Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Tặc Miêu - Quyển 03 - Chương 01
Quyển thứ ba: Chó Ngao Thần
Hồi thứ 1: Đàm đạo nhân
Lại nói, tuần phủ Mã đại nhân là người từng trải việc quan, long ôm thao lược, bụng có mưu hay, hơn nữa còn có nhãn quang phi thường, nhìn xa trông rộng, khi gặp việc thì tùy cơ quyết định. Sau khi thẩm vấn xong, lão sợ đêm dài lắm mộng, bèn quyết định phải mau chóng xử trí, bèn hạ lệnh cho thủ hạ đem hào thường Chuột ta cắt đứt gân chân gân tay, dung khóa sắt xuyên qua xương tỳ bà, bắt đeo gong nặng, tống vào tử lao, sai ngục tốt cho ăn uống tử tế, đồng thời hạ lệnh phong tỏa tin tức, dự định trong ba ngày sẽ giải ra chợ lăng trì.
Đoạn Mã đại nhân sai người đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào hậu đường, cởi dây trói, cho uống rượu áp kinh rồi hỏi han cặn kẽ. Mã đại nhân vốn là người biết dùng người, hiểu rõ rằng trong thiên hạ này, ngắn cũng có sở trường, dài cũng có sở đoản, cái nào cũng có chỗ dùng đến, ngay trong đám giả tiếng gà, ăn trộm chó cũng có lúc trở thành kì tài.
Khi biết Trương Tiểu Biện hiểu thuật xem tướng mèo thời xưa, Mã đại nhân đột nhiên nhớ ra một chuyện. Linh Châu trước nay có phong tục thờ Miêu tiên gia, nhưng nhiều người không biết được lai lịch của ngài, cho dù có biết thì cũng chỉ là lời đồn đại nơi đầu đường xó chợ, vị tất đã đúng sự thật. tổ tiên của lão lúc chưa phát tích từng làm thảo khấu, kết giao với đạo tặc trong thiên hạ, vì vậy rất rõ căn dơ của câu chuyện này.
Kỳ thực miêu tiên gia hồi đó không phải là đạo sĩ tiên cơ gì cả, mà chẳng qua chỉ là một tên trộm lành nghề chuyên trèo tường leo vách mà thôi. Vị thần ăn trộm này xuất thân từ một nhà dòng dõi đất Linh Châu, thường dắt theo con mèo khoang bốn tai, chuyên di ăn trộm những nhà giàu có bất nhân chia cho người nghèo, cứu khổ tế bần. Thủ đoạn của người này hết sức cao minh, đa phần đều là diệu thuật thần kì mà người thường khó tưởng tượng nổi, chợt đến chợt đi không để lại dấu vết, đến đám quan quân bổ khoái cũng không làm gì được.
Vị thần trộm này họ Đàm, ngày thường chỉ xuất hiện dưới bộ dạng đạo sĩ rách rưới đi khắp hang cùng ngõ hẻm bán thuốc đạo, vì vậy người ta gọi là Đàm đạo nhân. ông ta từ nhỏ đã hiểu thuật xem tướng mèo, khi đi trộm vàng cắp bạc ở khắp nơi đều nhờ vào con mèo khoang bốn tai mang theo bên mình. Con mèo này tinh nhanh phi phàm, giỏi trèo tường khoét vách. Các nhà phú hộ ngày xưa đều xây kín cổng cao tường, ngoài bọn gia đinh đi tuần còn nuôi nhiều chó dữ, hễ thấy có tiếng người đánh động là chúng sẽ xổ ra cắn xé. Mặc dù vậy tất cả đều bị Đàm đạo nhân qua mặt.
Đàm đạo nhân không phải là kẻ độc lai độc vãng. Đồng bọn của ông ta rất đông, vì ông ta là thủ lĩnh của đám trộm cắp thành Linh Châu. Phường trộm thường ẩn hiện trong đêm, mặc y phục dạ hành, đế giày bện rơm cỏ để đi không có tiếng động, trên mawyj che kín, miệng ngậm tăm để tránh cất tiếng nói.
Sau khi ngầm lẻn đến đúng tòa nhà định gây án, cả bọn phục ở chân tường không nhúc nhích, Đàm đạo nhân tóm gáy con mèo bốn tai, nhắm vào đầu tường rồi ném lên. Con mèo giặc đó nhẹ nhàng linh hoạt vô cùng, vừa chạm vào tường liền thò móng vuốt bám chặt không một tiếng động, sau đó mượn lực, uốn mạnh nảy vọt qua bờ tường cao.
Con mèo khoang bốn tai vào đến bên trong liền dụ đám chó dữ canh cửa sang một phía, lừa cho chúng ăn thuốc mê,. Lũ chó ăn phải thuốc mê xong, mèo khoang ta liền lên đến cửa sau, dùng móng vuốt rút then cửa để cả bọn vào khoắng vàng bạc, đồ đạc. Đàm đạo nhân nhờ vào ngón nghề đó mà gây ra rất nhiều đại án, chưa lần nào sa cơ.
Mạc dù vậy ông ta cũng có lúc thất bại. Đó là lần ĐÀm đạo nhân uống rượu cùng thủ lĩnh đảng cướp hồ Động Đình. Khi hai người uống say liền xoay sang đánh cược. tên thủ lĩnh nói rằng, thiên hạ đều hết sức khâm phục Đàm công có kĩ thuật thần diệu, lấy bảo vật như lấy đồ trong túi, nhưng dẫu cho ông có tài bằng trời cũng chưa chắc lấy được một vật. Nghe đồn trong Hoàng cung đại nội có một viên ngọc dạ quang do Phiên quốc tiến cống, to như mật tông, tinh khí sáng ngọt, trong đêm trông rạng rỡ như đèn, chiếu xa ngoài trăm bước. Viên ngọc đó là báu vât cảu hoàng hia, xưa nay vẫn cất giấu ở chỗ Thái hậu, đến Hoàng đế cũng không biết chính xác ở đâu. Nếu đàm đạo nhân có thể giở thủ đoạn lấy được viên minh châu đó cho cả bọn mở rộng tầm mắt, thì đám thảo khấu, trộm cướp trong khắp tứ hải ngũ hồ chúng ta sẽ nhất loạt tôn Đàm công thành "Đạo trung Bắc đẩu"(Bậc Thái sơn Bắc đẩu trong đám trộm cướp)
Kỳ thực đây cũng chỉ là lời nói vui trong bữa rượu nhưng Đàm đạo nhân vốn tính hiếu thắng, muốn tỏ ra hơn phân đấm đạo tặc ở hồ Động Đình, liền chẳng nói chẳng rằng, một mình ôm con mèo khoang bốn tai đi đền hoàng cung. Thời gian đó vào đúng lễ hội hoa đăng tết Nguyên tiêu, Hoàng thượng đưa Thái hậu xuất cung để thưởng đèn, bách tính chen vai thích cánh, tranh nhau ngắm mặt rồng. Đàm đạo nhân cùng con mèo khoang bốn tai ẩn mình trong đám đông, nhìn kĩ dung mạo của Thái hậu. Song, lúc ấy cấm quân đại nội phong cành nghiêm ngặt, dẫu ông ta to gan tày trời cũng không dám xông vào cướp ngọc, đành rập đầu trước con mèo thần bốn tai, cầu mong nó lẻn vào cung trộm Dạ minh châu để được mở mày mở mặt với đám thảo khấu Động Đình.
Con mèo khoang bốn tai ấy có trái tim có cửu khiếu, cự kì thông linh, có thể đọc hiểu tâm ý của chủ nhân. Nó chớp đôi mắt mèo rồi lao ra khỏi khách điếm, đi liền mấy ngày trong hoàng cung để thăm dò đường lối, tìm hiểu rõ quy luạt sinh hoạt của Thái hậu. Cũng không rõ làm sao con mèo nghĩ được một quỷ kế, nhân đêm khuya trăng lu gió lớn, nó trộm đâu được quả pháo hoa, ngậm vào moomg. Sau đó, con mèo nhân trời tối lẻn vào hoàng cung, tìm đến cung điện của Thái hậu. Nhìn trộm thấy lão Thái hậu đang ngủ, bọn cung nữ bưng đèn bên ngoài cũng đang gà gật, nó liền rùn mình lọt vào, tiến lại gần ngọn đèn trong cung, châm ngì pháo, rồi trốn vào góc tối, nằm im không nhúc nhích.
Giữa đêm khuya, trong hoàng cung đột nhiên vàng động tiếng pháo nổ đùng đùng khiến Thái hậu nương nương và đám cung nữ khiếp sợ tới mức hồn bya phách lạc, lăn lê bò toài tìm chỗ ẩn nấp. Tất cả đều không rõ chuyện gì, tưởng có người hành thích hoặc trời giáng tai ương, sấm sét đánh vào cung, liền hoảng hốt hô hoán thị vệ tới cứu giá.
trong lúc vội vã, lão Thái hậu cũng không quên viên Dạ minh châu, liền sai đám cung nữ dìu đến chiếc giường, lấy ra cái hộp báu trong ngăn bí mật mở ra xem. trong phút chốc cả phòng liền tràn ngập trong ánh sáng rực rỡ. Lão Thái hậu thấy viên Dạ minh châu chưa nhân lúc trời giáng sấm sét mà bay về trời, lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, trong lòng cũng yên tâm phần nào.
Chẳng ngờ, con mèo khoang bốn tia nấp sau cột đã nhìn rõ, liền như tên cung lao vọt ra khỏi bóng tối, mở miệng đớp ngay viên Dạ minh châu trên tay Thái hậu rồi lật mình bỏ chạy, đúng là: "Đến, đi như gió giật; Ẩn, hiện tựa như tia chớp". Loáng một cái con mèo đã chạy mất tăm mất tích trong điện chỉ còn trơ ra Thái hậu và đám cung nữ trợn tròn mắt há hốc mồm.
Con mèo khoang cướp đường trốn được, nhưng không thuộc đường trong hoàng cung lắm, đành cắm đầu cắm cổ trèo tường, vượt điện chạy thẳng theo một hướng. Thị vệ trong cung tuy đông nhưng đang vội hộ giá, truy lùng thích khách, ai biết đâu mà bắt một con mèo hoang?
Đến lúc này chợt xảy ra một việc. Con mèo khoang bốn tai chạy trốn lung tung, rốt cuộc chạy nhắm đến bên ngoài tẩm cung của Hoàng đế. Thời bấy giờ, các thứ dị thuật rất thịnh hành, trong đám ngự tiền thị vệ hộ giá, có một cao thủ địa nội tinh thông kiếm thuật. Người đó thoáng thấy ở đầu tường cách chỗ mình không xa có một bóng đne vút qua nhanh như gió, hơn nữa lại thấy thoáng một vật lóe sáng, dường như là một con mèo khoang to ngậm viên Dạ kinh châu, ya thấy sự tình kì quái, liền phóng kiếm truy sát.
Cũng may là mèo thần bốn tai nhanh nhạy cảnh giác, thấy một luồng gió lạnh ập đến, biết chuyện chẳng lành, bèn né tránh rất nhanh, nhưng cũng bị lưỡi kiếm hớt mất một tai và nửa mảng da đầu. Vết thương không nhẹ, máu chảy như suối, nhờ vào thân thể nhanh nhẹn mới có thể chạy trối chết thoát ra.
Đàm đạo nhân không biết tiếng mèo, không nghe được con mèo khoang 4 tai thuật lại sự tình, về sau nghe ngóng thăm dò chuyện hoàng cung mất trộm mới đoán ra đầu đuôi, không khỏi lấy làm ân hận. Ông ta với mèo khoang bốn tia tình như huynh đệ, nhiều năm nay, người và vật như hình với bóng. Chỉ vì hư danh làm lụy, nhất thời tức khí quyết đoạt báu vật trong hòang cung mà suýt nữa đã hại chết tính mạng của mèo khoang, giờ nghĩ lại, chút hư danh như phù du ấy thiết để làm gì?
Thế là Đàm đạo nhân không quay về gặp bọn đạo tặc hồ Động Đình nữa, tiện tay đem viên dại minh châu do mèo khoang bốn tai trộm về quăng xuống sông. Để lẩn tránh quan phủ truy nã, ông ta không hành nghề ăn trộm nữa, chỉ đi bán miêu nhi dược trị nan y tạp chứng sống qua ngày. Chẳng bao lêu sau, ông mai danh ẩn tích, lưu lạc giang hồ, vân du tứ hải, khong rõ kết cục ra sao.
Bách tính Linh Châu cảm công đức lấy của người giàu chia cho người nghèo của Đàm đạo nhân, liền dựng một ngôi từ đường để cúng tế, nhưng sợ quan phủ biết được, không dàm nói thẳng là thờ thần trộm Đàm đạo nhân nên nói tránh là thờ Miêu tiên gia, lâu dần trở thành phong tục cúng bái Miêu Tiên. Đền thờ rất linh nghiệm khiến các giai thoại đơm ra càng lúc càng nhiều, truyền đi truyền lại một hồi thành ra không thể phân biệt thật giả được nữa.
Mã đại nhân rất hâm mộ sự tích của Đàm đạo nhân, khâm phục thuật lạ có thể sai mèo làm trộm ấy lắm. Thời Ngũ đại có chuyện "dây đỏ trộm hộp" tới nay vẫm được coi là kĩ thuật trộm cắp vô song, nhưng nghĩ lại thì chẳng sánh được với sự thần thông của Đàm đạo nhân, chỉ tiếc rằng, quan phủ thời bấy giờ không ai biết được dị thuật kia để đến nỗi ông ta phải trà trộn trong đám thảo khấu giang hồ, tài ấy mà không dùng vào việc công, đem bản lĩnh đó để dò la tình hình giúp cho quan quân đoạt doanh cướp trại thì có lẽ đã lập nên công trạng xuất chúng rồi.
Mã đại nhân là người có chí lớn, định bụng nhân loạn Việt khấu tỏ rõ bản lĩnh chân thực của mình hòng được triều đình trọng dụng. Tính lão rất kiên nhẫn, xưa nay thông hiểu việc quân cơ, mấy năm gần đây lậ doanh luyện lính ở Linh Châu giáo chiến với ác liệt với Việt khấu mấy trận, hai bên có thắng có thua nhưng lão dần hiểu ra cái lẽ một cây làm chẳng nên non, vì vậy đã ra sức thu dụng kì nhân dị sĩ khắp nơi, không phân biệt cao thấp sang hèn.
Hơn nữa sau khi bắt được hòa thượng Chuột trong Hòe viên, Mã đại nhân mới phát hiện ra rằng, trong đại hạt Linh Châu còn có nhiều gian đảng của phái Tạo Súc hoạt động, xem ra bọn chúng đang có mưu đồ bất chính, muốn cướp ngân khố của triều đình. bọn này hành tung bí ẩn, thủ đoạn khác thường, không thể dùng cách thông thường để điều tra được. Chính vì vậy, Mã đại nhân định mua chuộc Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử, một là coi trọng bản lĩnh xem hình đoán vật của họ Trương, hai là thấy hia tên này đầy vẻ lưu manh, không giopongs người nàh quan đi làm việc công, mồm mép lại nhanh nhảu, bụng dạ nhạy bén, phái bọn hắn đi dò là tin tức hoặc bí mật theo dõi thì dễ qua mắt được thiên hạ. Do đó lão mới phá lệ cất nhắc hai tên làm chức đầu mục trong nha môn, đồng thời phái một tên công sai nhanh tay nhanh mắt cho hai tên tùy ý sai bảo, chuyên đi thu thập manh mối đám đồng đảng cảu hòa thường CHuột.
Trương Tiểu Biện chỉ cần được tha tính mạng thì đã luôn mồm cầu giời khấn Phật rồi. Hắn không thể ngờ mình đã liên lụy vào cái án tày trời này, chẳng những không bị mảy may trách phạt mà còn được cất nhắc làm một chức bổ khoái chuyên bắt bớ trộm cắp. Những chuyện ngày trước thôi cho qua, nhưng xét thời bây giờ, đang lúc thiên hạ đại loạn, giặc cướp hoành hành, nói gì đến vương pháp của nàh quan, đến tổng đốc trọng thần còn bị kẻ cướp chặt đầu, huống chi cái bản lĩnh nhỏ bé của mình? Muốn đứng giữa hia dòng hắc bạch thì quả thực rất là khó, chỉ hơi sơ sảy là đi đời cái mạng nhỏ ngay.
Mặc dù vậy, thấy Mã đại nhân là người có thủ đoạn tàn độc, Trương Tiểu Biện nào dàm không tuân theo. Hắn ngầm ngầm tính toán, chi bằng cứ ngộ biến tùng quyền, tạm thời nhận lời, sau này có cơ hội sẽ chuồn khỏi thành. Thời này đúng là
: "Chiến chinh thiên hạ rối bời; Khác nào hào kiệt đang chơi cuộc cờ". Trong cục thế ấy, việc thắng thua thành bại cướp di không biết boa nhiêu sinh linh vô tội, Trương Tam gia hắn là hạng cùng đinh, chỉ mong tới sự giàu sang chứ chưa từng nghĩ tới việc tham dự sự nghiệp anh hùng gì cả, càng không muốn trở thành quân cờ hay con chó trogn tay quan phủ.
Mã đại nhân nhìn thấu tâm tư của hắn, biết hia tên tiểu tửu này đều là đám thảo mãng, xuất thân nơi đầu đường xó chợ, phải dùng lời trung nghĩa thuyết phục hoặc hứa hẹn mối hời mới lung lạc được chúng. Lão liền nói: "Trước đây triều đình kén chọn hiền tài vẫn thường coi trọng kẻ xuất thân khoa cử nhất, ngoài ra nhưng người có ngón nghề khác như các ngươi đều không được trọng dụng. Cách làm ngặt nghèo như vậy đã làm mai một không biết bao nhiêu kẻ sĩ có ý lạ mưu hay. tới nay khi Việt khấu làm loạn, chính là lúc triều đình cần người. Các người đều có chút bản lĩnh, hà tất phải cam lòng chìm đắm trong đám bình dân dung tục, rốt cuộc đều nát cùng cỏ cây mà thôi. Thế gian dẫu có cung bắn điêu, kiếm giết rồng nhưng cũng cần phải có người sử dụng mới phát huy tác dụng được. Số mệnh các ngươi coi như có quý nhân phù trợ rồi, bản quan là người biết ngọc trong đá, thấy các ngươi quả nhiên có chút đảm lược, có thể châm chước đề bạt để dùng, vì vậy mới có ý cân nhắc cho các ngươi phen này. Chỉ cần các ngươi tiêu diệt hết đám yêu đồ Tạo Súc thì ta sẽ không tiếc càng bạc khen thưởng"
Tôn ĐẠi MA Tử vốn thẳng tính, tính những việc mạnh mẽ, tự cho mình là hảo hán. Gã nghe Mã đại nhân nói thế, liền dấy lên lòng hiệp nghĩa, vội quỳ xuống vái: "Lũ nghiệt đồ Tạo Súc ấy lẽ trời chẳng dung, nếu đã là việc nghĩa cử thay trời hành đạo, vì dân trừ bạo thì Tôn Đại Ma Tử tôi xin nghe quan gia sai bảo, nguyện liều chết đánh giặc"
Trương Tiểu Biện lại nghĩ: "Chưa biết rõ lão đại nhân là người biết ngọc trong đá hay chỉ alf mắt trâu biết cỏ, chẳng biết thế nào lại ngắm vào bản lĩnh xem tướng của trương tam gia ta? Nhưng bây giờ tốt nhất là chớ rượu mời không uống, uống rượu phạt, cứ tìm cách nhận thưởng của quan phủ đã, tới lúc thấy tình hình không ổn, tam gia ta tìm cách thoát thân cũng không muộn."Quyết ý như thế, hắn bèn cùng Tôn Đại Ma Tử nhân chức làm bổ khoái.
ĐÚng là: "Những toan giết giặc lập công; Mượn tay bắt hổ trói rồng mới nên" Muốn biết sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi thứ 1: Đàm đạo nhân
Lại nói, tuần phủ Mã đại nhân là người từng trải việc quan, long ôm thao lược, bụng có mưu hay, hơn nữa còn có nhãn quang phi thường, nhìn xa trông rộng, khi gặp việc thì tùy cơ quyết định. Sau khi thẩm vấn xong, lão sợ đêm dài lắm mộng, bèn quyết định phải mau chóng xử trí, bèn hạ lệnh cho thủ hạ đem hào thường Chuột ta cắt đứt gân chân gân tay, dung khóa sắt xuyên qua xương tỳ bà, bắt đeo gong nặng, tống vào tử lao, sai ngục tốt cho ăn uống tử tế, đồng thời hạ lệnh phong tỏa tin tức, dự định trong ba ngày sẽ giải ra chợ lăng trì.
Đoạn Mã đại nhân sai người đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào hậu đường, cởi dây trói, cho uống rượu áp kinh rồi hỏi han cặn kẽ. Mã đại nhân vốn là người biết dùng người, hiểu rõ rằng trong thiên hạ này, ngắn cũng có sở trường, dài cũng có sở đoản, cái nào cũng có chỗ dùng đến, ngay trong đám giả tiếng gà, ăn trộm chó cũng có lúc trở thành kì tài.
Khi biết Trương Tiểu Biện hiểu thuật xem tướng mèo thời xưa, Mã đại nhân đột nhiên nhớ ra một chuyện. Linh Châu trước nay có phong tục thờ Miêu tiên gia, nhưng nhiều người không biết được lai lịch của ngài, cho dù có biết thì cũng chỉ là lời đồn đại nơi đầu đường xó chợ, vị tất đã đúng sự thật. tổ tiên của lão lúc chưa phát tích từng làm thảo khấu, kết giao với đạo tặc trong thiên hạ, vì vậy rất rõ căn dơ của câu chuyện này.
Kỳ thực miêu tiên gia hồi đó không phải là đạo sĩ tiên cơ gì cả, mà chẳng qua chỉ là một tên trộm lành nghề chuyên trèo tường leo vách mà thôi. Vị thần ăn trộm này xuất thân từ một nhà dòng dõi đất Linh Châu, thường dắt theo con mèo khoang bốn tai, chuyên di ăn trộm những nhà giàu có bất nhân chia cho người nghèo, cứu khổ tế bần. Thủ đoạn của người này hết sức cao minh, đa phần đều là diệu thuật thần kì mà người thường khó tưởng tượng nổi, chợt đến chợt đi không để lại dấu vết, đến đám quan quân bổ khoái cũng không làm gì được.
Vị thần trộm này họ Đàm, ngày thường chỉ xuất hiện dưới bộ dạng đạo sĩ rách rưới đi khắp hang cùng ngõ hẻm bán thuốc đạo, vì vậy người ta gọi là Đàm đạo nhân. ông ta từ nhỏ đã hiểu thuật xem tướng mèo, khi đi trộm vàng cắp bạc ở khắp nơi đều nhờ vào con mèo khoang bốn tai mang theo bên mình. Con mèo này tinh nhanh phi phàm, giỏi trèo tường khoét vách. Các nhà phú hộ ngày xưa đều xây kín cổng cao tường, ngoài bọn gia đinh đi tuần còn nuôi nhiều chó dữ, hễ thấy có tiếng người đánh động là chúng sẽ xổ ra cắn xé. Mặc dù vậy tất cả đều bị Đàm đạo nhân qua mặt.
Đàm đạo nhân không phải là kẻ độc lai độc vãng. Đồng bọn của ông ta rất đông, vì ông ta là thủ lĩnh của đám trộm cắp thành Linh Châu. Phường trộm thường ẩn hiện trong đêm, mặc y phục dạ hành, đế giày bện rơm cỏ để đi không có tiếng động, trên mawyj che kín, miệng ngậm tăm để tránh cất tiếng nói.
Sau khi ngầm lẻn đến đúng tòa nhà định gây án, cả bọn phục ở chân tường không nhúc nhích, Đàm đạo nhân tóm gáy con mèo bốn tai, nhắm vào đầu tường rồi ném lên. Con mèo giặc đó nhẹ nhàng linh hoạt vô cùng, vừa chạm vào tường liền thò móng vuốt bám chặt không một tiếng động, sau đó mượn lực, uốn mạnh nảy vọt qua bờ tường cao.
Con mèo khoang bốn tai vào đến bên trong liền dụ đám chó dữ canh cửa sang một phía, lừa cho chúng ăn thuốc mê,. Lũ chó ăn phải thuốc mê xong, mèo khoang ta liền lên đến cửa sau, dùng móng vuốt rút then cửa để cả bọn vào khoắng vàng bạc, đồ đạc. Đàm đạo nhân nhờ vào ngón nghề đó mà gây ra rất nhiều đại án, chưa lần nào sa cơ.
Mạc dù vậy ông ta cũng có lúc thất bại. Đó là lần ĐÀm đạo nhân uống rượu cùng thủ lĩnh đảng cướp hồ Động Đình. Khi hai người uống say liền xoay sang đánh cược. tên thủ lĩnh nói rằng, thiên hạ đều hết sức khâm phục Đàm công có kĩ thuật thần diệu, lấy bảo vật như lấy đồ trong túi, nhưng dẫu cho ông có tài bằng trời cũng chưa chắc lấy được một vật. Nghe đồn trong Hoàng cung đại nội có một viên ngọc dạ quang do Phiên quốc tiến cống, to như mật tông, tinh khí sáng ngọt, trong đêm trông rạng rỡ như đèn, chiếu xa ngoài trăm bước. Viên ngọc đó là báu vât cảu hoàng hia, xưa nay vẫn cất giấu ở chỗ Thái hậu, đến Hoàng đế cũng không biết chính xác ở đâu. Nếu đàm đạo nhân có thể giở thủ đoạn lấy được viên minh châu đó cho cả bọn mở rộng tầm mắt, thì đám thảo khấu, trộm cướp trong khắp tứ hải ngũ hồ chúng ta sẽ nhất loạt tôn Đàm công thành "Đạo trung Bắc đẩu"(Bậc Thái sơn Bắc đẩu trong đám trộm cướp)
Kỳ thực đây cũng chỉ là lời nói vui trong bữa rượu nhưng Đàm đạo nhân vốn tính hiếu thắng, muốn tỏ ra hơn phân đấm đạo tặc ở hồ Động Đình, liền chẳng nói chẳng rằng, một mình ôm con mèo khoang bốn tai đi đền hoàng cung. Thời gian đó vào đúng lễ hội hoa đăng tết Nguyên tiêu, Hoàng thượng đưa Thái hậu xuất cung để thưởng đèn, bách tính chen vai thích cánh, tranh nhau ngắm mặt rồng. Đàm đạo nhân cùng con mèo khoang bốn tai ẩn mình trong đám đông, nhìn kĩ dung mạo của Thái hậu. Song, lúc ấy cấm quân đại nội phong cành nghiêm ngặt, dẫu ông ta to gan tày trời cũng không dám xông vào cướp ngọc, đành rập đầu trước con mèo thần bốn tai, cầu mong nó lẻn vào cung trộm Dạ minh châu để được mở mày mở mặt với đám thảo khấu Động Đình.
Con mèo khoang bốn tai ấy có trái tim có cửu khiếu, cự kì thông linh, có thể đọc hiểu tâm ý của chủ nhân. Nó chớp đôi mắt mèo rồi lao ra khỏi khách điếm, đi liền mấy ngày trong hoàng cung để thăm dò đường lối, tìm hiểu rõ quy luạt sinh hoạt của Thái hậu. Cũng không rõ làm sao con mèo nghĩ được một quỷ kế, nhân đêm khuya trăng lu gió lớn, nó trộm đâu được quả pháo hoa, ngậm vào moomg. Sau đó, con mèo nhân trời tối lẻn vào hoàng cung, tìm đến cung điện của Thái hậu. Nhìn trộm thấy lão Thái hậu đang ngủ, bọn cung nữ bưng đèn bên ngoài cũng đang gà gật, nó liền rùn mình lọt vào, tiến lại gần ngọn đèn trong cung, châm ngì pháo, rồi trốn vào góc tối, nằm im không nhúc nhích.
Giữa đêm khuya, trong hoàng cung đột nhiên vàng động tiếng pháo nổ đùng đùng khiến Thái hậu nương nương và đám cung nữ khiếp sợ tới mức hồn bya phách lạc, lăn lê bò toài tìm chỗ ẩn nấp. Tất cả đều không rõ chuyện gì, tưởng có người hành thích hoặc trời giáng tai ương, sấm sét đánh vào cung, liền hoảng hốt hô hoán thị vệ tới cứu giá.
trong lúc vội vã, lão Thái hậu cũng không quên viên Dạ minh châu, liền sai đám cung nữ dìu đến chiếc giường, lấy ra cái hộp báu trong ngăn bí mật mở ra xem. trong phút chốc cả phòng liền tràn ngập trong ánh sáng rực rỡ. Lão Thái hậu thấy viên Dạ minh châu chưa nhân lúc trời giáng sấm sét mà bay về trời, lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, trong lòng cũng yên tâm phần nào.
Chẳng ngờ, con mèo khoang bốn tia nấp sau cột đã nhìn rõ, liền như tên cung lao vọt ra khỏi bóng tối, mở miệng đớp ngay viên Dạ minh châu trên tay Thái hậu rồi lật mình bỏ chạy, đúng là: "Đến, đi như gió giật; Ẩn, hiện tựa như tia chớp". Loáng một cái con mèo đã chạy mất tăm mất tích trong điện chỉ còn trơ ra Thái hậu và đám cung nữ trợn tròn mắt há hốc mồm.
Con mèo khoang cướp đường trốn được, nhưng không thuộc đường trong hoàng cung lắm, đành cắm đầu cắm cổ trèo tường, vượt điện chạy thẳng theo một hướng. Thị vệ trong cung tuy đông nhưng đang vội hộ giá, truy lùng thích khách, ai biết đâu mà bắt một con mèo hoang?
Đến lúc này chợt xảy ra một việc. Con mèo khoang bốn tai chạy trốn lung tung, rốt cuộc chạy nhắm đến bên ngoài tẩm cung của Hoàng đế. Thời bấy giờ, các thứ dị thuật rất thịnh hành, trong đám ngự tiền thị vệ hộ giá, có một cao thủ địa nội tinh thông kiếm thuật. Người đó thoáng thấy ở đầu tường cách chỗ mình không xa có một bóng đne vút qua nhanh như gió, hơn nữa lại thấy thoáng một vật lóe sáng, dường như là một con mèo khoang to ngậm viên Dạ kinh châu, ya thấy sự tình kì quái, liền phóng kiếm truy sát.
Cũng may là mèo thần bốn tai nhanh nhạy cảnh giác, thấy một luồng gió lạnh ập đến, biết chuyện chẳng lành, bèn né tránh rất nhanh, nhưng cũng bị lưỡi kiếm hớt mất một tai và nửa mảng da đầu. Vết thương không nhẹ, máu chảy như suối, nhờ vào thân thể nhanh nhẹn mới có thể chạy trối chết thoát ra.
Đàm đạo nhân không biết tiếng mèo, không nghe được con mèo khoang 4 tai thuật lại sự tình, về sau nghe ngóng thăm dò chuyện hoàng cung mất trộm mới đoán ra đầu đuôi, không khỏi lấy làm ân hận. Ông ta với mèo khoang bốn tia tình như huynh đệ, nhiều năm nay, người và vật như hình với bóng. Chỉ vì hư danh làm lụy, nhất thời tức khí quyết đoạt báu vật trong hòang cung mà suýt nữa đã hại chết tính mạng của mèo khoang, giờ nghĩ lại, chút hư danh như phù du ấy thiết để làm gì?
Thế là Đàm đạo nhân không quay về gặp bọn đạo tặc hồ Động Đình nữa, tiện tay đem viên dại minh châu do mèo khoang bốn tai trộm về quăng xuống sông. Để lẩn tránh quan phủ truy nã, ông ta không hành nghề ăn trộm nữa, chỉ đi bán miêu nhi dược trị nan y tạp chứng sống qua ngày. Chẳng bao lêu sau, ông mai danh ẩn tích, lưu lạc giang hồ, vân du tứ hải, khong rõ kết cục ra sao.
Bách tính Linh Châu cảm công đức lấy của người giàu chia cho người nghèo của Đàm đạo nhân, liền dựng một ngôi từ đường để cúng tế, nhưng sợ quan phủ biết được, không dàm nói thẳng là thờ thần trộm Đàm đạo nhân nên nói tránh là thờ Miêu tiên gia, lâu dần trở thành phong tục cúng bái Miêu Tiên. Đền thờ rất linh nghiệm khiến các giai thoại đơm ra càng lúc càng nhiều, truyền đi truyền lại một hồi thành ra không thể phân biệt thật giả được nữa.
Mã đại nhân rất hâm mộ sự tích của Đàm đạo nhân, khâm phục thuật lạ có thể sai mèo làm trộm ấy lắm. Thời Ngũ đại có chuyện "dây đỏ trộm hộp" tới nay vẫm được coi là kĩ thuật trộm cắp vô song, nhưng nghĩ lại thì chẳng sánh được với sự thần thông của Đàm đạo nhân, chỉ tiếc rằng, quan phủ thời bấy giờ không ai biết được dị thuật kia để đến nỗi ông ta phải trà trộn trong đám thảo khấu giang hồ, tài ấy mà không dùng vào việc công, đem bản lĩnh đó để dò la tình hình giúp cho quan quân đoạt doanh cướp trại thì có lẽ đã lập nên công trạng xuất chúng rồi.
Mã đại nhân là người có chí lớn, định bụng nhân loạn Việt khấu tỏ rõ bản lĩnh chân thực của mình hòng được triều đình trọng dụng. Tính lão rất kiên nhẫn, xưa nay thông hiểu việc quân cơ, mấy năm gần đây lậ doanh luyện lính ở Linh Châu giáo chiến với ác liệt với Việt khấu mấy trận, hai bên có thắng có thua nhưng lão dần hiểu ra cái lẽ một cây làm chẳng nên non, vì vậy đã ra sức thu dụng kì nhân dị sĩ khắp nơi, không phân biệt cao thấp sang hèn.
Hơn nữa sau khi bắt được hòa thượng Chuột trong Hòe viên, Mã đại nhân mới phát hiện ra rằng, trong đại hạt Linh Châu còn có nhiều gian đảng của phái Tạo Súc hoạt động, xem ra bọn chúng đang có mưu đồ bất chính, muốn cướp ngân khố của triều đình. bọn này hành tung bí ẩn, thủ đoạn khác thường, không thể dùng cách thông thường để điều tra được. Chính vì vậy, Mã đại nhân định mua chuộc Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử, một là coi trọng bản lĩnh xem hình đoán vật của họ Trương, hai là thấy hia tên này đầy vẻ lưu manh, không giopongs người nàh quan đi làm việc công, mồm mép lại nhanh nhảu, bụng dạ nhạy bén, phái bọn hắn đi dò là tin tức hoặc bí mật theo dõi thì dễ qua mắt được thiên hạ. Do đó lão mới phá lệ cất nhắc hai tên làm chức đầu mục trong nha môn, đồng thời phái một tên công sai nhanh tay nhanh mắt cho hai tên tùy ý sai bảo, chuyên đi thu thập manh mối đám đồng đảng cảu hòa thường CHuột.
Trương Tiểu Biện chỉ cần được tha tính mạng thì đã luôn mồm cầu giời khấn Phật rồi. Hắn không thể ngờ mình đã liên lụy vào cái án tày trời này, chẳng những không bị mảy may trách phạt mà còn được cất nhắc làm một chức bổ khoái chuyên bắt bớ trộm cắp. Những chuyện ngày trước thôi cho qua, nhưng xét thời bây giờ, đang lúc thiên hạ đại loạn, giặc cướp hoành hành, nói gì đến vương pháp của nàh quan, đến tổng đốc trọng thần còn bị kẻ cướp chặt đầu, huống chi cái bản lĩnh nhỏ bé của mình? Muốn đứng giữa hia dòng hắc bạch thì quả thực rất là khó, chỉ hơi sơ sảy là đi đời cái mạng nhỏ ngay.
Mặc dù vậy, thấy Mã đại nhân là người có thủ đoạn tàn độc, Trương Tiểu Biện nào dàm không tuân theo. Hắn ngầm ngầm tính toán, chi bằng cứ ngộ biến tùng quyền, tạm thời nhận lời, sau này có cơ hội sẽ chuồn khỏi thành. Thời này đúng là
: "Chiến chinh thiên hạ rối bời; Khác nào hào kiệt đang chơi cuộc cờ". Trong cục thế ấy, việc thắng thua thành bại cướp di không biết boa nhiêu sinh linh vô tội, Trương Tam gia hắn là hạng cùng đinh, chỉ mong tới sự giàu sang chứ chưa từng nghĩ tới việc tham dự sự nghiệp anh hùng gì cả, càng không muốn trở thành quân cờ hay con chó trogn tay quan phủ.
Mã đại nhân nhìn thấu tâm tư của hắn, biết hia tên tiểu tửu này đều là đám thảo mãng, xuất thân nơi đầu đường xó chợ, phải dùng lời trung nghĩa thuyết phục hoặc hứa hẹn mối hời mới lung lạc được chúng. Lão liền nói: "Trước đây triều đình kén chọn hiền tài vẫn thường coi trọng kẻ xuất thân khoa cử nhất, ngoài ra nhưng người có ngón nghề khác như các ngươi đều không được trọng dụng. Cách làm ngặt nghèo như vậy đã làm mai một không biết bao nhiêu kẻ sĩ có ý lạ mưu hay. tới nay khi Việt khấu làm loạn, chính là lúc triều đình cần người. Các người đều có chút bản lĩnh, hà tất phải cam lòng chìm đắm trong đám bình dân dung tục, rốt cuộc đều nát cùng cỏ cây mà thôi. Thế gian dẫu có cung bắn điêu, kiếm giết rồng nhưng cũng cần phải có người sử dụng mới phát huy tác dụng được. Số mệnh các ngươi coi như có quý nhân phù trợ rồi, bản quan là người biết ngọc trong đá, thấy các ngươi quả nhiên có chút đảm lược, có thể châm chước đề bạt để dùng, vì vậy mới có ý cân nhắc cho các ngươi phen này. Chỉ cần các ngươi tiêu diệt hết đám yêu đồ Tạo Súc thì ta sẽ không tiếc càng bạc khen thưởng"
Tôn ĐẠi MA Tử vốn thẳng tính, tính những việc mạnh mẽ, tự cho mình là hảo hán. Gã nghe Mã đại nhân nói thế, liền dấy lên lòng hiệp nghĩa, vội quỳ xuống vái: "Lũ nghiệt đồ Tạo Súc ấy lẽ trời chẳng dung, nếu đã là việc nghĩa cử thay trời hành đạo, vì dân trừ bạo thì Tôn Đại Ma Tử tôi xin nghe quan gia sai bảo, nguyện liều chết đánh giặc"
Trương Tiểu Biện lại nghĩ: "Chưa biết rõ lão đại nhân là người biết ngọc trong đá hay chỉ alf mắt trâu biết cỏ, chẳng biết thế nào lại ngắm vào bản lĩnh xem tướng của trương tam gia ta? Nhưng bây giờ tốt nhất là chớ rượu mời không uống, uống rượu phạt, cứ tìm cách nhận thưởng của quan phủ đã, tới lúc thấy tình hình không ổn, tam gia ta tìm cách thoát thân cũng không muộn."Quyết ý như thế, hắn bèn cùng Tôn Đại Ma Tử nhân chức làm bổ khoái.
ĐÚng là: "Những toan giết giặc lập công; Mượn tay bắt hổ trói rồng mới nên" Muốn biết sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.