Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 10
Chương 21
Cái thói quen lầm lì im lặng của tôi khi phật ý, hay nói cho đúng hơn, cái lạnh lùng kết thành vẩy bao quanh im lặng phật ý của tôi, thường làm Valeria sợ mất vía. Cô ả thường khóc thút thít, rên rẩm nói: ”Ce qui me rend folle, c’est que je ne sais à quoi tu penses quand tu es comme ҫa* (Điều làm em phát điên, là em không biết anh nghĩ gì khi anh như thế này).” Tôi thử giở võ im lặng với Charlotte - và để xua tan im lặng của tôi, nàng chỉ tiếp tục líu lo, hoặc xoa nựng cằm tôi. Một phụ nữ kì diệu! Nếu tôi rút về căn phòng cũ của mình, giờ đây đã cải biến thành một “thư phòng” hẳn hoi; lúng búng viện cớ rằng dù sao cũng phải viết một tác phẩm, Charlotte vẫn vui vẻ tiếp tục trang hoàng nhà cửa, buôn chuyện trên điện thoại, viết thư. Từ cửa sổ phòng mình, qua vòm lá cây dương run rẩy bóng loáng, tôi có thể nhìn thấy nàng sang bên kia đường, sung sướng bỏ bức thư viết cho em gái của Miss Phalen vào hòm thư bưu điện.
Cái tuần lễ lác đác từng cơn mưa rào xen với bóng râm tiếp sau lần cuối cùng chúng tôi đến những bãi cát bất động của Hồ Hourglass là một trong những tuần lễ ảm đạm nhất tôi còn nhớ được. Rồi vụt đến hai, ba tia hi vọng mờ nhạt - trước đợt bừng nắng [1] tối hậu.
[1] Trong Who‘s Who in the Limelight (Từ điển danh nhân trong giới sân khấu), ở mục từ PYM, Roland, có ghi: “... Khởi đầu sự nghiệp với Sunburst(Bừng nắng)”. Xem ở chương 8, Phần Một.
Tôi chợt nghĩ mình có một bộ óc tinh tuờng hoạt động ngon lành, tại sao không tận dụng nó? Tuy không dám can thiệp vào những kế hoạch của vợ tôi liên quan đến con gái nàng (đang mỗi ngày một ấm nóng hơn, rám nắng hơn trong thời tiết đẹp ở nơi xa biền biệt), nhưng chắc chắn tôi có thể nghĩ ra một phương sách chung chung nào đó để tự khẳng định mình một cách chung chung nào đó khả dĩ hướng tới một cơ hội đặc biệt sau này. Một buổi tối, chính Charlotte mớm cho tôi khởi đầu cơ hội ấy.
“Em có một bất ngờ cho mình đây,” nàng vừa nói vừa nhìn tôi bằng cặp mắt âu yếm bên trên một thìa xúp. “Mùa thu này, hai chúng mình sẽ sang Anh.”
Tôi nuốt ực thìa xúp của mình, chùi môi bằng tờ giấy ăn màu hồng (Ôi, làm sao quên được loại khăn ăn mát rượi sang trọng của khách sạn Mirana!) và nói:
“Tôi cũng có một bất ngờ cho mình, mình yêu quí. Hai chúng ta sẽ không đi Anh.”
“Tại sao, có chuyện gì vậy?” nàng nói với vẻ kinh ngạc hơn cả tôi dự tính, nhìn tay tôi (tôi đang bất giác hết gấp lại xé, hết vò nhàu lại xé vụn tờ giấy ăn màu hồng vô tội). Tuy nhiên, vẻ mặt tươi cười của tôi làm nàng an tâm phần nào.
“Chuyện rất đơn giản thôi,” tôi đáp. “Ngay cả trong những gia đình hòa thuận nhất, như gia đình chúng ta đây, cũng không phải mọi sự đều do phái nữ quyết định. Có một số điều mà quyền quyết định thuộc về người chồng. Tôi hoàn toàn có thể tưởng tượng được nỗi rạo rực của mình, một cô gái Mĩ khỏe mạnh, khi vượt Đại Tây Dương trên cùng một con tàu biển với Lady Bumble - hay Sam Bumble, ông Vua Thịt Đông Lạnh, hay một ả điếm Hollywood nào đó. Và tôi không chút nghi ngờ rằng mình với tôi sẽ tạo nên một tấm áp-phích ngon lành quảng cáo cho Hãng Du Lịch khi được trung lên ảnh - mình thì mắt tròn mắt dẹt, tôi thì cố kiềm chế lòng ngưỡng mộ - nhìn ngắm những gã Lính Canh Cung Điện, hoặc Cận Vệ Đỏ Sẫm, hoặc các Beaver Eater [2], hoặc những danh xưng gì gì nữa chả biết. Nhưng tôi đây lại dị ứng với châu Âu, kể cả lão bà Anh quốc vui vẻ. Như mình biết rõ đấy, Cựu Lục Địa ruỗng nát chẳng gợi cho tôi gì khác ngoài những liên tưởng sầu não. Không một ảnh màu quảng cáo nào trong những họa báo của mình có thể thay đổi được tình hình đâu.”
[2] Từ ghép của “Beefeaters” và “Beaver”. “Beefeater” là tiếng lóng chỉ Cận vệ Hoàng gia Anh và “Beaver (hat)” chỉ loại mũ bằng lông hải li mà họ thường đội.
“Mình yêu quí,” Charlotte nói. “Em thực sự…”
“Không, khoan chút đã. Vấn đề này chỉ là thứ yếu. Điều tôi quan tâm là một xu hướng chung. Khi mình muốn tôi qua những buổi chiều tắm nắng trên Hồ thay vì làm công việc chính của tôi, tôi vẫn vui vẻ nhuợng bộ để trở thành một chàng trai da đồng hun ngời ngời cho mình vui lòng, thay vì tiếp tục là một nhà nghiên cứu và, chậc, một nhà giáo dục. Khi mình đưa tôi đến chơi bài bridge và uống rượu bourbon với vợ chồng Farlow dễ thương, tôi ngoan ngoãn đi theo. Không, khoan đã, tôi xin mình. Khi mình trang hoàng nhà cửa, tôi không can thiệp vào những dự tính của mình. Khi mình quyết định - khi mình quyết định mọi thứ chuyện, có thể tôi phần nào không tán thành hoặc bất đồng hoàn toàn - nhưng tôi không nói gì. Tôi bỏ qua cái lẻ tẻ, nhưng tôi không thể bỏ qua cái chung. Tôi thích được tuân lệnh mình, nhưng mỗi trò chơi đều có luật của nó. Tôi không cáu giận. Tôi không hề cáu giận đâu. Mình đừng có làm thế. Nhưng tôi là một nửa của cái gia đình này và tôi có một tiếng nói tuy nhỏ nhưng rõ rành.”
Nàng đến bên tôi, quì gối và chậm rãi nhưng rất kiên quyết lắc đầu, tay quắp chặt lấy quần tôi. Nàng nói nàng đã không hiểu ra. Nàng nói tôi là người cai quản nàng, là chúa trời của nàng. Nàng nói Louise đã đi khỏi, vậy chúng mình hãy làm tình ngay lập tức. Nàng nói tôi phải tha thứ cho nàng, kẻo nàng chết mất.
Sự kiện nhỏ nhoi này khiến tôi vô cùng phấn khởi. Tôi nhẹ nhàng bảo nàng đây không phải vấn đề cầu xin tha thứ, mà là thay đổi cung cách hành xử. Tôi quyết định tận dụng ưu thế của mình và dành nhiều thời gian tách riêng ra, trầm ngâm, và viết tiếp cuốn sách - hoặc ít ra là giả vờ làm việc.
Cái “giường gấp” trong phòng ngủ cũ của tôi từ lâu đã được cải biến thành sofa, điều vốn luôn luôn là tâm nguyện của nàng, và ngay từ buổi đầu ở chung nhà, Charlotte đã báo trước với tôi rằng dần dà căn phòng sẽ chính thức biến thành “sào huyệt văn sĩ”. Hai ngày sau Sự kiện Anh quốc, tôi đang ngồi trong một chiếc ghế bành mới rất tiện nghi, với một cuốn sách lớn trên đùi, thì Charlotte gõ cửa bằng ngón tay đeo nhẫn và lững thững bước vào. Động tác của nàng sao mà khác với Lolita của tôi những lần em đến thăm tôi trong chiếc quần jeans nhớp bẩn thân yêu, ngào ngạt mùi vườn cây của xứ sở tiểu nữ thần; vụng về và duyên dáng kì lạ, thoáng chút đồi bại, áo sơ mi mấy khuy dưới không cài. Tuy nhiên, xin quí vị cho tôi thưa đôi điều. Đằng sau cái trơ tráo của Haze-Bé và cái đĩnh đạc của Haze-Lớn, chảy róc rách một dòng nhỏ sinh khí rụt rè, với cùng một vị, cùng một tiếng thì thầm. Một bác sĩ vĩ đại người Pháp có lần nói với cha tôi rằng ở những người bà con gần gũi, tiếng òng ọc nhỏ nhất trong dạ dày cũng có cùng một “giọng”.
Vậy là Charlotte lững thững bước vào. Nàng cảm thấy không phải mọi sự đều ổn giữa hai chúng tôi. Đêm hôm trước, và cả đêm hôm trước nữa, vừa lên giường, tôi đã giả vờ ngủ và rồi sáng tinh mơ đã trở dậy.
Rất dịu dàng, nàng hỏi nàng có làm tôi bị “ngắt quãng” không.
“Lúc này thì không,” tôi đáp, lật giở tập C của bộ The Girl’s Encyclopaedia (Từ điển bách khoa toàn thư về con gái) để xem một tấm ảnh in ở “mép dưới”, theo cách nói của dân nhà in.
Charlotte đi tới một cái bàn nhỏ bằng gỗ đào hoa tâm giả có một ngăn kéo. Nàng đặt tay lên mặt bàn. Cái bàn nhỏ rành là xấu, nhưng nó đâu có làm gì nàng.
“Từ trước đến giờ, em vẫn muốn hỏi mình,” nàng nói (nghiêm túc chứ không điệu đàng), “tại sao cái của nợ này cứ phải khóa? Mình cần nó ở trong phòng này à? Nó cục mịch kinh khủng.”
“Để cho nó yên,” tôi nói. Tôi đang cắm trại ở Scandinavia [3].
[3] Ý nói: đọc đến từ mục “Camping in Scandinavia”
“Có chìa khóa không?”
“Bí mật.”
“Ôi, Hum…”
“Để cất giấu những lá thư tình.”
Nàng nhìn tôi theo cái kiểu nhìn của con nai bị thương khiến tôi lộn ruột, và rồi, phân vân không biết tôi nói thật hay đùa, hoặc làm thế nào để tiếp tục câu chuyện, nàng đứng sững suốt mấy trang (Campus [4], Canada, Candid Camera [5], Candy [6]), mắt dán vào ô kính cửa sổ chứ không phải nhìn xuyên qua nó, gõ những móng tay sắc màu hồng và anh đào lên mặt kính.
[4] Khuôn viên trường đại học.
[5] Máy ghi hình giấu kín (để theo dõi hoặc quay trộm).
[6] Đường phèn, kẹo sô-cô-la.
Liền sau đó (đến Canoeing [7] hoặc Canvasback [8]), nàng thủng thẳng đến cạnh ghế của tôi và nặng nề gieo mình trong bộ đồ tuýt xuống tay ghế, làm tôi ngập trong mùi nước hoa mà người vợ đầu của tôi thường dùng. “Phải chăng Đức ông thích qua mùa thu ở đây?” nàng hỏi, chỉ ngón út vào một tấm hình chụp cảnh mùa thu ở một bang bảo thủ miền Đông. “Tại sao?” (rất rành rọt và chậm rãi). Nàng nhún vai. (Có lẽ Harold xưa thường đi nghỉ vào thời gian này. Mở đầu mùa săn. Phản xạ có điều kiện của nàng).
[7] Đi chơi bằng xuồng ca nô, đua ca nô.
[8] Một giống vịt lặn ở Bắc Mĩ.
“Em nghĩ em biết chỗ đó là ở đâu,” nàng nói, ngón tay vẫn chĩa vào tấm hình. “Em nhớ ở đó có một khách sạn, Enchanted Hunters [9], nghe cổ mà hay hay, phải không? Và đồ ăn thì ngon như mơ. Và không ai quấy rầy ai.”
[9] Thợ săn bị mê hoặc. Nabokov không bao giờ đặt tên một cách tùy tiện, cả danh từ “hunter” (người đi săn, thợ săn) và từ định tính “enchanted” (bị mê hoặc) đều có nhiều hàm nghĩa như độc giả sẽ dần dần thấy trong những trang tiếp theo.
Nàng chà má vào thái dương tôi. Valeria đã sớm từ bỏ cử chỉ âu yếm này.
“Tối nay mình có thích ăn món gì đặc biệt không, mình yêu? John và Jean lát nữa sẽ ghé sang đấy.”
Tôi đáp lại bằng một tiếng hừm. Nàng hôn lên môi dưới của tôi và vui vẻ nói sẽ nướng một chiếc bánh ga tô (từ hồi còn là người thuê nhà, tôi nói là rất thích bánh ga tô nàng làm, đâm ra thành cả một truyền thống) và bỏ tôi lại với cảnh nhàn rỗi của tôi.
Thận trọng đặt tập sách mở xuống chỗ nàng vừa ngồi (nó định khởi động một đợt sóng lượn, nhưng một cây bút chì ken vào giữa đã ngăn các trang lại), tôi kiểm tra chỗ giấu chìa khóa: nó nằm có phần ngượng ngùng dưới chiếc dao cạo máy cũ, đắt tiền, mà tôi vẫn dùng trước khi nàng mua cho tôi một chiếc khác, vừa tốt hơn vừa rẻ hơn. Đó phải chăng là chỗ giấu lí tưởng? - ở đó, dưới chiếc dao cạo ấy, trong hõm của cái hộp lót nhung? Cái hộp nằm trong một hòm nhỏ, nơi tôi cất giữ một số giấy tờ hành chính. Liệu tôi có thể làm tốt hơn nữa không? Khó khăn thay việc cất giấu những thứ riêng tư - nhất là khi vợ mình cứ luôn táy máy lục lọi đồ đạc trong nhà.
Chương 22
Đúng một tuần sau chuyến đi tắm hồ, tôi nghĩ vậy, chuyến thư trưa mang đến hồi đáp của Miss Phalen-em. Bà viết rằng bà vừa từ đám tang bà chị trờ về St. Algebra. “Euphemia chẳng bao giờ bình phục như cũ sau khi gãy xương hông.” Còn về chuyện con gái bà Humbert, bà muốn thưa rằng hiện giờ đã quá muộn để nhập trường năm nay; nhưng, với tư cách là người còn lại của dòng tộc Phalen, bà gần như chắc chắn rằng nếu ông bà Humbert đưa Dolores tới vào tháng Giêng năm sau, bà có thể thu xếp để cô bé được nhận vào học.
Hôm sau, ăn trưa xong, tôi đến gặp bác sĩ “của chúng tôi”, một tay niềm nở, tuy mít đặc và hoàn toàn bàng quan với y học, nhưng lại che giấu mĩ mãn khiếm khuyết này bằng cung cách tuyệt vời bên giường bệnh và sự trông cậy tuyệt đối vào một số phương thuốc rất công hiệu. Việc Lo phải trở về Ramsdale là cả một kho báu những khấp khởi tiên liệu. Để đón sự kiện này, tôi phải chuẩn bị thật đầy đủ. Trên thực tế, tôi đã bắt đầu chiến dịch sớm hơn nhiều, trước cả khi Charlotte ra cái quyết định độc ác ấy. Tôi phải đảm bảo chắc chắn sao cho khi bé yêu của tôi về, ngay từ đêm đầu và từng đêm tiếp theo, cho tới khi em đi St. Algebra, tôi sẽ nắm vững được cách thức làm cho hai con người ngủ say như chết, đến mức không một âm thanh hoặc động chạm nào có thể đánh thức họ dậy. Suốt phần lớn tháng Bảy, tôi đã thử nghiệm nhiều loại thuốc ngủ khác nhau trên Charlotte, một “cây” tiêu thụ thuốc viên. Liều gần đây nhất tôi cho nàng uống (nàng tưởng đó là một viên bromide liều nhẹ có tác dụng làm dịu thần kinh) đã hạ “nốc-ao” nàng bốn tiếng đồng hồ liền. Tồi vặn đài to hết cỡ. Tôi rọi một chiếc đèn pin giống như cái dương vật giả vào mặt nàng. Tôi đẩy nàng, véo nàng, thúc mạnh vào người nàng - không gì xáo đảo được nhịp thở bình thản và mạnh mẽ của nàng. Thế nhưng khi tôi làm một điều rất đơn giản là hôn nàng, thì nàng thức dậy tức thì, tươi tỉnh và khỏe như một con bạch tuộc (tôi phải té vội mới thoát). Thế thì không xong rồi, tôi nghĩ; phải tìm ra một cái gì an toàn hơn. Thoạt đầu, bác sĩ Byron có vẻ không tin khi tôi nói đơn thuốc vừa xong y cho tôi không trị nổi chứng mất ngủ của tôi. Y đề nghị tôi dùng thử lại và đánh lạc hướng sự chú ý của tôi một lúc bằng cách cho tôi xem ảnh gia đình y. Y có một đứa con gái mê hồn trạc tuổi Dolly [1]; nhưng tôi biết tỏng các chiêu của y và một mực nài y kê đơn cho loại thuốc mạnh nhất có thể kiếm được. Y gợi ý tôi nên chơi golf, nhưng rồi, cuối cùng, đồng ý cho tôi một thứ “thực sự hiện nghiệm”, theo lời y; và đi tới một cái tủ nhỏ, y lấy ra một lọ đựng những viên con nhộng màu xanh chàm một đầu có dải băng tím sẫm đai quanh, mà y bảo là vừa mới được tung ra thị trường và không phải dành cho những người loạn thần kinh có thể trấn an bằng một ngụm nước miễn là cho uống đúng cách, mà là dành cho những nghệ sĩ lớn bị mất ngủ, cần chết trong mấy giờ để sống hàng thế kỉ. Tôi rất thích xiếc bọn bác sĩ và tuy trong bụng mừng rơn, tôi vẫn bỏ mấy viên thuốc vào túi với một cái nhún vai đầy nghi hoặc. Dù sao tôi vẫn cần phải thận trọng với y. Một hôm, nhân nói về một chuyện gì khác, tôi ngu xuẩn lỡ miệng nhắc đến nơi an dưỡng gần đây nhất của tôi và tôi nghĩ là đã nhìn thấy mỏm tai y ngọ nguậy. Tuyệt nhiên không muốn lộ cho Charlotte hay bất kì ai khác biết về thời kì ấy trong quá khứ của mình, tôi vội vàng giải thích rằng hồi trước tôi đã có lần tìm hiểu môi trường người điên để viết một cuốn tiểu thuyết. Nhưng điều đó không quan trọng; tay bợm già này quả có một con gái nhỏ tuyệt vời.
[1] Có tên trong danh sách bạn cùng lớp với Lolita: Byron, Marguerite (Chương 11, Phần Một).
Tôi ra về, lòng phơi phới. Lái chiếc xe của vợ bằng một ngón tay, tôi hân hoan phóng về nhà. Ramsdale, rốt cuộc, cũng có ối cái hấp dẫn. Ve sầu kêu ran ran; đại lộ vừa mới được tưới nước. Êm ru, gần như lướt trên lụa, tôi rẽ vào con phố nhỏ dốc của chúng tôi. Cách nào đó, mọi thứ hôm ấy đều rất ổn. Trời rất xanh và cây lá rất xanh. Tôi biết trời đang nắng vì thấy hình chiếc chìa khóa công tắc xe phản chiếu trên kính chắn gió; và tôi biết lúc này là đúng ba rưỡi vì cô nữ y tá chiều nào cũng đến mát xa cho Miss Opposite đang thoăn thoắt bước trên vỉa hè hẹp, giày trắng tất trắng. Như thường lệ, con chó săn lông xù nhà Đồng Nát cuồng loạn tấn công xe khi tôi lăn bánh xuống dốc và như thường lệ, tờ báo địa phương nằm trên sàn hiên, nơi Kenny vừa ném nó vào.
Hôm trước, tôi đã chấm dứt chế độ lạnh lùng mà tôi tự áp đặt cho mình, và giờ đây, vừa mở của phòng khách, tôi vừa cất tiếng chào vui vẻ báo hiệu tôi đã về nhà. Ngồi ở chiếc bàn nhỏ kê trong góc, với bộ đồ nàng đã mặc hôm gặp tôi lần đầu - áo cánh màu vàng và quần màu hạt dẻ - cái gáy màu trắng kem và búi tóc màu đồng quay về phía tôi, Charlotte đang viết thư. Tay vẫn nắm quả đấm cửa, tôi nhắc lại lời chào nhiệt thành của mình. Nàng dừng tay viết. Nàng ngồi yên một lúc; rồi từ từ xoay người trên ghế và tì khuỷu tay lên vành cong của lưng ghế. Mặt rúm lại vì xúc động, không mấy dễ coi, nàng chằm chằm nhìn vào chân tôi và nói:
“Con mụ Haze, con điếm béo bự, con mèo già, mụ mẹ sề độc địa, con... - mụ già Haze ngu xuẩn không mắc lừa anh nữa đâu. Mụ đã... mụ đã... “
Người đẹp buộc tội tôi dừng lại, nuốt nọc độc và nước mắt. Bất cứ điều gì Humbert Humbert nói - hoặc cố nói - đều chẳng quan trọng. Nàng tiếp tục.
“Anh là một con quái vật. Anh là đồ lường gạt bỉ ổi, ghê tởm, vô lương lâm. Nếu anh lại gần... tôi sẽ ra cửa sổ kêu lên đấy. Lùi lại!”
Tôi nghĩ ta có thể bỏ qua không cần thuật lại bất cứ điều gì H. H. ấp úng phân trần.
“Đêm nay, tôi sẽ đi khỏi. Tất cả những thứ này là của anh. Có điều anh sẽ không bao giờ, không bao giờ gặp lại con bé khốn kiếp ấy nữa. Bây giờ, hãy ra khỏi căn phòng này.”
Bạn đọc thân mến, tôi đi ra. Tôi lên căn buồng trước kia gọi là “á thư phòng”. Tay chống nạnh, tôi đứng im sững một lúc, rất bình tĩnh, từ ngưỡng cửa lia mắt rà soát chiếc bàn nhỏ bị hiếp với cái ngăn kéo mở toang, một chiếc chìa khóa lủng lẳng từ ổ khóa, bốn chiếc chìa khóa khác dùng trong nhà nằm trên mặt bàn. Tôi đi qua thềm đầu cầu thang vào phòng ngủ của ông bà Humbert và thản nhiên lấy cuốn nhật kí của tôi từ dưới gối nàng, bỏ vào túi. Rồi tôi bắt đầu bước xuống cầu thang, nhưng dừng lại nửa chừng: nàng đang nói chuyện điện thoại, mà phích điện thoại lại cắm ngay bên ngoài của phòng khách. Tôi muốn nghe xem nàng đang nói gì: nàng hủy một khoản đặt hàng nào đó, và quay trở lại phòng khách. Tôi ổn định lại nhịp thở của mình và đi qua hành lang tới nhà bếp. Ở đó, tôi mở một chai Scotch. Nàng không bao giờ cưỡng nổi sức cám dỗ của whisky Scotch. Rồi tôi vào phòng ăn, và từ đó, qua cánh cửa hé mở, ngắm cái lưng rộng của Charlotte.
“Mình đang hủy hoại đời tôi và đời mình,” tôi điềm đạm nói. “Chúng ta hãy tỏ ra là người văn minh. Tất cả là do mình hoang tưởng đấy thôi. Mình điên rồi, Charlotte. Những ghi chép mình tìm thấy là những đoạn của một cuốn tiểu thuyết. Tên mình và tên bé Lo được đưa vào là hoàn toàn ngẫu nhiên. Chỉ vì đó là hai cái tên ở trong tầm tay. Mình hãy nghĩ lại đi. Tôi sẽ mang cho mình một li đồ uống.”
Nàng không trả lời, cũng chẳng buồn ngoái lại, mà tiếp tục viết nguệch ngoạc như điên, bất kể là nàng đang viết gì. Có lẽ là một bức thư thứ ba (hai bức kia đã bỏ trong phong bì dán tem nằm trên bàn). Tôi quay lại nhà bếp.
Tôi bày ra hai chiếc li (chúc St. Algebra? hay chúc Lo?) và mở tủ lạnh. Nó gừ vào mặt tôi dữ dằn trong khi tôi lấy đá ra từ trong ruột nó. Viết lại. Cho nàng đọc lại. Chắc nàng sẽ không nhớ các chi tiết. Thay đổi, bịa thêm. Viết một đoạn mới và đưa cho nàng hoặc để nó vương vãi đâu đó. Tại sao những vòi nước thỉnh thoảng lại rên xiết khủng khiếp thế? Một tình huống khủng khiếp, quả vậy. Những khối đá giống hình cái gối - gối cho gấu con Bắc Cực, Lo ạ - phát ra những tiếng ken két, răng rắc, đau đớn, khi nước nóng gỡ chúng lỏng ra trong từng ô chứa. Tôi dằn mạnh hai chiếc li cạnh nhau. Tôi rót whisky với một chút xôđa vào đó. Nàng đã cấm tôi uống pin [2]. Cái tủ lạnh lại sủa và sập đánh sầm. Tôi cầm hai li rượu đi qua phòng ăn và nói qua khe cửa phòng khách he hé một chút, không đủ để tôi lách khuỷu tay vào.
[2] Đồ uống ưa thích của Humbert là rượu gừng pha dứa và “pin” là chữ ông ta tự tạo, ghép “pineapple” (dứa) và “gin” (gừng) với nhau.
“Tôi đã pha cho mình một li đồ uống,” tôi nói.
Nàng không trả lòi, đồ chó cái điên, và tôi đặt hai chiếc li lên mặt tủ buýp phê gần chiếc máy điện thoại bắt đầu đổ chuông.
“Leslie đây. Leslie Tomson,” Leslie Tomson, cái gã thích tắm hồ vào lúc rạng đông, nói. “Thưa ông, bà Humbert bị xe cán và ông hãy mau đến.”
Tôi trả lời, bằng một giọng có lẽ hơi cáu kỉnh, rằng vợ tôi vẫn bình an vô sự, và tay vẫn cầm ống nghe, tôi đẩy cửa và nói: “Có người bảo mình bị xe cán chết đây này, Charlotte.” Nhưng trong phòng khách, không thấy Charlotte đâu.
Cái thói quen lầm lì im lặng của tôi khi phật ý, hay nói cho đúng hơn, cái lạnh lùng kết thành vẩy bao quanh im lặng phật ý của tôi, thường làm Valeria sợ mất vía. Cô ả thường khóc thút thít, rên rẩm nói: ”Ce qui me rend folle, c’est que je ne sais à quoi tu penses quand tu es comme ҫa* (Điều làm em phát điên, là em không biết anh nghĩ gì khi anh như thế này).” Tôi thử giở võ im lặng với Charlotte - và để xua tan im lặng của tôi, nàng chỉ tiếp tục líu lo, hoặc xoa nựng cằm tôi. Một phụ nữ kì diệu! Nếu tôi rút về căn phòng cũ của mình, giờ đây đã cải biến thành một “thư phòng” hẳn hoi; lúng búng viện cớ rằng dù sao cũng phải viết một tác phẩm, Charlotte vẫn vui vẻ tiếp tục trang hoàng nhà cửa, buôn chuyện trên điện thoại, viết thư. Từ cửa sổ phòng mình, qua vòm lá cây dương run rẩy bóng loáng, tôi có thể nhìn thấy nàng sang bên kia đường, sung sướng bỏ bức thư viết cho em gái của Miss Phalen vào hòm thư bưu điện.
Cái tuần lễ lác đác từng cơn mưa rào xen với bóng râm tiếp sau lần cuối cùng chúng tôi đến những bãi cát bất động của Hồ Hourglass là một trong những tuần lễ ảm đạm nhất tôi còn nhớ được. Rồi vụt đến hai, ba tia hi vọng mờ nhạt - trước đợt bừng nắng [1] tối hậu.
[1] Trong Who‘s Who in the Limelight (Từ điển danh nhân trong giới sân khấu), ở mục từ PYM, Roland, có ghi: “... Khởi đầu sự nghiệp với Sunburst(Bừng nắng)”. Xem ở chương 8, Phần Một.
Tôi chợt nghĩ mình có một bộ óc tinh tuờng hoạt động ngon lành, tại sao không tận dụng nó? Tuy không dám can thiệp vào những kế hoạch của vợ tôi liên quan đến con gái nàng (đang mỗi ngày một ấm nóng hơn, rám nắng hơn trong thời tiết đẹp ở nơi xa biền biệt), nhưng chắc chắn tôi có thể nghĩ ra một phương sách chung chung nào đó để tự khẳng định mình một cách chung chung nào đó khả dĩ hướng tới một cơ hội đặc biệt sau này. Một buổi tối, chính Charlotte mớm cho tôi khởi đầu cơ hội ấy.
“Em có một bất ngờ cho mình đây,” nàng vừa nói vừa nhìn tôi bằng cặp mắt âu yếm bên trên một thìa xúp. “Mùa thu này, hai chúng mình sẽ sang Anh.”
Tôi nuốt ực thìa xúp của mình, chùi môi bằng tờ giấy ăn màu hồng (Ôi, làm sao quên được loại khăn ăn mát rượi sang trọng của khách sạn Mirana!) và nói:
“Tôi cũng có một bất ngờ cho mình, mình yêu quí. Hai chúng ta sẽ không đi Anh.”
“Tại sao, có chuyện gì vậy?” nàng nói với vẻ kinh ngạc hơn cả tôi dự tính, nhìn tay tôi (tôi đang bất giác hết gấp lại xé, hết vò nhàu lại xé vụn tờ giấy ăn màu hồng vô tội). Tuy nhiên, vẻ mặt tươi cười của tôi làm nàng an tâm phần nào.
“Chuyện rất đơn giản thôi,” tôi đáp. “Ngay cả trong những gia đình hòa thuận nhất, như gia đình chúng ta đây, cũng không phải mọi sự đều do phái nữ quyết định. Có một số điều mà quyền quyết định thuộc về người chồng. Tôi hoàn toàn có thể tưởng tượng được nỗi rạo rực của mình, một cô gái Mĩ khỏe mạnh, khi vượt Đại Tây Dương trên cùng một con tàu biển với Lady Bumble - hay Sam Bumble, ông Vua Thịt Đông Lạnh, hay một ả điếm Hollywood nào đó. Và tôi không chút nghi ngờ rằng mình với tôi sẽ tạo nên một tấm áp-phích ngon lành quảng cáo cho Hãng Du Lịch khi được trung lên ảnh - mình thì mắt tròn mắt dẹt, tôi thì cố kiềm chế lòng ngưỡng mộ - nhìn ngắm những gã Lính Canh Cung Điện, hoặc Cận Vệ Đỏ Sẫm, hoặc các Beaver Eater [2], hoặc những danh xưng gì gì nữa chả biết. Nhưng tôi đây lại dị ứng với châu Âu, kể cả lão bà Anh quốc vui vẻ. Như mình biết rõ đấy, Cựu Lục Địa ruỗng nát chẳng gợi cho tôi gì khác ngoài những liên tưởng sầu não. Không một ảnh màu quảng cáo nào trong những họa báo của mình có thể thay đổi được tình hình đâu.”
[2] Từ ghép của “Beefeaters” và “Beaver”. “Beefeater” là tiếng lóng chỉ Cận vệ Hoàng gia Anh và “Beaver (hat)” chỉ loại mũ bằng lông hải li mà họ thường đội.
“Mình yêu quí,” Charlotte nói. “Em thực sự…”
“Không, khoan chút đã. Vấn đề này chỉ là thứ yếu. Điều tôi quan tâm là một xu hướng chung. Khi mình muốn tôi qua những buổi chiều tắm nắng trên Hồ thay vì làm công việc chính của tôi, tôi vẫn vui vẻ nhuợng bộ để trở thành một chàng trai da đồng hun ngời ngời cho mình vui lòng, thay vì tiếp tục là một nhà nghiên cứu và, chậc, một nhà giáo dục. Khi mình đưa tôi đến chơi bài bridge và uống rượu bourbon với vợ chồng Farlow dễ thương, tôi ngoan ngoãn đi theo. Không, khoan đã, tôi xin mình. Khi mình trang hoàng nhà cửa, tôi không can thiệp vào những dự tính của mình. Khi mình quyết định - khi mình quyết định mọi thứ chuyện, có thể tôi phần nào không tán thành hoặc bất đồng hoàn toàn - nhưng tôi không nói gì. Tôi bỏ qua cái lẻ tẻ, nhưng tôi không thể bỏ qua cái chung. Tôi thích được tuân lệnh mình, nhưng mỗi trò chơi đều có luật của nó. Tôi không cáu giận. Tôi không hề cáu giận đâu. Mình đừng có làm thế. Nhưng tôi là một nửa của cái gia đình này và tôi có một tiếng nói tuy nhỏ nhưng rõ rành.”
Nàng đến bên tôi, quì gối và chậm rãi nhưng rất kiên quyết lắc đầu, tay quắp chặt lấy quần tôi. Nàng nói nàng đã không hiểu ra. Nàng nói tôi là người cai quản nàng, là chúa trời của nàng. Nàng nói Louise đã đi khỏi, vậy chúng mình hãy làm tình ngay lập tức. Nàng nói tôi phải tha thứ cho nàng, kẻo nàng chết mất.
Sự kiện nhỏ nhoi này khiến tôi vô cùng phấn khởi. Tôi nhẹ nhàng bảo nàng đây không phải vấn đề cầu xin tha thứ, mà là thay đổi cung cách hành xử. Tôi quyết định tận dụng ưu thế của mình và dành nhiều thời gian tách riêng ra, trầm ngâm, và viết tiếp cuốn sách - hoặc ít ra là giả vờ làm việc.
Cái “giường gấp” trong phòng ngủ cũ của tôi từ lâu đã được cải biến thành sofa, điều vốn luôn luôn là tâm nguyện của nàng, và ngay từ buổi đầu ở chung nhà, Charlotte đã báo trước với tôi rằng dần dà căn phòng sẽ chính thức biến thành “sào huyệt văn sĩ”. Hai ngày sau Sự kiện Anh quốc, tôi đang ngồi trong một chiếc ghế bành mới rất tiện nghi, với một cuốn sách lớn trên đùi, thì Charlotte gõ cửa bằng ngón tay đeo nhẫn và lững thững bước vào. Động tác của nàng sao mà khác với Lolita của tôi những lần em đến thăm tôi trong chiếc quần jeans nhớp bẩn thân yêu, ngào ngạt mùi vườn cây của xứ sở tiểu nữ thần; vụng về và duyên dáng kì lạ, thoáng chút đồi bại, áo sơ mi mấy khuy dưới không cài. Tuy nhiên, xin quí vị cho tôi thưa đôi điều. Đằng sau cái trơ tráo của Haze-Bé và cái đĩnh đạc của Haze-Lớn, chảy róc rách một dòng nhỏ sinh khí rụt rè, với cùng một vị, cùng một tiếng thì thầm. Một bác sĩ vĩ đại người Pháp có lần nói với cha tôi rằng ở những người bà con gần gũi, tiếng òng ọc nhỏ nhất trong dạ dày cũng có cùng một “giọng”.
Vậy là Charlotte lững thững bước vào. Nàng cảm thấy không phải mọi sự đều ổn giữa hai chúng tôi. Đêm hôm trước, và cả đêm hôm trước nữa, vừa lên giường, tôi đã giả vờ ngủ và rồi sáng tinh mơ đã trở dậy.
Rất dịu dàng, nàng hỏi nàng có làm tôi bị “ngắt quãng” không.
“Lúc này thì không,” tôi đáp, lật giở tập C của bộ The Girl’s Encyclopaedia (Từ điển bách khoa toàn thư về con gái) để xem một tấm ảnh in ở “mép dưới”, theo cách nói của dân nhà in.
Charlotte đi tới một cái bàn nhỏ bằng gỗ đào hoa tâm giả có một ngăn kéo. Nàng đặt tay lên mặt bàn. Cái bàn nhỏ rành là xấu, nhưng nó đâu có làm gì nàng.
“Từ trước đến giờ, em vẫn muốn hỏi mình,” nàng nói (nghiêm túc chứ không điệu đàng), “tại sao cái của nợ này cứ phải khóa? Mình cần nó ở trong phòng này à? Nó cục mịch kinh khủng.”
“Để cho nó yên,” tôi nói. Tôi đang cắm trại ở Scandinavia [3].
[3] Ý nói: đọc đến từ mục “Camping in Scandinavia”
“Có chìa khóa không?”
“Bí mật.”
“Ôi, Hum…”
“Để cất giấu những lá thư tình.”
Nàng nhìn tôi theo cái kiểu nhìn của con nai bị thương khiến tôi lộn ruột, và rồi, phân vân không biết tôi nói thật hay đùa, hoặc làm thế nào để tiếp tục câu chuyện, nàng đứng sững suốt mấy trang (Campus [4], Canada, Candid Camera [5], Candy [6]), mắt dán vào ô kính cửa sổ chứ không phải nhìn xuyên qua nó, gõ những móng tay sắc màu hồng và anh đào lên mặt kính.
[4] Khuôn viên trường đại học.
[5] Máy ghi hình giấu kín (để theo dõi hoặc quay trộm).
[6] Đường phèn, kẹo sô-cô-la.
Liền sau đó (đến Canoeing [7] hoặc Canvasback [8]), nàng thủng thẳng đến cạnh ghế của tôi và nặng nề gieo mình trong bộ đồ tuýt xuống tay ghế, làm tôi ngập trong mùi nước hoa mà người vợ đầu của tôi thường dùng. “Phải chăng Đức ông thích qua mùa thu ở đây?” nàng hỏi, chỉ ngón út vào một tấm hình chụp cảnh mùa thu ở một bang bảo thủ miền Đông. “Tại sao?” (rất rành rọt và chậm rãi). Nàng nhún vai. (Có lẽ Harold xưa thường đi nghỉ vào thời gian này. Mở đầu mùa săn. Phản xạ có điều kiện của nàng).
[7] Đi chơi bằng xuồng ca nô, đua ca nô.
[8] Một giống vịt lặn ở Bắc Mĩ.
“Em nghĩ em biết chỗ đó là ở đâu,” nàng nói, ngón tay vẫn chĩa vào tấm hình. “Em nhớ ở đó có một khách sạn, Enchanted Hunters [9], nghe cổ mà hay hay, phải không? Và đồ ăn thì ngon như mơ. Và không ai quấy rầy ai.”
[9] Thợ săn bị mê hoặc. Nabokov không bao giờ đặt tên một cách tùy tiện, cả danh từ “hunter” (người đi săn, thợ săn) và từ định tính “enchanted” (bị mê hoặc) đều có nhiều hàm nghĩa như độc giả sẽ dần dần thấy trong những trang tiếp theo.
Nàng chà má vào thái dương tôi. Valeria đã sớm từ bỏ cử chỉ âu yếm này.
“Tối nay mình có thích ăn món gì đặc biệt không, mình yêu? John và Jean lát nữa sẽ ghé sang đấy.”
Tôi đáp lại bằng một tiếng hừm. Nàng hôn lên môi dưới của tôi và vui vẻ nói sẽ nướng một chiếc bánh ga tô (từ hồi còn là người thuê nhà, tôi nói là rất thích bánh ga tô nàng làm, đâm ra thành cả một truyền thống) và bỏ tôi lại với cảnh nhàn rỗi của tôi.
Thận trọng đặt tập sách mở xuống chỗ nàng vừa ngồi (nó định khởi động một đợt sóng lượn, nhưng một cây bút chì ken vào giữa đã ngăn các trang lại), tôi kiểm tra chỗ giấu chìa khóa: nó nằm có phần ngượng ngùng dưới chiếc dao cạo máy cũ, đắt tiền, mà tôi vẫn dùng trước khi nàng mua cho tôi một chiếc khác, vừa tốt hơn vừa rẻ hơn. Đó phải chăng là chỗ giấu lí tưởng? - ở đó, dưới chiếc dao cạo ấy, trong hõm của cái hộp lót nhung? Cái hộp nằm trong một hòm nhỏ, nơi tôi cất giữ một số giấy tờ hành chính. Liệu tôi có thể làm tốt hơn nữa không? Khó khăn thay việc cất giấu những thứ riêng tư - nhất là khi vợ mình cứ luôn táy máy lục lọi đồ đạc trong nhà.
Chương 22
Đúng một tuần sau chuyến đi tắm hồ, tôi nghĩ vậy, chuyến thư trưa mang đến hồi đáp của Miss Phalen-em. Bà viết rằng bà vừa từ đám tang bà chị trờ về St. Algebra. “Euphemia chẳng bao giờ bình phục như cũ sau khi gãy xương hông.” Còn về chuyện con gái bà Humbert, bà muốn thưa rằng hiện giờ đã quá muộn để nhập trường năm nay; nhưng, với tư cách là người còn lại của dòng tộc Phalen, bà gần như chắc chắn rằng nếu ông bà Humbert đưa Dolores tới vào tháng Giêng năm sau, bà có thể thu xếp để cô bé được nhận vào học.
Hôm sau, ăn trưa xong, tôi đến gặp bác sĩ “của chúng tôi”, một tay niềm nở, tuy mít đặc và hoàn toàn bàng quan với y học, nhưng lại che giấu mĩ mãn khiếm khuyết này bằng cung cách tuyệt vời bên giường bệnh và sự trông cậy tuyệt đối vào một số phương thuốc rất công hiệu. Việc Lo phải trở về Ramsdale là cả một kho báu những khấp khởi tiên liệu. Để đón sự kiện này, tôi phải chuẩn bị thật đầy đủ. Trên thực tế, tôi đã bắt đầu chiến dịch sớm hơn nhiều, trước cả khi Charlotte ra cái quyết định độc ác ấy. Tôi phải đảm bảo chắc chắn sao cho khi bé yêu của tôi về, ngay từ đêm đầu và từng đêm tiếp theo, cho tới khi em đi St. Algebra, tôi sẽ nắm vững được cách thức làm cho hai con người ngủ say như chết, đến mức không một âm thanh hoặc động chạm nào có thể đánh thức họ dậy. Suốt phần lớn tháng Bảy, tôi đã thử nghiệm nhiều loại thuốc ngủ khác nhau trên Charlotte, một “cây” tiêu thụ thuốc viên. Liều gần đây nhất tôi cho nàng uống (nàng tưởng đó là một viên bromide liều nhẹ có tác dụng làm dịu thần kinh) đã hạ “nốc-ao” nàng bốn tiếng đồng hồ liền. Tồi vặn đài to hết cỡ. Tôi rọi một chiếc đèn pin giống như cái dương vật giả vào mặt nàng. Tôi đẩy nàng, véo nàng, thúc mạnh vào người nàng - không gì xáo đảo được nhịp thở bình thản và mạnh mẽ của nàng. Thế nhưng khi tôi làm một điều rất đơn giản là hôn nàng, thì nàng thức dậy tức thì, tươi tỉnh và khỏe như một con bạch tuộc (tôi phải té vội mới thoát). Thế thì không xong rồi, tôi nghĩ; phải tìm ra một cái gì an toàn hơn. Thoạt đầu, bác sĩ Byron có vẻ không tin khi tôi nói đơn thuốc vừa xong y cho tôi không trị nổi chứng mất ngủ của tôi. Y đề nghị tôi dùng thử lại và đánh lạc hướng sự chú ý của tôi một lúc bằng cách cho tôi xem ảnh gia đình y. Y có một đứa con gái mê hồn trạc tuổi Dolly [1]; nhưng tôi biết tỏng các chiêu của y và một mực nài y kê đơn cho loại thuốc mạnh nhất có thể kiếm được. Y gợi ý tôi nên chơi golf, nhưng rồi, cuối cùng, đồng ý cho tôi một thứ “thực sự hiện nghiệm”, theo lời y; và đi tới một cái tủ nhỏ, y lấy ra một lọ đựng những viên con nhộng màu xanh chàm một đầu có dải băng tím sẫm đai quanh, mà y bảo là vừa mới được tung ra thị trường và không phải dành cho những người loạn thần kinh có thể trấn an bằng một ngụm nước miễn là cho uống đúng cách, mà là dành cho những nghệ sĩ lớn bị mất ngủ, cần chết trong mấy giờ để sống hàng thế kỉ. Tôi rất thích xiếc bọn bác sĩ và tuy trong bụng mừng rơn, tôi vẫn bỏ mấy viên thuốc vào túi với một cái nhún vai đầy nghi hoặc. Dù sao tôi vẫn cần phải thận trọng với y. Một hôm, nhân nói về một chuyện gì khác, tôi ngu xuẩn lỡ miệng nhắc đến nơi an dưỡng gần đây nhất của tôi và tôi nghĩ là đã nhìn thấy mỏm tai y ngọ nguậy. Tuyệt nhiên không muốn lộ cho Charlotte hay bất kì ai khác biết về thời kì ấy trong quá khứ của mình, tôi vội vàng giải thích rằng hồi trước tôi đã có lần tìm hiểu môi trường người điên để viết một cuốn tiểu thuyết. Nhưng điều đó không quan trọng; tay bợm già này quả có một con gái nhỏ tuyệt vời.
[1] Có tên trong danh sách bạn cùng lớp với Lolita: Byron, Marguerite (Chương 11, Phần Một).
Tôi ra về, lòng phơi phới. Lái chiếc xe của vợ bằng một ngón tay, tôi hân hoan phóng về nhà. Ramsdale, rốt cuộc, cũng có ối cái hấp dẫn. Ve sầu kêu ran ran; đại lộ vừa mới được tưới nước. Êm ru, gần như lướt trên lụa, tôi rẽ vào con phố nhỏ dốc của chúng tôi. Cách nào đó, mọi thứ hôm ấy đều rất ổn. Trời rất xanh và cây lá rất xanh. Tôi biết trời đang nắng vì thấy hình chiếc chìa khóa công tắc xe phản chiếu trên kính chắn gió; và tôi biết lúc này là đúng ba rưỡi vì cô nữ y tá chiều nào cũng đến mát xa cho Miss Opposite đang thoăn thoắt bước trên vỉa hè hẹp, giày trắng tất trắng. Như thường lệ, con chó săn lông xù nhà Đồng Nát cuồng loạn tấn công xe khi tôi lăn bánh xuống dốc và như thường lệ, tờ báo địa phương nằm trên sàn hiên, nơi Kenny vừa ném nó vào.
Hôm trước, tôi đã chấm dứt chế độ lạnh lùng mà tôi tự áp đặt cho mình, và giờ đây, vừa mở của phòng khách, tôi vừa cất tiếng chào vui vẻ báo hiệu tôi đã về nhà. Ngồi ở chiếc bàn nhỏ kê trong góc, với bộ đồ nàng đã mặc hôm gặp tôi lần đầu - áo cánh màu vàng và quần màu hạt dẻ - cái gáy màu trắng kem và búi tóc màu đồng quay về phía tôi, Charlotte đang viết thư. Tay vẫn nắm quả đấm cửa, tôi nhắc lại lời chào nhiệt thành của mình. Nàng dừng tay viết. Nàng ngồi yên một lúc; rồi từ từ xoay người trên ghế và tì khuỷu tay lên vành cong của lưng ghế. Mặt rúm lại vì xúc động, không mấy dễ coi, nàng chằm chằm nhìn vào chân tôi và nói:
“Con mụ Haze, con điếm béo bự, con mèo già, mụ mẹ sề độc địa, con... - mụ già Haze ngu xuẩn không mắc lừa anh nữa đâu. Mụ đã... mụ đã... “
Người đẹp buộc tội tôi dừng lại, nuốt nọc độc và nước mắt. Bất cứ điều gì Humbert Humbert nói - hoặc cố nói - đều chẳng quan trọng. Nàng tiếp tục.
“Anh là một con quái vật. Anh là đồ lường gạt bỉ ổi, ghê tởm, vô lương lâm. Nếu anh lại gần... tôi sẽ ra cửa sổ kêu lên đấy. Lùi lại!”
Tôi nghĩ ta có thể bỏ qua không cần thuật lại bất cứ điều gì H. H. ấp úng phân trần.
“Đêm nay, tôi sẽ đi khỏi. Tất cả những thứ này là của anh. Có điều anh sẽ không bao giờ, không bao giờ gặp lại con bé khốn kiếp ấy nữa. Bây giờ, hãy ra khỏi căn phòng này.”
Bạn đọc thân mến, tôi đi ra. Tôi lên căn buồng trước kia gọi là “á thư phòng”. Tay chống nạnh, tôi đứng im sững một lúc, rất bình tĩnh, từ ngưỡng cửa lia mắt rà soát chiếc bàn nhỏ bị hiếp với cái ngăn kéo mở toang, một chiếc chìa khóa lủng lẳng từ ổ khóa, bốn chiếc chìa khóa khác dùng trong nhà nằm trên mặt bàn. Tôi đi qua thềm đầu cầu thang vào phòng ngủ của ông bà Humbert và thản nhiên lấy cuốn nhật kí của tôi từ dưới gối nàng, bỏ vào túi. Rồi tôi bắt đầu bước xuống cầu thang, nhưng dừng lại nửa chừng: nàng đang nói chuyện điện thoại, mà phích điện thoại lại cắm ngay bên ngoài của phòng khách. Tôi muốn nghe xem nàng đang nói gì: nàng hủy một khoản đặt hàng nào đó, và quay trở lại phòng khách. Tôi ổn định lại nhịp thở của mình và đi qua hành lang tới nhà bếp. Ở đó, tôi mở một chai Scotch. Nàng không bao giờ cưỡng nổi sức cám dỗ của whisky Scotch. Rồi tôi vào phòng ăn, và từ đó, qua cánh cửa hé mở, ngắm cái lưng rộng của Charlotte.
“Mình đang hủy hoại đời tôi và đời mình,” tôi điềm đạm nói. “Chúng ta hãy tỏ ra là người văn minh. Tất cả là do mình hoang tưởng đấy thôi. Mình điên rồi, Charlotte. Những ghi chép mình tìm thấy là những đoạn của một cuốn tiểu thuyết. Tên mình và tên bé Lo được đưa vào là hoàn toàn ngẫu nhiên. Chỉ vì đó là hai cái tên ở trong tầm tay. Mình hãy nghĩ lại đi. Tôi sẽ mang cho mình một li đồ uống.”
Nàng không trả lời, cũng chẳng buồn ngoái lại, mà tiếp tục viết nguệch ngoạc như điên, bất kể là nàng đang viết gì. Có lẽ là một bức thư thứ ba (hai bức kia đã bỏ trong phong bì dán tem nằm trên bàn). Tôi quay lại nhà bếp.
Tôi bày ra hai chiếc li (chúc St. Algebra? hay chúc Lo?) và mở tủ lạnh. Nó gừ vào mặt tôi dữ dằn trong khi tôi lấy đá ra từ trong ruột nó. Viết lại. Cho nàng đọc lại. Chắc nàng sẽ không nhớ các chi tiết. Thay đổi, bịa thêm. Viết một đoạn mới và đưa cho nàng hoặc để nó vương vãi đâu đó. Tại sao những vòi nước thỉnh thoảng lại rên xiết khủng khiếp thế? Một tình huống khủng khiếp, quả vậy. Những khối đá giống hình cái gối - gối cho gấu con Bắc Cực, Lo ạ - phát ra những tiếng ken két, răng rắc, đau đớn, khi nước nóng gỡ chúng lỏng ra trong từng ô chứa. Tôi dằn mạnh hai chiếc li cạnh nhau. Tôi rót whisky với một chút xôđa vào đó. Nàng đã cấm tôi uống pin [2]. Cái tủ lạnh lại sủa và sập đánh sầm. Tôi cầm hai li rượu đi qua phòng ăn và nói qua khe cửa phòng khách he hé một chút, không đủ để tôi lách khuỷu tay vào.
[2] Đồ uống ưa thích của Humbert là rượu gừng pha dứa và “pin” là chữ ông ta tự tạo, ghép “pineapple” (dứa) và “gin” (gừng) với nhau.
“Tôi đã pha cho mình một li đồ uống,” tôi nói.
Nàng không trả lòi, đồ chó cái điên, và tôi đặt hai chiếc li lên mặt tủ buýp phê gần chiếc máy điện thoại bắt đầu đổ chuông.
“Leslie đây. Leslie Tomson,” Leslie Tomson, cái gã thích tắm hồ vào lúc rạng đông, nói. “Thưa ông, bà Humbert bị xe cán và ông hãy mau đến.”
Tôi trả lời, bằng một giọng có lẽ hơi cáu kỉnh, rằng vợ tôi vẫn bình an vô sự, và tay vẫn cầm ống nghe, tôi đẩy cửa và nói: “Có người bảo mình bị xe cán chết đây này, Charlotte.” Nhưng trong phòng khách, không thấy Charlotte đâu.