Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 136
XII
HỖN ĐỘN BẢO VỆ CHO TRẬT TỰ
Bốtxuyê nói thầm vào tai Côngbơphe:
- Hắn không trả lời tôi.
- Đó là một con người làm việc thiện bằng súng. Côngbơphe đáp.
Ai còn giữ kỷ niệm về cái thời đã xa xôi ấy đều biết bọn quốc dân quân ngoại ô đã đánh lại các cuộc bạo khởi một cách can đảm. Nó đặc biệt hăng máu và gan dạ trong những ngày tháng sáu 1832. Bạo khởi đã khiến cho “doanh nghiệp” của hắn ta đóng cửa, thì cái lão chủ quán hiền lành ở bất cứ phố Păngtanh, phố Véctu hay phố Quynét, đã trở thành dữ như hùm khi thấy phòng nhảy của mình trống không và quyết tử chiến đấu để bảo vệ cho trật tự xã hội, tượng trưng ở cái quán rượu. Ở cái thời vừa tầm thường vừa oanh liệt đó, đối diện với những hiệp sĩ của tư tưởng là những tráng sĩ của quyền lợi. Động cơ tuy tầm thường nhưng hành động vẫn là dũng cảm. Chồng bạc bớt chiều cao làm cho các chủ ngân hàng hát khúc Mácxâyde. Người ta đổ máu một cách tình tứ cho cái quầy đếm bạc, và người ta bảo vệ với một hào khí cổ đại cái tổ quốc thu nhỏ ở cái hiệu buôn kia.
Phải nói rằng suy cho cùng thì tất cả những cái ấy đều có lý do nghiêm túc. Đó là sự xung đột của các nhân tố xã hội trong khi chờ đạt thế cân bằng.
Một dấu hiệu khác của thời đại là tình trạng vô chính phủ trong phái chính phủ (“phái chính phủ” là cái tên dã man của đảng nghiêm chỉnh). Người ta ủng hộ trật tự một cách vô kỷ luật. Theo lệnh của một đại tá quốc dân quân nào đó, trống tập đánh liên hồi, tùy sở thích, đại úy này xông vào vòng lửa đạn tùy hứng, quốc dân quân nọ chiến đấu vì lý tưởng và vì quyền lợi của riêng mình. Trong những giờ phút khủng hoảng, trong những “ngày” dân biến, người ta tuần theo bản năng hơn là mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Trong đạo quân bảo vệ trật tự, có những dân quân du kích thực sự, du kích bằng lưỡi gươm như Phannicô, hoặc du kích bằng ngòi bút như Hăngri Phôngphređơ.
Văn minh - hại thay văn minh vào thời ấy là một kết hợp những quyền lợi chứ không phải là một kết hợp những nguyên lý - văn minh đang lâm nguy hay tưởng là lâm nguy. Nó kêu báo động; ai cũng trở thành một trung tâm và lo bảo vệ nó, viện trợ nó, che chở nó theo cách của mình. Người nào cũng tự nhận có nhiệm vụ cứu vãn xã hội.
Một đôi khi vì tích cực mà họ gây ra thảm họa tàn sát. Một toán quốc dân quân nào đó đã tự ban cái quyền lập tòa án binh và trong năm phút đã xét xử và hành quyết trong trường hợp họ nảy ra một sáng kiến tương tự như vậy. Đó là cái luật Lynsơ[273] dữ tợn mà không một phái nào có quyền trách cứ các phái khác bởi vì nếu phái cộng hòa áp dụng nó ở Mỹ thì phái dân chủ áp dụng nó ở châu Âu. Luật Lynsơ đã vậy lại còn thêm tai hại do những lầm lẫn nữa. Trong một ngày bạo khởi, nhà thơ trẻ Pôn Emê Gácniê bị người ta vác lưỡi lê đuổi bắt tại quảng trường Rôian, may nhờ trốn vào cái cổng xe nhà số 6 mà thoát nạn. Những người săn đuổi thét: - Hắn cũng là một thằng Xanh Ximông[274] nữa! Và muốn giết anh. Chỉ vì anh ta cắp nách một cuốn hồi ký của công tước Xanh Ximông.[275]
[273] Luật Lynch: một điều luật tố tụng ở Hoa Kỳ cho phép công chúng bắt, xét xử và hành quyết ngay người phạm tội. Hiện người da đen vẫn còn là nạn nhân của tập quán do điều luật này gây ra. (xem “Hành trình kiểu Lynsơ” Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh tuyển tập – Sự thật Hà Nội, 1960).
[274] Người theo chủ nghĩa Xanh Ximông. Bá tước Xanh Ximông (Saint-Simon) sống vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nhà triết học, là một trong những người khởi xướng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
[275] Công tước Saint-Simon, nhà văn, đã để lại những cuốn hồi ký hấp dẫn về đời sống và hoạt động của quý tộc quãng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Một quốc dân quân đã đọc thấy cái tên Xanh Ximông trên bìa sách và thế là hắn kêu: Sát! Sát!
Ngày 6 tháng sáu năm 1832, một đại đội quốc dân quân ngoại ô do đại úy Phannicô - người mà chúng tôi đã nói ở trên - chỉ huy, đã vì cao hứng mà tự nguyện nướng quân ở phố Săngvrơri: chuyện này tuy kỳ lạ, nhưng đã được xác nhận bởi cuộc điều tra tư pháp sau vụ khởi nghĩa năm 1832. Đại úy Phannicô là một anh tư sản nóng nảy và táo bạo, một thứ lính đánh thuê của nền trật tự xã hội, trong loại mà chúng tôi vừa nêu ra, một anh thuộc phái chính phủ, cuồng tín và vô kỷ luật. Phannicô lấy làm thích thú được nổ súng trước giờ và có tham vọng chỉ một mình, nghĩa là với đại đội của y, hạ chiến lũy. Tức tối vì thấy lá cờ đỏ và cái áo dạ cũ, mà anh cho là một lá cờ đen, thay nhau xuất hiện, anh chỉ trích công khai các tướng lĩnh và tư lệnh binh đoàn. Vì những vị này hội ý với nhau thấy chưa phải lúc tiến công và nên để cho “cuộc khởi nghĩa rệu rã”, theo cách nói được truyền tụng của một người trong bọn họ. Riêng đại úy thì nghĩ rằng cái chiến lũy đã chín muồi rồi, cái gì cũng phải rụng, cho nên y chọc thử.
Những người y chỉ huy là những người cũng quả quyết như y, những người “hăng máu”, như một nhân chứng đã gọi. Chính đại đội của y đã bắn Giăng Pruve. Đó là đại đội I của cái tiểu đoàn dân quân ở góc phố. Lúc bất ngờ nhất, đại úy xua quân lên đánh vào chiến lũy. Cuộc hành quân nhiều thành ý mà thiếu chiến lược này đã gây tổn thất lớn cho đại đội. Tiến chưa được hai phần ba đường phố, nó đã được một loạt súng từ chiến lũy chặn đón. Bốn tên lính trong số gan dạ nhất, chạy hàng đầu, bị đạn tầm gần ngã quay quay dưới chân chiến lũy. Đám quốc dân quân can đảm mà ô hợp, gồm những người bạo gan nhưng không kiên gan như quân nhân, sau mấy phút do dự, đã tháo lui, bỏ lại trên mặt đường mười lăm xác chết. Những phút do dự đó đủ để nghĩa quân nạp lại đạn vào súng. Và thế là một loạt đạn thứ hai vô cùng lợi hại đã vãi vào đại đội trước khi nó trở về tới góc phố và là nơi ẩn nấp. Trong một lúc, đại đội đã bị kẹt giữa hai luồng đạn vì cỗ súng đại bác không nhận được lệnh, vẫn không ngừng bắn và đạn ghém của nó xả vào đại đội. Anh chàng Phannicô táo tợn và dại dột là một trong những người chết vì đạn ghém. Khẩu đại bác, tức là trật tự, đã giết anh ta.
Cuộc xung kích điên cuồng vô cùng hiệu lực ấy làm cho Ănggiônrátx bực tức. Anh nói: - Cái lũ ngu! Chúng hy sinh người của chúng và làm tổn hại đạn dược của ta mà chẳng ích lợi gì!
Ănggiônrátx nói năng đúng như một tướng chỉ huy bạo động. Quân khởi nghĩa và quân đàn áp khí giới không đồng đều. Nghĩa quân chỉ có một số đạn nhất định để bắn và một số chiến sĩ nhất định để hy sinh, do đó chóng bị hao hụt. Một túi đạn trút sạch, một con người ngã xuống đều không thay thế được. Cánh trấn áp thì không cần tính số người vì có cả quân đội, không cần tính số đạn vì có kho đạn Vanhxen. Nghĩa quân có bao nhiêu chiến sĩ thì quân trấn áp có bấy nhiêu trung đoàn, nghĩa quân có bao nhiêu đạn thì quân trấn áp có bấy nhiêu kho thuốc đạn. Cho nên những cuộc chiến đấu một chống trăm này luôn luôn kết thúc bằng sự hủy diệt của các chiến lũy, trừ khi cách mạng đột nhiên đứng dậy ném vào cán cân lực lượng cây gươm thần rực lửa của mình. Điều đó từng xảy ra. Lúc đó tất cả đều đứng lên, đá đường sôi sục, chiến lũy nhân dân mọc lên tua tủa. Pari rung động oai hùng, lửa thiêng[276] xuất hiện, một ngày 10 tháng Tám bàng bạc trong không khí, một ngày 29 tháng Bảy bàng bạc trong không khí. Một ánh sáng thần kỳ tỏa ra, cái mõm há hốc của vũ lực lùi lại, và con sư tử quân đội nhìn thấy, ở trước đầu mình, nhà tiên tri, bình tĩnh và vững chãi, nước Pháp.
[276]
XIII
ÁNH SÁNG LƯỚT QUA
Gì cũng có trong mớ tình cảm và nhiệt tình hỗn độn của những người bảo vệ một chiến lũy: dũng cảm, trẻ trung, danh dự, hưng phấn, lý tưởng, tin tưởng, tình trạng say máu của người đánh bạc, nhất là những cơn hy vọng.
Vào lúc không ai chờ đợi thì một cơn hy vọng, một luồng tin tưởng rung động như vậy đã đến bất thình lình với chiến lũy Săngvrơri. Ănggiônrátx luôn luôn nghe ngóng bỗng dưng kêu lên:
- Hãy lắng tai xem, hình như Pari đã tỉnh dậy.
Quả là trong buổi sớm ngày 6 tháng sáu, cuộc khởi nghĩa có tăng mức độ chút ít. Chuông để liên hồi ở nhà thờ Xanh Meri có thổi nóng lên một số mong muốn mơ hồ. Một số chiến lũy bắt đầu nhóm lên ở phố Poariê và phố Graviliê. Trước cửa đài Xanh Máctanh, một chàng thanh niên với chỉ một cây súng, đã tấn công vào cả một tiểu đoàn kỵ binh. Trống trải giữa đại lộ, anh ta quỳ gối, nâng súng lên vai bắn chết viên tiểu đoàn trưởng và quay lại nói: Thế là thêm một thằng không thể giết hại chúng ta. Anh bị băm chết. Ở phố Xanh Đơni, một phụ nữ sập cửa chớp, nép ở sau để bắn vào một đội cảnh vệ thành phố. Cứ mỗi phát súng bắn ra là thấy các lá chớp rung động. Một chú bé mười bốn bị bắt ở phố Cốtxnônơri với các túi áo đầy đạn súng trường. Nhiều bót gác bị tấn công. Một trung đoàn giáp kỵ, có tướng Cavenhắc[277] đơ Baranhơ đi đầu, vừa đến đầu phố Béctanh - Poarê thì bị một loạt súng dữ dội và bất ngờ bắn đón. Phố Plăngsơ Mibrê, từ các mái nhà người ta vất mảnh sành và nồi chảo xuống đầu binh lính. Điềm xấu rồi! Khi người ta báo cáo sự việc này cho thống chế Xun,[278] người tướng già của Napôlêông đâm ra nghĩ ngợi vì nhớ câu nói của Xuysê[279] ở Xaragốtxơ:[280] khi bọn bà già đổ bô nước tiểu của họ xuống đầu ta thì ta không còn cách gì thắng nữa!
[277] Cavaignac trong những ngày tháng 6 năm 1848 sau này, được chính phủ đệ nhị Cộng hòa giao trấn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Pari nổ ra sau cuộc thải hồi 12 vạn thợ các công xưởng đã cải biến cuộc “chiến tranh đường phố” và áp dụng phổ biến lối dùng đại bác bắn thia lia đạn ghém vào các chiến lũy, tàn sát nghĩa quân và dân phố. Hắn bị nhân dân oán ghét và Mác lên án trong cuốn “Ngày 18 tháng sa mù của Luy Bôngpác”.
[278] Soult: tướng của Napôlêông trước cầm quân xâm lược Tây Ban Nha, lúc này làm bộ trưởng bộ chiến tranh.
[279] Suchet: tướng của Napôlêông từng chiến đấu ở Tây Ban Nha.
[280] Thành phố ở Tây Ban Nha, đã chống cự oanh liệt quân của Napôlêông.
Những triệu chứng chung hiện ra trong lúc người ta nghĩ rằng cuộc bạo động đã bị giới hạn, cơn sốt giận dữ đã trở lại thắng thế, những tàn đóm bay đây đó trên những đống nhiên liệu sâu dày là những khu ngoại ô, tất cả những cái đó khiến cho các tướng lĩnh lo ngại. Họ phải vội vã dập tắt những đám cháy bắt đầu kia. Họ hoãn cuộc tấn công vào các chiến lũy ở Môbuyê, Săngvrơri và Xanh Meri lại, cho đến khi diệt câm các đám nổ nhỏ kia xong, để rồi lúc ấy chỉ còn đối phó với các chiến lũy kia mà thôi, và có thể đập tan cả trong một trận. Họ tung nhiều đoàn quân vào các đường phố đang lên men, quét các phố lớn, sục sạo các phố nhỏ, xông trái, tạt phải, khi thì từ từ và thận trọng, khi thì xung phong. Bộ binh phá cửa các nhà đã bắn ra, trong lúc đó kỵ binh hành quân giải tán các đám đông trên đại lộ. Cuộc trấn áp dĩ nhiên là ồn ào và không tránh khỏi tiếng huyên náo đổ vỡ, đặc biệt khi có xung đột giữa nhân dân và quân đội. Đó là tiếng Ănggiônrátx đã nghe thấy giữa các loạt súng trường và súng đại bác cách quãng. Ngoài ra, anh có thấy những cáng tải thương đi qua ở cuối phố và anh nói với Cuốcphêrắc: - Những thương binh đó không do ta bắn.
Hy vọng không được lâu, ánh sáng tắt nhanh chóng. Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, ánh rạng trên không trung đã biến mất, như một ánh chớp không có sét đánh. Và nghĩa quân cảm thấy tấm áo chì lại đè xuống người họ. Tấm áo chì làm bằng sự hờ hững của nhân dân đối với những kẻ cố thủ bị bỏ rơi.
Cuộc vùng dậy rộng lớn hiện ra lờ mờ rồi tắt non mất, và bây giờ tâm trí bộ trưởng bộ chiến tranh cũng như chiến lược các tướng lĩnh tập trung vào ba hay bốn cái chiến lũy còn đứng vững.
Mặt trời đã lên cao.
Một nghĩa quân gọi Ănggiônrátx:
- Đói lắm. Như thế này thì chúng ta sẽ chết mà không được ăn hay sao?
Ănggiônrátx vẫn chồm trên quãng xẻ ở đầu tường, mắt không rời đầu kia đường phố, gật đầu đáp lại.
XIV
TÌNH NHÂN CỦA ĂNGGIÔNRÁTX
Cuốcphêrắc ngồi bên cạnh Ănggiônrátx trên một phiến đá. Chàng tiếp tục mắng khẩu đại bác. Mỗi lần cái đám mây mù đạn ghém bay qua, chàng lại chào đón bằng một chuỗi cười chế nhạo.
- Bố già vũ phu ơi! Bố ráng gân cổ mà gào làm gì, phí hơi vô ích thôi, bố làm tôi đau lòng quá. Sấm sét gì cái trò ấy; chẳng khác gì như người ta ho.
Và chung quanh, mọi người cười.
Nguy hiểm càng gần, Cuốcphêrắc và Bốtxuyê càng vui tợn. Cả hai đều lấy pha trò thay cho bữa ăn như bà Xcarông, và vì thiếu rượu nên lại cứ rót tràn cái vui tính mời mọi người cùng uống.
- Tớ phục Ănggiônrátx, Bốtxuyê nói. Cái dũng cảm không xê dịch của cậu ấy, khiến tớ kính phục vô hạn. Cậu ấy sống một thân một mình, có lẽ vì thế mà hơi buồn. Cậu ta than thở rằng phẩm cách làm cậu ta phải chịu cô đơn. Bọn mình thì đều có ít nhiều những con tình nhân làm cho mình hóa điên hóa dại, nghĩa là rất can đảm. Biết si tình như một con hổ thì tốt nhất cũng phải biết đánh nhau như một con sư tử chứ! Đó là một cách để trả thù những đòn của các cô gái lẳng. Rôlăng hy sinh tính mệnh để làm cho Ănggiônrátx phải tức tối. Mọi cử chỉ anh hùng của ta đều do phụ nữ mà ra cả. Đàn ông mà không có người yêu thì cũng như cây súng không cò. Có đàn bà, đàn ông mới nổ. Thế mà Ănggiônrátx lại không có đàn bà. Cậu ta chả mê cô nào cả mà đồng thời lại táo bạo như lửa thì thật là một chuyện kỳ lạ.
Ănggiônrátx có vẻ như không nghe thấy gì. Nhưng ai ở bên cạnh bấy giờ chắc đã nghe chàng lẩm bẩm trong miệng “Tổ quốc”.[281]
[281] Nguyên văn: Patria, tiếng Latinh.
Bốtxuyê còn đang cười thì Cuốcphêrắc reo to:
- Có cái mới anh em ơi!
Lấy giọng mõ tòa, chàng nói thêm:
- Tôi tên là Pháo Tám mươi.
Quả thật, một nhân vật mới vừa ra sân khấu. Đó là khẩu đại bác thứ hai.
Bọn pháo binh vận chuyển rất nhanh, đặt khẩu đại bác thứ hai này vào vị trí chiến đấu bên cạnh khẩu thứ nhất.
Giai đoạn kết thúc đã thấy bắt đầu hiện ra.
Một lúc sau, hai khẩu pháo nạp đạn liên tiếp, nhanh nhẹn bắn vào mặt tiền pháo đài. Súng trường của đội quân chính quy và quốc dân quân ngoại ô bắn thêm từng loạt để yểm hộ.
Xa xa cũng nghe có tiếng đại bác. Trong lúc hai khẩu pháo này nhả đạn vào chiến lũy phố Săngvrơri ở đây thì hai khẩu khác, một khẩu đặt ở phố Ôbri, nhằm giã vào chiến lũy Xanh Meri. Bốn khẩu nơi hô nơi ứng nghe rất ghê rợn.
Những con chó đen tối của chiến tranh đó gào sủa đối đáp nhau.
Hai khẩu bắn vào chiến lũy Săngvrơri thì một bắn đạn to, một bắn đạn ghém.
Khẩu bắn đạn to chĩa nòng hơi cao một tí và nhắm sao cho viên đạn trúng ngay vào mép cao nhất của chiến lũy, làm cho nó bị ria nham nhở và bắn tung các mảnh đá vụn vào nghĩa quân như đạn ghém.
Cách bắn ấy mục đích làm cho nghĩa quân phải rời xa đỉnh chiến lũy và buộc họ phải dồn vào bên trong. Điều đó báo hiệu cuộc xung phong vào chiến lũy.
Khi đạn to đã làm cho các chiến sĩ không ở được trên đỉnh chiến lũy và khi đạn ghém đã làm cho họ phải rời các cửa sổ quán rượu, thì các toán quân tấn công có thể xông vào giữa đường phố mà không sợ bị ai nhắm bắn, và có thể là không sợ ai thấy nữa. Cứ thế bất thình lình leo lên pháo đài, như hồi đầu hôm, và biết đâu không chiếm lấy bất ngờ. Ănggiônrátx nói:
- Nhất định phải làm cho hai khẩu đại bác bớt làm rầy ta mới được. Chàng thét: bắn vào bọn pháo binh.
Ai nấy đều sẵn sàng. Từ lâu phải im lặng, cả chiến lũy bỗng nổ súng như điên như cuồng, bảy tám loạt nối liền nhau như căm hờn như reo vui. Khói mù phủ đầy cả đường phố. Vài phút sau, qua làn mây mù rạch ánh lửa đạn lập lòe, người ta thấy lờ mờ đến hai phần ba số pháo thủ ngã gục bên bánh xe và các khẩu pháo. Bọn còn sót lại cứ bình tĩnh, nghiêm nghị, tiếp tục lắp đạn bắn, nhưng bắn chậm đi nhiều. Bốtxuyê bảo Ănggiônrátx:
- Như thế là tốt. Thắng lợi.
Ănggiônrátx lắc đầu đáp:
- Cứ thắng lợi kiểu ấy mười lăm phút nữa thì cả chiến lũy không còn lấy mươi viên đạn.
Câu nói ấy hình như đã lọt vào tai Gavrốt.
XV
GAVRỐT RA NGOÀI
Chợt Cuốcphêrắc trông thấy có ai dưới chiến lũy ở phía ngoài, trên đường phố, trong luồng đạn của quân địch.
Đó là Gavrốt. Gavrốt đã xách một chiếc giỏ đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Cuốcphêrắc kêu hỏi:
- Chú làm gì đấy?
Gavrốt ngẩng đầu lên đáp:
- Tôi hốt cho đầy giỏ, đồng chí ạ.
- Chú không thấy đạn vãi ra đó ư?
- Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao?
Cuốcphêrắc thét:
- Đi vào!
- Lát nữa đã.
Gavrốt buông gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Ai cũng nhớ rằng trước đây, đại đội Phanicô trong khi rút lui đã bỏ lại dọc đường một dây xác chết.
Khoảng hai mươi người nằm rải rác đây đó suốt chiều dài đường phố. Nghĩa là hai mươi cái bị cho Gavrốt trút. Và một số đạn để tiếp tế cho nghĩa quân.
Khói súng lởn vởn trong thành phố như một đám sa mù, bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao, trông nó lại càng dày đặc, giống như một đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa ra thay chừng ấy, do đó không gian càng lâu càng mờ mịt mặc dầu giữa ban ngày trời cũng hóa tối sầm. Con đường rất ngắn, nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ hai bên ở đầu phố cuối phố khó mà trông thấy nhau.
Có lẽ những người chỉ huy cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao, nó cũng rất có lợi cho Gavrốt.
Hình thù đã nhỏ bé, lại lẩn trong làn khói, nhờ vậy Gavrốt tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy tám cái bị đầu một cách yên ổn.
Chú nằm bẹp xuống lết, chú chống hai tay hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ trong mồm để lướt tới, chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như con rắn, chú bò từ xác này sang xác khác, chú mở cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào.
Chú đi cũng chưa xa chiến lũy là mấy, nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý nhìn thấy chú.
Chú tìm thấy một bì thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ.
Cái này để dành lúc khát.
Chú vừa nói thế, vừa tước bì thuốc bỏ túi.
Vì tiến lên quá xa, chú đã đến cái quãng mà khói súng bắt đầu thưa sáng.
Lúc bấy giờ bọn lính chính quy xếp hàng sau chồng đá và bọn pháo thủ ngoại ô dồn ở góc phố đột nhiên chỉ trỏ cho nhau xem một vật gì động đậy trong khói.
Khi Gavrốt dốc bị của một tên trung sĩ nằm trên trụ đá thì một viên đạn bắn trúng xác tên đó. Gavrốt nói:
- Ái chà! Chúng giết cả những xác chết!
Một viên đạn thứ hai làm cho tảng đá bên cạnh chú tóe lửa. Lại viên nữa lật đổ chiếc giỏ.
Gavrốt nhìn lên và thấy đạn đi từ phía quân ngoại ô.
Chú đứng thẳng người lên, tóc bay trước gió, hai tay chống nạnh, mắt đăm đăm nhìn bọn quốc dân quân đang bắn, và chú hát:
Bởi cụ Vônte
Nên bọn Năngte
Mặt mày xấu xí.
Sự quá vô lý
Là tụi Paledô,
Chúng ngu như bò
Vì bác Giăng Giắc.
Rồi Gavrốt xách giỏ lên, nhặt những viên đạn rơi ra ngoài phố vào giỏ, không sót viên nào, và chú tiến về phía súng bắn để moi lấy đạn ở bị khác.
Lúc này một viên đạn thứ tư bay đến, nhưng vẫn không trúng chú. Chú lại hát:
Ta làm chim non
Không làm thừa lại,
Lỗi này bởi tại
Ông cụ Vônte
Ta làm chim non
Ta ca véo von
Vì bác Giăng Giắc.
Viên đạn thứ năm chỉ đem lại kết quả là làm cho Gavrốt hát một khúc thứ ba nữa:
Tính ta vui vẻ
Sự ấy có lẽ
Bởi cụ Vônte.
Áo ta rách xơ
Quần ta rách xác
Sự này tại bác
Giăng Giắc Rútxô.
Tình thế ấy cứ tiếp diễn một thời gian.
Cảnh tượng trông thật là ghê rợn mà cũng thật là hấp dẫn. Gavrốt làm bia cho súng đạn, mà lại đùa với súng đạn. Chú có vẻ thích thú lắm. Đó là một con chim sẻ quẹt mỏ mổ người đi săn. Cứ nghe một tiếng súng, chú trả lời bằng một khúc hát. Họ luôn luôn ngắm chú mà bắn, và họ luôn luôn bắn trượt. Quốc dân quân và quân chính quy vừa cười vừa ngắm bắn chú. Chú nằm xuống, chú đứng lên, chú lẩn sau hốc cửa rồi thình lình nhảy ra, chú ẩn, chú hiện, chú chạy đi rồi quay trở lại, chú xỉa tay lên mũi nhạo những tên bắn chú và trong lúc ấy, chú không ngừng lụm lấy đạn bỏ đầy giỏ. Nghĩa quân trông theo chú hồi hộp, cả chiến lũy run sợ, mà chú thì nhởn nhơ ca hát.
Chú không phải là trẻ con; chú không phải là người lớn. Chú là một trẻ ranh thần tiên. Trông chú người ta nghĩ đến thằng lùn không thể xâm phạm trong cuộc ẩu chiến. Đạn chạy theo chú nhưng chú nhanh hơn đạn. Chú đương chơi một trò ú tim khủng khiếp với thần chết. Mỗi khi viên đạn thần tẹt mũi ấy đến gần, thì chú bé lại búng hắn một cái.
Nhưng cuối cùng, một phát đạn ngắm đúng hơn, hoặc giảo hoạt hơn đã tin phải chú bé ma trơi. Chú lảo đảo rồi ngã quị xuống. Toàn thể chiến lũy hét lên một tiếng. Nhưng chú lùn ấy lại có cái đặc tính của Ăngtê.[282] Chú bé lang thang của Pari khi da thịt chạm mặt đường thì cũng như người khổng lồ Ăngtê chạm mặt đất. Chú ngã xuống chỉ để mà chồm lên. Chú ngồi thẳng người, một dòng máu đỏ chảy dọc mặt chú. Chú đưa hai tay lên trời, nhìn về phía bọn bắn súng, cất tiếng hát:
Ta ngã trên hè
Tại cụ Vônte
Mũi ta chảy nước
Vì bác…
[282] Antée theo thần thoại Hy-La là một thần khổng lồ có đặc tính là khi ngã xuống đất lại phục hồi sức lực, vùng lên mạnh mẽ hơn.
Chú hát không hết. Một viên đạn thứ hai cũng của tên lính ấy đã làm cho chú câm bặt. Lần này chú ngã sấp mặt xuống đường, không động đậy nữa. Linh hồn bé bỏng vĩ đại ấy đã bay về trời.
HỖN ĐỘN BẢO VỆ CHO TRẬT TỰ
Bốtxuyê nói thầm vào tai Côngbơphe:
- Hắn không trả lời tôi.
- Đó là một con người làm việc thiện bằng súng. Côngbơphe đáp.
Ai còn giữ kỷ niệm về cái thời đã xa xôi ấy đều biết bọn quốc dân quân ngoại ô đã đánh lại các cuộc bạo khởi một cách can đảm. Nó đặc biệt hăng máu và gan dạ trong những ngày tháng sáu 1832. Bạo khởi đã khiến cho “doanh nghiệp” của hắn ta đóng cửa, thì cái lão chủ quán hiền lành ở bất cứ phố Păngtanh, phố Véctu hay phố Quynét, đã trở thành dữ như hùm khi thấy phòng nhảy của mình trống không và quyết tử chiến đấu để bảo vệ cho trật tự xã hội, tượng trưng ở cái quán rượu. Ở cái thời vừa tầm thường vừa oanh liệt đó, đối diện với những hiệp sĩ của tư tưởng là những tráng sĩ của quyền lợi. Động cơ tuy tầm thường nhưng hành động vẫn là dũng cảm. Chồng bạc bớt chiều cao làm cho các chủ ngân hàng hát khúc Mácxâyde. Người ta đổ máu một cách tình tứ cho cái quầy đếm bạc, và người ta bảo vệ với một hào khí cổ đại cái tổ quốc thu nhỏ ở cái hiệu buôn kia.
Phải nói rằng suy cho cùng thì tất cả những cái ấy đều có lý do nghiêm túc. Đó là sự xung đột của các nhân tố xã hội trong khi chờ đạt thế cân bằng.
Một dấu hiệu khác của thời đại là tình trạng vô chính phủ trong phái chính phủ (“phái chính phủ” là cái tên dã man của đảng nghiêm chỉnh). Người ta ủng hộ trật tự một cách vô kỷ luật. Theo lệnh của một đại tá quốc dân quân nào đó, trống tập đánh liên hồi, tùy sở thích, đại úy này xông vào vòng lửa đạn tùy hứng, quốc dân quân nọ chiến đấu vì lý tưởng và vì quyền lợi của riêng mình. Trong những giờ phút khủng hoảng, trong những “ngày” dân biến, người ta tuần theo bản năng hơn là mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Trong đạo quân bảo vệ trật tự, có những dân quân du kích thực sự, du kích bằng lưỡi gươm như Phannicô, hoặc du kích bằng ngòi bút như Hăngri Phôngphređơ.
Văn minh - hại thay văn minh vào thời ấy là một kết hợp những quyền lợi chứ không phải là một kết hợp những nguyên lý - văn minh đang lâm nguy hay tưởng là lâm nguy. Nó kêu báo động; ai cũng trở thành một trung tâm và lo bảo vệ nó, viện trợ nó, che chở nó theo cách của mình. Người nào cũng tự nhận có nhiệm vụ cứu vãn xã hội.
Một đôi khi vì tích cực mà họ gây ra thảm họa tàn sát. Một toán quốc dân quân nào đó đã tự ban cái quyền lập tòa án binh và trong năm phút đã xét xử và hành quyết trong trường hợp họ nảy ra một sáng kiến tương tự như vậy. Đó là cái luật Lynsơ[273] dữ tợn mà không một phái nào có quyền trách cứ các phái khác bởi vì nếu phái cộng hòa áp dụng nó ở Mỹ thì phái dân chủ áp dụng nó ở châu Âu. Luật Lynsơ đã vậy lại còn thêm tai hại do những lầm lẫn nữa. Trong một ngày bạo khởi, nhà thơ trẻ Pôn Emê Gácniê bị người ta vác lưỡi lê đuổi bắt tại quảng trường Rôian, may nhờ trốn vào cái cổng xe nhà số 6 mà thoát nạn. Những người săn đuổi thét: - Hắn cũng là một thằng Xanh Ximông[274] nữa! Và muốn giết anh. Chỉ vì anh ta cắp nách một cuốn hồi ký của công tước Xanh Ximông.[275]
[273] Luật Lynch: một điều luật tố tụng ở Hoa Kỳ cho phép công chúng bắt, xét xử và hành quyết ngay người phạm tội. Hiện người da đen vẫn còn là nạn nhân của tập quán do điều luật này gây ra. (xem “Hành trình kiểu Lynsơ” Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh tuyển tập – Sự thật Hà Nội, 1960).
[274] Người theo chủ nghĩa Xanh Ximông. Bá tước Xanh Ximông (Saint-Simon) sống vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nhà triết học, là một trong những người khởi xướng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
[275] Công tước Saint-Simon, nhà văn, đã để lại những cuốn hồi ký hấp dẫn về đời sống và hoạt động của quý tộc quãng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Một quốc dân quân đã đọc thấy cái tên Xanh Ximông trên bìa sách và thế là hắn kêu: Sát! Sát!
Ngày 6 tháng sáu năm 1832, một đại đội quốc dân quân ngoại ô do đại úy Phannicô - người mà chúng tôi đã nói ở trên - chỉ huy, đã vì cao hứng mà tự nguyện nướng quân ở phố Săngvrơri: chuyện này tuy kỳ lạ, nhưng đã được xác nhận bởi cuộc điều tra tư pháp sau vụ khởi nghĩa năm 1832. Đại úy Phannicô là một anh tư sản nóng nảy và táo bạo, một thứ lính đánh thuê của nền trật tự xã hội, trong loại mà chúng tôi vừa nêu ra, một anh thuộc phái chính phủ, cuồng tín và vô kỷ luật. Phannicô lấy làm thích thú được nổ súng trước giờ và có tham vọng chỉ một mình, nghĩa là với đại đội của y, hạ chiến lũy. Tức tối vì thấy lá cờ đỏ và cái áo dạ cũ, mà anh cho là một lá cờ đen, thay nhau xuất hiện, anh chỉ trích công khai các tướng lĩnh và tư lệnh binh đoàn. Vì những vị này hội ý với nhau thấy chưa phải lúc tiến công và nên để cho “cuộc khởi nghĩa rệu rã”, theo cách nói được truyền tụng của một người trong bọn họ. Riêng đại úy thì nghĩ rằng cái chiến lũy đã chín muồi rồi, cái gì cũng phải rụng, cho nên y chọc thử.
Những người y chỉ huy là những người cũng quả quyết như y, những người “hăng máu”, như một nhân chứng đã gọi. Chính đại đội của y đã bắn Giăng Pruve. Đó là đại đội I của cái tiểu đoàn dân quân ở góc phố. Lúc bất ngờ nhất, đại úy xua quân lên đánh vào chiến lũy. Cuộc hành quân nhiều thành ý mà thiếu chiến lược này đã gây tổn thất lớn cho đại đội. Tiến chưa được hai phần ba đường phố, nó đã được một loạt súng từ chiến lũy chặn đón. Bốn tên lính trong số gan dạ nhất, chạy hàng đầu, bị đạn tầm gần ngã quay quay dưới chân chiến lũy. Đám quốc dân quân can đảm mà ô hợp, gồm những người bạo gan nhưng không kiên gan như quân nhân, sau mấy phút do dự, đã tháo lui, bỏ lại trên mặt đường mười lăm xác chết. Những phút do dự đó đủ để nghĩa quân nạp lại đạn vào súng. Và thế là một loạt đạn thứ hai vô cùng lợi hại đã vãi vào đại đội trước khi nó trở về tới góc phố và là nơi ẩn nấp. Trong một lúc, đại đội đã bị kẹt giữa hai luồng đạn vì cỗ súng đại bác không nhận được lệnh, vẫn không ngừng bắn và đạn ghém của nó xả vào đại đội. Anh chàng Phannicô táo tợn và dại dột là một trong những người chết vì đạn ghém. Khẩu đại bác, tức là trật tự, đã giết anh ta.
Cuộc xung kích điên cuồng vô cùng hiệu lực ấy làm cho Ănggiônrátx bực tức. Anh nói: - Cái lũ ngu! Chúng hy sinh người của chúng và làm tổn hại đạn dược của ta mà chẳng ích lợi gì!
Ănggiônrátx nói năng đúng như một tướng chỉ huy bạo động. Quân khởi nghĩa và quân đàn áp khí giới không đồng đều. Nghĩa quân chỉ có một số đạn nhất định để bắn và một số chiến sĩ nhất định để hy sinh, do đó chóng bị hao hụt. Một túi đạn trút sạch, một con người ngã xuống đều không thay thế được. Cánh trấn áp thì không cần tính số người vì có cả quân đội, không cần tính số đạn vì có kho đạn Vanhxen. Nghĩa quân có bao nhiêu chiến sĩ thì quân trấn áp có bấy nhiêu trung đoàn, nghĩa quân có bao nhiêu đạn thì quân trấn áp có bấy nhiêu kho thuốc đạn. Cho nên những cuộc chiến đấu một chống trăm này luôn luôn kết thúc bằng sự hủy diệt của các chiến lũy, trừ khi cách mạng đột nhiên đứng dậy ném vào cán cân lực lượng cây gươm thần rực lửa của mình. Điều đó từng xảy ra. Lúc đó tất cả đều đứng lên, đá đường sôi sục, chiến lũy nhân dân mọc lên tua tủa. Pari rung động oai hùng, lửa thiêng[276] xuất hiện, một ngày 10 tháng Tám bàng bạc trong không khí, một ngày 29 tháng Bảy bàng bạc trong không khí. Một ánh sáng thần kỳ tỏa ra, cái mõm há hốc của vũ lực lùi lại, và con sư tử quân đội nhìn thấy, ở trước đầu mình, nhà tiên tri, bình tĩnh và vững chãi, nước Pháp.
[276]
XIII
ÁNH SÁNG LƯỚT QUA
Gì cũng có trong mớ tình cảm và nhiệt tình hỗn độn của những người bảo vệ một chiến lũy: dũng cảm, trẻ trung, danh dự, hưng phấn, lý tưởng, tin tưởng, tình trạng say máu của người đánh bạc, nhất là những cơn hy vọng.
Vào lúc không ai chờ đợi thì một cơn hy vọng, một luồng tin tưởng rung động như vậy đã đến bất thình lình với chiến lũy Săngvrơri. Ănggiônrátx luôn luôn nghe ngóng bỗng dưng kêu lên:
- Hãy lắng tai xem, hình như Pari đã tỉnh dậy.
Quả là trong buổi sớm ngày 6 tháng sáu, cuộc khởi nghĩa có tăng mức độ chút ít. Chuông để liên hồi ở nhà thờ Xanh Meri có thổi nóng lên một số mong muốn mơ hồ. Một số chiến lũy bắt đầu nhóm lên ở phố Poariê và phố Graviliê. Trước cửa đài Xanh Máctanh, một chàng thanh niên với chỉ một cây súng, đã tấn công vào cả một tiểu đoàn kỵ binh. Trống trải giữa đại lộ, anh ta quỳ gối, nâng súng lên vai bắn chết viên tiểu đoàn trưởng và quay lại nói: Thế là thêm một thằng không thể giết hại chúng ta. Anh bị băm chết. Ở phố Xanh Đơni, một phụ nữ sập cửa chớp, nép ở sau để bắn vào một đội cảnh vệ thành phố. Cứ mỗi phát súng bắn ra là thấy các lá chớp rung động. Một chú bé mười bốn bị bắt ở phố Cốtxnônơri với các túi áo đầy đạn súng trường. Nhiều bót gác bị tấn công. Một trung đoàn giáp kỵ, có tướng Cavenhắc[277] đơ Baranhơ đi đầu, vừa đến đầu phố Béctanh - Poarê thì bị một loạt súng dữ dội và bất ngờ bắn đón. Phố Plăngsơ Mibrê, từ các mái nhà người ta vất mảnh sành và nồi chảo xuống đầu binh lính. Điềm xấu rồi! Khi người ta báo cáo sự việc này cho thống chế Xun,[278] người tướng già của Napôlêông đâm ra nghĩ ngợi vì nhớ câu nói của Xuysê[279] ở Xaragốtxơ:[280] khi bọn bà già đổ bô nước tiểu của họ xuống đầu ta thì ta không còn cách gì thắng nữa!
[277] Cavaignac trong những ngày tháng 6 năm 1848 sau này, được chính phủ đệ nhị Cộng hòa giao trấn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Pari nổ ra sau cuộc thải hồi 12 vạn thợ các công xưởng đã cải biến cuộc “chiến tranh đường phố” và áp dụng phổ biến lối dùng đại bác bắn thia lia đạn ghém vào các chiến lũy, tàn sát nghĩa quân và dân phố. Hắn bị nhân dân oán ghét và Mác lên án trong cuốn “Ngày 18 tháng sa mù của Luy Bôngpác”.
[278] Soult: tướng của Napôlêông trước cầm quân xâm lược Tây Ban Nha, lúc này làm bộ trưởng bộ chiến tranh.
[279] Suchet: tướng của Napôlêông từng chiến đấu ở Tây Ban Nha.
[280] Thành phố ở Tây Ban Nha, đã chống cự oanh liệt quân của Napôlêông.
Những triệu chứng chung hiện ra trong lúc người ta nghĩ rằng cuộc bạo động đã bị giới hạn, cơn sốt giận dữ đã trở lại thắng thế, những tàn đóm bay đây đó trên những đống nhiên liệu sâu dày là những khu ngoại ô, tất cả những cái đó khiến cho các tướng lĩnh lo ngại. Họ phải vội vã dập tắt những đám cháy bắt đầu kia. Họ hoãn cuộc tấn công vào các chiến lũy ở Môbuyê, Săngvrơri và Xanh Meri lại, cho đến khi diệt câm các đám nổ nhỏ kia xong, để rồi lúc ấy chỉ còn đối phó với các chiến lũy kia mà thôi, và có thể đập tan cả trong một trận. Họ tung nhiều đoàn quân vào các đường phố đang lên men, quét các phố lớn, sục sạo các phố nhỏ, xông trái, tạt phải, khi thì từ từ và thận trọng, khi thì xung phong. Bộ binh phá cửa các nhà đã bắn ra, trong lúc đó kỵ binh hành quân giải tán các đám đông trên đại lộ. Cuộc trấn áp dĩ nhiên là ồn ào và không tránh khỏi tiếng huyên náo đổ vỡ, đặc biệt khi có xung đột giữa nhân dân và quân đội. Đó là tiếng Ănggiônrátx đã nghe thấy giữa các loạt súng trường và súng đại bác cách quãng. Ngoài ra, anh có thấy những cáng tải thương đi qua ở cuối phố và anh nói với Cuốcphêrắc: - Những thương binh đó không do ta bắn.
Hy vọng không được lâu, ánh sáng tắt nhanh chóng. Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ, ánh rạng trên không trung đã biến mất, như một ánh chớp không có sét đánh. Và nghĩa quân cảm thấy tấm áo chì lại đè xuống người họ. Tấm áo chì làm bằng sự hờ hững của nhân dân đối với những kẻ cố thủ bị bỏ rơi.
Cuộc vùng dậy rộng lớn hiện ra lờ mờ rồi tắt non mất, và bây giờ tâm trí bộ trưởng bộ chiến tranh cũng như chiến lược các tướng lĩnh tập trung vào ba hay bốn cái chiến lũy còn đứng vững.
Mặt trời đã lên cao.
Một nghĩa quân gọi Ănggiônrátx:
- Đói lắm. Như thế này thì chúng ta sẽ chết mà không được ăn hay sao?
Ănggiônrátx vẫn chồm trên quãng xẻ ở đầu tường, mắt không rời đầu kia đường phố, gật đầu đáp lại.
XIV
TÌNH NHÂN CỦA ĂNGGIÔNRÁTX
Cuốcphêrắc ngồi bên cạnh Ănggiônrátx trên một phiến đá. Chàng tiếp tục mắng khẩu đại bác. Mỗi lần cái đám mây mù đạn ghém bay qua, chàng lại chào đón bằng một chuỗi cười chế nhạo.
- Bố già vũ phu ơi! Bố ráng gân cổ mà gào làm gì, phí hơi vô ích thôi, bố làm tôi đau lòng quá. Sấm sét gì cái trò ấy; chẳng khác gì như người ta ho.
Và chung quanh, mọi người cười.
Nguy hiểm càng gần, Cuốcphêrắc và Bốtxuyê càng vui tợn. Cả hai đều lấy pha trò thay cho bữa ăn như bà Xcarông, và vì thiếu rượu nên lại cứ rót tràn cái vui tính mời mọi người cùng uống.
- Tớ phục Ănggiônrátx, Bốtxuyê nói. Cái dũng cảm không xê dịch của cậu ấy, khiến tớ kính phục vô hạn. Cậu ấy sống một thân một mình, có lẽ vì thế mà hơi buồn. Cậu ta than thở rằng phẩm cách làm cậu ta phải chịu cô đơn. Bọn mình thì đều có ít nhiều những con tình nhân làm cho mình hóa điên hóa dại, nghĩa là rất can đảm. Biết si tình như một con hổ thì tốt nhất cũng phải biết đánh nhau như một con sư tử chứ! Đó là một cách để trả thù những đòn của các cô gái lẳng. Rôlăng hy sinh tính mệnh để làm cho Ănggiônrátx phải tức tối. Mọi cử chỉ anh hùng của ta đều do phụ nữ mà ra cả. Đàn ông mà không có người yêu thì cũng như cây súng không cò. Có đàn bà, đàn ông mới nổ. Thế mà Ănggiônrátx lại không có đàn bà. Cậu ta chả mê cô nào cả mà đồng thời lại táo bạo như lửa thì thật là một chuyện kỳ lạ.
Ănggiônrátx có vẻ như không nghe thấy gì. Nhưng ai ở bên cạnh bấy giờ chắc đã nghe chàng lẩm bẩm trong miệng “Tổ quốc”.[281]
[281] Nguyên văn: Patria, tiếng Latinh.
Bốtxuyê còn đang cười thì Cuốcphêrắc reo to:
- Có cái mới anh em ơi!
Lấy giọng mõ tòa, chàng nói thêm:
- Tôi tên là Pháo Tám mươi.
Quả thật, một nhân vật mới vừa ra sân khấu. Đó là khẩu đại bác thứ hai.
Bọn pháo binh vận chuyển rất nhanh, đặt khẩu đại bác thứ hai này vào vị trí chiến đấu bên cạnh khẩu thứ nhất.
Giai đoạn kết thúc đã thấy bắt đầu hiện ra.
Một lúc sau, hai khẩu pháo nạp đạn liên tiếp, nhanh nhẹn bắn vào mặt tiền pháo đài. Súng trường của đội quân chính quy và quốc dân quân ngoại ô bắn thêm từng loạt để yểm hộ.
Xa xa cũng nghe có tiếng đại bác. Trong lúc hai khẩu pháo này nhả đạn vào chiến lũy phố Săngvrơri ở đây thì hai khẩu khác, một khẩu đặt ở phố Ôbri, nhằm giã vào chiến lũy Xanh Meri. Bốn khẩu nơi hô nơi ứng nghe rất ghê rợn.
Những con chó đen tối của chiến tranh đó gào sủa đối đáp nhau.
Hai khẩu bắn vào chiến lũy Săngvrơri thì một bắn đạn to, một bắn đạn ghém.
Khẩu bắn đạn to chĩa nòng hơi cao một tí và nhắm sao cho viên đạn trúng ngay vào mép cao nhất của chiến lũy, làm cho nó bị ria nham nhở và bắn tung các mảnh đá vụn vào nghĩa quân như đạn ghém.
Cách bắn ấy mục đích làm cho nghĩa quân phải rời xa đỉnh chiến lũy và buộc họ phải dồn vào bên trong. Điều đó báo hiệu cuộc xung phong vào chiến lũy.
Khi đạn to đã làm cho các chiến sĩ không ở được trên đỉnh chiến lũy và khi đạn ghém đã làm cho họ phải rời các cửa sổ quán rượu, thì các toán quân tấn công có thể xông vào giữa đường phố mà không sợ bị ai nhắm bắn, và có thể là không sợ ai thấy nữa. Cứ thế bất thình lình leo lên pháo đài, như hồi đầu hôm, và biết đâu không chiếm lấy bất ngờ. Ănggiônrátx nói:
- Nhất định phải làm cho hai khẩu đại bác bớt làm rầy ta mới được. Chàng thét: bắn vào bọn pháo binh.
Ai nấy đều sẵn sàng. Từ lâu phải im lặng, cả chiến lũy bỗng nổ súng như điên như cuồng, bảy tám loạt nối liền nhau như căm hờn như reo vui. Khói mù phủ đầy cả đường phố. Vài phút sau, qua làn mây mù rạch ánh lửa đạn lập lòe, người ta thấy lờ mờ đến hai phần ba số pháo thủ ngã gục bên bánh xe và các khẩu pháo. Bọn còn sót lại cứ bình tĩnh, nghiêm nghị, tiếp tục lắp đạn bắn, nhưng bắn chậm đi nhiều. Bốtxuyê bảo Ănggiônrátx:
- Như thế là tốt. Thắng lợi.
Ănggiônrátx lắc đầu đáp:
- Cứ thắng lợi kiểu ấy mười lăm phút nữa thì cả chiến lũy không còn lấy mươi viên đạn.
Câu nói ấy hình như đã lọt vào tai Gavrốt.
XV
GAVRỐT RA NGOÀI
Chợt Cuốcphêrắc trông thấy có ai dưới chiến lũy ở phía ngoài, trên đường phố, trong luồng đạn của quân địch.
Đó là Gavrốt. Gavrốt đã xách một chiếc giỏ đựng chai trong quán rượu, rồi luồn qua khe hở mà ra ngoài. Bây giờ thì chú điềm nhiên lật bị của bọn quốc dân quân chết trên bờ lũy mà trút đạn vào giỏ. Cuốcphêrắc kêu hỏi:
- Chú làm gì đấy?
Gavrốt ngẩng đầu lên đáp:
- Tôi hốt cho đầy giỏ, đồng chí ạ.
- Chú không thấy đạn vãi ra đó ư?
- Ừ thì như mưa đấy. Thế thì sao?
Cuốcphêrắc thét:
- Đi vào!
- Lát nữa đã.
Gavrốt buông gọn lỏn có thế rồi đi sâu vào đường phố. Ai cũng nhớ rằng trước đây, đại đội Phanicô trong khi rút lui đã bỏ lại dọc đường một dây xác chết.
Khoảng hai mươi người nằm rải rác đây đó suốt chiều dài đường phố. Nghĩa là hai mươi cái bị cho Gavrốt trút. Và một số đạn để tiếp tế cho nghĩa quân.
Khói súng lởn vởn trong thành phố như một đám sa mù, bị dồn lại giữa hai dãy nhà cao, trông nó lại càng dày đặc, giống như một đám mây lọt vào thung lũng, giữa hai sườn núi dựng đứng. Nó bốc lên chầm chậm, bốc lên chừng nào thì dưới chân đã có khói mới tỏa ra thay chừng ấy, do đó không gian càng lâu càng mờ mịt mặc dầu giữa ban ngày trời cũng hóa tối sầm. Con đường rất ngắn, nhưng qua đám mây mù ấy, chiến sĩ hai bên ở đầu phố cuối phố khó mà trông thấy nhau.
Có lẽ những người chỉ huy cuộc tấn công chiến lũy đã muốn tạo ra một đám khói mù như thế. Dẫu sao, nó cũng rất có lợi cho Gavrốt.
Hình thù đã nhỏ bé, lại lẩn trong làn khói, nhờ vậy Gavrốt tiến sâu vào đường phố mà không bị lộ hình. Chú dốc bảy tám cái bị đầu một cách yên ổn.
Chú nằm bẹp xuống lết, chú chống hai tay hai chân phi nước đại, chú ngậm vành giỏ trong mồm để lướt tới, chú lê, chú lết, chú trườn, chú xoay mình, chú uốn khúc như con rắn, chú bò từ xác này sang xác khác, chú mở cái bị hay cái nịt đạn như con khỉ bóc quả hạnh đào.
Chú đi cũng chưa xa chiến lũy là mấy, nhưng chẳng ai dám mở miệng gọi chú trở lại, vì sợ làm cho quân thù để ý nhìn thấy chú.
Chú tìm thấy một bì thuốc súng hình quả lê trên thây một hạ sĩ.
Cái này để dành lúc khát.
Chú vừa nói thế, vừa tước bì thuốc bỏ túi.
Vì tiến lên quá xa, chú đã đến cái quãng mà khói súng bắt đầu thưa sáng.
Lúc bấy giờ bọn lính chính quy xếp hàng sau chồng đá và bọn pháo thủ ngoại ô dồn ở góc phố đột nhiên chỉ trỏ cho nhau xem một vật gì động đậy trong khói.
Khi Gavrốt dốc bị của một tên trung sĩ nằm trên trụ đá thì một viên đạn bắn trúng xác tên đó. Gavrốt nói:
- Ái chà! Chúng giết cả những xác chết!
Một viên đạn thứ hai làm cho tảng đá bên cạnh chú tóe lửa. Lại viên nữa lật đổ chiếc giỏ.
Gavrốt nhìn lên và thấy đạn đi từ phía quân ngoại ô.
Chú đứng thẳng người lên, tóc bay trước gió, hai tay chống nạnh, mắt đăm đăm nhìn bọn quốc dân quân đang bắn, và chú hát:
Bởi cụ Vônte
Nên bọn Năngte
Mặt mày xấu xí.
Sự quá vô lý
Là tụi Paledô,
Chúng ngu như bò
Vì bác Giăng Giắc.
Rồi Gavrốt xách giỏ lên, nhặt những viên đạn rơi ra ngoài phố vào giỏ, không sót viên nào, và chú tiến về phía súng bắn để moi lấy đạn ở bị khác.
Lúc này một viên đạn thứ tư bay đến, nhưng vẫn không trúng chú. Chú lại hát:
Ta làm chim non
Không làm thừa lại,
Lỗi này bởi tại
Ông cụ Vônte
Ta làm chim non
Ta ca véo von
Vì bác Giăng Giắc.
Viên đạn thứ năm chỉ đem lại kết quả là làm cho Gavrốt hát một khúc thứ ba nữa:
Tính ta vui vẻ
Sự ấy có lẽ
Bởi cụ Vônte.
Áo ta rách xơ
Quần ta rách xác
Sự này tại bác
Giăng Giắc Rútxô.
Tình thế ấy cứ tiếp diễn một thời gian.
Cảnh tượng trông thật là ghê rợn mà cũng thật là hấp dẫn. Gavrốt làm bia cho súng đạn, mà lại đùa với súng đạn. Chú có vẻ thích thú lắm. Đó là một con chim sẻ quẹt mỏ mổ người đi săn. Cứ nghe một tiếng súng, chú trả lời bằng một khúc hát. Họ luôn luôn ngắm chú mà bắn, và họ luôn luôn bắn trượt. Quốc dân quân và quân chính quy vừa cười vừa ngắm bắn chú. Chú nằm xuống, chú đứng lên, chú lẩn sau hốc cửa rồi thình lình nhảy ra, chú ẩn, chú hiện, chú chạy đi rồi quay trở lại, chú xỉa tay lên mũi nhạo những tên bắn chú và trong lúc ấy, chú không ngừng lụm lấy đạn bỏ đầy giỏ. Nghĩa quân trông theo chú hồi hộp, cả chiến lũy run sợ, mà chú thì nhởn nhơ ca hát.
Chú không phải là trẻ con; chú không phải là người lớn. Chú là một trẻ ranh thần tiên. Trông chú người ta nghĩ đến thằng lùn không thể xâm phạm trong cuộc ẩu chiến. Đạn chạy theo chú nhưng chú nhanh hơn đạn. Chú đương chơi một trò ú tim khủng khiếp với thần chết. Mỗi khi viên đạn thần tẹt mũi ấy đến gần, thì chú bé lại búng hắn một cái.
Nhưng cuối cùng, một phát đạn ngắm đúng hơn, hoặc giảo hoạt hơn đã tin phải chú bé ma trơi. Chú lảo đảo rồi ngã quị xuống. Toàn thể chiến lũy hét lên một tiếng. Nhưng chú lùn ấy lại có cái đặc tính của Ăngtê.[282] Chú bé lang thang của Pari khi da thịt chạm mặt đường thì cũng như người khổng lồ Ăngtê chạm mặt đất. Chú ngã xuống chỉ để mà chồm lên. Chú ngồi thẳng người, một dòng máu đỏ chảy dọc mặt chú. Chú đưa hai tay lên trời, nhìn về phía bọn bắn súng, cất tiếng hát:
Ta ngã trên hè
Tại cụ Vônte
Mũi ta chảy nước
Vì bác…
[282] Antée theo thần thoại Hy-La là một thần khổng lồ có đặc tính là khi ngã xuống đất lại phục hồi sức lực, vùng lên mạnh mẽ hơn.
Chú hát không hết. Một viên đạn thứ hai cũng của tên lính ấy đã làm cho chú câm bặt. Lần này chú ngã sấp mặt xuống đường, không động đậy nữa. Linh hồn bé bỏng vĩ đại ấy đã bay về trời.