Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Tắt đèn - Chương 17 - 18 - 19 - 20
Chương 17
Những tiếng thét đâm, thét đánh đã yên. Người ta không nỡ bắt trói chị Dậu, tuy gặp chị lò mò trong bóng tối, và biết chị đích thị là thủ phạm đã gây ra vụ chó sủa, người la, tù và rúc khắp làng.
Là vì xưa nay chị vẫn ngay thẳng thật thà, không hề tắt mắt của ai vật gì đáng bằng cái tơ cái tóc. Hơn nữa lúc ấy, chị lại hai tay hai con, một đứa đương khóc, một đứa đương bú, dù kẻ ghét chị đi chăng nữa cũng không thể buộc chị là người định đi ăn trộm.
Mây vẫn, sao thưa dần. Sương mù bắt đầu pha đục bầu trời. Mặt trăng tà tà đến gần mặt lũy. Tiếng gà te tê lần lượt từ nhà nọ truyền đến nhà kia.
Dưới lớp mái lụp xụp của túp lều tranh, chị Dậu và vầng trăng tàn thơ thẩn nhìn nhau, dường như đôi bên đều có riêng một tâm sự.
Cái Tỉu no bụng, tỉnh ngủ: hớn hở nằm trong lòng mẹ đùa với cái bóng thằng Dần. Thằng Dần chết khiếp vì trận quát tháo vừa rồi, nó chỉ thổn thức, không dám khóc, cũng không dám giục mẹ đi tìm cái Tý.
Đến lượt cái Tý làm tội mẹ nó. Mọi đêm, cứ đến gà gáy một tiếng, chị Dậu trở dậy sắp sửa nấu cơm, con bé ấy đã đon đả đón lấy cái Tỉu, nó dụ, nó hát, nó nói thỏ thẻ với em những câu ngây thợ Bây giờ vắng nó, trong nhà tẻ ngắt như nhà có tang. Nào nó có tội tình gì. Chẳng qua vì một suất sưu của bố, khiến cho nó phải lìa bố, lìa mẹ, lìa các em, đem thân đánh đổi lấy một đồng bạc. Tội nghiệp cái thân con trẻ nhà nghèo, làm tôi một nhà giàu có, hách dịch như nhà Nghị Quế, còn khi nào được một câu ỏ ê của chủ nhà! Khốn nạn thân nó, đêm nay nó ở bên ấy, ngoài một con chó cái và bốn con, không còn ai là bạn quen.
Nước mắt theo sự nghĩ ngợi chảy ra như mưa, chị Dậu tự thấy trong ngực nóng như lửa đốt.
Văng vẳng nẻo xa có tiếng chó sủa. Rồi, như theo một vệt đường, những giọng ăng ẳng kéo tiếp nhau, ganh thi nhau, dần dần gần lại, dần dần lớn thêm. Nó xô xát dữ dội ở mấy nhà giữa xóm và nó kéo dài vào ngõ láng giềng chị Dậu.
Ngoài cổng, có tiếng giật giọng:
- Chị Dậu còn thức hay ngủ?
Giật mình, chị vội quay nhìn ra cổng, và chị run sợ kinh khiếp khi thấy mấy người lố nhố dưới bóng tối của rặng tre. Không phải họ đến bắt chị về chuyện huyên náo động lúc nãy, người ta đem lại cho chị một cái xác người.
Cái xác người ấy rũ rợi giục ở sau lưng một người nhà Lý trưởng, hai tay thong thả đằng trước, lủng lẳng như hai quả bầu dài, hai bên có hai anh nữa, cũng người nhà Lý trưởng, đỡ ở hai vai, giữ cho nó khỏi bị lả sang bên cạnh.
Hoảng hốt, chị Dậu bồng cả hai con đứng dậy, và hỏi một cách thất kinh:
- Ai làm sao thế, hử các ông?
Hình như mấy người ấy, khi ở giữa đường, đã nhiều lần phải thay đổi nhau đài tải một vật nặng nề, ai nấy đều thở hồng hộc như bò cầy nắng. Họ không kịp trả lời chị Dậu, bệu rệch họ vực cái xác người ấy sầm sập tiến vào trong nhà và đặt xuống phản. Một người cố nói mấy câu như kẻ đứt hơi:
- Anh ấy phải cảm đấy. Chị xem nhà ai có dầu bạc hà xin một ít mà bôi cho hắn, may ra hắn tỉnh được chăng.
Và họ rảo cẳng bước ra, không ai dám quay cổ lại.
Hết cả hồn vía, chị Dậu đặt luôn hai đứa con nhỏ xuống đất, tất tả chạy đến cạnh chồng. Anh Dậu nằm còng queo trên phản, chân tay không hề động cựa. Trước ánh sáng bẽ bàng của vầng trăng tàn úa, hai mắt đều nhắm lim dim.
Sờ khắp trán, mặt, tay, chân của chồng, chị Dậu chỉ thấy chỗ nào cũng giá ngăn ngắt, nhưng ở tinh mũi và cuối cằn hãy còn ôn hòa, hai lỗ mũi hãy còn hơi thở man mát. Kề miệng vào tai chồng chị gọi:
- Thầy em! Tỉnh dậy! Thầy em! Tỉnh dậy!
Chỉ có hai đứa bé con ỷ ẻo khóc ở dưới đất. Anh Dậu vẫn nằm ngay như khúc gỗ.
Sấp ngửa, chị chạy ra cổng và réo thật to:
- Ba hồn bảy vía anh Dậu ở đâu thì về với vợ với con.
Lồng từ ngõ trong ra ngõ ngoài, lại tế từ ngõ ngoài vào ngõ trong, chị hú hồn chồng mới được sáu lượt, thì lưỡi líu lại, không nói được nữa. Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. Cuống quýt không biết chạy chữa bằng cách nào, chị để tay vào trán chồng, vừa lay vừa gọi “thầy em tỉnh dậy”.
Anh Dậu vẫn không tỉnh. Hai đứa bé con dưới đất vẫn khóc tru tréo.
Chương 18
Trống tan canh.
Gà im gáy.
Trời tang tảng rạng đông.
Chị Dậu tuyệt vọng khi ngó mặt chồng thất sắc sám nhợt như người chết trôi. Tưởng chừng anh ta không thể sống lại, chị đập tay xuống phản, kêu trời, kêu đất, kêu cha, kêu mẹ. Rồi chị đứng dậy đi ra vại nước, lấy cái chậu sành múc đầy chậu nước đem vào. Lật khăn vuông ở trên đầu xuống, chị dúng vào nước, lau trán, lau mặt, lau qua chân tay cho chồng, để chồng được sạch sẽ trước khi hết cơm gạo về với tổ tiên.
Hàng xóm, láng giềng tấp nập đổ đến. Kẻ đón cái Tỉu, người ẩm thằng Dần, kẻ vào sờ sà anh Dậu, người ghé tận tai anh ta mà gọi. Có kẻ rút rát, chảng vãng đứng tít ngoài thềm ghé vào, có kẻ sốt sắng, chạy tốc ra mãi ngã ba, hú hồn anh Dậu thêm một lần nữa.
Trong nhà chật ních, người đứng vòng trong, vòng ngoài. Họ hỏi thăm bệnh tình. Họ thương hại anh Dậu. Họ khuyên can chị Dậu đừng khóc. Họ cả quyết anh Dậu không việc gì. Rồi họ rối rít, mỗi người chạy đi làm giúp mỗi việc.
Bà này bắt thằng Dần cố sức rặn đáí đái vào chậu sành. Ông kia lấy chiếc lược thưa ghè hai hàm răng anh Dậu. Bác nọ múc ít nước đái đổ vào trong miệng anh ấy. Bà kia bưng chậu nước đái xoa mãi vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào gáy, vào hai thái dương anh ta. Cô nọ chạy về nhà mình lấy ít bồ kếp đốt than để vào cửa mũi người ốm. Chị kia sang nhà bên cạnh xin cái chổi sể châm lửa cho cháy đùng đùng ở giữa nhà.
Ồn ào một hồi lâu.
Anh Dậu dần dần thở mạnh, rồi lờ đờ sẽ mở hai mắt. Mọi người hớn hở mừng reo:
- Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi đấy.
Thì ra không phải anh ta phải gió, chỉ vì bị trói chặt quá, mạch máu nghẽn lại, máu xông lên óc khiến cho anh ta ngất đi. Nhờ có chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh.
Câu chuyện bắt đầu vui vẻ.
Người ta hỏi đến cái Tý vì từ nãy đến giờ không thấy nó đâu.
Sau khi đã nghe chị Dậu vừa mếu vừa thuật lại đầu đuôi việc chị thiếu sưu phải bán nó và năm con chó cho ông Nghị Quế thôn Đoài, lấy hai đồng bạc, thì ai nấy đều có vẻ ái ngại. Và ai nấy đều khuyên chị Dậu phải yên lòng mà thuốc men cơm cháo cho chồng, không nên lo phiền về cái Tý nữa. Người ta bảo nó lớn thì nó lại về, chẳng có khi nào mất con.
Anh Dậu vẫn lì bì mệt nhọc. Thằng Dần mếu máo kêu đói.
Thấy nói từ sáng hôm qua đến giờ, thằng bé chỉ ăn có vài mẫu khoai, vợ chồng chị Dậu đều phải nhịn xuông, một bà hàng xóm có lòng xởi lởi liền chạy về nhà lấy sang cho vay độ hơn đấu gạo, rồi bảo chị Dậu hãy đi nấu cháo để cả nhà ăn tạm.
Cảm động, chị Dậu cám ơn bà ấy bằng những giọt nước mắt chứa chan. Rồi chị đón lấy cái Tỉu vừa cho nó bú, vừa bắc nồi cháo. Mặt trời lên cao, ánh nắng lọt lỗ nẻ bức cửa, chiếu vào lòng nhà.
Anh Dậu dần dần tỉnh thêm, có thể tiếp chuyện bà con bằng giọng rền rĩ dề dà.
Các cô con gái lẻ tẻ về trước. Các ông đàn ông và mấy bà đàn bà lục tục về sau.
Trong nhà lại thấy cảnh buồn tẻ của sự thiếu vắng.
Chị Dậu bế cái Tỉu ngồi cạnh anh Dậu, vừa bóp nặn chân tay cho chồng, vừa dỗ dành thằng Dần, chốc chốc lại phải đứng ra thổi lửa dóm bếp.
Ngoài đình trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ.
Sau nhà có tiếng gọi léo xéo. Thằng Mới nó giục bác đàn em tuần ở nhà kế bên ấy ra đình sắp sửa cờ trống đi đón quan.
Anh Dậu vật vã thở dài:
- Trời ơi, từ giờ đến lúc quan về, chạy đâu cho được hai đồng bẩy nữa? Nếu không có, chúng nó làm tình làm tội, không khéo thì mình đến chết.
Nước mắt ứa ra, anh Dậu quay mặt vào bức phên nứa, sụt sùi nức nở, anh khóc thằng Hợi, anh khóc cái Tý, rồi anh khóc đến số phận của anh.
Chị Dậu đương ở trong bếp, vội vàng chạy lại ngồi kề sau chồng, nỉ non khuyên giải:
- Thôi, tôi xin thầy em. Đừng kêu khóc nữa, khổ tôi lắm. Chú Hợi nó chết rồi, dù có thương xót, nó cũng không thể sống lại, cái Tý tuy bị đem bán, nhưng nó sang bên ấy chắc là cũng được cơm no áo lành. Sau này trời cho làm ăn khá giả, thì lại sang chuộc nó về, có sao đâu? Còn như mấy đồng tiền sưu, tuy có nóng thật, nhưng lo chưa kịp thì khất. Thịt người tanh, chẳng ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghĩ, không phải lo lắng gì cả. Nếu thầy em cứ kêu khóc mãi, lỡ ra cơn bệnh vật lên, lại lả người đi, thì tôi biết làm thế nào?
Anh Dậu chừng sũng thương vợ, liền giơ bàn tay, run rẩy lau khô nước mắt. Và ngoảnh mặt trở ra, anh cố làm ra bo tươi tỉnh để tỉ tê hỏi chuyện cái Tỉu.
Nồi cháo đã sủi, bọt trắng trào ra cổ nồi, chẩy xuống lòng bếp xèo xèo, làm tắt bếp lửa trong bếp.
Chị Dậu vội đặt cái Tỉu nằm ở cạnh chồng, rồi chị đến bếp hì hục thổi mấy cục than sắp tàn. Thằng Dần lệch thệch theo lại sau mẹ. Nó nhất định bảo cháo chín rồi, và nằng nặc giục mẹ bắt ra.
Ngoài cổng, lạch cạch mấy tiếng gậy đập cột vách. Người nhà Lý trưởng hách dịch hỏi từ đầu ngõ hỏi vào:
- Thế nào? Anh Dậu còn sống hay đã chết rồi? Im lặng thế này hẳn là chửa chết. Tiền sưu đâu? Đem nộp nốt đi! Mau lên. Quan sắp về kia!
Chị Dậu ngồi trong bếp ngọt ngào nói ra:
- Bác tính từ lúc gà gáy đến giờ, tôi chạy chữa cho thầy cháu, nào đã lo kịp? Nhờ bác nói với ông lý hãy cho nhà tôi khất đến chiều mai.
Anh kia mát mẻ:
- Đến chiều mai, chị nói dễ nghe nhỉ! Thuế của nhà nước, chị tưởng chuyện chơi hay sao?
Chị Dậu nằn nì:
- Tôi cũng biết thuế nhà nước không phải chuyện chơi. Nhưng bây giờ chưa có, nên tôi phải khất. Bạn nghèo với nhau, bác nói khéo với ông lý giúp tôi.
- Tôi không dám bạn với nhà chị. Tôi không biết nói khéo. Tôi không có quyền được nhận lời khất của chị. Lát nữa, để chị khất với ông Cai lệ.
Rồi hắn hầm hầm vác gậy đi ra.
Lửa lại nỏ. Chị Dậu ngồi luôn cạnh bếp cầm chiếc đũa cả quấy nồi cháo khỏi trào. Ánh nắng gắt gao xuyên lỗ thủng mái bếp soi vào những giọt bồ hôi lóng lánh trên gò má đỏ bừng.
Trời đã thững buổi. Thằng Dần lại sạo sục kêu đói. Nó vần kè nhè ngồi ở cạnh mẹ, hau háu nhìn vào nồi cháo.
Chương 19
Về phía đầu làng, nghe có tiếng còi ô tô toe toe. Rồi đến tù và tu tu đổ hồi. Rồi đến trống cái thong thả điểm từng tiếng một.
Bà lão láng giềng lật đật chạy sang, hớt hơ hớt hải nói với chị Dậu.
- Nhà bác chạy đủ sửu chưa?
Chị Dậu vậm vội:
- Thưa cụ, nhà cháu mới nộp một suất, còn một suất nữa ạ!
- Sao lại phải đóng hai suất?
- Thưa cụ, một suất của thầy con cháu và một suất của chú Hợi nó.
- Anh Hợi chết rồi, còn phải đóng sưu nữa à?
- Vâng, cháu thấy các ông ấy bảo chú nó chết dở năn tây, nên còn phải đóng xuất sưu năm nay. Nếu nó chết chẵn năm tây thì mới được trừ.
- Khốn nạn! Người ta chết đã sắp giỗ đầu, anh em còn phải đóng đậy tiền sưu! Sao lại có lệ thế nhỉ? Bây giờ nhà bác chưa có thì làm thế nào? Nghe như quan đã về đấy!
- Phải, cháu cũng đoán chừng quan Phủ đã về. Nhưng không có tiền thì phải khất vậy. Cụ bảo làm thế nào được?
Bà lão ái ngại trở ra.
Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt cho chóng nguội.
Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đưa nhau từ phía đầu làng đến đình.
Tiếng chó sủa vang các xóm.
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
- Vâng, cháu cũng đã nghỉ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
Cháo đã hơi nguội.
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt.
Chị Dậu đón dén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:
- Thầy hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.
Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.
Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng. Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng.
Gõ đầu roi xuống đất, Cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều sái cũ:
- Thằng kia, ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp nốt tiền sưu! Mau!
Hoảng quá anh Dậu vội để bát cháo xuống phản, lăn đùng ra đó, không nói được một câu gì. Người nhà Lý trưởng cười cách mỉa mai:
- Anh ta sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy chị hãy nói với ông Cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lý tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa.
Chị Dậu run run:
- Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu! Hai ông làm phúc nói với ông lý hãy cho cháu khất…
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước, mà dám mở mồm xin khất
Chị Dậu vẫn cố thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại.
Cai lệ vẫn giọng hằm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ rỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à.
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà Lý trưởng:
- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia.
Người nhà Lý trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, Cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ Anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho.
- Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu, mấy bịch, rồi lại sấn đến để trói anh Dậu
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
Người nhà Lý trưởng sấn sổ bước đến, hươ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chành hầu cận ông lý yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa run vừa rên:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận:
- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…
Người nhà Lý trưởng hết cơn lặng cá, lóp ngóp bò dậy hắn chỉ vừa thở vừa chửi chị Dậu, không dám động đến thân thể chị nữa. Chị Dậu lại đón cái Tỉu vào lòng, và cũng sa sả chửi giả.
Anh Dậu không biết làm thế nào mà can đôi bên, chỉ nằm mắng vợ và xin lỗi ông người nhà Lý trưởng.
Một hồi hiệu ốc rú từ ngoài đình rúc vào. Mấy bác tuần phu gậy tầy mã thò theo chân Lý Trưởng, Cai lệ kéo đến. Thì ra trong lúc chị Dậu và anh người nhà Lý trưởng vật nhau, Cai lệ đã chạy thoát ra đình báo với Lý trưởng. Lý trưởng liền đem tuần phu vào bắt vợ chồng chị Dậu. Họ đã giảng giải ra đình hầu quan tất cả tiếng rên của người ốm, tiếng khóc của hai đứa trẻ con, và tội cán của người đàn bà táo bạo.
Chương 20
Đôi lọng xanh nằm tráo đầu đuôi trước cửa đại đạo. Cái trống cái và cái đòn tre chơ chỏng lăn bên tường bao lan. Chín, mười lá cờ rũ rợi, rủ dưới giọt đình. Một đoàn giáo, mác loi thoi chĩa mũi nhọn trên mái giải vũ.
Quang cảnh ngoài đình hôm nay khác hẳn hôm quạ Phó lý, Trương tuần cũng như tộc biểu, tuần phu, tuy không phải làm việc gì, ai nấy vẫn sơ tóc gáy chạy xuôi chạy ngược. Phó hội, thủ quỹ đối nhau với thư ký, chưởng bạ, mỗi người khoanh tay đứng tựa mỗi cột, dáng bộ len lét như rắn mồng năm. Chánh tổng ngồi ngáp vặt cạnh bức câu lơn, con ruồi đậu mép không muốn đuổi. Chánh hội luôn tay giở cuốn sổ thuế, hai mắt vẫn lấm lét trông đi đằng nào.
Vợ chồng chị Dậu không can đảm hơn thằng Dần, vừa ló mặt lên thềm đình, đã mất vía về bộ râu của quan phụ mẫu.
Cái râu mới lạ làm sao! Nó đen như vệt hắc in và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như đầu dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cái cánh dơi. Nó vất vểu vểnh ra hai mang tai, gần như hai sừng củ ấu. Nó chầu đầu ở dưới ống mũi, như sắp chui vào trong cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèn bèn thêm sự dữ dội.
Nếu không biết quan phủ xuất thân từ chức thông phán, người ta sẻ tưởng ngài được làm quan chỉ vì bộ râu.
Và nếu không rõ là ông quan, người ta lại có thể lầm ngài với ông cai xe hay ông cai thầu khoán.
Dựa tay vào mặt cái bàn phủ tấm thảm đỏ của tế chủ vẫn thường đứng lễ, quan Phủ ngất ngưởng ngồi vào chiếc chiếu cạp đỏ trải trên ghế ngựa quang dầu. Dưới vành khăn xếp nhiễu tây, cái mặt phèn phẹt luôn luôn hằm hằm như sắp rơi xuống sàn đình đánh huỵch.
Cạnh ngài, một tên tuần đinh lực lưỡng vác cái quạt lông đứng đằng xa xa phẩy vào.
Trước ngài, thầy Thừa và anh Nho đều mướt bồ hôi với mấy cuốn biên lai thu thuế của Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn! thừa lệnh ông lớn, chúng con và tên người nhà Lý trưởng vào nhà tên Nguyễn Văn Dậu bắt nó đem tiền nộp sưu, vợ tên ấy muốn tháo cho chồng, nó đánh con, đánh cả tên người nhà Lý trưởng, hiện có Lý trưởng cùng bọn tuần phu đều biết. Lạy ông lớn, xin ông lớn…
Cai lệ chưa nói hết câu, Lý trưởng đứng ở đằng sau vội vàng cướp lời:
- Bẩm ông lớn, con mẹ ấy tên là Thị Đào, nó bướng bỉnh thứ nhất làng con. Năm, sáu hôm nay, hôm nào chúng con cũng sai người nhà đến giục tên Nguyễn Văn Dậu đóng sưu, nó xui chồng nó nhất định không đóng. Chúng con bảo nó thuế sắp đăng trường, nếu không đóng sẽ phải trình quan phụ mẫu, nó nói quan phụ mẫu nó cũng không cần. Hôm nay thừa bóng ông lớn về đây, anh Cai lệ và người nhà con vào đốc, nó dám đánh lại tất cả. Hiện mắt chúng con và nhiều người nữa trông thấy. Ông lớn là đèn trời, xin ông lớn xét tình chúng con, bắt nó bỏ tù, chúng con và anh Cai lệ được đội ơn ông lớn.
Quan Phủ vểnh cái mặt nặng trịch và đập tay xuống mặt bàn:
- Không đóng sưu! Lại đánh cả lính! Nó định làm giặc à? Bắt cổ ra đây!
Một tiếng dạ vang năm gian đình. Vợ chồng chị Dậu và hai đứa bé xềnh xệch lên đình theo đầu thừng trong tay Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn, chúng con đả giải tên Dậu và Thị Đào ra hầu ông lớn!
Dứt lời Lý trưởng, quan Phủ giương đôi mắt trắng rã, nhìn vào mặt anh Dậu:
- Mày định trốn sưu của nhà nước? Thằng kia?
Anh Dậu run như cầy sấy:
- Bẩm lạy quan lớn, tiền sưu con đã nộp rồi.
Quan Phủ quát hỏi Lý trưởng:
- Nó đã nộp rồi, sao mày bảo nó chưa nộp?
Lý trưởng vội kêu:
- Bẩm ông lớn, tên ấy man cửa ông lớn, thực quả tên ấy chưa nộp…
Quan Phủ không để cho Lý trưởng hết lời, ngài vặn anh Dậu:
- Mày nộp rồi thì biên lai đâu?
- Bẩm lạy quan lớn, con không lấy giấy biên lai, nhưng khi nộp có cụ Chánh tổng, ông Thủ Quỹ và các ông chức dịch cùng biết…
Quan Phủ nhìn mặt Thủ quỹ và Chánh tổng:
- Các thầy có trông thấy nó nộp sưu cho Lý trưởng không?
Thủ quỹ ngó trộm Lý trưởng rồi thưa:
- Bẩm ông lớn, đêm qua, Thị Đào có nộp anh Lý chúng con hai đồng bẩy hào tiền chinh, anh Lý chúng con giao cho chúng con đếm lại…
Xen vào câu nói của Thủ quĩ, thằng Dần kéo vạt áo mẹ và giục:
- U đem con về mau lên. Con chả ở đây nữa! Nào!
Quan Phủ trừng mắt và quát Lý trưởng:
- Sao lại cho nó giắt cả con nít lên đấy? Ông thì đập vào mặt mày bây giờ!
Sắc mặt sám như gà cắt tiết, Lý trưởng vội vàng một tay giằng sấp cái Tỉu trên tay chị Dậu, một tay túm đầu thằng Dần, đưa xuống thềm đình, rồi đem tít ra ngoài cổng đình, giao cho đứa lớn ngồi giữ đứa bé.
Hai đứa cùng khóc ngặt nghẽo, thằng Dần nheo nhéo gọi u. Mặc kệ chúng nó ở đấy, Lý trưởng lại quay lên đình.
Quan phủ đương hỏi Thủ quĩ:
- Tiền đếm rồi mày đưa cho ai?
- Bẩm quan lớn, con đưa cho anh Lý chúng con.
Lý trưởng nói đón:
- Số tiền ấy mới là xuất sưu của thằng Hợi.
Quan phủ cau mày:
- Thằng Hợi là tên nào? Sao thằng Dậu lại phải nộp sưu cho nó?
- Bẩm ông lớn, tên Hợi là em ruột anh Dậu. Hắn chết từ đầu tháng giêng… Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay.
Quan phủ hỏi gặng:
- Thế làm sao mày lại không đưa biên lai cho nó? Định thu lạm thuế phải không?
Rồi ngoảnh lại nhìn viên thừa phái, quan Phủ nói bằng giọng nghiêm nghị:
- Thầy thảo biên bản, nói rằng nay tôi về đây khám thuế, bắt được Lý trưởng thu thuế của tên Dậu mà không biên nhận cho nó. Rồi bảo Chánh tổng ký vào. Nghe không?
Sau tiếng dạ gọn ghẽ của viên thừa phái, Lý trưởng chắp tay đến cạnh quan Phủ và gãi tai:
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn thương… Thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ càng ra bộ giận dữ:
- Vụ thuế này mày kiếm được của những đứa ngoại canh được mấy trăm đồng… Còn chực thu lạm của thằng cùng đình! Ông thì cách cổ!
Lý trưởng lại nằn nì nhắc lại câu vừa mới nói:
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn thương… thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ dịu giọng
- Mai lên phủ hầu. Nghe không?
Lý trưởng dạ một tiếng dài, rồi khúm núm đi lùi trở ra.
Quan phủ hỏi đến chị Dậu:
- Mày đánh lính và người nhà Lý trưởng để tháo cho chồng mày trốn sưu phải không?
Chị Dậu cất giọng run run:
- Bẩm lạy quan lớn, con không đánh các ông ấy, vì các ông ấy định đánh chồng con, con sợ chồng con đương ốm mà lại phải đòn thì chết, nên con phải can.
Lý trưởng nói xen:
- Bẩm ông lớn, đích thị ấy có đánh người nhà chúng con và anh Cai lệ, mắt con trông thấy.
Quan phủ gạt đi:
- Im cái mồm! Không ai hỏi mày!
Rồi ngài lại dồn chị Dậu:
- Mày can, tức là mày đánh nhau với chúng nó… À! Con này dám chống cự với lính trong khi làm phận sự! Muốn vào tù?
Chị Dậu nín lặng, không biết nói sao, Quan phủ cất giọng hách dịch:
- Cho ra ngoài kia!
Thầy Thừa vừa thảo xong tờ biên bản, đệ lên trước mặt quan phủ. Nhìn qua biên bản một lượt, quan phủ bảo Chánh tổng đóng triện và mấy người hương chức ký tên làm chứng, rồi ngài mới kiểm đến thuế.
Trước mặt Chánh tổng và các hương chức, Lý trưởng đổ tráp bạc cho thầy Thừa đếm. Tất cả bạc giấy, bạc hào mới được sáu trăm và ba chục đồng. So với tiền đã biên trong sổ Lý trưởng, thì dội ra đến hai chục đồng.
Quan phủ đập tay xuống bàn và dọa Lý trưởng:
- Mày không thu lạm, làm sao tiền thuế lại thừa? Xong vụ thuế này, ông thu bằng triện.
Lý trưởng sợ tái mặt, chỉ núc hai tay như người bắt quyết và nói đi nói lại một câu xin ông lớn thương.
Quan phủ đổi giọng ngọt ngào:
- Mai lên phủ hầu! Giải cả con vợ thằng Dậu lên nữa. Nghe không?
Rồi ngài chững chạc đứng dậy, đi xuống giọt đình.
Tù và, trống cái và cờ quạt lũ lượt tiễn ngài lên phía đầu làng.
Những tiếng thét đâm, thét đánh đã yên. Người ta không nỡ bắt trói chị Dậu, tuy gặp chị lò mò trong bóng tối, và biết chị đích thị là thủ phạm đã gây ra vụ chó sủa, người la, tù và rúc khắp làng.
Là vì xưa nay chị vẫn ngay thẳng thật thà, không hề tắt mắt của ai vật gì đáng bằng cái tơ cái tóc. Hơn nữa lúc ấy, chị lại hai tay hai con, một đứa đương khóc, một đứa đương bú, dù kẻ ghét chị đi chăng nữa cũng không thể buộc chị là người định đi ăn trộm.
Mây vẫn, sao thưa dần. Sương mù bắt đầu pha đục bầu trời. Mặt trăng tà tà đến gần mặt lũy. Tiếng gà te tê lần lượt từ nhà nọ truyền đến nhà kia.
Dưới lớp mái lụp xụp của túp lều tranh, chị Dậu và vầng trăng tàn thơ thẩn nhìn nhau, dường như đôi bên đều có riêng một tâm sự.
Cái Tỉu no bụng, tỉnh ngủ: hớn hở nằm trong lòng mẹ đùa với cái bóng thằng Dần. Thằng Dần chết khiếp vì trận quát tháo vừa rồi, nó chỉ thổn thức, không dám khóc, cũng không dám giục mẹ đi tìm cái Tý.
Đến lượt cái Tý làm tội mẹ nó. Mọi đêm, cứ đến gà gáy một tiếng, chị Dậu trở dậy sắp sửa nấu cơm, con bé ấy đã đon đả đón lấy cái Tỉu, nó dụ, nó hát, nó nói thỏ thẻ với em những câu ngây thợ Bây giờ vắng nó, trong nhà tẻ ngắt như nhà có tang. Nào nó có tội tình gì. Chẳng qua vì một suất sưu của bố, khiến cho nó phải lìa bố, lìa mẹ, lìa các em, đem thân đánh đổi lấy một đồng bạc. Tội nghiệp cái thân con trẻ nhà nghèo, làm tôi một nhà giàu có, hách dịch như nhà Nghị Quế, còn khi nào được một câu ỏ ê của chủ nhà! Khốn nạn thân nó, đêm nay nó ở bên ấy, ngoài một con chó cái và bốn con, không còn ai là bạn quen.
Nước mắt theo sự nghĩ ngợi chảy ra như mưa, chị Dậu tự thấy trong ngực nóng như lửa đốt.
Văng vẳng nẻo xa có tiếng chó sủa. Rồi, như theo một vệt đường, những giọng ăng ẳng kéo tiếp nhau, ganh thi nhau, dần dần gần lại, dần dần lớn thêm. Nó xô xát dữ dội ở mấy nhà giữa xóm và nó kéo dài vào ngõ láng giềng chị Dậu.
Ngoài cổng, có tiếng giật giọng:
- Chị Dậu còn thức hay ngủ?
Giật mình, chị vội quay nhìn ra cổng, và chị run sợ kinh khiếp khi thấy mấy người lố nhố dưới bóng tối của rặng tre. Không phải họ đến bắt chị về chuyện huyên náo động lúc nãy, người ta đem lại cho chị một cái xác người.
Cái xác người ấy rũ rợi giục ở sau lưng một người nhà Lý trưởng, hai tay thong thả đằng trước, lủng lẳng như hai quả bầu dài, hai bên có hai anh nữa, cũng người nhà Lý trưởng, đỡ ở hai vai, giữ cho nó khỏi bị lả sang bên cạnh.
Hoảng hốt, chị Dậu bồng cả hai con đứng dậy, và hỏi một cách thất kinh:
- Ai làm sao thế, hử các ông?
Hình như mấy người ấy, khi ở giữa đường, đã nhiều lần phải thay đổi nhau đài tải một vật nặng nề, ai nấy đều thở hồng hộc như bò cầy nắng. Họ không kịp trả lời chị Dậu, bệu rệch họ vực cái xác người ấy sầm sập tiến vào trong nhà và đặt xuống phản. Một người cố nói mấy câu như kẻ đứt hơi:
- Anh ấy phải cảm đấy. Chị xem nhà ai có dầu bạc hà xin một ít mà bôi cho hắn, may ra hắn tỉnh được chăng.
Và họ rảo cẳng bước ra, không ai dám quay cổ lại.
Hết cả hồn vía, chị Dậu đặt luôn hai đứa con nhỏ xuống đất, tất tả chạy đến cạnh chồng. Anh Dậu nằm còng queo trên phản, chân tay không hề động cựa. Trước ánh sáng bẽ bàng của vầng trăng tàn úa, hai mắt đều nhắm lim dim.
Sờ khắp trán, mặt, tay, chân của chồng, chị Dậu chỉ thấy chỗ nào cũng giá ngăn ngắt, nhưng ở tinh mũi và cuối cằn hãy còn ôn hòa, hai lỗ mũi hãy còn hơi thở man mát. Kề miệng vào tai chồng chị gọi:
- Thầy em! Tỉnh dậy! Thầy em! Tỉnh dậy!
Chỉ có hai đứa bé con ỷ ẻo khóc ở dưới đất. Anh Dậu vẫn nằm ngay như khúc gỗ.
Sấp ngửa, chị chạy ra cổng và réo thật to:
- Ba hồn bảy vía anh Dậu ở đâu thì về với vợ với con.
Lồng từ ngõ trong ra ngõ ngoài, lại tế từ ngõ ngoài vào ngõ trong, chị hú hồn chồng mới được sáu lượt, thì lưỡi líu lại, không nói được nữa. Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản. Cuống quýt không biết chạy chữa bằng cách nào, chị để tay vào trán chồng, vừa lay vừa gọi “thầy em tỉnh dậy”.
Anh Dậu vẫn không tỉnh. Hai đứa bé con dưới đất vẫn khóc tru tréo.
Chương 18
Trống tan canh.
Gà im gáy.
Trời tang tảng rạng đông.
Chị Dậu tuyệt vọng khi ngó mặt chồng thất sắc sám nhợt như người chết trôi. Tưởng chừng anh ta không thể sống lại, chị đập tay xuống phản, kêu trời, kêu đất, kêu cha, kêu mẹ. Rồi chị đứng dậy đi ra vại nước, lấy cái chậu sành múc đầy chậu nước đem vào. Lật khăn vuông ở trên đầu xuống, chị dúng vào nước, lau trán, lau mặt, lau qua chân tay cho chồng, để chồng được sạch sẽ trước khi hết cơm gạo về với tổ tiên.
Hàng xóm, láng giềng tấp nập đổ đến. Kẻ đón cái Tỉu, người ẩm thằng Dần, kẻ vào sờ sà anh Dậu, người ghé tận tai anh ta mà gọi. Có kẻ rút rát, chảng vãng đứng tít ngoài thềm ghé vào, có kẻ sốt sắng, chạy tốc ra mãi ngã ba, hú hồn anh Dậu thêm một lần nữa.
Trong nhà chật ních, người đứng vòng trong, vòng ngoài. Họ hỏi thăm bệnh tình. Họ thương hại anh Dậu. Họ khuyên can chị Dậu đừng khóc. Họ cả quyết anh Dậu không việc gì. Rồi họ rối rít, mỗi người chạy đi làm giúp mỗi việc.
Bà này bắt thằng Dần cố sức rặn đáí đái vào chậu sành. Ông kia lấy chiếc lược thưa ghè hai hàm răng anh Dậu. Bác nọ múc ít nước đái đổ vào trong miệng anh ấy. Bà kia bưng chậu nước đái xoa mãi vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào gáy, vào hai thái dương anh ta. Cô nọ chạy về nhà mình lấy ít bồ kếp đốt than để vào cửa mũi người ốm. Chị kia sang nhà bên cạnh xin cái chổi sể châm lửa cho cháy đùng đùng ở giữa nhà.
Ồn ào một hồi lâu.
Anh Dậu dần dần thở mạnh, rồi lờ đờ sẽ mở hai mắt. Mọi người hớn hở mừng reo:
- Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi đấy.
Thì ra không phải anh ta phải gió, chỉ vì bị trói chặt quá, mạch máu nghẽn lại, máu xông lên óc khiến cho anh ta ngất đi. Nhờ có chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu nước đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh.
Câu chuyện bắt đầu vui vẻ.
Người ta hỏi đến cái Tý vì từ nãy đến giờ không thấy nó đâu.
Sau khi đã nghe chị Dậu vừa mếu vừa thuật lại đầu đuôi việc chị thiếu sưu phải bán nó và năm con chó cho ông Nghị Quế thôn Đoài, lấy hai đồng bạc, thì ai nấy đều có vẻ ái ngại. Và ai nấy đều khuyên chị Dậu phải yên lòng mà thuốc men cơm cháo cho chồng, không nên lo phiền về cái Tý nữa. Người ta bảo nó lớn thì nó lại về, chẳng có khi nào mất con.
Anh Dậu vẫn lì bì mệt nhọc. Thằng Dần mếu máo kêu đói.
Thấy nói từ sáng hôm qua đến giờ, thằng bé chỉ ăn có vài mẫu khoai, vợ chồng chị Dậu đều phải nhịn xuông, một bà hàng xóm có lòng xởi lởi liền chạy về nhà lấy sang cho vay độ hơn đấu gạo, rồi bảo chị Dậu hãy đi nấu cháo để cả nhà ăn tạm.
Cảm động, chị Dậu cám ơn bà ấy bằng những giọt nước mắt chứa chan. Rồi chị đón lấy cái Tỉu vừa cho nó bú, vừa bắc nồi cháo. Mặt trời lên cao, ánh nắng lọt lỗ nẻ bức cửa, chiếu vào lòng nhà.
Anh Dậu dần dần tỉnh thêm, có thể tiếp chuyện bà con bằng giọng rền rĩ dề dà.
Các cô con gái lẻ tẻ về trước. Các ông đàn ông và mấy bà đàn bà lục tục về sau.
Trong nhà lại thấy cảnh buồn tẻ của sự thiếu vắng.
Chị Dậu bế cái Tỉu ngồi cạnh anh Dậu, vừa bóp nặn chân tay cho chồng, vừa dỗ dành thằng Dần, chốc chốc lại phải đứng ra thổi lửa dóm bếp.
Ngoài đình trống lại thúc, mõ lại khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ.
Sau nhà có tiếng gọi léo xéo. Thằng Mới nó giục bác đàn em tuần ở nhà kế bên ấy ra đình sắp sửa cờ trống đi đón quan.
Anh Dậu vật vã thở dài:
- Trời ơi, từ giờ đến lúc quan về, chạy đâu cho được hai đồng bẩy nữa? Nếu không có, chúng nó làm tình làm tội, không khéo thì mình đến chết.
Nước mắt ứa ra, anh Dậu quay mặt vào bức phên nứa, sụt sùi nức nở, anh khóc thằng Hợi, anh khóc cái Tý, rồi anh khóc đến số phận của anh.
Chị Dậu đương ở trong bếp, vội vàng chạy lại ngồi kề sau chồng, nỉ non khuyên giải:
- Thôi, tôi xin thầy em. Đừng kêu khóc nữa, khổ tôi lắm. Chú Hợi nó chết rồi, dù có thương xót, nó cũng không thể sống lại, cái Tý tuy bị đem bán, nhưng nó sang bên ấy chắc là cũng được cơm no áo lành. Sau này trời cho làm ăn khá giả, thì lại sang chuộc nó về, có sao đâu? Còn như mấy đồng tiền sưu, tuy có nóng thật, nhưng lo chưa kịp thì khất. Thịt người tanh, chẳng ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghĩ, không phải lo lắng gì cả. Nếu thầy em cứ kêu khóc mãi, lỡ ra cơn bệnh vật lên, lại lả người đi, thì tôi biết làm thế nào?
Anh Dậu chừng sũng thương vợ, liền giơ bàn tay, run rẩy lau khô nước mắt. Và ngoảnh mặt trở ra, anh cố làm ra bo tươi tỉnh để tỉ tê hỏi chuyện cái Tỉu.
Nồi cháo đã sủi, bọt trắng trào ra cổ nồi, chẩy xuống lòng bếp xèo xèo, làm tắt bếp lửa trong bếp.
Chị Dậu vội đặt cái Tỉu nằm ở cạnh chồng, rồi chị đến bếp hì hục thổi mấy cục than sắp tàn. Thằng Dần lệch thệch theo lại sau mẹ. Nó nhất định bảo cháo chín rồi, và nằng nặc giục mẹ bắt ra.
Ngoài cổng, lạch cạch mấy tiếng gậy đập cột vách. Người nhà Lý trưởng hách dịch hỏi từ đầu ngõ hỏi vào:
- Thế nào? Anh Dậu còn sống hay đã chết rồi? Im lặng thế này hẳn là chửa chết. Tiền sưu đâu? Đem nộp nốt đi! Mau lên. Quan sắp về kia!
Chị Dậu ngồi trong bếp ngọt ngào nói ra:
- Bác tính từ lúc gà gáy đến giờ, tôi chạy chữa cho thầy cháu, nào đã lo kịp? Nhờ bác nói với ông lý hãy cho nhà tôi khất đến chiều mai.
Anh kia mát mẻ:
- Đến chiều mai, chị nói dễ nghe nhỉ! Thuế của nhà nước, chị tưởng chuyện chơi hay sao?
Chị Dậu nằn nì:
- Tôi cũng biết thuế nhà nước không phải chuyện chơi. Nhưng bây giờ chưa có, nên tôi phải khất. Bạn nghèo với nhau, bác nói khéo với ông lý giúp tôi.
- Tôi không dám bạn với nhà chị. Tôi không biết nói khéo. Tôi không có quyền được nhận lời khất của chị. Lát nữa, để chị khất với ông Cai lệ.
Rồi hắn hầm hầm vác gậy đi ra.
Lửa lại nỏ. Chị Dậu ngồi luôn cạnh bếp cầm chiếc đũa cả quấy nồi cháo khỏi trào. Ánh nắng gắt gao xuyên lỗ thủng mái bếp soi vào những giọt bồ hôi lóng lánh trên gò má đỏ bừng.
Trời đã thững buổi. Thằng Dần lại sạo sục kêu đói. Nó vần kè nhè ngồi ở cạnh mẹ, hau háu nhìn vào nồi cháo.
Chương 19
Về phía đầu làng, nghe có tiếng còi ô tô toe toe. Rồi đến tù và tu tu đổ hồi. Rồi đến trống cái thong thả điểm từng tiếng một.
Bà lão láng giềng lật đật chạy sang, hớt hơ hớt hải nói với chị Dậu.
- Nhà bác chạy đủ sửu chưa?
Chị Dậu vậm vội:
- Thưa cụ, nhà cháu mới nộp một suất, còn một suất nữa ạ!
- Sao lại phải đóng hai suất?
- Thưa cụ, một suất của thầy con cháu và một suất của chú Hợi nó.
- Anh Hợi chết rồi, còn phải đóng sưu nữa à?
- Vâng, cháu thấy các ông ấy bảo chú nó chết dở năn tây, nên còn phải đóng xuất sưu năm nay. Nếu nó chết chẵn năm tây thì mới được trừ.
- Khốn nạn! Người ta chết đã sắp giỗ đầu, anh em còn phải đóng đậy tiền sưu! Sao lại có lệ thế nhỉ? Bây giờ nhà bác chưa có thì làm thế nào? Nghe như quan đã về đấy!
- Phải, cháu cũng đoán chừng quan Phủ đã về. Nhưng không có tiền thì phải khất vậy. Cụ bảo làm thế nào được?
Bà lão ái ngại trở ra.
Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị lấy quạt cho chóng nguội.
Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đưa nhau từ phía đầu làng đến đình.
Tiếng chó sủa vang các xóm.
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
- Vâng, cháu cũng đã nghỉ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
Cháo đã hơi nguội.
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt.
Chị Dậu đón dén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:
- Thầy hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.
Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.
Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng. Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng.
Gõ đầu roi xuống đất, Cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều sái cũ:
- Thằng kia, ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp nốt tiền sưu! Mau!
Hoảng quá anh Dậu vội để bát cháo xuống phản, lăn đùng ra đó, không nói được một câu gì. Người nhà Lý trưởng cười cách mỉa mai:
- Anh ta sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy chị hãy nói với ông Cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lý tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa.
Chị Dậu run run:
- Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu! Hai ông làm phúc nói với ông lý hãy cho cháu khất…
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước, mà dám mở mồm xin khất
Chị Dậu vẫn cố thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại.
Cai lệ vẫn giọng hằm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ rỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à.
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà Lý trưởng:
- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia.
Người nhà Lý trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, Cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ Anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho.
- Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu, mấy bịch, rồi lại sấn đến để trói anh Dậu
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
Người nhà Lý trưởng sấn sổ bước đến, hươ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chành hầu cận ông lý yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa run vừa rên:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận:
- Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…
Người nhà Lý trưởng hết cơn lặng cá, lóp ngóp bò dậy hắn chỉ vừa thở vừa chửi chị Dậu, không dám động đến thân thể chị nữa. Chị Dậu lại đón cái Tỉu vào lòng, và cũng sa sả chửi giả.
Anh Dậu không biết làm thế nào mà can đôi bên, chỉ nằm mắng vợ và xin lỗi ông người nhà Lý trưởng.
Một hồi hiệu ốc rú từ ngoài đình rúc vào. Mấy bác tuần phu gậy tầy mã thò theo chân Lý Trưởng, Cai lệ kéo đến. Thì ra trong lúc chị Dậu và anh người nhà Lý trưởng vật nhau, Cai lệ đã chạy thoát ra đình báo với Lý trưởng. Lý trưởng liền đem tuần phu vào bắt vợ chồng chị Dậu. Họ đã giảng giải ra đình hầu quan tất cả tiếng rên của người ốm, tiếng khóc của hai đứa trẻ con, và tội cán của người đàn bà táo bạo.
Chương 20
Đôi lọng xanh nằm tráo đầu đuôi trước cửa đại đạo. Cái trống cái và cái đòn tre chơ chỏng lăn bên tường bao lan. Chín, mười lá cờ rũ rợi, rủ dưới giọt đình. Một đoàn giáo, mác loi thoi chĩa mũi nhọn trên mái giải vũ.
Quang cảnh ngoài đình hôm nay khác hẳn hôm quạ Phó lý, Trương tuần cũng như tộc biểu, tuần phu, tuy không phải làm việc gì, ai nấy vẫn sơ tóc gáy chạy xuôi chạy ngược. Phó hội, thủ quỹ đối nhau với thư ký, chưởng bạ, mỗi người khoanh tay đứng tựa mỗi cột, dáng bộ len lét như rắn mồng năm. Chánh tổng ngồi ngáp vặt cạnh bức câu lơn, con ruồi đậu mép không muốn đuổi. Chánh hội luôn tay giở cuốn sổ thuế, hai mắt vẫn lấm lét trông đi đằng nào.
Vợ chồng chị Dậu không can đảm hơn thằng Dần, vừa ló mặt lên thềm đình, đã mất vía về bộ râu của quan phụ mẫu.
Cái râu mới lạ làm sao! Nó đen như vệt hắc in và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như đầu dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cái cánh dơi. Nó vất vểu vểnh ra hai mang tai, gần như hai sừng củ ấu. Nó chầu đầu ở dưới ống mũi, như sắp chui vào trong cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèn bèn thêm sự dữ dội.
Nếu không biết quan phủ xuất thân từ chức thông phán, người ta sẻ tưởng ngài được làm quan chỉ vì bộ râu.
Và nếu không rõ là ông quan, người ta lại có thể lầm ngài với ông cai xe hay ông cai thầu khoán.
Dựa tay vào mặt cái bàn phủ tấm thảm đỏ của tế chủ vẫn thường đứng lễ, quan Phủ ngất ngưởng ngồi vào chiếc chiếu cạp đỏ trải trên ghế ngựa quang dầu. Dưới vành khăn xếp nhiễu tây, cái mặt phèn phẹt luôn luôn hằm hằm như sắp rơi xuống sàn đình đánh huỵch.
Cạnh ngài, một tên tuần đinh lực lưỡng vác cái quạt lông đứng đằng xa xa phẩy vào.
Trước ngài, thầy Thừa và anh Nho đều mướt bồ hôi với mấy cuốn biên lai thu thuế của Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn! thừa lệnh ông lớn, chúng con và tên người nhà Lý trưởng vào nhà tên Nguyễn Văn Dậu bắt nó đem tiền nộp sưu, vợ tên ấy muốn tháo cho chồng, nó đánh con, đánh cả tên người nhà Lý trưởng, hiện có Lý trưởng cùng bọn tuần phu đều biết. Lạy ông lớn, xin ông lớn…
Cai lệ chưa nói hết câu, Lý trưởng đứng ở đằng sau vội vàng cướp lời:
- Bẩm ông lớn, con mẹ ấy tên là Thị Đào, nó bướng bỉnh thứ nhất làng con. Năm, sáu hôm nay, hôm nào chúng con cũng sai người nhà đến giục tên Nguyễn Văn Dậu đóng sưu, nó xui chồng nó nhất định không đóng. Chúng con bảo nó thuế sắp đăng trường, nếu không đóng sẽ phải trình quan phụ mẫu, nó nói quan phụ mẫu nó cũng không cần. Hôm nay thừa bóng ông lớn về đây, anh Cai lệ và người nhà con vào đốc, nó dám đánh lại tất cả. Hiện mắt chúng con và nhiều người nữa trông thấy. Ông lớn là đèn trời, xin ông lớn xét tình chúng con, bắt nó bỏ tù, chúng con và anh Cai lệ được đội ơn ông lớn.
Quan Phủ vểnh cái mặt nặng trịch và đập tay xuống mặt bàn:
- Không đóng sưu! Lại đánh cả lính! Nó định làm giặc à? Bắt cổ ra đây!
Một tiếng dạ vang năm gian đình. Vợ chồng chị Dậu và hai đứa bé xềnh xệch lên đình theo đầu thừng trong tay Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn, chúng con đả giải tên Dậu và Thị Đào ra hầu ông lớn!
Dứt lời Lý trưởng, quan Phủ giương đôi mắt trắng rã, nhìn vào mặt anh Dậu:
- Mày định trốn sưu của nhà nước? Thằng kia?
Anh Dậu run như cầy sấy:
- Bẩm lạy quan lớn, tiền sưu con đã nộp rồi.
Quan Phủ quát hỏi Lý trưởng:
- Nó đã nộp rồi, sao mày bảo nó chưa nộp?
Lý trưởng vội kêu:
- Bẩm ông lớn, tên ấy man cửa ông lớn, thực quả tên ấy chưa nộp…
Quan Phủ không để cho Lý trưởng hết lời, ngài vặn anh Dậu:
- Mày nộp rồi thì biên lai đâu?
- Bẩm lạy quan lớn, con không lấy giấy biên lai, nhưng khi nộp có cụ Chánh tổng, ông Thủ Quỹ và các ông chức dịch cùng biết…
Quan Phủ nhìn mặt Thủ quỹ và Chánh tổng:
- Các thầy có trông thấy nó nộp sưu cho Lý trưởng không?
Thủ quỹ ngó trộm Lý trưởng rồi thưa:
- Bẩm ông lớn, đêm qua, Thị Đào có nộp anh Lý chúng con hai đồng bẩy hào tiền chinh, anh Lý chúng con giao cho chúng con đếm lại…
Xen vào câu nói của Thủ quĩ, thằng Dần kéo vạt áo mẹ và giục:
- U đem con về mau lên. Con chả ở đây nữa! Nào!
Quan Phủ trừng mắt và quát Lý trưởng:
- Sao lại cho nó giắt cả con nít lên đấy? Ông thì đập vào mặt mày bây giờ!
Sắc mặt sám như gà cắt tiết, Lý trưởng vội vàng một tay giằng sấp cái Tỉu trên tay chị Dậu, một tay túm đầu thằng Dần, đưa xuống thềm đình, rồi đem tít ra ngoài cổng đình, giao cho đứa lớn ngồi giữ đứa bé.
Hai đứa cùng khóc ngặt nghẽo, thằng Dần nheo nhéo gọi u. Mặc kệ chúng nó ở đấy, Lý trưởng lại quay lên đình.
Quan phủ đương hỏi Thủ quĩ:
- Tiền đếm rồi mày đưa cho ai?
- Bẩm quan lớn, con đưa cho anh Lý chúng con.
Lý trưởng nói đón:
- Số tiền ấy mới là xuất sưu của thằng Hợi.
Quan phủ cau mày:
- Thằng Hợi là tên nào? Sao thằng Dậu lại phải nộp sưu cho nó?
- Bẩm ông lớn, tên Hợi là em ruột anh Dậu. Hắn chết từ đầu tháng giêng… Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay.
Quan phủ hỏi gặng:
- Thế làm sao mày lại không đưa biên lai cho nó? Định thu lạm thuế phải không?
Rồi ngoảnh lại nhìn viên thừa phái, quan Phủ nói bằng giọng nghiêm nghị:
- Thầy thảo biên bản, nói rằng nay tôi về đây khám thuế, bắt được Lý trưởng thu thuế của tên Dậu mà không biên nhận cho nó. Rồi bảo Chánh tổng ký vào. Nghe không?
Sau tiếng dạ gọn ghẽ của viên thừa phái, Lý trưởng chắp tay đến cạnh quan Phủ và gãi tai:
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn thương… Thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ càng ra bộ giận dữ:
- Vụ thuế này mày kiếm được của những đứa ngoại canh được mấy trăm đồng… Còn chực thu lạm của thằng cùng đình! Ông thì cách cổ!
Lý trưởng lại nằn nì nhắc lại câu vừa mới nói:
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn thương… thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ dịu giọng
- Mai lên phủ hầu. Nghe không?
Lý trưởng dạ một tiếng dài, rồi khúm núm đi lùi trở ra.
Quan phủ hỏi đến chị Dậu:
- Mày đánh lính và người nhà Lý trưởng để tháo cho chồng mày trốn sưu phải không?
Chị Dậu cất giọng run run:
- Bẩm lạy quan lớn, con không đánh các ông ấy, vì các ông ấy định đánh chồng con, con sợ chồng con đương ốm mà lại phải đòn thì chết, nên con phải can.
Lý trưởng nói xen:
- Bẩm ông lớn, đích thị ấy có đánh người nhà chúng con và anh Cai lệ, mắt con trông thấy.
Quan phủ gạt đi:
- Im cái mồm! Không ai hỏi mày!
Rồi ngài lại dồn chị Dậu:
- Mày can, tức là mày đánh nhau với chúng nó… À! Con này dám chống cự với lính trong khi làm phận sự! Muốn vào tù?
Chị Dậu nín lặng, không biết nói sao, Quan phủ cất giọng hách dịch:
- Cho ra ngoài kia!
Thầy Thừa vừa thảo xong tờ biên bản, đệ lên trước mặt quan phủ. Nhìn qua biên bản một lượt, quan phủ bảo Chánh tổng đóng triện và mấy người hương chức ký tên làm chứng, rồi ngài mới kiểm đến thuế.
Trước mặt Chánh tổng và các hương chức, Lý trưởng đổ tráp bạc cho thầy Thừa đếm. Tất cả bạc giấy, bạc hào mới được sáu trăm và ba chục đồng. So với tiền đã biên trong sổ Lý trưởng, thì dội ra đến hai chục đồng.
Quan phủ đập tay xuống bàn và dọa Lý trưởng:
- Mày không thu lạm, làm sao tiền thuế lại thừa? Xong vụ thuế này, ông thu bằng triện.
Lý trưởng sợ tái mặt, chỉ núc hai tay như người bắt quyết và nói đi nói lại một câu xin ông lớn thương.
Quan phủ đổi giọng ngọt ngào:
- Mai lên phủ hầu! Giải cả con vợ thằng Dậu lên nữa. Nghe không?
Rồi ngài chững chạc đứng dậy, đi xuống giọt đình.
Tù và, trống cái và cờ quạt lũ lượt tiễn ngài lên phía đầu làng.