Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Tặc Miêu - Quyển 02 - Chương 10
Hồi thứ 10: TẠO SÚC
Hồi trước nói đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện vào Bát Tiên lâu gọi cơm rượu hết sức đắc ý, bỗng một đám công sai hùng hùng hổ hổ xông tới, chẳng nói chẳng rằng đạp cả bọn xuống đất. Con mèo đen bên cạnh thấy tình thế không hay, đớp ngay một con cá chép chua ngọt trên mặt bàn rồi lủi ra ngoài như gió, biến mất tăm mất tích trong ngõ sâu.
Bọn công sai tất nhiên chẳng thèm để ý con mèo ăn vụng cá kia, liền lục soát tại chỗ, lấy ra một bao bạc trắng phớ, tên đầu lĩnh đám công sai liền mắng: "Quân ăn cướp trời đánh, đây là bạc trong phiên khố của triều đình, bây giờ nhân chứng vật chứng đầy đủ, còn gì để nói nữa?" Nói đoạn hắn liền lập tức ra lệnh cho bọn thủ hạ trói nghiến bọn Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng lại, giải về tống vào lao, đợi quan gia xử trị.
Trương Tiểu Biện vốn tưởng được Lâm Trung Lão Quỷ mách cho một món phú quý, ngỡ là vật vô chủ, trước giờ chưa từng tìm hiểu kỹ lai lịch đống ngân lượng trong thành Đũa. Cả đời hắn, đến bạc vụn còn chưa được cầm vào tay, nói chi đến đĩnh bạc có đúc dấu của công khố, đâu ngờ lại rước phải cái họa tày trời này? Tới khi tên đầu lĩnh nói ra, hắn mới vỡ lẽ giật mình như người tỉnh mộng, hối hận cũng không kịp, bụng bảo dạ lần này đúng là tự mình dẫn lửa thiêu thân, vạn kiếp không ngóc đầu dậy được nữa, thực đúng là: " Sục sôi muôn ý trong đầu, thảy đều nguội lạnh trước gàu nước băng". Muôn ý niệm đều tiêu tan, trong long cũng không quên chửi rủa tổ tong mười tám đời nhà Lâm Trung Lão Quỷ.
Quý vị độc giả hẳn từng nghe, thành Linh Châu vốn là đầu mối giao thong trọng yếu của hai đường thủy bộ, lại là nơi thương lái hai miền Nam Bắc lưu thông hàng hóa tiền bạc, từ đầu đời nhà Thanh đã thành lập các phiên khố, toàn bộ tiền thuế tiền lương của hai tỉnh miền Nam Trường Giang đều chứa trong kho này, đợi tới khi đủ hạn số nhất định sẽ chuyển về Kinh thành. Con đường nơi đóng phiên khố ở thành Linh Châu tên là phố Ngân Phòng, có nhiều thợ bạc sống ở đó.
Tiền thu được thường là hào, cắc và bạc lẻ, khi nhập vào phiên khố cần phải đúc lại thành đĩnh. Bởi vùng Giang nam giàu có, lắm tiền nhiều của, các hạng thuế thu ở đây chính là tính mạng của triều đình, bởi vậy việc phòng vệ vô cùng nghiêm ngặt. Tường kho luôn có hay lớp dày chắc dị thường gọi là " Hổ tường", đồng thời đặt thêm cửa đồng vách sắt, mấy lớp khóa nặng, lại phái một tốp quan binh chuyên giữ kho.
Từ khi Thái Bình quân khởi sự ở mạn Quế Tây, Việt Đông, đánh ngược lên phía Bắc, thế mạnh như chẻ tre, các thành trấn quan trọng ở phía nam Linh Châu đều bị Việt khấu chiếm giữ. Các lộ binh mã hình thành thế bao vây hợp công Linh Châu, một lượng lớn tiền thuế trong phiên khố Linh Châu không kịp chuyển đi, để lại trong thành cùng với quân dân.
Thành Linh Châu từ xưa đã là vùng đất binh gia tranh giành, nên thành cao hào sâu, vững như bàn thạch, hơn nữa lái buôn trong thành rất nhiều, những người này đều không tiếc của cải, xuất tiền xuất lương giúp đỡ triều đình chiêu mộ lính dõng; trong thành cũng có rất nhiều súng Tây, pháo Tây, hỏa khí chẳng những nhiều vô kể mà còn hết sức hiện đại, Thái Bình quân tiến đánh mấy lần đều không thành. Nhưng cấc thủ lĩnh Thái Bình quân cũng đều biết trong thành Linh Châu có phiên khố, tiền bạc nhiều vô kể nên mấy trận trước tuy hao tổn không ít người ngựa song vẫn cố chiếm bằng được, có thể kéo quân tiến đánh bất cứ lúc nào.
Cũng bởi bạc trong kho thành Linh Châu quá nhiều, khó tránh khỏi có lắm kẻ động lòng tham, không chỉ có Việt khấu muốn tranh đoạt mà bọn trộm cướp phi tặc cũng muốn thừa lúc loạn lạc để vơ vét một mẻ, đám người này hoặc kết thành từng đám năm ba tên, hoặc độc lai độc vãng, hành tung xuất quỷ nhập thần, rất khó đề phòng. Để bảo vệ ngân khố, quan phủ đã phái binh lính tuần tra ngày đêm, đặt vô số gác canh trên phố Ngân Phòng. Thời loạn thì luật lệ càng phải chặt chẽ, hễ bắt được tên nào có ý định trộm bạc là quan phủ cho lăng trì bêu đầu, giết một để răn mười, quyết không khoan dung.
Trông coi đã nghiêm cẩn đến vậy mà gần đây bạc trong kho cứ liên tục biến mất. Lạ ở chỗ Hổ tường cao ngất, khóa sắt y nguyên, không hiểu là bọn giặc phương nào, dùng thủ đoạn thần thông gì mà qua mặt được bao nhiêu quan binh canh giữ, trộm đi bạc trắng trong khố mà chẳng để lại mảy may dấu vết.
Việc kho bạc bị mất trộm hết sức nghiêm trọng, quan phủ mất ăn mất ngủ, phàm là người ra vào khỏi thành đều bị tra xét rất nghiêm ngặt, đề phòng bọn trộm chuyển bạc đi, đồng thời đặt hạn kỳ, lệnh cho đám bổ khoái ở nha môn phải tróc nã cho được tên tặc nhân, tìm lại số bạc bị mất, bằng không sẽ liên lụy cả nhà. Xưa nay vẫn có câu " quan cướp một nhà", đám công sai bộ đầu vẫn thường câu kết với lũ trộm cướp cường đạo trong thành, quan nuôi dưỡng cướp, vì vậy tai mắt rất rộng, chỉ cần gió hơi lay, cây hơi động là đám ấy dò la ra được ngay. Hơn nữa, tai mắt bọn công sai cực nhạy, chúng tìm bắt mấy tên cưới chẳng khác gì mèo tìm chuột, chỉ cần đánh hơi thấy động một cái là tìm ra được ngay.
Ấy vậy mà đã trăm phương nghìn kế tìm tòi tra xét, vụ án lớn tày trời này không ngờ vẫn không có chút manh mối nào, đành phải bắt bừa mấy tên giặc cỏ cho đủ số, tuy đã bức cung đánh đập, bắt bọn kia khai nhận rồi, nhưng kho bạc vẫn tiếp tục bị mất trộm, thử hỏi phải ăn nói thế nào với quan trên được đây.
Đám công sai đang cuống quýt chưa biết làm thế nào, bỗng tên đầu lĩnh đám bộ khoái trong nha môn nghe phong thanh ở tiệm y phục nọ, có người dùng bạc đúc đĩnh lớn mua quần áo, dưới đáy đĩnh bạc có đúc dấy ấn của phiên khố Lĩnh Châu, thám tử đã nhìn rất rõ ràng, không thể sai trật được. Y liền lập tức bủa người đi khắp nẻo, cuối cùng bắt được cả đám ở Bát Tiên lâu.
Linh Châu vốn là một châu thuộc tỉnh Trực Lệ, nhưng vì những thành trấn phụ cận đã bị Việt khấu công hãm nên các quan viên trong tỉnh đều đã chuyển nhà, thêm vào đó là yêu cầu của thời chiến, vì vậy các đạo, các ty, thậm chí các cơ quan đầu não của toàn tỉnh như nha môn Đề đốc và nha môn Tuần phủ đều tập trung trong thành. Hiện tại, thành Linh Châu có cả Đề đốc và Tuần phủ. Giờ thì đám quan lại địa phương may mắn còn sống sót phải ra sức mà hiệp trợ Tuần phủ Mã THiên Tích trù bị tiền bạc lương thảo, chiêu mộ lính dõng để thủ thành. Việc mất trộm phiên khố đã sớm kinh động đến triều đình, Tuần phủ Mã đại nhân nghe tin bắt được phi tặc, liền không dám chậm trễ, đích thân cùng hữu ty thẩm vấn cho ra ngọn nguồn vụ án.
Chỉ thấy trên công đường đèn đuốc sáng lòa, bày la liệt các dụng cụ tra tấn, tiếng trống nha môn vang lên thùng thunfgm nha sai xếp hai hàng, đúng là " Uy nghiêm còn quá Diêm La điện; Khiếp sợ nào thua Đông Nhạc đài". Bọn Trương Tiểu Biện ba người quỳ trên đất thấy thế, mặt xanh như chàm đổ, người mềm như bún, thật là " Có cánh thì cứ thăng thiên; Có móng, độn thổ, chạy liền vào hang. Đã không biết thuật chạy làng; Chớ rước rắc rối cửa quan công đường."
Trương Tiểu Biện biết chuyện rất nghiêm trọng, đến nước này chỉ còn cách cố sức thanh minh mà thôi. Hắn quen thói lựa gió đưa thuyền, không đợi Mã đại nhân lên tiếng, đã vội nói: " Xin các vị chớ nhọc dùng đến đại hình! Thanh thiên đại lão gia minh giám, chúng tiểu nhân xin không đánh mà tự khai hết."
Mã đại nhân là kẻ già đời, nhiều âm mưu, tính quyết đoán, trước nay nổi tiếng là người giỏi tra khảo thẩm vấn, cũng biết phàm là ấn nặng thì đều phải tra hỏi ba lần bảy lượt, thẩm định kỹ càng mới được. Lão vừa nhìn tướng mạo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử là biết ngay hai tên này chỉ là bọn lưu manh đầu đường xó chợ, nghĩ đến chuyện phiên khố mất bạc, bổ khoái nha môn tra xét nhiều ngày mà không có kết quả, lại chảng phát hiện được manh mối gì, thủ đoạn đó hẳn bọn trộm vặt không thể làm được. Vậy mà ba kẻ quỳ dưới công đường kia đều không quá mười sáu, mười bẩy tuổi, lại còn có một cô ả nhà quê, chỉ dựa vào mấy tên tẹp nhẹp bọn chúng thì sao có thể gây được đại án tày trời thế này? Nhưng đích thực là có soát được trên người chúng có số bạc phiên khố bị mất, xem ra bên trong ắt có uẩn khúc, nhất thiết cần phải tra hỏi cho ngọn ngành mới xong. Nghĩ đoạn, lão liền đập bàn thẩm vấn.
Trương Tiểu Biện hết sức ngoan ngoãn, hỏi một đáp mười, bộ mặt ra vẻ vô tội, kể hết một lượt từ đầu chí cuối. Quy củ nha môn thì hắn biết rõ, đầu tiên phải khai báo tên tuổi xuất thân, nhưng Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử ba người vốn là dân quê nghèo khổ, làm gì có tên có hiệu đâu chứ? Tiểu Phượng lấy theo họ mẹ là bà Vương quả phụ nên gọi là, Vương Tiểu Phượng, Tôn Đại Ma Tử là anh cả trong nhà, từ nhỏ mặt đã đầy mụn nên mới có biệt danh như thế, trước nay cũng không có tên gì khác.
Nguyên quán Trương Tiểu Biện vốn không phải ở làng Kim Quan, mà là con nhà dòng dõi, đời ông tổ từng làm quan trong Kinh thành, về sau gia cảnh suy vi nên mới lưu lạc đến đây. Từ nhỏ, hắn đã được học lễ nghĩa, vốn cũng có tên tuổi đàng hoàng, chỉ vì lúc ấy quá nhỏ nên không nhớ được nhiều, giờ nghĩ kỹ lại thì dường như tên là Trương gì gì Hiền, chữ "Hiền" trong sách dạy thánh hiền, không phải là chữ"Huyên" trong từ "huyên thuyên", tên đệm thì nhớ không ra. Sau này lưu lạc, cũng không rõ từ đâu mà làng Kim Quan đều gọi là "Quan lão tam", người có tuổi trong làng thì gọi là "Tiểu tam", bọn cùng trang lứa xưng huynh gọi đệ thì kêu là " Tam ca, Tam đệ".
Trương Tiểu Biện trước tiên nói mình là người giữ phép trọng đạo, hiểu thi thư lễ nghĩa, lại còn bảo về sau định đóng cửa đọc sách, thi đỗ làm quan để rạng rỡ tổ tông, ra sức vì triều đình, chứ những chuyện xấu xa bắt gà trộm chó thì không bao giờ chịu làm. Nhưng cũng chỉ vì đao thương không có mắt, chiến hỏa vô tình khiến cho làng Kim Quan bị phá hủy, bất đắc dĩ mới cùng hai người cùng lành là Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cuốn gói rời khỏi quê hương, chỉ biết lên núi bắt ếch mang vào thành đổi ít gạo dầu mắm muối sống qua ngày.
Cũng bởi dạo gần đây nạn chuột hoành hành, đúng lúc mấy hôm trước cả bọn đào được một thứ dược phẩm quý hiếm, liền mang đến Tùng Hạc đường trong thành để đổi lấy một con mèo đen giỏi bắt chuột, mang về trông nom cửa nhà. Lúc ấy trời đã tối, cửa thành đã khóa, lại sợ đội lính dõng tuần tra tưởng là gian tế, mấy tên liền mượn tạm căn nhà hoang Hòe viên của Thiết chưởng quầy mà trú ngụ qua đêm.
Mã đại nhân nghe tới đó liền gật đầu, nói: " Ờ... Hòe viên là nhà cũ của họ Lâu, bỏ hoang phế từ lâu rồi, nghe nói bên trong có ma, lại không được sạch sẽ cho lắm."
Trương Tiểu Biện đáp: " Đại nhân đúng là một vị quan tốt hiểu thấu dân tình, yêu dân như con, đến chuyện nhỏ như vậy cũng rõ như lòng bàn tay, trong Hòe viên quả có một con ma rất ghê gớm." Đoạn hắn liền đem chuyện trong Hòe viên gặp lũ chuột bắt cóc trẻ con thế nào, thành Đũa trong đường hầm ra sao, cả tên quái tăng ăn thịt trẻ con thế nào, rồi chuyện hắn dùng con mèo đen đánh ngã quái tăng trừ hại cho dân, tất cả tình tiết đều kể hết một lượt.
Cuối cùng, hắn mới nói đến món bạc lớn trong lầu Đũa, bảo rằng không biết đõ là vật của quan phủ, cả ba chỉ vì tham món lợi nhỏ, tiện tau cầm một ít đem dùng. Riêng việc gặp Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim Quan và chuyện đào được cương thi mỹ nhân ở Ứng Trung Sơn thì hắn không nhắc đến một chữ nào.
Kế đó, Mã đại nhân lại thẩm vấn riêng hai người kia. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vốn không biết toàn bộ sự tình, tuy cung khai có chỗ sai khác nhưng về đại thể cũng giống với lời cua Trương Tiểu Biện.
Mã đại nhân tra hỏi đến đây, không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bản thân lão kiến thức uyên bác, nắm rõ việc hình ngục cũng không thể ngờ được rằng vụ án mất trộm ngân khố lại phanh phui ra nhiều việc dị thường đến thế. Thành Linh Châu mấy năm nay thường có trẻ con mất tích, mãi đến giờ cũng không phá được án, có điều trước mắt đại quân Việt khấu đang vây thành, quan phủ không có thời gian truy lung mấy đứa mẹ mìn bắt cóc trẻ con. Chẳng ngờ việc này lại liên quan đến vụ trộm công khố, lão vội phái người đến Hòe viên điều tra, đồng thời tới Tùng Hạc đường triệu kiến Thiết Công Kê đến đối chứng.
Hiện giờ, không ai biết Thiết chưởng quầy đã đi đâu, sống không thấy người, chết không còn xác, làm sao đến công đường được? Chỉ có mấy tên người làm trong cửa hiệu và thủ quỹ bị giải đến công đường làm chứng, quả nhiên tên nào cũng khai rất khớp với Trương Tiểu Biện. Đồng thời, đám công sai được phái đến Hòe viên đã tìm thấy tòa thành Đũa trong hang động ngầm dưới lòng đất, phát hiện ra tất cả số bạc trộm trong ngân khố ở đó, lại thấy rất nhiều của cải, trang sức trộm từ nhà dân. Tên hòa thượng nọ tuy bị trung một gậy vào đầu hôn mê bất tỉnh nhưng chưa chết, cũng bị bắt giải đến công đường.
Mã đại nhân thấy vụ án nghiêm trọng, không dám chậm trễ, liền cùng với quân Bát Kỳ đang đồn trú tại Linh Châu đốt đèn thẩm án cả đêm. Tên hòa thượng nọ dẫu bị tra hỏi gắt gao nhưng thà chết không nhận vì hắn biết tội mình quá nặng, nếu cung khai ắt phải chịu cực hình tùng xẻo, thà chịu tra tấn trên công đường đến chết cũng còn nhẹ nhàng hơn.
Mã đại nhân trước tiên sai người đánh hòa thượng Chuột hai mươi hèo nặng. Thấy lão vẫn ngoan cố, một mực nói rằng mình là hòa thượng đi vân du hóa duyên, Mã đại nhân liền mắng: " Thằng tặc tử to gan. Những chuyện phóng hỏa giết người toàn là thủ đoạn của bọn sư hổ mang như nhà ngươi. Bây giờ bốn phương đầy đao binh, dân tình lầm than, làm gì có thức ăn mà bố thí cho sư sãi, hơn nữa người xuất gia chỉ ăn chay niệm Phật, vốn trọng sự đạm bạc thanh bần, làm sao có được thể tạng phì nộn như ngươi được? Đúng là ăn thịt người mới như thế. Bọn hung đồ gian xảo như ngươi còn dám khua môi múa mép trước mặt bản quan hay sao? Tội lớn tày trời thế nào mà ngươi tưởng rằng che giấu được hay sao?" hòa thượng Chuột vẫn bao hoa: " Thiện tai! Thiện tai! Bởi Phật tổ từ bi nên bần tăng càng đói thì càng béo đó thôi." Mã đại nhân biết lão cắn răng chịu hình, nghĩ bụng: "Để bản quan xem xem ngươi có phải La hán đúc bằng gang thép không?" Đoạn lão liền lệnh cho tả hữu dùng đại hình tra tấn nhưng không được hại đến tính mạng của hòa thượng Chuột.
Bọn hình quan, trên công đường làm những gì? Đương nhiên chúng có nhiều thủ đoạn để đối phó với lũ ác tặc mà không cần đến đao to búa lớn gì. Chỉ thấy chúng lột sạch quần áo trên người hòa thượng Chuột, bịt mắt lão bằng một miếng vải đen, treo ngược lên trên, sau đó dùng sáp nóng rỏ vào gan bàn chân, cách này được đặt tên là " Từng bước nảy son".Gan bàn chân là nơi tập trung nhiều huyệt đạo, cực kỳ mẫn cảm, chỉ cần rỏ năm ba giọt sắp nóng xuống là đỏ tấy lên. Hòa thượng Chuột cho dù là Kim cương La hán cũng chịu không thấu, gào lên thảm thiết không ra tiếng người.
Quả nhiên, hòa thượng Chuột không chịu nổi cực hình, cuối cùng đành dốc miệng cung khai hết. Thì ra trên thế gian này có một đám giáo đồ tà ma, chuyên cắt sinh thực khí của người chết, phối với dược vật ngũ hành luyện thành đan dược để ướng. Phép đó gọi là Kim Cương thiền. Muốn luyện đến cảnh giới tối cao thì cần phải ăn thịt đủ một trăm sáu mươi thai nhi và trẻ con mới thành. Hòa thượng Chuột chính là một tên trong đám đó.
Đám người này hành sự hết sức quái dị, thủ đoạn thần bí, hơn nữa thường nuôi các động vật bên mình để sai khiến, to thì có lợn, dê, bò, ngựa; nhỏ thì tới côn trùng, sâu kiến, không loại gì không có. Dân thường không hiểu tường tận, ngoa truyền càng lúc càng kinh khủng, tới mức cho rằng bọn chúng là bọn "Tao Súc", tức là đám người biết yêu thuật, phục thuốc để bết người sống thành súc sinh rồi bán đi kiếm lời. Kỳ thực, người luyện Kim Cương Thiền chỉ yếu dùng xác chết để luyện bùa thuốc, rồi cho thú vật ăn vào khiến chúng bị nghiện dể chịu sự sai bảo.
Hồi thiên hạ thái bình, trọng lễ nghĩa, văn hóa, ít khi tìm được xác chết vô thừa nhận, đám nghiệt đồ đó phải lén quật các phần mộ mới. lột da róc thịt xác chết ra để luyện tà pháp. Nay có loạn Việt khấu, giặc cướp ở các nơi nổi dậy như ong, sau mỗi lần chiến sự nổ ra, thi thể vô chủ nằm ngổn ngang khắp nơi, tà phái sắp tuyệt diệt này lại có cơ hội phực hưng.
Lão hòa thượng này họ Phan nên còn gọi là "Phan hòa thượng". Phan hòa thượng bản tính ngu độn, không biết chữ, cũng chẳng biết vì sao có tật nghiện xây lầu dựng tháp. Sau khi lão xuất gia, lão giết thầy thiêu chùa, trở thành một nhà sư đi hoang. Trước đây, lão chuyên bắt cóc trẻ con đem bán, thân thể lão béo phì như một con chuột trắng, nên còn có biệt danh là hòa thượng Chuột. Lão này chuyên giả bộ ngây ngô như bọn trẻ con lên ba để dễ gây án ở Linh Châu và các vùng lân cận. Về sau, khi tập Kim Cương Thiền, biết thủ đoạn khống chế chuột, lão liền nấp trong Hòe vên hoang vắng bế quan t u luyện. Lão sai khiến đám chuột lớn trộm bạc trong công khố nên quan binh có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng bạc lại bị chuyển ra qua hang chuột.
Hòa thượng Chuột chẳng hề coi trọng quan phủ là gì, tuy bị giải đến công đường chịu nhận đại hình tra tấn nhưng thái độ vẫn hết sức ngạo mạn. Lão nói, tuy rằng thất thủ bị bắt nhưng chẳng qua do sơ ý trúng phải quỷ kế, cùng lắm một chết mà thôi, hai mươi năm sau sẽ lại thành một trang hảo hán. Nhưng trong ngoài thành còn có nhiều đồng bọn của lão, bổ khoái của nha môn dẫu có tài thánh cũng không đối phó nổi phép tiên của "Tạo Súc", sớm muộn bạc trogn ngân khố cũng sẽ bị lấy hết dể dâng lên Tổ sư gia.
Mã đại nhân nổi giận lôi đình, thương nghị với Đề đốc Đồ Hải rằng: " Thiên hạ này, những kẻ yêu nhân luyện tà thuật là bọn xấu xa đáng tởm nhất. Từ xưa các vị hiệp khách đã chuyên đi tru diệt lũ này. Sử sách chép rằng chúng nó đã tuyệt tích từ thời Ngũ đại, thế mà tới triều ta ngày nay vẫn còn đám nghiệt đồ dư đảng. Theo ý của Đề đốc đại nhân, chúng ra nên xử trí lũ này thế nào?"
Đề đốc Đô Hải tuy là đại quan thống lĩnh quân vụ trong vùng, nhưng ngoài bản lĩnh đấu đá chốn quan trường, hắn chẳng có tài cán gì, thực sự là một kẻ ngu si hèn kém. Cả đêm thẩm vấn đã khiến hắn buồn ngủ díp mắt, đang ngủ gật thì bị Mã đại nhân hỏi, liền ngáp một cái, hít hít lọ thuốc xông cho tỉnh, nhỏm nửa mông, hướng về phía Bắc chắp tay nói: "Nước Đại Thanh chúng ta hồng phúc tày trời, đương kim Hoàng thượng càng anh minh thần vũ, sao có thể dung da đám thối tha làm chuyện hung ác này được? Nếu đã bắt được thì cần gì hỏi nhiều, đến sáng cứ theo luật mà xử quyết, tới lúc đó, chúng ta đến xem đổ máu cũng vui."
Tuần phủ Mã đại nhân lập tức đón lời: " Bản quan cũng có ý đó, hòa thượng Chuột này tuy chỉ là một tên trèo tường khoét vách thối tha, không đáng để Hoàng thượng bận tâm nhưng án này thực không nhỏ, pháp luật không thể dung tha. Hơn nữa, lão theo tà giáo, vả lại còn chưa bắt được lũ đồng đảng Tạo Súc, nếu tống vào tử lao lâu ngày chỉ e chúng giở thủ đoạn cởi gông phá ngục chạy trốn, hoặc sẽ tuyệt thực tự tận để tránh phải chịu cực hình. Chi bằng cứ cho nhanh chóng tronh vòng ba ngày, giải ra chợ lăng trì trước bàn dân thiên hạ, giã nát xương cốt để giương cao pháp độ của triều ta."
Kỳ án trong Hòe viên thành Linh Châu tạm thời kết thúc ở đây, thường có câu thơ rằng: " chớ bàn họa phúc hôm nay;Dữ lành sau nữa ai hay thế nào?" Hẵng còn chưa biết bọn Trương Tiểu Biện sẽ bị quan phủ xử trí ra sao, lại cũng chưa rõ vì sao Lâm Trung Lão Quỷ lại bảo họ đi làm những chuyện dị thường như thế, rốt cuộc bên trong còn có những âm mưu kinh người nào khác?
Thật là: " Đời loạn nào đâu còn lẽ phải; Trời gieo kiếp nạn dấy tai ương." Muốn biết chuyện sau thế nào, hãy xem Tặc miêu quyển ba sẽ rõ
Hồi trước nói đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện vào Bát Tiên lâu gọi cơm rượu hết sức đắc ý, bỗng một đám công sai hùng hùng hổ hổ xông tới, chẳng nói chẳng rằng đạp cả bọn xuống đất. Con mèo đen bên cạnh thấy tình thế không hay, đớp ngay một con cá chép chua ngọt trên mặt bàn rồi lủi ra ngoài như gió, biến mất tăm mất tích trong ngõ sâu.
Bọn công sai tất nhiên chẳng thèm để ý con mèo ăn vụng cá kia, liền lục soát tại chỗ, lấy ra một bao bạc trắng phớ, tên đầu lĩnh đám công sai liền mắng: "Quân ăn cướp trời đánh, đây là bạc trong phiên khố của triều đình, bây giờ nhân chứng vật chứng đầy đủ, còn gì để nói nữa?" Nói đoạn hắn liền lập tức ra lệnh cho bọn thủ hạ trói nghiến bọn Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng lại, giải về tống vào lao, đợi quan gia xử trị.
Trương Tiểu Biện vốn tưởng được Lâm Trung Lão Quỷ mách cho một món phú quý, ngỡ là vật vô chủ, trước giờ chưa từng tìm hiểu kỹ lai lịch đống ngân lượng trong thành Đũa. Cả đời hắn, đến bạc vụn còn chưa được cầm vào tay, nói chi đến đĩnh bạc có đúc dấu của công khố, đâu ngờ lại rước phải cái họa tày trời này? Tới khi tên đầu lĩnh nói ra, hắn mới vỡ lẽ giật mình như người tỉnh mộng, hối hận cũng không kịp, bụng bảo dạ lần này đúng là tự mình dẫn lửa thiêu thân, vạn kiếp không ngóc đầu dậy được nữa, thực đúng là: " Sục sôi muôn ý trong đầu, thảy đều nguội lạnh trước gàu nước băng". Muôn ý niệm đều tiêu tan, trong long cũng không quên chửi rủa tổ tong mười tám đời nhà Lâm Trung Lão Quỷ.
Quý vị độc giả hẳn từng nghe, thành Linh Châu vốn là đầu mối giao thong trọng yếu của hai đường thủy bộ, lại là nơi thương lái hai miền Nam Bắc lưu thông hàng hóa tiền bạc, từ đầu đời nhà Thanh đã thành lập các phiên khố, toàn bộ tiền thuế tiền lương của hai tỉnh miền Nam Trường Giang đều chứa trong kho này, đợi tới khi đủ hạn số nhất định sẽ chuyển về Kinh thành. Con đường nơi đóng phiên khố ở thành Linh Châu tên là phố Ngân Phòng, có nhiều thợ bạc sống ở đó.
Tiền thu được thường là hào, cắc và bạc lẻ, khi nhập vào phiên khố cần phải đúc lại thành đĩnh. Bởi vùng Giang nam giàu có, lắm tiền nhiều của, các hạng thuế thu ở đây chính là tính mạng của triều đình, bởi vậy việc phòng vệ vô cùng nghiêm ngặt. Tường kho luôn có hay lớp dày chắc dị thường gọi là " Hổ tường", đồng thời đặt thêm cửa đồng vách sắt, mấy lớp khóa nặng, lại phái một tốp quan binh chuyên giữ kho.
Từ khi Thái Bình quân khởi sự ở mạn Quế Tây, Việt Đông, đánh ngược lên phía Bắc, thế mạnh như chẻ tre, các thành trấn quan trọng ở phía nam Linh Châu đều bị Việt khấu chiếm giữ. Các lộ binh mã hình thành thế bao vây hợp công Linh Châu, một lượng lớn tiền thuế trong phiên khố Linh Châu không kịp chuyển đi, để lại trong thành cùng với quân dân.
Thành Linh Châu từ xưa đã là vùng đất binh gia tranh giành, nên thành cao hào sâu, vững như bàn thạch, hơn nữa lái buôn trong thành rất nhiều, những người này đều không tiếc của cải, xuất tiền xuất lương giúp đỡ triều đình chiêu mộ lính dõng; trong thành cũng có rất nhiều súng Tây, pháo Tây, hỏa khí chẳng những nhiều vô kể mà còn hết sức hiện đại, Thái Bình quân tiến đánh mấy lần đều không thành. Nhưng cấc thủ lĩnh Thái Bình quân cũng đều biết trong thành Linh Châu có phiên khố, tiền bạc nhiều vô kể nên mấy trận trước tuy hao tổn không ít người ngựa song vẫn cố chiếm bằng được, có thể kéo quân tiến đánh bất cứ lúc nào.
Cũng bởi bạc trong kho thành Linh Châu quá nhiều, khó tránh khỏi có lắm kẻ động lòng tham, không chỉ có Việt khấu muốn tranh đoạt mà bọn trộm cướp phi tặc cũng muốn thừa lúc loạn lạc để vơ vét một mẻ, đám người này hoặc kết thành từng đám năm ba tên, hoặc độc lai độc vãng, hành tung xuất quỷ nhập thần, rất khó đề phòng. Để bảo vệ ngân khố, quan phủ đã phái binh lính tuần tra ngày đêm, đặt vô số gác canh trên phố Ngân Phòng. Thời loạn thì luật lệ càng phải chặt chẽ, hễ bắt được tên nào có ý định trộm bạc là quan phủ cho lăng trì bêu đầu, giết một để răn mười, quyết không khoan dung.
Trông coi đã nghiêm cẩn đến vậy mà gần đây bạc trong kho cứ liên tục biến mất. Lạ ở chỗ Hổ tường cao ngất, khóa sắt y nguyên, không hiểu là bọn giặc phương nào, dùng thủ đoạn thần thông gì mà qua mặt được bao nhiêu quan binh canh giữ, trộm đi bạc trắng trong khố mà chẳng để lại mảy may dấu vết.
Việc kho bạc bị mất trộm hết sức nghiêm trọng, quan phủ mất ăn mất ngủ, phàm là người ra vào khỏi thành đều bị tra xét rất nghiêm ngặt, đề phòng bọn trộm chuyển bạc đi, đồng thời đặt hạn kỳ, lệnh cho đám bổ khoái ở nha môn phải tróc nã cho được tên tặc nhân, tìm lại số bạc bị mất, bằng không sẽ liên lụy cả nhà. Xưa nay vẫn có câu " quan cướp một nhà", đám công sai bộ đầu vẫn thường câu kết với lũ trộm cướp cường đạo trong thành, quan nuôi dưỡng cướp, vì vậy tai mắt rất rộng, chỉ cần gió hơi lay, cây hơi động là đám ấy dò la ra được ngay. Hơn nữa, tai mắt bọn công sai cực nhạy, chúng tìm bắt mấy tên cưới chẳng khác gì mèo tìm chuột, chỉ cần đánh hơi thấy động một cái là tìm ra được ngay.
Ấy vậy mà đã trăm phương nghìn kế tìm tòi tra xét, vụ án lớn tày trời này không ngờ vẫn không có chút manh mối nào, đành phải bắt bừa mấy tên giặc cỏ cho đủ số, tuy đã bức cung đánh đập, bắt bọn kia khai nhận rồi, nhưng kho bạc vẫn tiếp tục bị mất trộm, thử hỏi phải ăn nói thế nào với quan trên được đây.
Đám công sai đang cuống quýt chưa biết làm thế nào, bỗng tên đầu lĩnh đám bộ khoái trong nha môn nghe phong thanh ở tiệm y phục nọ, có người dùng bạc đúc đĩnh lớn mua quần áo, dưới đáy đĩnh bạc có đúc dấy ấn của phiên khố Lĩnh Châu, thám tử đã nhìn rất rõ ràng, không thể sai trật được. Y liền lập tức bủa người đi khắp nẻo, cuối cùng bắt được cả đám ở Bát Tiên lâu.
Linh Châu vốn là một châu thuộc tỉnh Trực Lệ, nhưng vì những thành trấn phụ cận đã bị Việt khấu công hãm nên các quan viên trong tỉnh đều đã chuyển nhà, thêm vào đó là yêu cầu của thời chiến, vì vậy các đạo, các ty, thậm chí các cơ quan đầu não của toàn tỉnh như nha môn Đề đốc và nha môn Tuần phủ đều tập trung trong thành. Hiện tại, thành Linh Châu có cả Đề đốc và Tuần phủ. Giờ thì đám quan lại địa phương may mắn còn sống sót phải ra sức mà hiệp trợ Tuần phủ Mã THiên Tích trù bị tiền bạc lương thảo, chiêu mộ lính dõng để thủ thành. Việc mất trộm phiên khố đã sớm kinh động đến triều đình, Tuần phủ Mã đại nhân nghe tin bắt được phi tặc, liền không dám chậm trễ, đích thân cùng hữu ty thẩm vấn cho ra ngọn nguồn vụ án.
Chỉ thấy trên công đường đèn đuốc sáng lòa, bày la liệt các dụng cụ tra tấn, tiếng trống nha môn vang lên thùng thunfgm nha sai xếp hai hàng, đúng là " Uy nghiêm còn quá Diêm La điện; Khiếp sợ nào thua Đông Nhạc đài". Bọn Trương Tiểu Biện ba người quỳ trên đất thấy thế, mặt xanh như chàm đổ, người mềm như bún, thật là " Có cánh thì cứ thăng thiên; Có móng, độn thổ, chạy liền vào hang. Đã không biết thuật chạy làng; Chớ rước rắc rối cửa quan công đường."
Trương Tiểu Biện biết chuyện rất nghiêm trọng, đến nước này chỉ còn cách cố sức thanh minh mà thôi. Hắn quen thói lựa gió đưa thuyền, không đợi Mã đại nhân lên tiếng, đã vội nói: " Xin các vị chớ nhọc dùng đến đại hình! Thanh thiên đại lão gia minh giám, chúng tiểu nhân xin không đánh mà tự khai hết."
Mã đại nhân là kẻ già đời, nhiều âm mưu, tính quyết đoán, trước nay nổi tiếng là người giỏi tra khảo thẩm vấn, cũng biết phàm là ấn nặng thì đều phải tra hỏi ba lần bảy lượt, thẩm định kỹ càng mới được. Lão vừa nhìn tướng mạo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử là biết ngay hai tên này chỉ là bọn lưu manh đầu đường xó chợ, nghĩ đến chuyện phiên khố mất bạc, bổ khoái nha môn tra xét nhiều ngày mà không có kết quả, lại chảng phát hiện được manh mối gì, thủ đoạn đó hẳn bọn trộm vặt không thể làm được. Vậy mà ba kẻ quỳ dưới công đường kia đều không quá mười sáu, mười bẩy tuổi, lại còn có một cô ả nhà quê, chỉ dựa vào mấy tên tẹp nhẹp bọn chúng thì sao có thể gây được đại án tày trời thế này? Nhưng đích thực là có soát được trên người chúng có số bạc phiên khố bị mất, xem ra bên trong ắt có uẩn khúc, nhất thiết cần phải tra hỏi cho ngọn ngành mới xong. Nghĩ đoạn, lão liền đập bàn thẩm vấn.
Trương Tiểu Biện hết sức ngoan ngoãn, hỏi một đáp mười, bộ mặt ra vẻ vô tội, kể hết một lượt từ đầu chí cuối. Quy củ nha môn thì hắn biết rõ, đầu tiên phải khai báo tên tuổi xuất thân, nhưng Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử ba người vốn là dân quê nghèo khổ, làm gì có tên có hiệu đâu chứ? Tiểu Phượng lấy theo họ mẹ là bà Vương quả phụ nên gọi là, Vương Tiểu Phượng, Tôn Đại Ma Tử là anh cả trong nhà, từ nhỏ mặt đã đầy mụn nên mới có biệt danh như thế, trước nay cũng không có tên gì khác.
Nguyên quán Trương Tiểu Biện vốn không phải ở làng Kim Quan, mà là con nhà dòng dõi, đời ông tổ từng làm quan trong Kinh thành, về sau gia cảnh suy vi nên mới lưu lạc đến đây. Từ nhỏ, hắn đã được học lễ nghĩa, vốn cũng có tên tuổi đàng hoàng, chỉ vì lúc ấy quá nhỏ nên không nhớ được nhiều, giờ nghĩ kỹ lại thì dường như tên là Trương gì gì Hiền, chữ "Hiền" trong sách dạy thánh hiền, không phải là chữ"Huyên" trong từ "huyên thuyên", tên đệm thì nhớ không ra. Sau này lưu lạc, cũng không rõ từ đâu mà làng Kim Quan đều gọi là "Quan lão tam", người có tuổi trong làng thì gọi là "Tiểu tam", bọn cùng trang lứa xưng huynh gọi đệ thì kêu là " Tam ca, Tam đệ".
Trương Tiểu Biện trước tiên nói mình là người giữ phép trọng đạo, hiểu thi thư lễ nghĩa, lại còn bảo về sau định đóng cửa đọc sách, thi đỗ làm quan để rạng rỡ tổ tông, ra sức vì triều đình, chứ những chuyện xấu xa bắt gà trộm chó thì không bao giờ chịu làm. Nhưng cũng chỉ vì đao thương không có mắt, chiến hỏa vô tình khiến cho làng Kim Quan bị phá hủy, bất đắc dĩ mới cùng hai người cùng lành là Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cuốn gói rời khỏi quê hương, chỉ biết lên núi bắt ếch mang vào thành đổi ít gạo dầu mắm muối sống qua ngày.
Cũng bởi dạo gần đây nạn chuột hoành hành, đúng lúc mấy hôm trước cả bọn đào được một thứ dược phẩm quý hiếm, liền mang đến Tùng Hạc đường trong thành để đổi lấy một con mèo đen giỏi bắt chuột, mang về trông nom cửa nhà. Lúc ấy trời đã tối, cửa thành đã khóa, lại sợ đội lính dõng tuần tra tưởng là gian tế, mấy tên liền mượn tạm căn nhà hoang Hòe viên của Thiết chưởng quầy mà trú ngụ qua đêm.
Mã đại nhân nghe tới đó liền gật đầu, nói: " Ờ... Hòe viên là nhà cũ của họ Lâu, bỏ hoang phế từ lâu rồi, nghe nói bên trong có ma, lại không được sạch sẽ cho lắm."
Trương Tiểu Biện đáp: " Đại nhân đúng là một vị quan tốt hiểu thấu dân tình, yêu dân như con, đến chuyện nhỏ như vậy cũng rõ như lòng bàn tay, trong Hòe viên quả có một con ma rất ghê gớm." Đoạn hắn liền đem chuyện trong Hòe viên gặp lũ chuột bắt cóc trẻ con thế nào, thành Đũa trong đường hầm ra sao, cả tên quái tăng ăn thịt trẻ con thế nào, rồi chuyện hắn dùng con mèo đen đánh ngã quái tăng trừ hại cho dân, tất cả tình tiết đều kể hết một lượt.
Cuối cùng, hắn mới nói đến món bạc lớn trong lầu Đũa, bảo rằng không biết đõ là vật của quan phủ, cả ba chỉ vì tham món lợi nhỏ, tiện tau cầm một ít đem dùng. Riêng việc gặp Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim Quan và chuyện đào được cương thi mỹ nhân ở Ứng Trung Sơn thì hắn không nhắc đến một chữ nào.
Kế đó, Mã đại nhân lại thẩm vấn riêng hai người kia. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vốn không biết toàn bộ sự tình, tuy cung khai có chỗ sai khác nhưng về đại thể cũng giống với lời cua Trương Tiểu Biện.
Mã đại nhân tra hỏi đến đây, không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bản thân lão kiến thức uyên bác, nắm rõ việc hình ngục cũng không thể ngờ được rằng vụ án mất trộm ngân khố lại phanh phui ra nhiều việc dị thường đến thế. Thành Linh Châu mấy năm nay thường có trẻ con mất tích, mãi đến giờ cũng không phá được án, có điều trước mắt đại quân Việt khấu đang vây thành, quan phủ không có thời gian truy lung mấy đứa mẹ mìn bắt cóc trẻ con. Chẳng ngờ việc này lại liên quan đến vụ trộm công khố, lão vội phái người đến Hòe viên điều tra, đồng thời tới Tùng Hạc đường triệu kiến Thiết Công Kê đến đối chứng.
Hiện giờ, không ai biết Thiết chưởng quầy đã đi đâu, sống không thấy người, chết không còn xác, làm sao đến công đường được? Chỉ có mấy tên người làm trong cửa hiệu và thủ quỹ bị giải đến công đường làm chứng, quả nhiên tên nào cũng khai rất khớp với Trương Tiểu Biện. Đồng thời, đám công sai được phái đến Hòe viên đã tìm thấy tòa thành Đũa trong hang động ngầm dưới lòng đất, phát hiện ra tất cả số bạc trộm trong ngân khố ở đó, lại thấy rất nhiều của cải, trang sức trộm từ nhà dân. Tên hòa thượng nọ tuy bị trung một gậy vào đầu hôn mê bất tỉnh nhưng chưa chết, cũng bị bắt giải đến công đường.
Mã đại nhân thấy vụ án nghiêm trọng, không dám chậm trễ, liền cùng với quân Bát Kỳ đang đồn trú tại Linh Châu đốt đèn thẩm án cả đêm. Tên hòa thượng nọ dẫu bị tra hỏi gắt gao nhưng thà chết không nhận vì hắn biết tội mình quá nặng, nếu cung khai ắt phải chịu cực hình tùng xẻo, thà chịu tra tấn trên công đường đến chết cũng còn nhẹ nhàng hơn.
Mã đại nhân trước tiên sai người đánh hòa thượng Chuột hai mươi hèo nặng. Thấy lão vẫn ngoan cố, một mực nói rằng mình là hòa thượng đi vân du hóa duyên, Mã đại nhân liền mắng: " Thằng tặc tử to gan. Những chuyện phóng hỏa giết người toàn là thủ đoạn của bọn sư hổ mang như nhà ngươi. Bây giờ bốn phương đầy đao binh, dân tình lầm than, làm gì có thức ăn mà bố thí cho sư sãi, hơn nữa người xuất gia chỉ ăn chay niệm Phật, vốn trọng sự đạm bạc thanh bần, làm sao có được thể tạng phì nộn như ngươi được? Đúng là ăn thịt người mới như thế. Bọn hung đồ gian xảo như ngươi còn dám khua môi múa mép trước mặt bản quan hay sao? Tội lớn tày trời thế nào mà ngươi tưởng rằng che giấu được hay sao?" hòa thượng Chuột vẫn bao hoa: " Thiện tai! Thiện tai! Bởi Phật tổ từ bi nên bần tăng càng đói thì càng béo đó thôi." Mã đại nhân biết lão cắn răng chịu hình, nghĩ bụng: "Để bản quan xem xem ngươi có phải La hán đúc bằng gang thép không?" Đoạn lão liền lệnh cho tả hữu dùng đại hình tra tấn nhưng không được hại đến tính mạng của hòa thượng Chuột.
Bọn hình quan, trên công đường làm những gì? Đương nhiên chúng có nhiều thủ đoạn để đối phó với lũ ác tặc mà không cần đến đao to búa lớn gì. Chỉ thấy chúng lột sạch quần áo trên người hòa thượng Chuột, bịt mắt lão bằng một miếng vải đen, treo ngược lên trên, sau đó dùng sáp nóng rỏ vào gan bàn chân, cách này được đặt tên là " Từng bước nảy son".Gan bàn chân là nơi tập trung nhiều huyệt đạo, cực kỳ mẫn cảm, chỉ cần rỏ năm ba giọt sắp nóng xuống là đỏ tấy lên. Hòa thượng Chuột cho dù là Kim cương La hán cũng chịu không thấu, gào lên thảm thiết không ra tiếng người.
Quả nhiên, hòa thượng Chuột không chịu nổi cực hình, cuối cùng đành dốc miệng cung khai hết. Thì ra trên thế gian này có một đám giáo đồ tà ma, chuyên cắt sinh thực khí của người chết, phối với dược vật ngũ hành luyện thành đan dược để ướng. Phép đó gọi là Kim Cương thiền. Muốn luyện đến cảnh giới tối cao thì cần phải ăn thịt đủ một trăm sáu mươi thai nhi và trẻ con mới thành. Hòa thượng Chuột chính là một tên trong đám đó.
Đám người này hành sự hết sức quái dị, thủ đoạn thần bí, hơn nữa thường nuôi các động vật bên mình để sai khiến, to thì có lợn, dê, bò, ngựa; nhỏ thì tới côn trùng, sâu kiến, không loại gì không có. Dân thường không hiểu tường tận, ngoa truyền càng lúc càng kinh khủng, tới mức cho rằng bọn chúng là bọn "Tao Súc", tức là đám người biết yêu thuật, phục thuốc để bết người sống thành súc sinh rồi bán đi kiếm lời. Kỳ thực, người luyện Kim Cương Thiền chỉ yếu dùng xác chết để luyện bùa thuốc, rồi cho thú vật ăn vào khiến chúng bị nghiện dể chịu sự sai bảo.
Hồi thiên hạ thái bình, trọng lễ nghĩa, văn hóa, ít khi tìm được xác chết vô thừa nhận, đám nghiệt đồ đó phải lén quật các phần mộ mới. lột da róc thịt xác chết ra để luyện tà pháp. Nay có loạn Việt khấu, giặc cướp ở các nơi nổi dậy như ong, sau mỗi lần chiến sự nổ ra, thi thể vô chủ nằm ngổn ngang khắp nơi, tà phái sắp tuyệt diệt này lại có cơ hội phực hưng.
Lão hòa thượng này họ Phan nên còn gọi là "Phan hòa thượng". Phan hòa thượng bản tính ngu độn, không biết chữ, cũng chẳng biết vì sao có tật nghiện xây lầu dựng tháp. Sau khi lão xuất gia, lão giết thầy thiêu chùa, trở thành một nhà sư đi hoang. Trước đây, lão chuyên bắt cóc trẻ con đem bán, thân thể lão béo phì như một con chuột trắng, nên còn có biệt danh là hòa thượng Chuột. Lão này chuyên giả bộ ngây ngô như bọn trẻ con lên ba để dễ gây án ở Linh Châu và các vùng lân cận. Về sau, khi tập Kim Cương Thiền, biết thủ đoạn khống chế chuột, lão liền nấp trong Hòe vên hoang vắng bế quan t u luyện. Lão sai khiến đám chuột lớn trộm bạc trong công khố nên quan binh có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng bạc lại bị chuyển ra qua hang chuột.
Hòa thượng Chuột chẳng hề coi trọng quan phủ là gì, tuy bị giải đến công đường chịu nhận đại hình tra tấn nhưng thái độ vẫn hết sức ngạo mạn. Lão nói, tuy rằng thất thủ bị bắt nhưng chẳng qua do sơ ý trúng phải quỷ kế, cùng lắm một chết mà thôi, hai mươi năm sau sẽ lại thành một trang hảo hán. Nhưng trong ngoài thành còn có nhiều đồng bọn của lão, bổ khoái của nha môn dẫu có tài thánh cũng không đối phó nổi phép tiên của "Tạo Súc", sớm muộn bạc trogn ngân khố cũng sẽ bị lấy hết dể dâng lên Tổ sư gia.
Mã đại nhân nổi giận lôi đình, thương nghị với Đề đốc Đồ Hải rằng: " Thiên hạ này, những kẻ yêu nhân luyện tà thuật là bọn xấu xa đáng tởm nhất. Từ xưa các vị hiệp khách đã chuyên đi tru diệt lũ này. Sử sách chép rằng chúng nó đã tuyệt tích từ thời Ngũ đại, thế mà tới triều ta ngày nay vẫn còn đám nghiệt đồ dư đảng. Theo ý của Đề đốc đại nhân, chúng ra nên xử trí lũ này thế nào?"
Đề đốc Đô Hải tuy là đại quan thống lĩnh quân vụ trong vùng, nhưng ngoài bản lĩnh đấu đá chốn quan trường, hắn chẳng có tài cán gì, thực sự là một kẻ ngu si hèn kém. Cả đêm thẩm vấn đã khiến hắn buồn ngủ díp mắt, đang ngủ gật thì bị Mã đại nhân hỏi, liền ngáp một cái, hít hít lọ thuốc xông cho tỉnh, nhỏm nửa mông, hướng về phía Bắc chắp tay nói: "Nước Đại Thanh chúng ta hồng phúc tày trời, đương kim Hoàng thượng càng anh minh thần vũ, sao có thể dung da đám thối tha làm chuyện hung ác này được? Nếu đã bắt được thì cần gì hỏi nhiều, đến sáng cứ theo luật mà xử quyết, tới lúc đó, chúng ta đến xem đổ máu cũng vui."
Tuần phủ Mã đại nhân lập tức đón lời: " Bản quan cũng có ý đó, hòa thượng Chuột này tuy chỉ là một tên trèo tường khoét vách thối tha, không đáng để Hoàng thượng bận tâm nhưng án này thực không nhỏ, pháp luật không thể dung tha. Hơn nữa, lão theo tà giáo, vả lại còn chưa bắt được lũ đồng đảng Tạo Súc, nếu tống vào tử lao lâu ngày chỉ e chúng giở thủ đoạn cởi gông phá ngục chạy trốn, hoặc sẽ tuyệt thực tự tận để tránh phải chịu cực hình. Chi bằng cứ cho nhanh chóng tronh vòng ba ngày, giải ra chợ lăng trì trước bàn dân thiên hạ, giã nát xương cốt để giương cao pháp độ của triều ta."
Kỳ án trong Hòe viên thành Linh Châu tạm thời kết thúc ở đây, thường có câu thơ rằng: " chớ bàn họa phúc hôm nay;Dữ lành sau nữa ai hay thế nào?" Hẵng còn chưa biết bọn Trương Tiểu Biện sẽ bị quan phủ xử trí ra sao, lại cũng chưa rõ vì sao Lâm Trung Lão Quỷ lại bảo họ đi làm những chuyện dị thường như thế, rốt cuộc bên trong còn có những âm mưu kinh người nào khác?
Thật là: " Đời loạn nào đâu còn lẽ phải; Trời gieo kiếp nạn dấy tai ương." Muốn biết chuyện sau thế nào, hãy xem Tặc miêu quyển ba sẽ rõ
Bình luận facebook