-
Chương 6: Lăng Thiên Hàn
Kể lần đó, mỗi khi Lâm Tuyền hồi phục hồn lực, cô lại tiến ra ngoài chiếc nhẫn một lần, khi thì nhìn cảnh bố mẹ sinh hoạt hằng ngày, khi thì nhìn cả nhà mọi người đông đủ đầm ấp ngồi ăn với nhau. Cứ như vậy qua năm này đến năm khác.
Thời gian như nước chảy mây trôi, đời người trải qua sinh – lão – bệnh – tử, ngay cả người thân của Lâm Tuyền cũng không thoát khỏi vòng đời luẩn quẩn như vậy. Lâm Tuyền lần lượt chứng kiến cha mẹ ngày một già nua, rồi mất đi, anh trai Lâm Kiệt cùng chị dâu cũng như vậy.
Mỗi người Lâm lão gia tử, Trương thị, vợ chồng Lâm Kiệt trước lúc lâm trung đều nhìn thấy bên cạnh mình một cô gái có đôi mắt sánh đang tươi cười nhìn mình đầy ấm áp như hòa. Họ mỉm cười thỏa mãn rồi mới nhắm mắt. Đó là điều duy nhất mà Lâm Tuyền có thể làm cho họ, bởi hành động của Lâm Tuyền ở ngoài Xích Huyết Giới Chỉ cũng vô cùng hạn chế, không thể giúp ích nhiều, mà cô cũng không thể kéo linh hồn họ vào trong Xích Huyết nhẫn, vì vậy chỉ có thể làm như vậy để trấn an họ trước lúc rời đi mà thôi.
Lần cuối Lâm Tuyền xuất hiện cũng đã là chuyện của gần trăm năm về trước, lúc đó cô đã chứng kiến Đại Bảo cùng Triều Anh đẫ trưởng thành, lòng cô mới dần trở nên yên ổn, không còn lưu luyến gì nữa. Sau đó Lâm Tuyền một mực ở trong nhẫn không hề ra ngoài, mặc kệ thế sự bên ngoài xoay vần.
Ở trong không gian Xích Huyết nhẫn, Lâm Tuyền vẫn tu luyện Tinh Thần Quyết. Tuy nhiên cô không chỉ có mỗi việc tu luyện, trong Tàng Thư Các chứa đựng vô số kiến thức được Hoàng Phủ cất giữ, thông qua đó tầm mắt cô ngày càng trở nên rộng lớn. Đồng thời Lâm Tuyền cũng từng thử học một số vũ kỹ cùng pháp thuật đơn giản. Tuy nhiên phần lớn vũ kĩ cùng pháp thuật Lâm Tuyền bằng vào trạng thái hồn phách thì không thể học. Tuy nhiên một số pháp thuật cấp thấp Lâm Tuyền miễn cưỡng có thể thi triển.
Một ngày nọ, Lâm Tuyền đang tu luyện đến bình cảnh tầng thứ tư thì không thể tiến thêm được một bước, vì vậy Lâm Tuyền tạm thời ngừng tu luyện, bắt đầu vùi đầu vào trong đống cổ thư trong Tàng Thư Các.
Trong lúc vô tình, Lâm Tuyền bắt gặp một cuốn cổ thư có tên “Luyện đan chi thuật”, nhất thời Lâm Tuyền nổi lên hứng thú, lập tức nghiên cứu cuốn “Luyện đan chi thuật” này.
“Ra vậy, lĩnh vực luyện đan không ngờ lại sâu rộng đến thế. Riêng chỉ một loại thảo dược liền có thể là nguyên liệu phối chế ra nhiều loại đan dược có tác dụng khác nhau. Ví như Diễm Lam Thảo này, là thành phần chủ dược của Tẩy Tủy Hoàn có tác dụng tẩy tủy, loại bỏ tạp chất, đả thông kinh mạch, nhưng ở trong đan phương của Hỏa Vân Đan có tác dụng chữa thương thì lại chỉ là dược liệu phụ phối hợp vào.”
Lâm Tuyền vừa đọc luyện đan chi thuật vừa lẩm bẩm, trong lòng có vài điều đã ngộ ra.
Tinh Thần Quyết Lâm Tuyền tu luyện vốn dĩ chỉ là một loại công pháp phụ trợ, giúp linh hồn cô đọng và mạnh mẽ hơn người thường gấp vài lần. Nhưng chỉ cần như vậy cũng giúp cho ngộ tính của Lâm Tuyền tăng lên gấp nhiều lần, đồng thời có trí nhớ kinh người, chỉ cần nhìn một lần là không thể quên. Dựa vào trí nhớ kinh khủng như vậy, Lâm Tuyền chỉ cần một lần có thể đọc thuộc toàn bộ luyện đan chi thuật cùng cuốn “Vạn dược điển”- ghi chép bách hoa kì thảo, vô số loại tài dược luyện đan.
Đan dược được chia làm tứ phẩm là hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm cùng tuyệt phẩm. Mỗi một phẩm giai đều không giống nhau, đan dược hạ phẩm chính là đại bộ phận dược liệu luyện chế ra chỉ có thể phát huy được năm phần công dụng, trung phẩm là bảy phần, thượng phẩm là chín phần, còn tuyệt phẩm chính là phát huy được hoàn toàn mười phần dược liệu.Vì thế giá trị của mỗi loại đan dược lại khác nhau, cao nhất đương nhiên là tuyệt phẩm, vạn kim khó cầu.
Mỗi một loại đan dược lại có một đan phương. Đan phương chính là danh sách ghi lại số lượng các loại tài liệu cần phối chế cùng các bước luyện đan. Số lượng đan phương được Hoàng Phủ lưu giữ cũng không được nhiều lắm, bởi đan phương là thứ vô cùng giá trị, nhất là những đan dược có tác dụng thăng tiến tu vi cùng chữa thương. Trong Tàng Thư Các hiện tại chỉ có một số loại đan phương của đan dược thông thường, còn lại chỉ có gần mười đan phương có giá trị mà thôi.
Tuy nhiên chỉ có từng ấy thôi đối với Lâm Tuyền cũng đã đủ dùng. Ngay lập tức cô bắt tay vào khai lò luyện đan.
Lúc này, lại có một vấn đề khác khiến cho Lâm Tuyền phải đau đầu. Đó chính là không có hỏa luyện đan. Bình thường tu sĩ thời xưa luyện đan thường dùng địa hỏa, chính là loại địa hỏa trong các dãy hỏa diệm sơn. Mà địa hỏa cũng chia thành hạ trung thượng tam phẩm, địa hỏa có phẩm chất càng cao, quá trình luyện đan càng thêm nắm chắc.
Nhưng vấn đề hiện tại là trong Xích Huyết Giới Chỉ không có hỏa diệm sơn, đồng nghĩa với việc không có địa hỏa. Tuy nhiên, địa hỏa cũng không phải là quá mức cần thiết. Tu sĩ thời trước khi không có địa hỏa có thể dùng linh lực thông qua một vài công pháp hệ hỏa chuyển hóa thành đan hỏa để luyện đan. Vấn đề này lại càng làm khó cho Lâm Tuyền.
Công pháp vốn dĩ muốn tu luyện cần phải hấp thu linh khí, đưa linh khí theo các đường kinh mạch trong cơ thể chuyển hóa thành linh lực. Công pháp hệ hỏa cũng thế. Nhưng Lâm Tuyền vón dĩ chỉ là hồn phách, không có thân thể, sao có thể tu luyện công pháp. Chỉ có trường hợp ngoại lệ là người đại tài như Hoàng Phủ mới có thể sáng tạo ra công pháp dành cho hồn phách tu luyện mà thôi.
Vì đủ loại lý do trên, Lâm Tuyền chỉ có thể bất đắc dĩ tạm ngừng việc khai lò luyện đan của mình lại.
Việc không thể luyện đan khiến cho Lâm Tuyền có chút nhàm chán liền nhớ tới trận pháp bảo hộ Ngũ Hắc Điện.
Một lần nữa, hứng thú của Lâm Tuyền lại đặt trên lĩnh vực trận pháp.
Tuy nhiên, kiến thức về trận pháp rộng mênh mông như vô biên đại hải, so với lĩnh vực luyện đan còn thâm ảo hơn nhiều. Với ngộ tính của Lâm Tuyền cũng không thể nhanh chóng thấu hiểu hết về trận pháp.
Bất tri bất giác, Lâm Tuyền vùi đầu nghiên cứu trận pháp không để ý tới thời gian, không ngờ trong lúc nghiên cứu, bình cảnh tầng thứ tư của Tinh Thần Quyết không rõ đã đột phá tiến vào tầng thứ năm từ khi nào, ngay cả Lâm Tuyền cũng không để ý đến.
Trận pháp, được chia thành nhiều loại, mỗi loại đều có tác dụng khác nhau, như trận pháp phòng hộ, sát trận, huyễn trận…. Từ trận pháp lại được chia thành ba nhánh nhỏ. Ngoại trừ pháp trận là nhánh chính ra thì còn có cấm chế và phù lục.
Cấm chế là một loại trận pháp đơn giản hóa. Tuy nhiên không giống như trận pháp đôi khi phải cần địa điểm, tài liệu để bố trí, cấm chế chỉ cần dùng linh lực để tạo ra, vô cùng thuận tiện. Nhưng uy lực so với trận pháp chân chính còn không bằng năm phần, phần lớn là dùng để phụ trợ. Nhưng nếu nhiều cấm chế khác nhau chồng điệp lên nhau, uy lực theo đó mà tăng lên, đến một mức độ nhất định, độ nguy hiểm so với trận pháp còn lớn hơn vài phần.
Phù lục cũng là một nhánh tương đối nhỏ của trận pháp. Phù lục được nhìn thấy thông thường là một trương giấy rộng ba ngón tay, dài xấp xỉ bằng một bàn tay, nguyên liệu được làm bằng giấy từ các loại thiên niên cổ mộc, ngoài ra còn có các loại phù lục làm từ da thú, vảy,…muôn hình muôn dạng. Trên phù lục được vẽ các loại hoa văn hình dáng, độ phức tạp tùy theo từng loại mà khác nhau. Mực viết phù văn cũng được làm từ nhiều loại nguyên liệu nhưng thành phần chính là máu yêu thú. Bút viết phù cũng không phải là loại bút thông thường mà được làm từ nguyên liệu đặc biệt. Khi dùng thì quán chú linh lực vào trong phù lục, linh lực theo đó kích phát ra uy lực của phù văn, tùy loại mà tạo ra tác động khác nhau.
Nhìn qua phù lục không hề có chút liên quan nào đến trận pháp, nhưng thực ra phù văn trên mỗi phù lục cũng là một loại trận pháp thu nhỏ, Có thể nói phù lục là một loại trận pháp bỏ túi, dễ dùng, kích phát nhanh chóng. Nhưng uy lực của phù lục so với trận pháp chỉ được một phần. Tuy nhiên cũng có những loại phù lục đặc biệt được chế tạo từ đồ tinh phẩm cùng phù văn cường đại, uy lực khi kích phát cũng không tồi.
Lâm Tuyền sau khi tìm kiếm một hồi trong Tàng Thư Các, cuối cùng cũng tìm thấy một cuốn ghi chép trận pháp cơ sở. Lâm Tuyền ngay lập tức dựa theo những trận pháp được vẽ trong đó mà bố trí.
Thòi gian thấm thoắt trôi qua, Lâm Tuyền ở trong Xích Huyết Giới Chỉ đã được hai trăm năm.
Lâm Tuyền ở trong Xích Huyết nhẫn miệt mài khổ tu cùng nghiên cứu trận pháp, nhưng bên ngoài, trải qua hai trăm năm, Lâm gia không còn như xưa. Xích Huyết Giới Chỉ cũng vì thế mà bị lưu lạc bên ngoài.
Cuối cùng, Xích Huyết nhẫn qua tay hết người này đến người khác rốt cuộc cũng bị vô ý lãng quên, lưu lạc trong một tiệm đồ cổ. Chỉ có điều không rõ là tình cờ hay duyên phận, chiếc nhẫn lại quay trở lại tiệm đồ cổ, nơi mà hơn hai trăm năm trước cô đã mua Xích Huyết Giới Chỉ tại đó.
Xích Huyết nhẫn vẫn như thế, đơn giản, tang thương cùng thần bí. Tuy nhiên nó lại được cất ở trong một cái hộp gỗ nhỏ không chút bắt mắt, bị bám một lớp bụi dày, che khuất bởi vô số đồ đạc sâu trong tiệm đồ cổ.
Một buổi sáng, cũng như bao ngày khác, trời trong, nắng nhẹ, tiệm đồ cổ của Trần gia mở cửa từ sớm. Người trông hàng là một lão nhân tuổi tầm sáu bảy mươi tuổi,khuôn mặt hiền lành, dưới cằm có một chòm râu dài . Lão nhân pha một ấm trà nhỏ, hương trà thơm ngát nhất thời tỏa ra tứ phía, một tay cầm cuốn thư tịch cổ, một tay nâng chén trà từ từ thưởng thức. So với bên ngoài ồn ào náo nhiệt, bên trong tiệm đồ cổ vô cùng thanh tĩnh.
“Leng keng leng keng”
Tiếng chuông ngoài cửa khẽ rung, một người thanh niên tầm hai năm hai sáu, khuôn mặt tuấn tú, làn môi mỏng nửa cười nửa không, trên mặt có đeo gọng kính vuông che đi đôi mắt thâm thúy, áo sơ mi trên người có hơi cũ nhưng sạch sẽ và chỉn chu. Nhìn qua đúng là thành phần tri thức điển hình.
Lão nhân khẽ nâng mắt lên nhìn, khi thấy một người thanh niên bước vào thì chỉ khẽ lóe lên một tia ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó liền không chút để ý nhìn vào cuốn thư tịch trong tay.
Lăng Thiên Hàn là một cô nhi, cha mẹ mất từ nhỏ, vì thế được ông nội giữ lại nuôi dưỡng.
Gia gia hắn cả đời say mê đồ cổ, vì thế niềm say mê này tử nhỏ đã theo Lăng Thiên Hàn lớn lên.
Nếu là ở trong điều kiện bình thường, Lăng Thiên Hàn có lẽ sẽ lớn lên giống như nhiều hài tử bình thường khác, sau khi trưởng thành sẽ kiếm một công việc, rồi lấy người hắn yêu làm vợ, sinh con đẻ cái, rồi bình bình thường thường mà tận hưởng tuổi già, nhìn caon cháu lớn lên. Nhưng mọi chuyện không đơn giản như hắn nghĩ.
Năm hắn lên năm, trong lúc ham chơi, vô ý lạc vào trong một khu nghĩa địa. Vốn tuổi nhỏ gan lớn, hắn liền đùa nghịch trong đấy một hồi,rồi sau đó vô tình phát hiện ra một con chó đen như mực, mồm đầy răng sắc nhọn đang gầm gừ uy hiếp, cùng với một đôi huyết đồng trông cực kỳ dữ tợn. Hắc cẩu vừa nhìn thấy hắn, đôi huyết đồng lập tức trợn lên đầy bạo ngược, Lăng Thiên Hàn nhìn thấy liền kinh hãi chạy trốn. Hắc cẩu thấy thế liền “uông” một tiếng liền đuổi theo.
Một người một cẩu truy đuổi lẫn nhau, càng lúc càng vào sâu trong nghĩa địa. Lăng Thiên Hàn chạy quá nhanh không để ý dưới chân liền vấp ngã, gương mặt lập tức kinh sợ nhìn về phía sau. Hắc cẩu không biết từ khi nào đã dừng lại,tiến gần về phía hắn. Hắn có thể ngửi thấy mùi tanh hôi từ trong miệng nó tỏa ra.
Lăng Thiên Hàn nhìn thấy cảnh này liền sợ hãi cứng đờ người, ngay khi miệng đầy răng của hắc cẩu chỉ cách mặt hắn vài tấc thì đột nhiên, từ phía sau nhảy ra một đạo hắc quang, đâm sầm đẩy lùi hắc cẩu về phía sau.
Đến khi hắn định thần lại thì đã thấy hai đạo hắc quang đang cuốn chặt lấy nhau, bụi tung mù mịt, từ trong đoàn hắc quang truyền ra tiếng gầm xé rợn người.
Lúc hai đạo hắc quang tách ra, Lăng Thiên Hàn mới có thể nhìn rõ, đó là hai con hắc cẩu, một con có đôi mắt huyết đồng vừa nãy truy đuổi hắn, con còn lại là có đôi mắt lóe kim sắc. Hai bên đang gầm gừ chậm rãi vờn quanh nhau mấy vòng cảnh giác nhìn đối phương.
Sau một hồi, hai bên “ngao” lên vài tiếng rồi xông thẳng vào cắn xé lẫn nhau. Hai bên đánh nhau vô cùng thảm thiết, máu tươi văng khắp nơi, bắn lên đầy người Lăng Thiên Hàn.
Huyết nhãn cẩu dường như yếu thế hơn so với kim nhãn cẩu, chỉ sau một hồi thân hình xuất hiện vài vết thương sâu đến tận xương, nó liền thè cái lưỡi đỏ tươi thở hổn hển liếm liếm vết thương, ánh mắt vẫn ngó chừng kim nhãn cẩu đầy ác ý. Kim nhãn cẩu trên người cũng đầy vết thương lớn nhỏ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn chiếm thế thượng phong.
Thấy không làm gì được kin nhãn cẩu, huyết nhãn cẩu liền lùi về sau cúp đuôi chạy mất.
Kin nhãn cẩu thấy vậy liền há miệng, tru lên một tiếng thậtdài đầy thắng lợi, sau đó vô cùng vui vẻ cùng đắc ý chạy đến trước mặt Lăng Thiên Hàn kêu vài tiếng, biểu lộ qua gương mặt rất có nhân tính.
Lăng Thiên Hàn lúc ấy mới hoàn hồn lại. Mặc dù không rõ nguyên nhân gì kim nhãn cẩu này bảo vệ hắn, nhưng nhìn ánh mắt hắc cẩu dường như không có ác ý, hắn bớt sợ hãi chút ít. Một lúc sau hắn mới rụt rè giơ tay sờ sờ đầu hắc cẩu.
Hắc cẩu được Lăng Thiên Hàn vuốt ve liền vô cùng thích ý, ánh mắt khẽ híp lại đầy hưởng thụ.
Tuy nhiên, chớp mắt sau, một đạo ảnh không rõ từ nơi nào phóng tới, thân hình nhanh như chớp goặm vào cổ kim nhãn cẩu. “Rắc” một tiếng, cổ kim nhãn cẩu đứt lìa, từ thân hình không đầu phun ra một cột máu đen, bắn đầy lên mặt Lăng Thiên Hàn. Trong mắt Lăng Thiên Hàn lập tức bị một màu đen bao phủ, sợ hãi đến ngất xỉu.
Đối với một đứa trẻ năm tuổi, hình ảnh này quá mức tàn nhẫn, quá mức huyết tinh, huống hồ lúc trước cũng liên tiếp bị kinh hách, vì thế Lăng Thiên Hàn ngất xỉu cũng là điều dễ hiểu.
Đến lúc hắn tỉnh lại thì thấy gia gia mặt đầy nếp nhăn đang lo lắng nhìn hắn. Lúc hắn hỏi thì biết mình bị sốt cao liên tục ba ngày ba đêm, suýt chút nữa liền mất mạng.
Từ lúc hắn tỉnh dậy, mọi thứ trong mắt hắn liền thay đổi. Hắn có thể nhìn thấy từng tia khí đen quấn quanh mỗi người, đậm nhạt hoặc nhiều ít khác nhau. Hắn có thể cảm nhận thấy nhhững dao động trong không khí giống như những hơi thở của những món đồ cổ mà gia gia hắn sưu tầm, mỗi món mạnh yếu khác nhau. Ngoài ra, hắn còn có thể nhìn thấy…những thứ không nên thấy.
Từ đó, tính cách hắn liền thay đổi hẳn, âm trầm, lầm lì, lạnh nhạt ít nói. Bởi mọi người không tin những thứ hắn nói hắn nhìn thấy, gọi hắn là kẻ lập dị, bị mọi người xung quanh xa lánh cô lập. Vì thế, trong mắt hắn ngày càng lạnh lùng cùng tàn nhẫn, nhưng được hắn giấu rất kỹ. Bởi vẫn còn một người quan tâm lo lắng, không sợ hãi hắn, chính là gia gia.
Năm hắn hai mươi tuổi, gia gia hắn lâm trọng bệnh qua đời. Đến giây phút cuối cùng bên cạnh lão nhân gia cũng chỉ có một mình Lăng Thiên Hàn. Nguyên bổn lão nhân gia cả đời chỉ có một đứa con trai là cha của Lăng Thiên Hàn, nhưng hắn không may chết trẻ, Lăng gia hiện tại cũng chỉ có mình Lăng Thiên Hàn duy trì mà thôi.
Lăng Thiên Hàn vì thế mà nghiễm nhiên thừa hưởng toàn bộ tài sản của Lăng lão gia tử. Mặc dù tài sản bằng tiền mặt không nhiều nhưng mỗi một món đồ vật Lăng lão gia tử sưu tầm cũng là một món có giá trị ngàn vạn, bán một món cũng có thể khiến cho Lăng Thiên Hàn không lo ăn mặc cả đời.
Tuy nhiên hắn vẫn không bán bất cứ món đồ nào của gia gia hắn. Lăng Thiên Hàn một mình tự kiếm việc làm, tự đóng tiền học đại học của mình. Cứ như vậy vài năm sau, hắn tốt nghiệp đại học, với một tấm bằng loại xuất sắc, nhiều nơi mời hắn làm việc, nhưng Lăng Thiên Hàn vẫn không có ý định làm ở nơi nào cả, vẫn tiếp tục làm công việc ở một tiệm đồ cổ nhỏ, tiền lương mặc dù không cao nhưng đủ để hắn sống qua ngày.
Đối với công việc sưu tập đồ cổ, Lăng Thiên Hàn có một loại tình cảm khá đặc biệt, bởi nó theo hắn từ bé đến lớn, giống như tri kỷ, giống như bằng hữu.
Những lúc Lăng Thiên Hàn rảnh rỗi, hắn thường hay đi đến những tiệm đồ cổ trong thành phố, tìm những món có giá trị. Đôi lúc hắn cũng đến những khu chợ đen chuyên buôn lậu đồ cổ, đãi vàng trong cát, với mong muốn thỏa mãn thói quen của mình.
Vì vậy, tiệm đồ cổ Trần gia mới mở này nghiễm nhiên trở thành nơi nghiên cứu của Lăng Thiên Hàn
Thời gian như nước chảy mây trôi, đời người trải qua sinh – lão – bệnh – tử, ngay cả người thân của Lâm Tuyền cũng không thoát khỏi vòng đời luẩn quẩn như vậy. Lâm Tuyền lần lượt chứng kiến cha mẹ ngày một già nua, rồi mất đi, anh trai Lâm Kiệt cùng chị dâu cũng như vậy.
Mỗi người Lâm lão gia tử, Trương thị, vợ chồng Lâm Kiệt trước lúc lâm trung đều nhìn thấy bên cạnh mình một cô gái có đôi mắt sánh đang tươi cười nhìn mình đầy ấm áp như hòa. Họ mỉm cười thỏa mãn rồi mới nhắm mắt. Đó là điều duy nhất mà Lâm Tuyền có thể làm cho họ, bởi hành động của Lâm Tuyền ở ngoài Xích Huyết Giới Chỉ cũng vô cùng hạn chế, không thể giúp ích nhiều, mà cô cũng không thể kéo linh hồn họ vào trong Xích Huyết nhẫn, vì vậy chỉ có thể làm như vậy để trấn an họ trước lúc rời đi mà thôi.
Lần cuối Lâm Tuyền xuất hiện cũng đã là chuyện của gần trăm năm về trước, lúc đó cô đã chứng kiến Đại Bảo cùng Triều Anh đẫ trưởng thành, lòng cô mới dần trở nên yên ổn, không còn lưu luyến gì nữa. Sau đó Lâm Tuyền một mực ở trong nhẫn không hề ra ngoài, mặc kệ thế sự bên ngoài xoay vần.
Ở trong không gian Xích Huyết nhẫn, Lâm Tuyền vẫn tu luyện Tinh Thần Quyết. Tuy nhiên cô không chỉ có mỗi việc tu luyện, trong Tàng Thư Các chứa đựng vô số kiến thức được Hoàng Phủ cất giữ, thông qua đó tầm mắt cô ngày càng trở nên rộng lớn. Đồng thời Lâm Tuyền cũng từng thử học một số vũ kỹ cùng pháp thuật đơn giản. Tuy nhiên phần lớn vũ kĩ cùng pháp thuật Lâm Tuyền bằng vào trạng thái hồn phách thì không thể học. Tuy nhiên một số pháp thuật cấp thấp Lâm Tuyền miễn cưỡng có thể thi triển.
Một ngày nọ, Lâm Tuyền đang tu luyện đến bình cảnh tầng thứ tư thì không thể tiến thêm được một bước, vì vậy Lâm Tuyền tạm thời ngừng tu luyện, bắt đầu vùi đầu vào trong đống cổ thư trong Tàng Thư Các.
Trong lúc vô tình, Lâm Tuyền bắt gặp một cuốn cổ thư có tên “Luyện đan chi thuật”, nhất thời Lâm Tuyền nổi lên hứng thú, lập tức nghiên cứu cuốn “Luyện đan chi thuật” này.
“Ra vậy, lĩnh vực luyện đan không ngờ lại sâu rộng đến thế. Riêng chỉ một loại thảo dược liền có thể là nguyên liệu phối chế ra nhiều loại đan dược có tác dụng khác nhau. Ví như Diễm Lam Thảo này, là thành phần chủ dược của Tẩy Tủy Hoàn có tác dụng tẩy tủy, loại bỏ tạp chất, đả thông kinh mạch, nhưng ở trong đan phương của Hỏa Vân Đan có tác dụng chữa thương thì lại chỉ là dược liệu phụ phối hợp vào.”
Lâm Tuyền vừa đọc luyện đan chi thuật vừa lẩm bẩm, trong lòng có vài điều đã ngộ ra.
Tinh Thần Quyết Lâm Tuyền tu luyện vốn dĩ chỉ là một loại công pháp phụ trợ, giúp linh hồn cô đọng và mạnh mẽ hơn người thường gấp vài lần. Nhưng chỉ cần như vậy cũng giúp cho ngộ tính của Lâm Tuyền tăng lên gấp nhiều lần, đồng thời có trí nhớ kinh người, chỉ cần nhìn một lần là không thể quên. Dựa vào trí nhớ kinh khủng như vậy, Lâm Tuyền chỉ cần một lần có thể đọc thuộc toàn bộ luyện đan chi thuật cùng cuốn “Vạn dược điển”- ghi chép bách hoa kì thảo, vô số loại tài dược luyện đan.
Đan dược được chia làm tứ phẩm là hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm cùng tuyệt phẩm. Mỗi một phẩm giai đều không giống nhau, đan dược hạ phẩm chính là đại bộ phận dược liệu luyện chế ra chỉ có thể phát huy được năm phần công dụng, trung phẩm là bảy phần, thượng phẩm là chín phần, còn tuyệt phẩm chính là phát huy được hoàn toàn mười phần dược liệu.Vì thế giá trị của mỗi loại đan dược lại khác nhau, cao nhất đương nhiên là tuyệt phẩm, vạn kim khó cầu.
Mỗi một loại đan dược lại có một đan phương. Đan phương chính là danh sách ghi lại số lượng các loại tài liệu cần phối chế cùng các bước luyện đan. Số lượng đan phương được Hoàng Phủ lưu giữ cũng không được nhiều lắm, bởi đan phương là thứ vô cùng giá trị, nhất là những đan dược có tác dụng thăng tiến tu vi cùng chữa thương. Trong Tàng Thư Các hiện tại chỉ có một số loại đan phương của đan dược thông thường, còn lại chỉ có gần mười đan phương có giá trị mà thôi.
Tuy nhiên chỉ có từng ấy thôi đối với Lâm Tuyền cũng đã đủ dùng. Ngay lập tức cô bắt tay vào khai lò luyện đan.
Lúc này, lại có một vấn đề khác khiến cho Lâm Tuyền phải đau đầu. Đó chính là không có hỏa luyện đan. Bình thường tu sĩ thời xưa luyện đan thường dùng địa hỏa, chính là loại địa hỏa trong các dãy hỏa diệm sơn. Mà địa hỏa cũng chia thành hạ trung thượng tam phẩm, địa hỏa có phẩm chất càng cao, quá trình luyện đan càng thêm nắm chắc.
Nhưng vấn đề hiện tại là trong Xích Huyết Giới Chỉ không có hỏa diệm sơn, đồng nghĩa với việc không có địa hỏa. Tuy nhiên, địa hỏa cũng không phải là quá mức cần thiết. Tu sĩ thời trước khi không có địa hỏa có thể dùng linh lực thông qua một vài công pháp hệ hỏa chuyển hóa thành đan hỏa để luyện đan. Vấn đề này lại càng làm khó cho Lâm Tuyền.
Công pháp vốn dĩ muốn tu luyện cần phải hấp thu linh khí, đưa linh khí theo các đường kinh mạch trong cơ thể chuyển hóa thành linh lực. Công pháp hệ hỏa cũng thế. Nhưng Lâm Tuyền vón dĩ chỉ là hồn phách, không có thân thể, sao có thể tu luyện công pháp. Chỉ có trường hợp ngoại lệ là người đại tài như Hoàng Phủ mới có thể sáng tạo ra công pháp dành cho hồn phách tu luyện mà thôi.
Vì đủ loại lý do trên, Lâm Tuyền chỉ có thể bất đắc dĩ tạm ngừng việc khai lò luyện đan của mình lại.
Việc không thể luyện đan khiến cho Lâm Tuyền có chút nhàm chán liền nhớ tới trận pháp bảo hộ Ngũ Hắc Điện.
Một lần nữa, hứng thú của Lâm Tuyền lại đặt trên lĩnh vực trận pháp.
Tuy nhiên, kiến thức về trận pháp rộng mênh mông như vô biên đại hải, so với lĩnh vực luyện đan còn thâm ảo hơn nhiều. Với ngộ tính của Lâm Tuyền cũng không thể nhanh chóng thấu hiểu hết về trận pháp.
Bất tri bất giác, Lâm Tuyền vùi đầu nghiên cứu trận pháp không để ý tới thời gian, không ngờ trong lúc nghiên cứu, bình cảnh tầng thứ tư của Tinh Thần Quyết không rõ đã đột phá tiến vào tầng thứ năm từ khi nào, ngay cả Lâm Tuyền cũng không để ý đến.
Trận pháp, được chia thành nhiều loại, mỗi loại đều có tác dụng khác nhau, như trận pháp phòng hộ, sát trận, huyễn trận…. Từ trận pháp lại được chia thành ba nhánh nhỏ. Ngoại trừ pháp trận là nhánh chính ra thì còn có cấm chế và phù lục.
Cấm chế là một loại trận pháp đơn giản hóa. Tuy nhiên không giống như trận pháp đôi khi phải cần địa điểm, tài liệu để bố trí, cấm chế chỉ cần dùng linh lực để tạo ra, vô cùng thuận tiện. Nhưng uy lực so với trận pháp chân chính còn không bằng năm phần, phần lớn là dùng để phụ trợ. Nhưng nếu nhiều cấm chế khác nhau chồng điệp lên nhau, uy lực theo đó mà tăng lên, đến một mức độ nhất định, độ nguy hiểm so với trận pháp còn lớn hơn vài phần.
Phù lục cũng là một nhánh tương đối nhỏ của trận pháp. Phù lục được nhìn thấy thông thường là một trương giấy rộng ba ngón tay, dài xấp xỉ bằng một bàn tay, nguyên liệu được làm bằng giấy từ các loại thiên niên cổ mộc, ngoài ra còn có các loại phù lục làm từ da thú, vảy,…muôn hình muôn dạng. Trên phù lục được vẽ các loại hoa văn hình dáng, độ phức tạp tùy theo từng loại mà khác nhau. Mực viết phù văn cũng được làm từ nhiều loại nguyên liệu nhưng thành phần chính là máu yêu thú. Bút viết phù cũng không phải là loại bút thông thường mà được làm từ nguyên liệu đặc biệt. Khi dùng thì quán chú linh lực vào trong phù lục, linh lực theo đó kích phát ra uy lực của phù văn, tùy loại mà tạo ra tác động khác nhau.
Nhìn qua phù lục không hề có chút liên quan nào đến trận pháp, nhưng thực ra phù văn trên mỗi phù lục cũng là một loại trận pháp thu nhỏ, Có thể nói phù lục là một loại trận pháp bỏ túi, dễ dùng, kích phát nhanh chóng. Nhưng uy lực của phù lục so với trận pháp chỉ được một phần. Tuy nhiên cũng có những loại phù lục đặc biệt được chế tạo từ đồ tinh phẩm cùng phù văn cường đại, uy lực khi kích phát cũng không tồi.
Lâm Tuyền sau khi tìm kiếm một hồi trong Tàng Thư Các, cuối cùng cũng tìm thấy một cuốn ghi chép trận pháp cơ sở. Lâm Tuyền ngay lập tức dựa theo những trận pháp được vẽ trong đó mà bố trí.
Thòi gian thấm thoắt trôi qua, Lâm Tuyền ở trong Xích Huyết Giới Chỉ đã được hai trăm năm.
Lâm Tuyền ở trong Xích Huyết nhẫn miệt mài khổ tu cùng nghiên cứu trận pháp, nhưng bên ngoài, trải qua hai trăm năm, Lâm gia không còn như xưa. Xích Huyết Giới Chỉ cũng vì thế mà bị lưu lạc bên ngoài.
Cuối cùng, Xích Huyết nhẫn qua tay hết người này đến người khác rốt cuộc cũng bị vô ý lãng quên, lưu lạc trong một tiệm đồ cổ. Chỉ có điều không rõ là tình cờ hay duyên phận, chiếc nhẫn lại quay trở lại tiệm đồ cổ, nơi mà hơn hai trăm năm trước cô đã mua Xích Huyết Giới Chỉ tại đó.
Xích Huyết nhẫn vẫn như thế, đơn giản, tang thương cùng thần bí. Tuy nhiên nó lại được cất ở trong một cái hộp gỗ nhỏ không chút bắt mắt, bị bám một lớp bụi dày, che khuất bởi vô số đồ đạc sâu trong tiệm đồ cổ.
Một buổi sáng, cũng như bao ngày khác, trời trong, nắng nhẹ, tiệm đồ cổ của Trần gia mở cửa từ sớm. Người trông hàng là một lão nhân tuổi tầm sáu bảy mươi tuổi,khuôn mặt hiền lành, dưới cằm có một chòm râu dài . Lão nhân pha một ấm trà nhỏ, hương trà thơm ngát nhất thời tỏa ra tứ phía, một tay cầm cuốn thư tịch cổ, một tay nâng chén trà từ từ thưởng thức. So với bên ngoài ồn ào náo nhiệt, bên trong tiệm đồ cổ vô cùng thanh tĩnh.
“Leng keng leng keng”
Tiếng chuông ngoài cửa khẽ rung, một người thanh niên tầm hai năm hai sáu, khuôn mặt tuấn tú, làn môi mỏng nửa cười nửa không, trên mặt có đeo gọng kính vuông che đi đôi mắt thâm thúy, áo sơ mi trên người có hơi cũ nhưng sạch sẽ và chỉn chu. Nhìn qua đúng là thành phần tri thức điển hình.
Lão nhân khẽ nâng mắt lên nhìn, khi thấy một người thanh niên bước vào thì chỉ khẽ lóe lên một tia ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó liền không chút để ý nhìn vào cuốn thư tịch trong tay.
Lăng Thiên Hàn là một cô nhi, cha mẹ mất từ nhỏ, vì thế được ông nội giữ lại nuôi dưỡng.
Gia gia hắn cả đời say mê đồ cổ, vì thế niềm say mê này tử nhỏ đã theo Lăng Thiên Hàn lớn lên.
Nếu là ở trong điều kiện bình thường, Lăng Thiên Hàn có lẽ sẽ lớn lên giống như nhiều hài tử bình thường khác, sau khi trưởng thành sẽ kiếm một công việc, rồi lấy người hắn yêu làm vợ, sinh con đẻ cái, rồi bình bình thường thường mà tận hưởng tuổi già, nhìn caon cháu lớn lên. Nhưng mọi chuyện không đơn giản như hắn nghĩ.
Năm hắn lên năm, trong lúc ham chơi, vô ý lạc vào trong một khu nghĩa địa. Vốn tuổi nhỏ gan lớn, hắn liền đùa nghịch trong đấy một hồi,rồi sau đó vô tình phát hiện ra một con chó đen như mực, mồm đầy răng sắc nhọn đang gầm gừ uy hiếp, cùng với một đôi huyết đồng trông cực kỳ dữ tợn. Hắc cẩu vừa nhìn thấy hắn, đôi huyết đồng lập tức trợn lên đầy bạo ngược, Lăng Thiên Hàn nhìn thấy liền kinh hãi chạy trốn. Hắc cẩu thấy thế liền “uông” một tiếng liền đuổi theo.
Một người một cẩu truy đuổi lẫn nhau, càng lúc càng vào sâu trong nghĩa địa. Lăng Thiên Hàn chạy quá nhanh không để ý dưới chân liền vấp ngã, gương mặt lập tức kinh sợ nhìn về phía sau. Hắc cẩu không biết từ khi nào đã dừng lại,tiến gần về phía hắn. Hắn có thể ngửi thấy mùi tanh hôi từ trong miệng nó tỏa ra.
Lăng Thiên Hàn nhìn thấy cảnh này liền sợ hãi cứng đờ người, ngay khi miệng đầy răng của hắc cẩu chỉ cách mặt hắn vài tấc thì đột nhiên, từ phía sau nhảy ra một đạo hắc quang, đâm sầm đẩy lùi hắc cẩu về phía sau.
Đến khi hắn định thần lại thì đã thấy hai đạo hắc quang đang cuốn chặt lấy nhau, bụi tung mù mịt, từ trong đoàn hắc quang truyền ra tiếng gầm xé rợn người.
Lúc hai đạo hắc quang tách ra, Lăng Thiên Hàn mới có thể nhìn rõ, đó là hai con hắc cẩu, một con có đôi mắt huyết đồng vừa nãy truy đuổi hắn, con còn lại là có đôi mắt lóe kim sắc. Hai bên đang gầm gừ chậm rãi vờn quanh nhau mấy vòng cảnh giác nhìn đối phương.
Sau một hồi, hai bên “ngao” lên vài tiếng rồi xông thẳng vào cắn xé lẫn nhau. Hai bên đánh nhau vô cùng thảm thiết, máu tươi văng khắp nơi, bắn lên đầy người Lăng Thiên Hàn.
Huyết nhãn cẩu dường như yếu thế hơn so với kim nhãn cẩu, chỉ sau một hồi thân hình xuất hiện vài vết thương sâu đến tận xương, nó liền thè cái lưỡi đỏ tươi thở hổn hển liếm liếm vết thương, ánh mắt vẫn ngó chừng kim nhãn cẩu đầy ác ý. Kim nhãn cẩu trên người cũng đầy vết thương lớn nhỏ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn chiếm thế thượng phong.
Thấy không làm gì được kin nhãn cẩu, huyết nhãn cẩu liền lùi về sau cúp đuôi chạy mất.
Kin nhãn cẩu thấy vậy liền há miệng, tru lên một tiếng thậtdài đầy thắng lợi, sau đó vô cùng vui vẻ cùng đắc ý chạy đến trước mặt Lăng Thiên Hàn kêu vài tiếng, biểu lộ qua gương mặt rất có nhân tính.
Lăng Thiên Hàn lúc ấy mới hoàn hồn lại. Mặc dù không rõ nguyên nhân gì kim nhãn cẩu này bảo vệ hắn, nhưng nhìn ánh mắt hắc cẩu dường như không có ác ý, hắn bớt sợ hãi chút ít. Một lúc sau hắn mới rụt rè giơ tay sờ sờ đầu hắc cẩu.
Hắc cẩu được Lăng Thiên Hàn vuốt ve liền vô cùng thích ý, ánh mắt khẽ híp lại đầy hưởng thụ.
Tuy nhiên, chớp mắt sau, một đạo ảnh không rõ từ nơi nào phóng tới, thân hình nhanh như chớp goặm vào cổ kim nhãn cẩu. “Rắc” một tiếng, cổ kim nhãn cẩu đứt lìa, từ thân hình không đầu phun ra một cột máu đen, bắn đầy lên mặt Lăng Thiên Hàn. Trong mắt Lăng Thiên Hàn lập tức bị một màu đen bao phủ, sợ hãi đến ngất xỉu.
Đối với một đứa trẻ năm tuổi, hình ảnh này quá mức tàn nhẫn, quá mức huyết tinh, huống hồ lúc trước cũng liên tiếp bị kinh hách, vì thế Lăng Thiên Hàn ngất xỉu cũng là điều dễ hiểu.
Đến lúc hắn tỉnh lại thì thấy gia gia mặt đầy nếp nhăn đang lo lắng nhìn hắn. Lúc hắn hỏi thì biết mình bị sốt cao liên tục ba ngày ba đêm, suýt chút nữa liền mất mạng.
Từ lúc hắn tỉnh dậy, mọi thứ trong mắt hắn liền thay đổi. Hắn có thể nhìn thấy từng tia khí đen quấn quanh mỗi người, đậm nhạt hoặc nhiều ít khác nhau. Hắn có thể cảm nhận thấy nhhững dao động trong không khí giống như những hơi thở của những món đồ cổ mà gia gia hắn sưu tầm, mỗi món mạnh yếu khác nhau. Ngoài ra, hắn còn có thể nhìn thấy…những thứ không nên thấy.
Từ đó, tính cách hắn liền thay đổi hẳn, âm trầm, lầm lì, lạnh nhạt ít nói. Bởi mọi người không tin những thứ hắn nói hắn nhìn thấy, gọi hắn là kẻ lập dị, bị mọi người xung quanh xa lánh cô lập. Vì thế, trong mắt hắn ngày càng lạnh lùng cùng tàn nhẫn, nhưng được hắn giấu rất kỹ. Bởi vẫn còn một người quan tâm lo lắng, không sợ hãi hắn, chính là gia gia.
Năm hắn hai mươi tuổi, gia gia hắn lâm trọng bệnh qua đời. Đến giây phút cuối cùng bên cạnh lão nhân gia cũng chỉ có một mình Lăng Thiên Hàn. Nguyên bổn lão nhân gia cả đời chỉ có một đứa con trai là cha của Lăng Thiên Hàn, nhưng hắn không may chết trẻ, Lăng gia hiện tại cũng chỉ có mình Lăng Thiên Hàn duy trì mà thôi.
Lăng Thiên Hàn vì thế mà nghiễm nhiên thừa hưởng toàn bộ tài sản của Lăng lão gia tử. Mặc dù tài sản bằng tiền mặt không nhiều nhưng mỗi một món đồ vật Lăng lão gia tử sưu tầm cũng là một món có giá trị ngàn vạn, bán một món cũng có thể khiến cho Lăng Thiên Hàn không lo ăn mặc cả đời.
Tuy nhiên hắn vẫn không bán bất cứ món đồ nào của gia gia hắn. Lăng Thiên Hàn một mình tự kiếm việc làm, tự đóng tiền học đại học của mình. Cứ như vậy vài năm sau, hắn tốt nghiệp đại học, với một tấm bằng loại xuất sắc, nhiều nơi mời hắn làm việc, nhưng Lăng Thiên Hàn vẫn không có ý định làm ở nơi nào cả, vẫn tiếp tục làm công việc ở một tiệm đồ cổ nhỏ, tiền lương mặc dù không cao nhưng đủ để hắn sống qua ngày.
Đối với công việc sưu tập đồ cổ, Lăng Thiên Hàn có một loại tình cảm khá đặc biệt, bởi nó theo hắn từ bé đến lớn, giống như tri kỷ, giống như bằng hữu.
Những lúc Lăng Thiên Hàn rảnh rỗi, hắn thường hay đi đến những tiệm đồ cổ trong thành phố, tìm những món có giá trị. Đôi lúc hắn cũng đến những khu chợ đen chuyên buôn lậu đồ cổ, đãi vàng trong cát, với mong muốn thỏa mãn thói quen của mình.
Vì vậy, tiệm đồ cổ Trần gia mới mở này nghiễm nhiên trở thành nơi nghiên cứu của Lăng Thiên Hàn