng vẻ của lão y như là du côn, không chừng còn là một tên giả mạo.”
Mặc dù sự việc đã trôi qua được hai tháng, nhưng hễ nhắc đến ông thầy ấy là tôi lại thấy tức tối.
Tiết học của Trần Đình quả nhiên rất thú vị, thầy ấy cũng rất vui tính. Nhưng sức hút của giáo viên nói thế nào thì cũng vẫn không bằng chốn phồn hoa và phòng game online bên ngoài. Qua một tháng, sau khi tất cả sinh viên phát hiện thầy thật sự không điểm danh thì bắt đầu trốn tiết.
Nào ngờ hôm nay, bảy giờ một phút, Trần Đình chưa đến.
Bảy giờ năm phút, Trần Đình vẫn chưa đến.
Trong phòng học, mọi người bắt đầu rù rì to nhỏ.
“Không phải là quên rồi chứ?” Có người hỏi.
“Không thể thế được, chẳng phải mọi lần thầy Trần đến rất đúng giờ sao?” Có người nói.
Trong lúc tiếng ồn ào, huyên náo trong lớp càng lúc càng to thì một người đàn ông bước vào. Người đó, tay kẹp một quyển sách, thong dong bước lên bục giảng, rồi nhìn xuống lớp học, khẽ nở nụ cười: “Thầy Trần có việc không lên lớp được, tôi đến dạy thay, không ngờ phòng học lại khó tìm đến vậy.”
Toàn bộ nữ sinh trong lớp bị vẻ ngoài của người này hớp hồn, ngồi thừ cả ra... ngoại trừ tôi!
Tôi nắm chặt tay, đột nhiên nhớ đến câu tục ngữ: “Gặp được kẻ thù, muốn lòi con mắt.” Người đàn ông này chẳng phải ai khác, chính là ông thầy giả mạo sau khi bắt quả tang tôi quay bài xong đã biến mất tăm mất tích trong trường như một làn khói trắng.
Giờ đây, đúng thật là lê gót khắp hang cùng ngõ hẻm tìm không thấy, khi tìm được lại chẳng tốn chút hơi sức.
“Thầy Trần tạm thời đi công tác xa, tôi sẽ thay thầy Trần dạy các em môn tiếng Nga.” Người đó nói.
Có nữ sinh giơ tay lên: “Thưa thầy, thầy dạy môn tiếng Nga sao? Sao chúng em chưa từng thấy thầy?”
Tôi hiểu, ý của bạn đó là: “Thầy ơi, nếu như thầy là giảng viên của Học viện Ngoại ngữ, vậy thì thầy đã trốn khỏi vòng điều tra của chúng em bằng cách nào thế?”
Người đó nói: “Không phải, tôi không phải giảng viên tiếng Nga.”
Mọi người đồng thanh “ồ” lên một tiếng.
“Không phải dạy tiếng Nga mà cũng dám nói là đến dạy thay.” Tôi nói đầy vẻ oán hận.
“Nhưng mà...” Người đó ngừng lại. “Tôi từng sống ở Nga sáu, bảy năm, chắc là trình độ cũng không kém thầy Trần của các em đâu.”
Mọi người lại “ồ” lên một tiếng, ý nghĩa hoàn toàn khác với tiếng “ồ” lúc nãy.
Tôi bĩu môi, đúng là kiêu căng.
Biết nói vài câu tiếng Nga thì giỏi lắm sao? Tôi nói tiếng Anh, thầy có hiểu không? Đã là người đáng ghét thì từ đầu tới chân, từ trong ra ngoài, đều khiến người ta phát ghét.
Một nữ sinh khác hỏi: “Thầy ơi, có thể cho chúng em biết tên của thầy được không ạ?”
“Tôi họ Mộ.” Người ấy nói xong liền cầm viên phấn ở trên mặt bàn lên, lướt soạt soạt trên bảng đen, ba chữ với nét viết rất tự nhiên, phóng khoáng hiện lên: Mộ Thừa Hòa.
Người đó quay lại, đôi mày dãn ra: “Các bạn có thể gọi tôi là thầy Mộ, Tiểu Mộ, Lão Mộ. Đương nhiên...” Thầy ném viên phấn kẹp giữa hai ngón tay vào hộp, đuôi mắt nhướn lên, cười dịu dàng. “... Sau giờ học, muốn gọi tôi là Thừa Hòa cũng được.”
Bạch Lâm bất chợt nắm lấy tay tôi, xúc động nói: “Tiểu Đồng, thầy này cười trông thật là...” Cô ấy chau mày. “Hình dung thế nào nhỉ, là một câu thành ngữ bốn chữ, có ý diễn tả đối phương rất đẹp, câu ấy là gì nhỉ?”
Tôi nghiến răng đáp: “Hại nước hại dân!”
Bạch Lâm: “...”