Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chap-25
Chương 25: Róc thịt lấy xương
Bốc mả, cái nghề chuyên tiếp xúc với người chết, lo hậu sự cho người chết này cũng sẽ kiêm luôn công việc khám nghiệm tử thi ở thời kỳ chưa có pháp y. Khi tụng kinh cho người chết họ thường niệm các kinh văn mở đầu bằng từ "nam mô", như là"nam mô a di đà phật" hay "nam mô Quan thế âm bồ tát"..., vì thế mà người dân bản địa thường gọi những người làm việc này là"Nam mô sư phụ" hoặc "Nam mô lão."
Để điều tra vụ án xác thiếu niên bị phân hủy chỉ trong chín ngày, tôi và Trăn Trăn đến tận nơi hỏi thăm ông già từng làm nghề bốc mả có biệt danh là"Nam Mô Chí." Thế nhưng, sau khi gõ cánh cửa bị mối ăn lỗ chỗ thì lại nhận được lời từ chối thẳng thừng: "Chuyện của người chết lão không làm nữa, chuyện của người sống lão cũng không muốn hỏi, xin mời về cho!"
"Chúng tôi là cảnh sát, mở cửa ra ngay!" Trăn Trăn nghiêm giọng ra lệnh, đáp lại là giọng giễu cợt của đối phương: "Lão không mở, có giỏi thì phá cửa đi!"
Trăn Trăn nghe thấy thế thì lập tức nổi cáu, giơ chân định đạp cửa thật, tôi vội ôm lấy cô từ phía sau, tránh vì cố tình xông vào nhà dân mà bị tổ trưởng chỉnh cho một trận. Thế nhưng, trong lúc cấp bách hình như tay của tôi đã đặt vào chỗ không thích hợp - Ồ! Cảm giác sao mềm thế... Trăn Trăn thúc ngay một cái cùi chỏ vào mặt suýt nữa làm rụng mất mấy cái răng. Từ phản ứng này có thể thấy, vừa rồi tôi đã sờ trúng ngực cô. Mặc dù còn cách lớp áo lót nhưng vẫn cảm thấy rất căng tròn, biết thế tranh thủ sờ thêm vài cái, đằng nào thì cũng bị đánh. Má Trăn Trăn đỏ bừng như ráng chiều, nếu chỉ là xấu hổ thì rất xinh, đằng này trong vẻ xấu hổ còn pha chút tức giận, cô trừng mắt nhìn tôi rất dữ tợn, hình như cú đánh cùi chỏ này vẫn chưa làm cô nguôi ngoai.
"Cô đạp đổ cửa rồi thì làm sao người ta còn thèm quan tâm đến cô nữa? Không kiện đã là may cho cô lắm rồi!" Vừa ăn cướp vừa la làng chính là tuyệt kỹ bảo vệ tính mạng của những kẻ hái hoa. "Hừ! Xem anh làm thế nào mở được cửa ra." Cô đùng đùng giận dữ bước sang một bên, đá một cái bay hòn đá ở bên lối đi. Đáng thương cho hòn đá nhỏ phải chịu tội thay cho tôi. Tôi xoa má lúc này hình như đã sưng lên, tiếp tục gõ cửa: "Chào bác Chí! Cháu là Mộ Thân Vũ, trinh sát viên của Phòng Trinh sát hình sự, ở gần đây xảy ra một vụ mất tích nên cháu đến xin bác chỉ bảo một số vấn đề." "Vừa nãy lão nói rồi, chuyện của người chết lão không làm nữa, chuyện của người sống lão cũng không muốn hỏi, khụ, khụ..." Bên trong vọng ra tiếng ho dữ dội, hình như sức khỏe của người trong đó không được tốt. "Thế thì hai bình Nhị oa đầu này phải làm thế nào? Cháu vốn định mang đến làm quà gặp mặt." Lúc hỏi thăm tình hình người trong thôn, biết ông ta thích rượu nên tôi đã tiện thể mua hai bình Nhị oa đầu và những món đồ nhắm như lạc, trứng muối... ở quán nhỏ bên đường. Nhị oa đầu tuy không phải làloại rượu ngon nhưng được cái nặng, đối với những kẻ nghiện rượu mà nói nó còn có sức hấp dẫn hơn cả loại rượu hảo hạng nhưng nồng độ nhẹ. Giống như người quen ăn dưa muối, có cho ăn món quý giá như mộc nhĩ cây tùng họ cũng cảm thấy chẳng có mùi vị gì. Tôi mở nắp một trong hai bình Nhị oa đầu, đổ non nửa xuống đất khiến mùi rượu vừa đậm vừa tinh khiết lập tức lan tỏa khắp bốn phía, sau đó hướng về phía người ham rượu ở trong nhà kia lẩm bẩm như nói một mình: "Không có người uống thì đành đổ đi vậy, lãng phí quá!" Tôi vừa giở chiêu muốn bắt vờ thả, thì chỉ nháy mắt sau cửa đã mở ra. Phía trong là một ông già gầy yếu, lưng còng rạp, lúc đứng lên đầu cũng chỉ cao đến ngang phần ức của tôi, sức khỏe có vẻ không tốt, sắc mặt nhợt nhạt, hơn nữa lại ho liên tục, có điều đôi mắt vẫn sáng long lanh. Mở cửa xong, ông ta không nói gì mà chỉ nhìn chằm chằm vào bình rượu Nhị oa đầu trên tay tôi. Mặc dù đây không phải loại rượu quý nhưng đối với một người sống qua ngày bằng tiền trợ cấp khó khăn thì cũng có thể nói là vô cùng giá trị rồi. Tôi đưa bình rượu đã mở sẵn cho ông ta. Ông ta lặng lẽ cầm lấy, ngửa cổ uống một ngụm rồi lập tức quay trở lại vào trong nhà, vẫn không nói gì, nhưng cũng không đóng cửa lại. Tôi giơ tay ra hiệu về phía Trăn Trăn, rồi bước luôn vào trong nhà. Đó là ngôi nhà sơ sài đến nỗi không còn có thể sơ sài hơn được nữa, tường xây bằng gạch xanh, để thô không sửa sang gì, cả ở bên trong và bên ngoài đều có thể trông thấy những viên gạch xanh có"tuổi đời" còn hơn cả tôi. Bố cục ngôi nhà rất đơn giản, gồm có một gian phòng khách, một gian ngủ và một gian bếp. Trong gian phòng khách chỉ có mấy thứ đồ dùng gia đình bằng gỗ có thể đếm được trên đầu ngón tay, hơn nữa "tuổi đời" cũng không ít, cơ hồ có thể gãy nát bất kỳ lúc nào. Ông cụ Chí ngồi bên chiếc bàn vuông hầu như chỉ xuất hiện ở quán rượu trong phim cổ trang, chỉ tay về chỗ ngồi phía đối diện rồi lại tiếp tục ngửa cổ uống ừng ực. Vừa rồi trên sắc mặt ông ấy còn đầy vẻ thù địch nhưng bây giờ đã trở lại vui vẻ cùng với dòng rượu mạnh trôi xuống bụng. Chỉ từ một điểm này tôi cũng đã khẳng định được rằng, ông ta không phải là hung thủ, bởi vì trong túi áo người chết vẫn còn mười đồng, dư sức để mua một bình Nhị oa đầu. Người nghiện rượu sẽ không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào có thể mua được rượu. Tôi ngồi xuống đồng thời để đồ nhắm và bịnh rượu còn lại lên bàn, còn Trăn Trăn đứng ở cạnh cửa với thái độ không mấy thiện cảm. Không phải cô không muốn ngồi mà là không có chỗ nào để cho cô ngồi, trong gian phòng khách chật hẹp chỉ có mỗi hai chiếc ghế. Ông Chí uống bình rượu trong tay cạn sạch không còn một giọt, mặt không những không đỏ lên mà trái lại càng thêm nhợt nhạt có điều đã bớt ho hơn nhiều. Ông ta không khách sáo mở bình rượu còn lại tiếp tục uống, lần này không uống cấp tập như trước mà vừa uống vừa ăn đồ nhắm, trong đôi mắt hơi đỏánh lên tia sáng lạ lùng, nhìn tôi chằm chằm hồi lâu rồi mới cất tiếng: "Lão không thích mắc nợ người khác, cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi, coi như lão trả tiền rượu." Phần lớn người thích uống rượu đều khá thẳng thắn, ông Chí đã bảo cứ hỏi tự nhiên thì tôi cũng không khách sáo, hỏi thẳng: "Tại sao ông lại không làm nghề bốc mả nữa?" Bốc mả là nghề có lịch sử lâu đời, có rất nhiều quy tắc và cấm kỵ, vì thế hết sức coi trọng việc truyền bá và kế thừa giữa thầy và trò. Mặc dù tuổi đã ngoài bảy mươi, rất nhiều việc đòi hỏi sức khỏe đã không làm được nữa nhưng ông ta có kinh nghiệm, chỉ cần sẵn lòng truyền dạy thì chắc chắn vẫn có thể tiếp tục đứng chân trong nghề này. Nếu như đầu óc vẫn sáng suốt, không bị mắc những chứng bệnh đại loại như đần độn thì muốn làm cho đến lúc chết cũng không khó khăn gì. Ông ta ngẩn người ra giây lát, đôi mắt thoáng vẻ hoảng sợ nhưng ngay lập tức lại trở về trạng thái bình thường, gượng cười bảo: "Hơn hai mươi năm rồi, có lẽ lão cũng nên nói ra quãng đời đáng sợ đã chôn giấu tận sâu trong lòng suốt thời gian qua..." Sau đó ông ta bèn vừa uống rượu vừa cho tôi biết lý do mình bỏ nghề bốc mả, mặc dù rượu có thể giúp cho con người ta can đảm hơn nhưng trong quá trình kể chuyện cơ thể gầy yếu của ông ta vẫn không khỏi run lên bần bật:
Làm nghề"Nam mô lão" không phải là công việc nhẹ nhàng, suốt ngày phải làm bạn với người chết, chỉ cần hơi nhát gan một chút là không thể làm được. Cha mẹ lão chết sớm, không còn ai thân thích, hơn nữa học hành lại không được bao nhiêu, vì thế chưa đến mười tuổi đã theo sư phụ đi làm nghề này. Lão đã học được ở sư phụ rất nhiều thứ hữu dụng, nhất là cách róc lấy xương. Lúc sư phụ còn sống, khắp cả vùng này chỉ có hai thầy trò lão có tay nghề như vậy, đến lúc sư phụ trăm tuổi về già thì chỉ còn có mỗi một mình lão. Thực ra, cái việc róc xương này, bảo khó không phải là khó, nhưng bảo dễ cũng không phải là dễ, mấu chốt là có gan làm hay không.
Lần đầu tiên róc xương, tuổi lão vẫn còn rất nhỏ. Mặc dù đã theo sư phụ khá lâu, thời gian trông thấy người chết có thể nói không ít hơn so với trông thấy người sống, tuy nhiên bảo lão tự tay róc thịt lấy xương trên xác chết chưa phân hủy hết thì quả thật không hề dễ dàng. Nhưng, sư phụ lại cầm roi bắt lão phải làm, chân tay hơi chậm một chút cũng bị đánh. Lúc đó lão rất hận sư phụ song đến khi lớn lên rồi mới hiểu rõ dụng ý của ông, nếu không học thành thạo món nghề này thì về sau muốn có một ngày hai bữa no cũng không dễ. Lúc lão hơn hai mươi tuổi thì sư phụ qua đời, trước đó sư phụ đã kịp truyền dạy cho lão tất cả mọi thứ. Vì khắp vùng quanh đây chỉ có mình lão biết róc xương cho nên rất nhiều gia đình có việc tang ma đều đến tìm lão trước tiên, có
khi công việc làm ăn nhiều đến mức bận tối mắt tối mũi. Do đó cuộc sống của lão lúc ấy rất khá, tiếc rằng bẩm sinh bị gù, hơn nữa lại làm công việc của người chết nên không có cô gái nào chịu lấy... Sở dĩ lão không làm "Nam mô lão" nữa là bởi vì hơn hai mươi năm trước xảy ra một chuyện vô cùng đáng sợ. Lão còn nhớ như in bấy giờ là mùa đông, hôm đó lại còn có mưa, trời rét tái tê, lão phải đi cải mả cho bà Sáu. Việc nhặt xương phải tiến hành vào sáng sớm, lúc mặt trời chưa mọc. Lão cùng với sáu người con trai của bà Sáu đến nơi chôn cất bà - đó là một rừng vải xanh tốt. Sau khi tiến hành nghi thức cúng tế rồi đốt hương nến tiền vàng xong, bọn lão liền bắt tay đào quan tài lên, nhưng khi vừa bật nắp quan tài, tất cả mọi người đều sợ hãi đến nỗi như muốn hóa đá. Thi thể bà Sáu còn nguyên vẹn, chẳng khác gì vừa mới được chôn xuống đất, đáng sợ hơn nữa là tay phải của bà lại đặt lên ngực trái, trong khi lão nhớ rất rõ là lúc chôn xuống hai tay bà đặt xuôi dọc bên thân mình. Mặc dù làm Nam mô lão đã nhiều năm, nhưng cảnh tượng trước mắt vẫn làm lão khiếp sợ, mãi lâu sau mới định thần lại được. Những người con trai của bà Sáu đều sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu, tất cả ngơ ngác nhìn nhau, trong chốc lát không ai biết phải làm thế nào. Tuy không biết gì về thuật phong thủy nhưng kinh nghiệm bốc mả nhiều năm cho lão biết rằng đây chắc chắn là mả kết, thân xác bà Sáu đã biến thành quỷ, nếu không lập tức đốt đi thì xác chết sẽ vùng dậy. Thế là lão bảo các con của bà đem ngay củi đến thiêu hủy xác đi. Nhưng lúc đó trời lại đang mưa, nhóm lửa rất khó, hơn nữa trận mưa này cũng không biết đến bao giờ mới tạnh, nếu bỏ mặc xác chết ở đó, có thể khi có tiếng sấm bà Sáu sẽ"tỉnh" dậy. Theo quy tắc bốc mả, một khi đã mở quan tài ra thì không được chôn lại nữa, bởi vì mở nắp quan tài tức là đã làm phiền sự yên nghỉ của người chết, mà nếu chôn lại thì không thể nào tránh khỏi phải khai quan một lần nữa. Bởi thế sau khi khai quan bắt buộc phải giải quyết ổn thỏa di thể của người chết. Lão đưa ra ý kiến trước tiên hãy quàn di thể bà Sáu ở nhà của một trong số những người con trai bà, đợi đến lúc mưa tạnh sẽ lập tức đem thiêu. Tuy nhiên cả sáu người con này không ai muốn đưa di thể của mẹ về nhà, họ đều sợ khi có tiếng sấm mẹ mình sẽ"tỉnh" dậy. Sau một hồi bàn bạc, họ quyết định trả lão tiền công gấp đôi, bảo lão lập tức róc lấy xương bà Sáu. Mặc dù rất không muốn róc xương bà Sáu trong hoàn cảnh này nhưng lão cũng không còn cách nào khác, dưới trời mưa như thế, bà Sáu sẽ có thể vì một tiếng sấm mà chồm dậy bất cứ lúc nào. Nếu vì lão nhẹ tay róc xương mà để bà chồm dậy thì tội của lão to lắm. Trong quá trình róc xương, các con của người chết đều phải tránh đi, vì thế chỉ có một mình lão róc xương cho bà Sáu trong rừng vải um tùm và âm u. Đi bốc mả thi thoảng vẫn gặp tình trạng xác người chết chưa phân hủy hết nên lão đã chuẩn bị sẵn dụng cụ róc xương. Những người con của bà Sáu vừa đi, lão lập tức bắt tay vào việc. Trước đó lão đã bốc mả cho không biết bao nhiêu người rồi, so với những thi thể phân hủy dở dang kia, lần róc xương này còn nhẹ nhàng hơn nhiều. Thế nhưng trong lòng lão lúc đó lại không hề cảm thấy nhẹ nhàng chút nào, mỗi lần ánh chớp bùng lên là tim lão lại giống như bị một bàn tay vô hình nắm chặt, cảm giác đó giống như thể sắp sửa bị nghẹt thở, bởi vì lão không biết xác chết trước mặt có nghe tiếng sấm mà vùng dậy hay không. Trước tiên lão róc bỏ thịt ở tay chân bà Sáu, như vậy sẽ khiến lão cảm thấy an toàn hơn chút ít. Có điều trong quá trình róc xương lão lại phát hiện ra một chuyện vô cùng ghê sợ - máu chảy ra từ vết cắt trên da thịt vẫn nguyên màu đỏ tươi! Người ta sau khi chết thông thường nhanh thì dăm ba ngày, chậm thì mươi mười lăm ngày là máu chuyển sang màu đen, thế mà bà Sáu chết đã ba năm mà máu vẫn đỏ tươi như người đang sống. Sợ hãi đã khiến thần kinh lão tê liệt, chỉ muốn nhanh chóng làm cho xong việc, nhanh chóng róc hết xương cho bà Sáu. Lão róc xương với tốc độ nhanh nhất, thế nhưng cũng phải mất cả buổi sáng mới róc được hết thịt ở tay chân và thân mình, bỏ hết nội tạng đi cuối cùng chỉ còn lại phần đầu chưa róc được, tuy nhiên đây chính là công đoạn phức tạp nhất, mất công nhất. Mưa càng ngày càng to, mặc dù đã mặc áo mưa nhưng nước mưa vẫn tạt vào từ chỗ cổáo rồi ngấm xuống dưới. Mồ hôi và nước mưa từ trong thấm ra, từ ngoài ngấm vào khiến quần áo lão hầu như ướt hết, giá lạnh thấu xương khiếnđôi tay lão trở nên chậm chạp. Hơn nữa, mặc dù đã là giữa trưa nhưng do trên trời mây đen dày đặc, lại thêm cây vải um tùm ngăn cản ánh sáng vốn đã hiếm hoi khiến cho xung quanh cũng không sáng hơn đêm ba mươi là bao nhiêu. Lão cắt thịt lấy xương trên sọđầu của bà Sáu trong tình trạng như vậy, hai tay tê cứng khiến lão càng vội lại càng không thể nhanh được. Khó khăn lắm mới bóc được phần da thịt từ mũi trở xuống, lúc đang chuẩn bị bóc lên phía trên thì bốn phía đột nhiên sáng rực, một tiếng sét kinh thiên động địa vang lên ngay trên đỉnh đầu khiến tai lão kêu ong ong. Chuyện ghê sợ xảy ra đúng ngay lúc tiếng sét vang lên, khuôn mặt đã bị mất gần nửa da thịt kia đột nhiên mở to hai mắt cái nhìn phẫn nộ như thể xuyên thấu da thịt, thậm chí xuyên thấu cả linh hồn lão... Chuyện diễn ra sau đó lão đã không còn nhớ rõ nữa, trong ký ức mơ hồ hình như lão đã quẳng đầu bà Sáu đi, chạy như một kẻđiên giữa trời mưa, không biết làm thế nào vềđược đến nhà. Từ đó về sau hôm nào lão cũng uống rượu cho say mèm để tạm thời quên đi cảnh tượng ghê sợ, khuôn mặt đã mất một nửa da thịt nhưng đôi mắt lại mở trừng trừng đó. Những ngày tháng say khướt như thế thoáng chốc đãđược mấy năm, cho đến khi lão tiêu hết mọi thứ tích lũy được. Tiền hết mà người chưa chết, vẫn phải ăn, vẫn phải tồn tại thế nhưng lão lại không dám động chạm đến bất kỳ công việc nào liên quan đến xác chết một lần nữa, vì thế đành phải làm một số công việc dơ bẩn và mệt nhọc. Đến lúc già rồi không làm được gì nữa thì đành phải sống qua ngày nhờ tiền trợ cấp của thôn... Thời Tam quốc, Quan Vũ thua trận bỏ chạy ở Mạch Thành, bị Lã Mông lập mưu bắt sống, sau đó thà chết không chịu đầu hàng nên hai cha con đều bị Tôn Quyền ra lệnh chém đầu. Tôn Quyền biết rõ Lưu Bị đau đớn vì mất người em kết nghĩa sẽ tuyệt đối không dễ dàng bỏ qua nên nghe theo kế gắp lửa bỏ tay người của Trương Chiêu, đem thủ cấp Quan Vũ dâng tặng Tào Tháo. Theo dã sử ghi lại, khi Tào Tháo mở chiếc hộp gỗđựng thủ cấp Quan Vũ ra, hai mắt Quan Vũđột nhiên mở to giận dữ, khiến cho Tào Tháo sợ hãi sinh bệnh nặng, vội ra lệnh an táng theo lễ của bậc vương hầu. Tuy nhiên chính sử lại không ghi chép có chuyện thủ cấp trợn trừng mắt như vậy việc hậu táng cho Quan Vũ ngoài lý do giữa Tào Tháo và Quan Vũ có tình cảm thân thiết còn là vì Tào Tháo đã biết rõ dụng ý của Tôn Quyền. Có thể Lưu Niên cũng biết truyền thuyết về việc thủ cấp trợn trừng mắt có đáng tin hay không, tuy nhiên cho dù việc đó là thật hay là gì cũng hầu như không mấy liên quan đến vụ án này. Mặc dù chắc chắn ông Chí không liên quan đến vụán nhưng vì bên phía Duyệt Đồng vẫn chưa có kết quả xét nghiệm, hơn nữa cũng đang không có việc gì nên cứ trò chuyện với ông ta thêm một lát. Dẫu sao ông ta cũng đã làm bạn với xác chết hơn ba mươi năm, có thể giúp chúng tôi ít nhiều trong việc điều tra. Có điều sau khi tôi kể lại chuyện phát hiện ra trên sườn núi, ông ta một mực bảo rằng chuyện đó là không thể. "Thi thể trong vòng chín ngày mà phân hủy hết chỉ còn lại bộ xương là chuyện hoang đường chỉ có trong "Nghìn lẻ một đêm" mà thôi. Nếu xác chết phân hủy dễ như thế thì còn cần đến róc xương làm gì? Nên nhớ, róc xương chỉ thực hiện khi xác chết đã được chôn cất từ ba năm trở lên mà vẫn chưa phân hủy hết." "Theo ông, điều gì khiến cho xác chết có thể phân hủy chỉ còn bộ xương trong thời gian ngắn như vậy? Không lẽ bị người ta bóc da thịt à?" Tôi hỏi. "Cũng có thể, lão đã từng làm việc róc xương nên biết rất rõ, mặc dù đây không phải là việc khó nhưng trong quá trình róc xương không thể tránh khỏi để lại vết dao cắt. Hơn nữa róc xương là lấy từng khúc xương ra, không thể nào giữ nguyên hình dạng cơ thể hoàn chỉnh được, còn mặc quần áo vào cho bộ xương thì lại càng khó hơn." Kinh nghiệm về mặt này của ông Chí quả thật phong phú hơn bất kỳ ai, ý kiến của ông cũng rất đáng để tham khảo. "Nếu không phải bị người khác cắt da róc thịt thì là vì nguyên nhân gì?" Câu hỏi này quả thật khiến tôi đau đầu nhức óc. Lúc này ông Chí đã uống cạn hết rượu, trầm tư giây lát rồi sắc mặt bỗng nhiên lộ vẻ sợ hãi, giọng nói run rẩy: "Lão nhớ ra rồi, hơn năm mươi năm trước cũng từng xảy ra một chuyện tương tự..."
Bốc mả, cái nghề chuyên tiếp xúc với người chết, lo hậu sự cho người chết này cũng sẽ kiêm luôn công việc khám nghiệm tử thi ở thời kỳ chưa có pháp y. Khi tụng kinh cho người chết họ thường niệm các kinh văn mở đầu bằng từ "nam mô", như là"nam mô a di đà phật" hay "nam mô Quan thế âm bồ tát"..., vì thế mà người dân bản địa thường gọi những người làm việc này là"Nam mô sư phụ" hoặc "Nam mô lão."
Để điều tra vụ án xác thiếu niên bị phân hủy chỉ trong chín ngày, tôi và Trăn Trăn đến tận nơi hỏi thăm ông già từng làm nghề bốc mả có biệt danh là"Nam Mô Chí." Thế nhưng, sau khi gõ cánh cửa bị mối ăn lỗ chỗ thì lại nhận được lời từ chối thẳng thừng: "Chuyện của người chết lão không làm nữa, chuyện của người sống lão cũng không muốn hỏi, xin mời về cho!"
"Chúng tôi là cảnh sát, mở cửa ra ngay!" Trăn Trăn nghiêm giọng ra lệnh, đáp lại là giọng giễu cợt của đối phương: "Lão không mở, có giỏi thì phá cửa đi!"
Trăn Trăn nghe thấy thế thì lập tức nổi cáu, giơ chân định đạp cửa thật, tôi vội ôm lấy cô từ phía sau, tránh vì cố tình xông vào nhà dân mà bị tổ trưởng chỉnh cho một trận. Thế nhưng, trong lúc cấp bách hình như tay của tôi đã đặt vào chỗ không thích hợp - Ồ! Cảm giác sao mềm thế... Trăn Trăn thúc ngay một cái cùi chỏ vào mặt suýt nữa làm rụng mất mấy cái răng. Từ phản ứng này có thể thấy, vừa rồi tôi đã sờ trúng ngực cô. Mặc dù còn cách lớp áo lót nhưng vẫn cảm thấy rất căng tròn, biết thế tranh thủ sờ thêm vài cái, đằng nào thì cũng bị đánh. Má Trăn Trăn đỏ bừng như ráng chiều, nếu chỉ là xấu hổ thì rất xinh, đằng này trong vẻ xấu hổ còn pha chút tức giận, cô trừng mắt nhìn tôi rất dữ tợn, hình như cú đánh cùi chỏ này vẫn chưa làm cô nguôi ngoai.
"Cô đạp đổ cửa rồi thì làm sao người ta còn thèm quan tâm đến cô nữa? Không kiện đã là may cho cô lắm rồi!" Vừa ăn cướp vừa la làng chính là tuyệt kỹ bảo vệ tính mạng của những kẻ hái hoa. "Hừ! Xem anh làm thế nào mở được cửa ra." Cô đùng đùng giận dữ bước sang một bên, đá một cái bay hòn đá ở bên lối đi. Đáng thương cho hòn đá nhỏ phải chịu tội thay cho tôi. Tôi xoa má lúc này hình như đã sưng lên, tiếp tục gõ cửa: "Chào bác Chí! Cháu là Mộ Thân Vũ, trinh sát viên của Phòng Trinh sát hình sự, ở gần đây xảy ra một vụ mất tích nên cháu đến xin bác chỉ bảo một số vấn đề." "Vừa nãy lão nói rồi, chuyện của người chết lão không làm nữa, chuyện của người sống lão cũng không muốn hỏi, khụ, khụ..." Bên trong vọng ra tiếng ho dữ dội, hình như sức khỏe của người trong đó không được tốt. "Thế thì hai bình Nhị oa đầu này phải làm thế nào? Cháu vốn định mang đến làm quà gặp mặt." Lúc hỏi thăm tình hình người trong thôn, biết ông ta thích rượu nên tôi đã tiện thể mua hai bình Nhị oa đầu và những món đồ nhắm như lạc, trứng muối... ở quán nhỏ bên đường. Nhị oa đầu tuy không phải làloại rượu ngon nhưng được cái nặng, đối với những kẻ nghiện rượu mà nói nó còn có sức hấp dẫn hơn cả loại rượu hảo hạng nhưng nồng độ nhẹ. Giống như người quen ăn dưa muối, có cho ăn món quý giá như mộc nhĩ cây tùng họ cũng cảm thấy chẳng có mùi vị gì. Tôi mở nắp một trong hai bình Nhị oa đầu, đổ non nửa xuống đất khiến mùi rượu vừa đậm vừa tinh khiết lập tức lan tỏa khắp bốn phía, sau đó hướng về phía người ham rượu ở trong nhà kia lẩm bẩm như nói một mình: "Không có người uống thì đành đổ đi vậy, lãng phí quá!" Tôi vừa giở chiêu muốn bắt vờ thả, thì chỉ nháy mắt sau cửa đã mở ra. Phía trong là một ông già gầy yếu, lưng còng rạp, lúc đứng lên đầu cũng chỉ cao đến ngang phần ức của tôi, sức khỏe có vẻ không tốt, sắc mặt nhợt nhạt, hơn nữa lại ho liên tục, có điều đôi mắt vẫn sáng long lanh. Mở cửa xong, ông ta không nói gì mà chỉ nhìn chằm chằm vào bình rượu Nhị oa đầu trên tay tôi. Mặc dù đây không phải loại rượu quý nhưng đối với một người sống qua ngày bằng tiền trợ cấp khó khăn thì cũng có thể nói là vô cùng giá trị rồi. Tôi đưa bình rượu đã mở sẵn cho ông ta. Ông ta lặng lẽ cầm lấy, ngửa cổ uống một ngụm rồi lập tức quay trở lại vào trong nhà, vẫn không nói gì, nhưng cũng không đóng cửa lại. Tôi giơ tay ra hiệu về phía Trăn Trăn, rồi bước luôn vào trong nhà. Đó là ngôi nhà sơ sài đến nỗi không còn có thể sơ sài hơn được nữa, tường xây bằng gạch xanh, để thô không sửa sang gì, cả ở bên trong và bên ngoài đều có thể trông thấy những viên gạch xanh có"tuổi đời" còn hơn cả tôi. Bố cục ngôi nhà rất đơn giản, gồm có một gian phòng khách, một gian ngủ và một gian bếp. Trong gian phòng khách chỉ có mấy thứ đồ dùng gia đình bằng gỗ có thể đếm được trên đầu ngón tay, hơn nữa "tuổi đời" cũng không ít, cơ hồ có thể gãy nát bất kỳ lúc nào. Ông cụ Chí ngồi bên chiếc bàn vuông hầu như chỉ xuất hiện ở quán rượu trong phim cổ trang, chỉ tay về chỗ ngồi phía đối diện rồi lại tiếp tục ngửa cổ uống ừng ực. Vừa rồi trên sắc mặt ông ấy còn đầy vẻ thù địch nhưng bây giờ đã trở lại vui vẻ cùng với dòng rượu mạnh trôi xuống bụng. Chỉ từ một điểm này tôi cũng đã khẳng định được rằng, ông ta không phải là hung thủ, bởi vì trong túi áo người chết vẫn còn mười đồng, dư sức để mua một bình Nhị oa đầu. Người nghiện rượu sẽ không bỏ qua bất kỳ cơ hội nào có thể mua được rượu. Tôi ngồi xuống đồng thời để đồ nhắm và bịnh rượu còn lại lên bàn, còn Trăn Trăn đứng ở cạnh cửa với thái độ không mấy thiện cảm. Không phải cô không muốn ngồi mà là không có chỗ nào để cho cô ngồi, trong gian phòng khách chật hẹp chỉ có mỗi hai chiếc ghế. Ông Chí uống bình rượu trong tay cạn sạch không còn một giọt, mặt không những không đỏ lên mà trái lại càng thêm nhợt nhạt có điều đã bớt ho hơn nhiều. Ông ta không khách sáo mở bình rượu còn lại tiếp tục uống, lần này không uống cấp tập như trước mà vừa uống vừa ăn đồ nhắm, trong đôi mắt hơi đỏánh lên tia sáng lạ lùng, nhìn tôi chằm chằm hồi lâu rồi mới cất tiếng: "Lão không thích mắc nợ người khác, cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi, coi như lão trả tiền rượu." Phần lớn người thích uống rượu đều khá thẳng thắn, ông Chí đã bảo cứ hỏi tự nhiên thì tôi cũng không khách sáo, hỏi thẳng: "Tại sao ông lại không làm nghề bốc mả nữa?" Bốc mả là nghề có lịch sử lâu đời, có rất nhiều quy tắc và cấm kỵ, vì thế hết sức coi trọng việc truyền bá và kế thừa giữa thầy và trò. Mặc dù tuổi đã ngoài bảy mươi, rất nhiều việc đòi hỏi sức khỏe đã không làm được nữa nhưng ông ta có kinh nghiệm, chỉ cần sẵn lòng truyền dạy thì chắc chắn vẫn có thể tiếp tục đứng chân trong nghề này. Nếu như đầu óc vẫn sáng suốt, không bị mắc những chứng bệnh đại loại như đần độn thì muốn làm cho đến lúc chết cũng không khó khăn gì. Ông ta ngẩn người ra giây lát, đôi mắt thoáng vẻ hoảng sợ nhưng ngay lập tức lại trở về trạng thái bình thường, gượng cười bảo: "Hơn hai mươi năm rồi, có lẽ lão cũng nên nói ra quãng đời đáng sợ đã chôn giấu tận sâu trong lòng suốt thời gian qua..." Sau đó ông ta bèn vừa uống rượu vừa cho tôi biết lý do mình bỏ nghề bốc mả, mặc dù rượu có thể giúp cho con người ta can đảm hơn nhưng trong quá trình kể chuyện cơ thể gầy yếu của ông ta vẫn không khỏi run lên bần bật:
Làm nghề"Nam mô lão" không phải là công việc nhẹ nhàng, suốt ngày phải làm bạn với người chết, chỉ cần hơi nhát gan một chút là không thể làm được. Cha mẹ lão chết sớm, không còn ai thân thích, hơn nữa học hành lại không được bao nhiêu, vì thế chưa đến mười tuổi đã theo sư phụ đi làm nghề này. Lão đã học được ở sư phụ rất nhiều thứ hữu dụng, nhất là cách róc lấy xương. Lúc sư phụ còn sống, khắp cả vùng này chỉ có hai thầy trò lão có tay nghề như vậy, đến lúc sư phụ trăm tuổi về già thì chỉ còn có mỗi một mình lão. Thực ra, cái việc róc xương này, bảo khó không phải là khó, nhưng bảo dễ cũng không phải là dễ, mấu chốt là có gan làm hay không.
Lần đầu tiên róc xương, tuổi lão vẫn còn rất nhỏ. Mặc dù đã theo sư phụ khá lâu, thời gian trông thấy người chết có thể nói không ít hơn so với trông thấy người sống, tuy nhiên bảo lão tự tay róc thịt lấy xương trên xác chết chưa phân hủy hết thì quả thật không hề dễ dàng. Nhưng, sư phụ lại cầm roi bắt lão phải làm, chân tay hơi chậm một chút cũng bị đánh. Lúc đó lão rất hận sư phụ song đến khi lớn lên rồi mới hiểu rõ dụng ý của ông, nếu không học thành thạo món nghề này thì về sau muốn có một ngày hai bữa no cũng không dễ. Lúc lão hơn hai mươi tuổi thì sư phụ qua đời, trước đó sư phụ đã kịp truyền dạy cho lão tất cả mọi thứ. Vì khắp vùng quanh đây chỉ có mình lão biết róc xương cho nên rất nhiều gia đình có việc tang ma đều đến tìm lão trước tiên, có
khi công việc làm ăn nhiều đến mức bận tối mắt tối mũi. Do đó cuộc sống của lão lúc ấy rất khá, tiếc rằng bẩm sinh bị gù, hơn nữa lại làm công việc của người chết nên không có cô gái nào chịu lấy... Sở dĩ lão không làm "Nam mô lão" nữa là bởi vì hơn hai mươi năm trước xảy ra một chuyện vô cùng đáng sợ. Lão còn nhớ như in bấy giờ là mùa đông, hôm đó lại còn có mưa, trời rét tái tê, lão phải đi cải mả cho bà Sáu. Việc nhặt xương phải tiến hành vào sáng sớm, lúc mặt trời chưa mọc. Lão cùng với sáu người con trai của bà Sáu đến nơi chôn cất bà - đó là một rừng vải xanh tốt. Sau khi tiến hành nghi thức cúng tế rồi đốt hương nến tiền vàng xong, bọn lão liền bắt tay đào quan tài lên, nhưng khi vừa bật nắp quan tài, tất cả mọi người đều sợ hãi đến nỗi như muốn hóa đá. Thi thể bà Sáu còn nguyên vẹn, chẳng khác gì vừa mới được chôn xuống đất, đáng sợ hơn nữa là tay phải của bà lại đặt lên ngực trái, trong khi lão nhớ rất rõ là lúc chôn xuống hai tay bà đặt xuôi dọc bên thân mình. Mặc dù làm Nam mô lão đã nhiều năm, nhưng cảnh tượng trước mắt vẫn làm lão khiếp sợ, mãi lâu sau mới định thần lại được. Những người con trai của bà Sáu đều sợ hãi mặt cắt không còn giọt máu, tất cả ngơ ngác nhìn nhau, trong chốc lát không ai biết phải làm thế nào. Tuy không biết gì về thuật phong thủy nhưng kinh nghiệm bốc mả nhiều năm cho lão biết rằng đây chắc chắn là mả kết, thân xác bà Sáu đã biến thành quỷ, nếu không lập tức đốt đi thì xác chết sẽ vùng dậy. Thế là lão bảo các con của bà đem ngay củi đến thiêu hủy xác đi. Nhưng lúc đó trời lại đang mưa, nhóm lửa rất khó, hơn nữa trận mưa này cũng không biết đến bao giờ mới tạnh, nếu bỏ mặc xác chết ở đó, có thể khi có tiếng sấm bà Sáu sẽ"tỉnh" dậy. Theo quy tắc bốc mả, một khi đã mở quan tài ra thì không được chôn lại nữa, bởi vì mở nắp quan tài tức là đã làm phiền sự yên nghỉ của người chết, mà nếu chôn lại thì không thể nào tránh khỏi phải khai quan một lần nữa. Bởi thế sau khi khai quan bắt buộc phải giải quyết ổn thỏa di thể của người chết. Lão đưa ra ý kiến trước tiên hãy quàn di thể bà Sáu ở nhà của một trong số những người con trai bà, đợi đến lúc mưa tạnh sẽ lập tức đem thiêu. Tuy nhiên cả sáu người con này không ai muốn đưa di thể của mẹ về nhà, họ đều sợ khi có tiếng sấm mẹ mình sẽ"tỉnh" dậy. Sau một hồi bàn bạc, họ quyết định trả lão tiền công gấp đôi, bảo lão lập tức róc lấy xương bà Sáu. Mặc dù rất không muốn róc xương bà Sáu trong hoàn cảnh này nhưng lão cũng không còn cách nào khác, dưới trời mưa như thế, bà Sáu sẽ có thể vì một tiếng sấm mà chồm dậy bất cứ lúc nào. Nếu vì lão nhẹ tay róc xương mà để bà chồm dậy thì tội của lão to lắm. Trong quá trình róc xương, các con của người chết đều phải tránh đi, vì thế chỉ có một mình lão róc xương cho bà Sáu trong rừng vải um tùm và âm u. Đi bốc mả thi thoảng vẫn gặp tình trạng xác người chết chưa phân hủy hết nên lão đã chuẩn bị sẵn dụng cụ róc xương. Những người con của bà Sáu vừa đi, lão lập tức bắt tay vào việc. Trước đó lão đã bốc mả cho không biết bao nhiêu người rồi, so với những thi thể phân hủy dở dang kia, lần róc xương này còn nhẹ nhàng hơn nhiều. Thế nhưng trong lòng lão lúc đó lại không hề cảm thấy nhẹ nhàng chút nào, mỗi lần ánh chớp bùng lên là tim lão lại giống như bị một bàn tay vô hình nắm chặt, cảm giác đó giống như thể sắp sửa bị nghẹt thở, bởi vì lão không biết xác chết trước mặt có nghe tiếng sấm mà vùng dậy hay không. Trước tiên lão róc bỏ thịt ở tay chân bà Sáu, như vậy sẽ khiến lão cảm thấy an toàn hơn chút ít. Có điều trong quá trình róc xương lão lại phát hiện ra một chuyện vô cùng ghê sợ - máu chảy ra từ vết cắt trên da thịt vẫn nguyên màu đỏ tươi! Người ta sau khi chết thông thường nhanh thì dăm ba ngày, chậm thì mươi mười lăm ngày là máu chuyển sang màu đen, thế mà bà Sáu chết đã ba năm mà máu vẫn đỏ tươi như người đang sống. Sợ hãi đã khiến thần kinh lão tê liệt, chỉ muốn nhanh chóng làm cho xong việc, nhanh chóng róc hết xương cho bà Sáu. Lão róc xương với tốc độ nhanh nhất, thế nhưng cũng phải mất cả buổi sáng mới róc được hết thịt ở tay chân và thân mình, bỏ hết nội tạng đi cuối cùng chỉ còn lại phần đầu chưa róc được, tuy nhiên đây chính là công đoạn phức tạp nhất, mất công nhất. Mưa càng ngày càng to, mặc dù đã mặc áo mưa nhưng nước mưa vẫn tạt vào từ chỗ cổáo rồi ngấm xuống dưới. Mồ hôi và nước mưa từ trong thấm ra, từ ngoài ngấm vào khiến quần áo lão hầu như ướt hết, giá lạnh thấu xương khiếnđôi tay lão trở nên chậm chạp. Hơn nữa, mặc dù đã là giữa trưa nhưng do trên trời mây đen dày đặc, lại thêm cây vải um tùm ngăn cản ánh sáng vốn đã hiếm hoi khiến cho xung quanh cũng không sáng hơn đêm ba mươi là bao nhiêu. Lão cắt thịt lấy xương trên sọđầu của bà Sáu trong tình trạng như vậy, hai tay tê cứng khiến lão càng vội lại càng không thể nhanh được. Khó khăn lắm mới bóc được phần da thịt từ mũi trở xuống, lúc đang chuẩn bị bóc lên phía trên thì bốn phía đột nhiên sáng rực, một tiếng sét kinh thiên động địa vang lên ngay trên đỉnh đầu khiến tai lão kêu ong ong. Chuyện ghê sợ xảy ra đúng ngay lúc tiếng sét vang lên, khuôn mặt đã bị mất gần nửa da thịt kia đột nhiên mở to hai mắt cái nhìn phẫn nộ như thể xuyên thấu da thịt, thậm chí xuyên thấu cả linh hồn lão... Chuyện diễn ra sau đó lão đã không còn nhớ rõ nữa, trong ký ức mơ hồ hình như lão đã quẳng đầu bà Sáu đi, chạy như một kẻđiên giữa trời mưa, không biết làm thế nào vềđược đến nhà. Từ đó về sau hôm nào lão cũng uống rượu cho say mèm để tạm thời quên đi cảnh tượng ghê sợ, khuôn mặt đã mất một nửa da thịt nhưng đôi mắt lại mở trừng trừng đó. Những ngày tháng say khướt như thế thoáng chốc đãđược mấy năm, cho đến khi lão tiêu hết mọi thứ tích lũy được. Tiền hết mà người chưa chết, vẫn phải ăn, vẫn phải tồn tại thế nhưng lão lại không dám động chạm đến bất kỳ công việc nào liên quan đến xác chết một lần nữa, vì thế đành phải làm một số công việc dơ bẩn và mệt nhọc. Đến lúc già rồi không làm được gì nữa thì đành phải sống qua ngày nhờ tiền trợ cấp của thôn... Thời Tam quốc, Quan Vũ thua trận bỏ chạy ở Mạch Thành, bị Lã Mông lập mưu bắt sống, sau đó thà chết không chịu đầu hàng nên hai cha con đều bị Tôn Quyền ra lệnh chém đầu. Tôn Quyền biết rõ Lưu Bị đau đớn vì mất người em kết nghĩa sẽ tuyệt đối không dễ dàng bỏ qua nên nghe theo kế gắp lửa bỏ tay người của Trương Chiêu, đem thủ cấp Quan Vũ dâng tặng Tào Tháo. Theo dã sử ghi lại, khi Tào Tháo mở chiếc hộp gỗđựng thủ cấp Quan Vũ ra, hai mắt Quan Vũđột nhiên mở to giận dữ, khiến cho Tào Tháo sợ hãi sinh bệnh nặng, vội ra lệnh an táng theo lễ của bậc vương hầu. Tuy nhiên chính sử lại không ghi chép có chuyện thủ cấp trợn trừng mắt như vậy việc hậu táng cho Quan Vũ ngoài lý do giữa Tào Tháo và Quan Vũ có tình cảm thân thiết còn là vì Tào Tháo đã biết rõ dụng ý của Tôn Quyền. Có thể Lưu Niên cũng biết truyền thuyết về việc thủ cấp trợn trừng mắt có đáng tin hay không, tuy nhiên cho dù việc đó là thật hay là gì cũng hầu như không mấy liên quan đến vụ án này. Mặc dù chắc chắn ông Chí không liên quan đến vụán nhưng vì bên phía Duyệt Đồng vẫn chưa có kết quả xét nghiệm, hơn nữa cũng đang không có việc gì nên cứ trò chuyện với ông ta thêm một lát. Dẫu sao ông ta cũng đã làm bạn với xác chết hơn ba mươi năm, có thể giúp chúng tôi ít nhiều trong việc điều tra. Có điều sau khi tôi kể lại chuyện phát hiện ra trên sườn núi, ông ta một mực bảo rằng chuyện đó là không thể. "Thi thể trong vòng chín ngày mà phân hủy hết chỉ còn lại bộ xương là chuyện hoang đường chỉ có trong "Nghìn lẻ một đêm" mà thôi. Nếu xác chết phân hủy dễ như thế thì còn cần đến róc xương làm gì? Nên nhớ, róc xương chỉ thực hiện khi xác chết đã được chôn cất từ ba năm trở lên mà vẫn chưa phân hủy hết." "Theo ông, điều gì khiến cho xác chết có thể phân hủy chỉ còn bộ xương trong thời gian ngắn như vậy? Không lẽ bị người ta bóc da thịt à?" Tôi hỏi. "Cũng có thể, lão đã từng làm việc róc xương nên biết rất rõ, mặc dù đây không phải là việc khó nhưng trong quá trình róc xương không thể tránh khỏi để lại vết dao cắt. Hơn nữa róc xương là lấy từng khúc xương ra, không thể nào giữ nguyên hình dạng cơ thể hoàn chỉnh được, còn mặc quần áo vào cho bộ xương thì lại càng khó hơn." Kinh nghiệm về mặt này của ông Chí quả thật phong phú hơn bất kỳ ai, ý kiến của ông cũng rất đáng để tham khảo. "Nếu không phải bị người khác cắt da róc thịt thì là vì nguyên nhân gì?" Câu hỏi này quả thật khiến tôi đau đầu nhức óc. Lúc này ông Chí đã uống cạn hết rượu, trầm tư giây lát rồi sắc mặt bỗng nhiên lộ vẻ sợ hãi, giọng nói run rẩy: "Lão nhớ ra rồi, hơn năm mươi năm trước cũng từng xảy ra một chuyện tương tự..."