Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 440
Bắc Kinh.
Đại doanh Hỗn Thành của Đường Thắng xuất phát từ Thiên Tân, tiến nhanh về phía bắc, cuối cùng lúc trời tảng sáng ở ngày thứ ba đã tới được ngoài cửa Đức Thắng, qua trưa không lâu, Thủy sư Trấn Hải của Thi Lang cũng lần lượt tới bến sông của kênh đào bên ngoài cửa Đức Thắng, sau khi dỡ Hồng Di đại pháo từ chiến thuyền của Thủy sư, Trung Ương Quân lập tức bắt đầu bận rộn, chuẩn bị công thành.
Hai ngàn Kiến Nô đóng giữ Bắc Kinh là Kỳ đinh của Tương Lam Kỳ, Kỳ chủ Phí Dương Vũ là bát đệ của Tể Nhĩ Cáp Lãng, Tể Nhĩ Cáp Lãng sau khi thất bại trong cuộc tranh giành chính trị với Đa Nhĩ Cổn đã bị giam cầm tới chết, Phí Dương Vũ kế thừa Tương Lam Kỳ từ tay Tể Nhĩ Cáp Lãng, có điều quan hệ giữa Phí Dương Vũ và Đa Nhĩ cổn không tốt, vì thế Tương Lam Kỳ nhiều lần bị chèn ép, chức Kỳ chủ của Phí Dương Vũ cũng chỉ là hư danh.
Lần này quyết chiến tại Tế Ninh, Đa Nhĩ Cổn liền lấy đi quân tinh nhuệ của Tương Lam Kỳ, chỉ để lại cho Phí Dương Vũ hai ngàn lính bệnh tật già yếu.
Lúc này Phí Dương Vũ đang đứng trên lầu quan sát của Đức Thắng môn đi qua đi lại bất an, trên nửa đầu trọc lốc lấm tấm mồ hôi, đại binh của quân Minh áp sát, hơn nữa còn mang theo Hồng Di đại pháo có uy lực khổng lồ, chỉ dựa vào hài ngàn lính già yếu bệnh tật trong thành rõ ràng không thể trụ lâu, nhưng phía Đa Nhĩ Cổn lại không có tin tức gì, Phí Dương Vũ càng không dám tùy tiện rút binh.
Mặc dù Phí Dương Vũ và Đa Nhĩ Cổn không có quan hệ tốt, nhưng dù thế nào hắn cũng là người Nữ Chân, càng biết rõ tầm quan trọng của Bắc Kinh.
Phí Dương Vũ biết nếu Bắc Kinh thất thủ, người Nữ Chân sẽ mất đi chỗ trú chân cuối cùng ở quan nội, nghiêm trọng hơn là, một khi Đa Nhĩ Cổn thua trong trận chiến Tế Ninh, đại quân Bát Kỳ và Mông Cổ sẽ có thể bị quân Minh chặt đứt đường lui, cuối cùng rơi vào kết cục bị tiêu diệt hoàn toàn.
Vì thế, không có chỉ ý của Đa Nhĩ Cổn, Phí Dương Vũ biết rõ là chết cũng phải cố thủ Bắc Kinh.
Điều duy nhất khiến Phí Dương Vũ cảm thấy may mắn chính là, Bắc Kinh dù sao từng là thủ đô của Đại Minh, Hoàng đế nhà Minh trước đây là Sùng Trinh đã đặt bốn mươi tám khẩu Hồng Di đại pháo cùng hơn trăm khẩu pháo đất lớn nhỏ trên thành lâu Chín cửa của Bắc Kinh, mặc dù lúc lưu tặc rút khỏi Bắc Kinh đã phá hủy hầu hết đại pháo, nhưng vẫn để lại một số đại pháo cho quân Thanh.
Sau đó cuộc chiến ở Liêu Thành bùng nổ, Đông Dưỡng Tính đã dỡ Hồng Di đại pháo chỉ có ở Chín cửa từ đầu thành Bắc Kinh bổ sung cho đội pháo của gã, kết quả bị đội pháo của quân Minh nổ thành đống sắt vụn trong trận chiến Liêu Thành, Đông Dưỡng Tính cũng bị nổ chết, quân Kiến Nô đã mất nhân tài và kỹ thuật chế tạo Hồng Di đại pháo.
Có điều kể cả như thế, đầu thành Bắc Kinh cũng vẫn còn mấy chục khẩu pháo đất, mặc dù uy lực của pháo đất không thể đánh đồng với Hồng Di đại pháo, nhưng đặt ở đầu thành từ trên cao nhìn xuống oanh kích quân Minh ngoài thành, cũng có lực sát thương tương đối, hơn nữa do góc bắn nên đại báo Hồng Di ngoài thành rất khó đánh tới pháo đất trên đầu thành.
Lợi dụng lúc quân Minh còn chưa bắt đầu công thành, Phí Dương Vũ sai người chuyển mấy chục khẩu pháo đất này tới cửa Đức Thắng, có mấy chục khẩu pháo đất này, Phí Dương Vũ coi như đã có chút sức mạnh trong tay.
Tuy nhiên nghĩ kỹ thì Phí Dương Vũ bèn thấy có phần đau xót trong lòng, nhớ năm đó khi quân Bát Kỳ cường thịnh, chưa đến trăm kỵ binh Bát Kỳ cũng dám phát động tấn công với hàng ngàn quân Minh, nhưng bây giờ, hắn chỉ có hai ngàn quân Bát Kỳ để đối phó với hơn vạn quân Minh ngoài thành, rõ ràng thấy rùng mình kinh hãi, chênh lệch quả thực quá lớn.
Trên ngọn núi nhỏ ngoài Đức Thắng môn, Đường Thắng và Thi Lang đang cầm kính viễn vọng trong tay quan sát động tĩnh của Kiến Nô ở đầu thành.
Trước hết Thi Lang nhìn thấy pháo đất trên đầu thành, thất thanh nói:
- Oa, trên đầu thành còn có mấy chục khẩu pháo đất kìa.
- Con mẹ nó.
Đường Thắng liếm đôi môi khô khốc, hùng hổ chửi rủa:
- May mà ông đây đã để ý hơn, nếu vừa lên đã kéo Hồng Di đại pháo ầm ầm đối diện ngoài cửa thành, chắc sẽ chịu thiệt thòi lớn!
Tầm sát thương của Hồng Di đại pháo đương nhiên vượt xa pháo đất, tuy thế trong điều kiện đặc định thì không phải thế.
Ví như khi oanh kích cửa thành, bởi vì lúc oanh kích cửa thành Hồng Di đại pháo phải được lắp đạn sắt ruột đặc, hơn nữa còn phải nhắm chuẩn cửa thành bắn thẳng, do đó tầm bắn của Hồng Di đại pháo đã bị rút ngắn rất nhiều, lúc này tầm bắn của pháo đất trên đầu thành sẽ vượt qua Hồng Di đại pháo dưới thành, Kiến Nô kể cả không biết dùng pháo đất phá hủy trực tiếp Hồng Di đại pháo ở gần sát cửa thành thì ít nhất cũng có thể gây ra sát thương lớn cho pháo binh quân Minh đang cầm pháo, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng điều khiển pháo của quân Minh.
Thi Lang nghĩ một lát bèn nói:
- Cửa thành Bắc Kinh vừa dày vừa nặng, bề ngoài còn dùng đinh đồng đóng chặt lớp sắt lá dày, khung cửa làm từ gỗ thiết sam, chừng một người ôm hết, thật không dễ tấn công, theo ty chức dự tính muốn oanh kích cửa thành ít nhất cũng phải bắn mười mấy quả pháo, điều này cần một quãng thời gian không ngắn, xem ra phải nghĩ cách bảo vệ Hồng Di đại pháo và pháo binh của chúng ta!
Đường Thắng nghĩ ngợi một lát, vỗ tay kêu lên:
- Có cách rồi.
- Hả?
Thị Lang không kìm nổi liền hỏi:
- Cách gì?
- Đến lúc đó ngươi sẽ biết, ha ha.
Đương Thắng cười ha hả:
- Xem ta làm đi.
Lầu quan sát, đầu thành Đức Thắng môn.
Phí Dương Vũ đang nhìn xung quanh qua lỗ bắn tên, ngoài thành bỗng nhiên vang lên tiếng tù và vang dội, Phí Dương Vũ chưa từng nghe tiếng tù và của Trung Ương Quân Đại Minh nên lập tức giật mình kinh hãi, ngưng lại hỏi:
- Đây là tiếng gì?
Đám Ngạch Chân bên cạnh Phí Dương Vũ ngơ ngác nhìn nhau, đều không trả lời được.
Trong khi nghẹt thở chờ đợi, một gã Giáp lạt Ngạch Chân tinh mắt bỗng nhiên kêu to:
- Chủ tử mau trông kìa, quân Minh tiến lên rồi!
Khi Phí Dương Vũ quay đầu nhìn, quả nhiên thấy đại đội quân Minh sắp xếp đội ngũ chỉnh tề chậm rãi áp sát tới bên ngoài Đức Thắng môn, Phí Dương Vũ tính sơ qua, đội quân Minh này có khoảng hai ba ngàn người, áo khoác bông vải xanh đồng phục, nón lá sắt cùng một màu, trong tay cầm toàn bộ súng kíp.
Đầu trước của mỗi cây súng kíp của quân Minh còn cắm lưỡi lê sáng loáng, hàng ngàn lưỡi lê tụ lại thành một rừng chết lạnh ngắt, phản xạ hàn quang chói mắt dưới ánh chiều tà, gần như làm mê loạn ánh mắt của Phí Dương Vũ, gã nhìn xung quanh, đám Cố Sơn Ngạch Chân, Giáp Lạt Ngạch chân và Ngưu lục Ngạch Chân ai nấy đều chăm chú.
Đội quân Minh này bất kể là trang phục hay là trang bị đều hoàn toàn khác so với quân Minh mà Phí Dưng Võ biết trước đây, rõ ràng, đây là Trung Ương Quân của Đại Minh tinh nhuệ nhất trong truyền thuyết.
- Trung Ương Quân của Đại Minh!
Phí Dương Vũ tức giận hổn hển gào lên,
- Chết tiệt, đây là Trung Ương Quân của Đại Minh, thứ mà chúng cầm trong tay con mẹ nó đều là súng kíp, hơn nữa tầm bắn cũng vượt xa cung tiễn của chúng ta, nã pháo, lập tức nã pháo, tuyệt đối không để để lũ chó chết này tới gần tường thành, nếu không sẽ phiền toái lớn!
- Vâng!
Một gã Cố Sơn Ngạch Chân nhận lệnh đi.
Đại doanh Hỗn Thành của Đường Thắng xuất phát từ Thiên Tân, tiến nhanh về phía bắc, cuối cùng lúc trời tảng sáng ở ngày thứ ba đã tới được ngoài cửa Đức Thắng, qua trưa không lâu, Thủy sư Trấn Hải của Thi Lang cũng lần lượt tới bến sông của kênh đào bên ngoài cửa Đức Thắng, sau khi dỡ Hồng Di đại pháo từ chiến thuyền của Thủy sư, Trung Ương Quân lập tức bắt đầu bận rộn, chuẩn bị công thành.
Hai ngàn Kiến Nô đóng giữ Bắc Kinh là Kỳ đinh của Tương Lam Kỳ, Kỳ chủ Phí Dương Vũ là bát đệ của Tể Nhĩ Cáp Lãng, Tể Nhĩ Cáp Lãng sau khi thất bại trong cuộc tranh giành chính trị với Đa Nhĩ Cổn đã bị giam cầm tới chết, Phí Dương Vũ kế thừa Tương Lam Kỳ từ tay Tể Nhĩ Cáp Lãng, có điều quan hệ giữa Phí Dương Vũ và Đa Nhĩ cổn không tốt, vì thế Tương Lam Kỳ nhiều lần bị chèn ép, chức Kỳ chủ của Phí Dương Vũ cũng chỉ là hư danh.
Lần này quyết chiến tại Tế Ninh, Đa Nhĩ Cổn liền lấy đi quân tinh nhuệ của Tương Lam Kỳ, chỉ để lại cho Phí Dương Vũ hai ngàn lính bệnh tật già yếu.
Lúc này Phí Dương Vũ đang đứng trên lầu quan sát của Đức Thắng môn đi qua đi lại bất an, trên nửa đầu trọc lốc lấm tấm mồ hôi, đại binh của quân Minh áp sát, hơn nữa còn mang theo Hồng Di đại pháo có uy lực khổng lồ, chỉ dựa vào hài ngàn lính già yếu bệnh tật trong thành rõ ràng không thể trụ lâu, nhưng phía Đa Nhĩ Cổn lại không có tin tức gì, Phí Dương Vũ càng không dám tùy tiện rút binh.
Mặc dù Phí Dương Vũ và Đa Nhĩ Cổn không có quan hệ tốt, nhưng dù thế nào hắn cũng là người Nữ Chân, càng biết rõ tầm quan trọng của Bắc Kinh.
Phí Dương Vũ biết nếu Bắc Kinh thất thủ, người Nữ Chân sẽ mất đi chỗ trú chân cuối cùng ở quan nội, nghiêm trọng hơn là, một khi Đa Nhĩ Cổn thua trong trận chiến Tế Ninh, đại quân Bát Kỳ và Mông Cổ sẽ có thể bị quân Minh chặt đứt đường lui, cuối cùng rơi vào kết cục bị tiêu diệt hoàn toàn.
Vì thế, không có chỉ ý của Đa Nhĩ Cổn, Phí Dương Vũ biết rõ là chết cũng phải cố thủ Bắc Kinh.
Điều duy nhất khiến Phí Dương Vũ cảm thấy may mắn chính là, Bắc Kinh dù sao từng là thủ đô của Đại Minh, Hoàng đế nhà Minh trước đây là Sùng Trinh đã đặt bốn mươi tám khẩu Hồng Di đại pháo cùng hơn trăm khẩu pháo đất lớn nhỏ trên thành lâu Chín cửa của Bắc Kinh, mặc dù lúc lưu tặc rút khỏi Bắc Kinh đã phá hủy hầu hết đại pháo, nhưng vẫn để lại một số đại pháo cho quân Thanh.
Sau đó cuộc chiến ở Liêu Thành bùng nổ, Đông Dưỡng Tính đã dỡ Hồng Di đại pháo chỉ có ở Chín cửa từ đầu thành Bắc Kinh bổ sung cho đội pháo của gã, kết quả bị đội pháo của quân Minh nổ thành đống sắt vụn trong trận chiến Liêu Thành, Đông Dưỡng Tính cũng bị nổ chết, quân Kiến Nô đã mất nhân tài và kỹ thuật chế tạo Hồng Di đại pháo.
Có điều kể cả như thế, đầu thành Bắc Kinh cũng vẫn còn mấy chục khẩu pháo đất, mặc dù uy lực của pháo đất không thể đánh đồng với Hồng Di đại pháo, nhưng đặt ở đầu thành từ trên cao nhìn xuống oanh kích quân Minh ngoài thành, cũng có lực sát thương tương đối, hơn nữa do góc bắn nên đại báo Hồng Di ngoài thành rất khó đánh tới pháo đất trên đầu thành.
Lợi dụng lúc quân Minh còn chưa bắt đầu công thành, Phí Dương Vũ sai người chuyển mấy chục khẩu pháo đất này tới cửa Đức Thắng, có mấy chục khẩu pháo đất này, Phí Dương Vũ coi như đã có chút sức mạnh trong tay.
Tuy nhiên nghĩ kỹ thì Phí Dương Vũ bèn thấy có phần đau xót trong lòng, nhớ năm đó khi quân Bát Kỳ cường thịnh, chưa đến trăm kỵ binh Bát Kỳ cũng dám phát động tấn công với hàng ngàn quân Minh, nhưng bây giờ, hắn chỉ có hai ngàn quân Bát Kỳ để đối phó với hơn vạn quân Minh ngoài thành, rõ ràng thấy rùng mình kinh hãi, chênh lệch quả thực quá lớn.
Trên ngọn núi nhỏ ngoài Đức Thắng môn, Đường Thắng và Thi Lang đang cầm kính viễn vọng trong tay quan sát động tĩnh của Kiến Nô ở đầu thành.
Trước hết Thi Lang nhìn thấy pháo đất trên đầu thành, thất thanh nói:
- Oa, trên đầu thành còn có mấy chục khẩu pháo đất kìa.
- Con mẹ nó.
Đường Thắng liếm đôi môi khô khốc, hùng hổ chửi rủa:
- May mà ông đây đã để ý hơn, nếu vừa lên đã kéo Hồng Di đại pháo ầm ầm đối diện ngoài cửa thành, chắc sẽ chịu thiệt thòi lớn!
Tầm sát thương của Hồng Di đại pháo đương nhiên vượt xa pháo đất, tuy thế trong điều kiện đặc định thì không phải thế.
Ví như khi oanh kích cửa thành, bởi vì lúc oanh kích cửa thành Hồng Di đại pháo phải được lắp đạn sắt ruột đặc, hơn nữa còn phải nhắm chuẩn cửa thành bắn thẳng, do đó tầm bắn của Hồng Di đại pháo đã bị rút ngắn rất nhiều, lúc này tầm bắn của pháo đất trên đầu thành sẽ vượt qua Hồng Di đại pháo dưới thành, Kiến Nô kể cả không biết dùng pháo đất phá hủy trực tiếp Hồng Di đại pháo ở gần sát cửa thành thì ít nhất cũng có thể gây ra sát thương lớn cho pháo binh quân Minh đang cầm pháo, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng điều khiển pháo của quân Minh.
Thi Lang nghĩ một lát bèn nói:
- Cửa thành Bắc Kinh vừa dày vừa nặng, bề ngoài còn dùng đinh đồng đóng chặt lớp sắt lá dày, khung cửa làm từ gỗ thiết sam, chừng một người ôm hết, thật không dễ tấn công, theo ty chức dự tính muốn oanh kích cửa thành ít nhất cũng phải bắn mười mấy quả pháo, điều này cần một quãng thời gian không ngắn, xem ra phải nghĩ cách bảo vệ Hồng Di đại pháo và pháo binh của chúng ta!
Đường Thắng nghĩ ngợi một lát, vỗ tay kêu lên:
- Có cách rồi.
- Hả?
Thị Lang không kìm nổi liền hỏi:
- Cách gì?
- Đến lúc đó ngươi sẽ biết, ha ha.
Đương Thắng cười ha hả:
- Xem ta làm đi.
Lầu quan sát, đầu thành Đức Thắng môn.
Phí Dương Vũ đang nhìn xung quanh qua lỗ bắn tên, ngoài thành bỗng nhiên vang lên tiếng tù và vang dội, Phí Dương Vũ chưa từng nghe tiếng tù và của Trung Ương Quân Đại Minh nên lập tức giật mình kinh hãi, ngưng lại hỏi:
- Đây là tiếng gì?
Đám Ngạch Chân bên cạnh Phí Dương Vũ ngơ ngác nhìn nhau, đều không trả lời được.
Trong khi nghẹt thở chờ đợi, một gã Giáp lạt Ngạch Chân tinh mắt bỗng nhiên kêu to:
- Chủ tử mau trông kìa, quân Minh tiến lên rồi!
Khi Phí Dương Vũ quay đầu nhìn, quả nhiên thấy đại đội quân Minh sắp xếp đội ngũ chỉnh tề chậm rãi áp sát tới bên ngoài Đức Thắng môn, Phí Dương Vũ tính sơ qua, đội quân Minh này có khoảng hai ba ngàn người, áo khoác bông vải xanh đồng phục, nón lá sắt cùng một màu, trong tay cầm toàn bộ súng kíp.
Đầu trước của mỗi cây súng kíp của quân Minh còn cắm lưỡi lê sáng loáng, hàng ngàn lưỡi lê tụ lại thành một rừng chết lạnh ngắt, phản xạ hàn quang chói mắt dưới ánh chiều tà, gần như làm mê loạn ánh mắt của Phí Dương Vũ, gã nhìn xung quanh, đám Cố Sơn Ngạch Chân, Giáp Lạt Ngạch chân và Ngưu lục Ngạch Chân ai nấy đều chăm chú.
Đội quân Minh này bất kể là trang phục hay là trang bị đều hoàn toàn khác so với quân Minh mà Phí Dưng Võ biết trước đây, rõ ràng, đây là Trung Ương Quân của Đại Minh tinh nhuệ nhất trong truyền thuyết.
- Trung Ương Quân của Đại Minh!
Phí Dương Vũ tức giận hổn hển gào lên,
- Chết tiệt, đây là Trung Ương Quân của Đại Minh, thứ mà chúng cầm trong tay con mẹ nó đều là súng kíp, hơn nữa tầm bắn cũng vượt xa cung tiễn của chúng ta, nã pháo, lập tức nã pháo, tuyệt đối không để để lũ chó chết này tới gần tường thành, nếu không sẽ phiền toái lớn!
- Vâng!
Một gã Cố Sơn Ngạch Chân nhận lệnh đi.
Bình luận facebook