• ĐỔI TÊN MIỀN VIETWRITER.PRO SANG vietwriter.co TỪ NGÀY 18/11

Full Lễ tế mùa xuân (1 Viewer)

  • P3-Chương 3+4+5

[3]



“Tiểu Hưu, em hãy nói thật cho ta biết, có phải ta đã nói sai gì không?”



Quỳ ôm má phải bị Lộ Thân đánh sưng, hỏi vậy.





“Bởi vì không biết giữa ngài và Lộ Thân tỷ tỷ đã xảy ra chuyện gì nên em cũng không dám đoán bừa. Có điều, cô của Lộ Thân tỷ tỷ vừa mất, ngài lại chuyển đề tài câu chuyện sang phương hướng kỳ lạ như vậy, đúng là không được ổn cho lắm.”



Tiểu Hưu nghiêm túc trả lời theo yêu cầu của Quỳ.



“Thôi, điều tra vẫn quan trọng hơn.”



Nói rồi Quỳ đi về phía nhà kho, Tiểu Hưu theo ngay sau nàng.



Bấy giờ ánh mặt trời chiếu vào phòng đã đủ sáng sủa, chiếu rõ đến từng ngóc ngách nhỏ của căn phòng, bởi vậy việc điều tra của Quỳ cũng được tiến hành một cách thuận lợi. Đầu tiên nàng xem xét lại dàn chuông kia một lần nữa. Trên giá treo chuông và thân chuông đều bị phủ một lớp bụi dày. E là từ bốn năm trước khi Quan Vô Dật chuyển cả gia tộc tới nơi đây thì dàn chuông này chưa từng được dùng tới. Điều này cũng không có gì lạ, dù sao ở thời đại này thì loại nhạc cụ như chuông đã suy tàn đến mức không thể cứu vãn, hiếm có nơi nào dùng nó để tấu nhạc.



Quỳ đi vòng ra phía sau dàn chuông, quan sát những chiếc nỏ và mũi tên mà khi nãy nàng chưa thể ngắm ở khoảng cách gần. Có lẽ chúng không liên quan gì đến vụ án mạng, nhưng Quỳ vẫn coi chúng là một phần của hiện trường vụ án mà không muốn dễ dàng bỏ qua.



Mấy chục năm về trước, Thừa tướng đương nhiệm Công Tôn Hoằng từng đề nghị cấm dân tàng trữ cung nỏ, cho rằng nếu mười tên giặc cướp cầm nỏ chống đối thì dù một trăm quan binh đuổi theo cũng chưa chắc có ai dám bước lên bắt giữ chúng. Nếu trong dân không có cung nỏ, giặc cướp chỉ có thể cầm binh khí ngắn để chống đối, vậy thì chỉ cần quan binh đông hơn là nhất định có thể bắt chúng về quy án. Tuy nhiên Quang Lộc đại phu Thị trung đương nhiệm là Ngô Khâu Thọ Vương lại phản bác đề nghị này. Ngô Khâu Thọ Vương cho rằng, tác dụng của binh khí là “Ngăn ngừa bạo lực, thảo phạt giặc cướp, trong cuộc sống thường ngày thì dùng để chế ngự thú dữ, khi có can qua thì phòng vệ và chiến đấu.” Hơn nữa, theo lễ cổ, sau khi bé nam ra đời, cần một người dùng cung gỗ dâu và sáu mũi tên làm bằng cỏ bắn về bốn phương trời đất thay cậu bé, cho thấy chí hướng lý tưởng của cậu bé. Tóm lại là, nếu cấm bách tính dùng cung nỏ thì chỉ khiến bọn họ bất lực khi gặp nguy hiểm, cũng ắt phải hủy bỏ lễ cổ do tiên vương lập ra, bởi vậy tuyệt đối không thể thực hiện chính sách này. Đây là chuyện trước khi Quỳ ra đời, song cuộc tranh luận này được lưu truyền khá rộng rãi, khi nàng tập bắn cung đã được nghe người ta nhắc tới, cũng rất tán thành. Thực ra khi phản bác Lộ Thân ở rừng hoang hôm qua, nàng cũng âm thầm dùng quan điểm của Ngô Khâu Thọ Vương.



Có cả thảy bảy chiếc nỏ. Quỳ cầm một chiếc trong đó lên, quan sát cẩn thận. Những chiếc nỏ này đều được bọc trong vỏ đồng, đầu trên cùng được gọi là bộ phận Vọng Sơn, chủ yếu để nhắm bắn. Hai bên Vọng Sơn là răng nỏ, phía dưới là lẫy nỏ. Lẫy nỏ và răng nỏ nối với nhau bằng móc câu. Móc câu ẩn trong vỏ đồng, nhìn từ bên ngoài thì không thấy được. Bốn linh kiện trên đều có khe, khớp chúng lại với nhau thì được nỏ hoàn chỉnh. Khi sử dụng thì trước tiên dùng răng nỏ giữ dây, rồi đặt mũi tên trên cánh nỏ, kéo lẫy, răng nỏ lộ bên ngoài sẽ thu vào vỏ đồng, dây nỏ căng ra thu về chỗ cũ, mũi tên cũng bắn ra theo.



Theo Quỳ thấy thì toàn bộ quá trình đều chẳng có kỹ thuật gì đáng nói. Với người không đủ thể lực thì dùng nỏ bắn tên cũng không khó, khó là khó ở quá trình kéo dây để giữ nó ở răng nỏ, vì dây nỏ chặt hơn dây cung, cũng khó kéo hơn nhiều. Có điều, khi nỏ được thiết kế người ta đã tính đến vấn đề này - khi kéo dây chỉ cần đặt nỏ trên đất, đạp lên đầu trước cánh nỏ, tay nắm đầu sau là có thể dùng sức lực của toàn thân để kéo dây nỏ, động tác này gọi là “quyết trương”.



Tuy hiểu nguyên lý hoạt động và cách thức sử dụng của nỏ, nhưng vì căm ghét nên Quy chưa bao giờ thực sự dùng tới nó. Nàng sai Tiểu Hưu nhặt một mũi tên lên, rồi dựa theo phương pháp nói trên, dùng cả tay cả chân gài dây nỏ vào răng nỏ, rồi lấy mũi tên trên tay Tiểu Hưu, lắp lên nỏ, tiện đà nhắm vào vách tường rồi thả lẫy. Tên liền bắn vào vách tường.



“Uy lực như vậy, hoàn toàn có thể bắn chết địch thủ trong vòng một trăm bước.”



Quỳ lẩm bẩm.



“Tiểu thư, xin hỏi hành động vừa nãy của tiểu thư có liên quan đến việc điều tra không ạ?”



Tiểu Hưu hỏi không đúng lúc.



“Em biết mỉa mai chủ nhân từ khi nào thế.” Quỳ cầm nỏ chưa lên dây nhắm về phía Tiểu Hưu. “Suốt ngày lắm miệng như vậy, cẩn thận không ta bắn chết em đó.”



“Tiểu thư sẽ không làm chuyện vớ vẩn ấy đâu. Thế nhưng, bây giờ vẫn nên cẩn thận xem xét hiện trường thì hơn. Nếu không lát nữa có thể sẽ bị Lộ Thân tỷ tỷ đánh đó.”



“Được rồi, ta biết rồi. Nhưng em coi đi, thực ra nơi này cũng chẳng có gì hay mà xem xét.” Quỳ nói, “Trước khi em tới, ta vẫn ở hiện trường, những thứ cần thấy thì đều thấy cả rồi. Ta chỉ muốn ở đây để bình tĩnh sắp xếp lại mạch suy nghĩ mà thôi. Thế nên em đừng nói chuyện với ta nữa.”



Tiểu Hưu chẳng biết làm sao, đành gật đầu thật mạnh.



Quỳ lại xem xét chiếc nỏ trong tay.



Gần tới trưa, Lộ Thân quay lại nhà kho, gọi Quỳ tới gian chính ăn cơm. Trước đó, Quỳ cũng chẳng điều tra nghiêm túc, sau khi nghịch nỏ, nàng lại phí không ít thời gian cho dàn chuông cổ. Trong lòng Tiểu Hưu cũng biết chuyện nàng đang làm chẳng liên quan gì đến việc điều tra, song vì mệnh lệnh nên không thể nói ra.



“Việc điều tra của Lộ Thân có tiến triển gì không?”



“Việc điều tra của Tiểu Quỳ có tiến triển gì không?”



Lộ Thân hỏi ngược lại. Nàng vừa đi vào liền nhìn thấy Quỳ đang nghịch chuông, lại nhìn thấy mũi tên cắm trên tường thì âm thầm bất mãn, cuối cùng quyền chủ động đặt câu hỏi lại bị Quỳ cướp đi, nên càng cảm thấy uất ức hơn.



“Ta muốn hỏi một câu, nơi này cất giữ mấy chiếc nỏ?”



Quỳ có ý nói lảng sang chuyện khác.



“Bảy chiếc. Còn có bảy chiếc đặt ở nhà kho sau gian chính nữa.”



“Hóa ra còn có một nhà kho nữa, sau bữa trưa dẫn ta tới đó xem nhé. Cả gian phòng mà mấy hôm nay Chung phu nhân ở nữa, cũng cần xem xét một chút.”



“Ta sẽ hỏi ý kiến phụ thân.” Lộ Thân ngừng một thoáng rồi nói tiếp: “Vậy giờ xin Tiểu Quỳ hãy trả lời câu hỏi khi nãy của ta, việc điều tra của ngươi có tiến triển gì không?”



“Có một phát hiện.” Quỳ nói. Lộ Thân tỏ vẻ nghi ngờ.



“Nói ta nghe thử xem nào.”



“Chung phu nhân chưa từng chạm vào nỏ và mũi tên, thế nhưng trên dàn chuông lại có dấu vết cho thấy bà từng động vào nó.”



“Đây chính là phát hiện của ngươi sao?” Lộ Thân khinh thường, “Ta đã hỏi phụ thân rồi. Chiều qua cô có hỏi cha về dàn chuông. Cô không biết sau khi dọn nhà thì chuông được đặt ở đâu nên mới hỏi. Phụ thân cũng nói thật cho cô biết. Từ đó đại khái có thể khẳng định rằng, sớm nay cô tới nhà kho là để xem dàn chuông này. Có điều, sớm nay cô tới nhà kho là để xem dàn chuông này. Có điều, sáng sớm khi cô ra khỏi phòng thì biểu ca và biểu muội còn ở trong phòng, sau đó hai người cùng đi dạo tới lối vào hẻm núi, gặp được Giang Ly tỷ và Nhã Anh tỷ.”



“Ngươi còn thăm dò được tin tức gì nữa?”



“Còn nữa, trên người cô đúng là đã phát hiện được đá lửa dùng để đánh lửa, hơn nữa còn lưu lại dấu vết vừa sử dụng. Ta lại hỏi Triển Thi ca về chiếc đèn lồng nọ. Huynh ấy nói trên dãy đèn trong phòng cô đúng là thiếu một chiếc. Ngoài ra theo lời huynh ấy, trong phòng vẫn còn sáu chiếc đèn, hình thức cũng giống với chiếc đèn được phát hiện trong nhà kho.”



“Chỉ có thế thôi à?”



“Chỉ có thế thôi.”



“Vậy đủ rồi.” Quỳ nói, “Buổi chiều dẫn ta đi xem nhà kho còn lại và phòng của Chung phu nhân nhé, không biết liệu có thể phát hiện ra manh mối mới không. Cho tới giờ, chúng ta vẫn không biết gì về thủ pháp gây án cũng như động cơ giết người của hung thủ, thậm chí còn không có lấy một giả thiết đủ sức thuyết phục. Dù thế nào chăng nữa thì sự vụ này cũng quá kỳ lạ.”



“Không lẽ nó sẽ lại biến thành một vụ án bí ẩn như thảm kịch xảy ra ở nhà bá phụ vào bốn năm trước...”



“Mong là không phải vậy.”



Buổi chiều, hai người tới nhà kho ở sau gian chính.



Vì sợ hành động của mình bị “cản trở”, Quỳ lệnh cho Tiểu Hưu đi giúp nhà họ Quan chuẩn bị tang lễ.



Không giống với nhà kho mà hai người đi vào buổi sáng, nhà kho này cao hơn những gian nhà bình thường rất nhiều, xà nhà cách mặt đất chừng hai trượng. Trên bức tường phía Bắc chỗ sát nóc nhà có một cửa sổ nhỏ hình tròn, đường kính chỉ khoảng bốn tấc. Đồ để trong nhà kho chủ yếu là đồ bằng ngọc và bằng kim loại dùng trong tế lễ và sinh hoạt hàng ngày, ngoài ra còn có một ít nhạc cụ, mấy con dao ngắn nằm trong vỏ, bảy chiếc nỏ và một số mũi tên.



Vật chứa có đỉnh, nghiễn(1), đối(2), phủ(3), quỹ(4), tôn(5), hồ(6), hòa(7), bàn(8), di(9), đều có hình dạng thời Chiến Quốc, trong đó Quỳ đã thấy một số thứ trong bữa tiệc tối qua. Đồ bằng ngọc thì có khuê(10), bích(11), chương(12), tông(13), hổ(14), hoàng(15), trong đó chỉ riêng loại khuê đã có không dưới mười kiểu, hình dáng màu sắc khác nhau, có những thứ lạ lẫm tới mức Quỳ vẫn luôn tự phụ biết rộng nhớ dai, am hiểu lễ học mà cũng không biết tên là gì.



(1) Cái chõ liền cả nồi đáy.



(2) Đồ để đựng thóc lúa.



(3) Đồ đựng xôi cúng.



(4) Đồ đựng xôi cúng, hoặc bát đựng thức ăn.



(5) Chén uống rượu.



(6) Cái ấm, bình.



(7) Một loại ấm đất thời cổ, có chân, nắp và quai cầm, có vòi để rót.



(8) Cái mâm, khay.



(9) Chậu rửa mặt thời xưa.



(10) Ngọc khuê, thường là trên tròn (hoặc nhọn), dưới vuông.



(11) Ngọc bích, dẹt, hình tròn, giữa có lỗ.



(12) Ngọc chương, hình dạng như một nửa ngọc khuê.



(13) Ngọc hình bát giác, ở giữa có lỗ tròn.



(14) Ngọc được chạm thành hình con hổ, ngày xưa dùng để cúng tế.



(15) Ngọc được đẽo thành hình bán nguyệt.



“Ngươi biết hết tên gọi và cách dùng của những thứ này không?”



“Sao mà biết hết được.” Lộ Thân lơ đãng nói, “Tri thức trong đó kể cả phụ thân ta cũng chưa chắc đã hiểu, những vấn đề ở phương diện này nên hỏi Nhã Anh tỷ thì tốt hơn. Các thứ này vốn được cất ở nhà bá phụ, từ nhỏ tỷ ấy đã được tiếp xúc với chúng, lại được học không ít kiến thức về chúng từ bá phụ. Nếu không phải vì tinh thần của tỷ ấy luôn không tốt thì lẽ ra lễ tế năm nay phải do tỷ ấy chủ trì mới đúng.”



“Công tác chuẩn bị lễ tế đã hoãn lại rồi à?”



“Đúng vậy, dù sao cũng xảy ra chuyện như thế. Năm nhà bá phụ xảy ra chuyện cũng không cử hành lễ tế.”



“Cái trống bên kia, lễ tế nào cũng dùng đến sao?”



Quỳ chỉ tay về một góc của nhà kho, hỏi như vậy. Nơi đó có bày một chiếc “Kiến cổ”*. Trong Lễ thư có viết: “Hạ hậu thị chi cổ túc, Ân doanh cổ, Chu huyền cổ.” Có nghĩa là, thời Hạ thì trống nằm ngang trên giá có chân; thời Thương thì trống đặt nghiêng, hai bên sườn trống có khe, để xuyên trụ dựng đứng qua khe đó; thời Chu thì treo trống trên giá. “Kiến cổ” tương đồng với cách làm của thời nhà Thương. Thứ trước mắt Quỳ chính là như vậy, một cái trụ gỗ xuyên qua hai mặt trên và dưới của trống. Nhưng từ trước đến nay, những chiếc “Kiến cổ” mà nàng từng thấy thường chỉ có hai mặt trống để gõ, trong khi chiếc “Kiến cổ” này lại có tới tám mặt. Kể ra cũng hơi khó tin, hai mặt trên và dưới của trống đều có hình bát giác, còn tám mặt vuông góc với mặt đất thì có hình chữ nhật. Mặt trên và dưới đều được làm bằng gỗ, lại bị một cái trụ xuyên qua nên không thể gõ được. Còn tám mặt trống xung quanh lại được bọc da trâu, đều có thể gõ rất vang. Quỳ thầm biết đây là “Lôi cổ” dùng trong lễ tế thần linh, song bản thân nàng cũng chỉ từng nghe tả về hình dáng của loại trống này, tới giờ mới được nhìn thấy tận mắt.



* Một loại trống, còn gọi là trống Tề, trống Tấn,... Là một loại nhạc cụ từng được sử dụng trong cung đình. Phổ biến ở các chùa chiền tại Nội Mông Cổ, Liêu Ninh, Cát Lâm, Thanh Hải… và nhiều khu vực lớn khác của dân tộc Hán.



“Lễ tế nào cũng dùng.” Lộ Thân đáp.



Quỳ lại chú ý tới vài món nhạc cụ có dây treo trên tường, lần lượt là đàn cầm, đàn sắt và đàn tranh, tất cả đều chưa lên dây. Còn có cả sáo và khèn, mỗi loại mấy chiếc. Nhìn hình dáng thì có thể thấy chúng đều là cổ vật lưu truyền từ thời Chiến Quốc.



“Những nhạc cụ này đều do tổ tiên truyền lại sao?”



“Đúng vậy. Ngoài ra còn có vài món được cô mang đi Trường An rồi.”



“Ngươi biết cách chơi chúng không?”



“Ta chỉ biết chơi nhạc cụ có dây thôi, không hiểu sao, tất cả kèn sáo dưới miệng ta đều không thổi thành âm thanh gì cả. Có điều Giang Ly tỷ có thể chơi toàn bộ nhạc cụ này. Mấy năm nay, vũ nhạc trong lễ tế đều do Giang Ly tỷ phụ trách, bao giờ tỷ ấy cũng hoàn thành rất tốt. Tiểu Quỳ, ngươi có thấy không, ở nhà ta chỉ là một gánh nặng, nếu người chết đi không phải cô mà là ta...”



“Giờ không phải lúc nói ra lời này. Dù ngươi tự ti thế nào, tồi tệ ra sao, trải qua cuộc sống nhục nhã kiểu gì, lúc này ta không có hứng thú nghe ngươi nói.” Quỳ nghiêm nghị bảo, “Những lời này đợi tới khi giải quyết xong mọi chuyện rồi hãy nói tiếp. Tới lúc ấy, ta sẽ lần lượt phản bác từng câu của ngươi, rồi cũng cho ngươi một cái tát giống như hồi sáng ngươi làm với ta vậy. Còn bây giờ vẫn nên tập trung điều tra thì tốt hơn, vì hồn phách của Chung phu nhân có thể vẫn lẩn khuất đâu đây, mọi hành động của chúng ta đều có thể lọt vào mắt bà.”



“Xin lỗi Tiểu Quỳ, ta sẽ phấn chấn lên. Biết đâu tới khi điều tra ra chân tướng, ta lại nhận ra mình có khả năng phá án thì sao, nếu vậy thì ta sẽ không còn tự ti nữa.”



“Tuy ta không nghĩ ngươi có năng khiếu gì đặc biệt ở mặt này, nhưng nghĩ được như vậy là rất tốt. Chưa thử tất cả mọi việc trên thế gian thì cũng không có tư cách phủ định tài năng của mình. Thực ra tự ti là một kiểu biểu hiện của bệnh tự đại cuồng, bởi vì khi ngươi nói mình chẳng giỏi gì hết thì hàm ý của lời này thực ra là: Ngươi đã thử làm mọi việc trên đời rồi. Nếu vẫn chưa làm được điều đó thì xin ngươi hãy tiếp tục kỳ vọng vào bản thân.”



“Cảm ơn Tiểu Quỳ đã cổ vũ ta như vậy.”



“Lộ Thân cũng có ưu điểm đấy, chỉ có điều bản thân ngươi còn chưa nhận ra thôi.” Quỳ trêu chọc, “Ít nhất thì dáng vẻ giận dỗi của ngươi vô cùng đáng yêu, khiến ta không kìm lòng được mà muốn bắt nạt ngươi, chọc tức ngươi.”



“Ngươi thích là được, thực ra ta cũng sẽ không so đo. Vì Giang Ly tỷ và Nhã Anh tỷ quá thân thiết, nên cách mà hai người họ đối xử với ta luôn khiến ta cảm thấy xa lạ, quả thực không giống tỷ muội. Trong khi Tiểu Quỳ lại đối xử với ta như tỷ muội ruột thịt. Nếu chúng ta là tỷ muội ruột thì những việc Tiểu Quỳ làm với ta không tính là quá đáng, mà là vô cùng thỏa đáng. Ta mong mối quan hệ ấy có thể tiếp tục kéo dài, tuy đôi lúc ta cũng thấy không cam tâm hoặc muốn đánh ngươi một trận, nhưng dù sao cũng ấm áp hơn ngày xưa chỉ có một thân một mình.”



“Lộ Thân đúng là một cô bé đa sầu đa cảm.” Quỳ nói, “Việc điều tra nơi này dừng ở đây thôi, chúng ta đã bắt đầu tán gẫu, chứng tỏ ở đây đã không còn thứ gì đáng để tiếp tục điều tra. Tiếp theo xin hãy dẫn ta tới gian phòng mà Chung phu nhân nghỉ lại tối qua.”



“Được.”



Thế rồi hai thiếu nữ cùng đi tới ngôi viện nhỏ mà mấy mẹ con nhà họ Chung ở tạm.



Chung Hội Vũ đã lấy ra từng món đồ trong hành lý của mẫu thân theo lời Lộ Thân, bày trên chiếu cói trong gian chính, còn bản thân thì đứng đợi bên cạnh.



Quỳ nhìn di vật được xếp trên mặt chiếu. Trong đó có sáu chiếc áo choàng, hai chiếc áo trong, dép, guốc, giày, mỗi thứ một đôi. Một hộp trang sức, lược, lược bí, gương đồng mỗi thứ một chiếc. Lại có một cái hòm sơn mài, bên trong chứa nhiều loại thuốc. Ngoài ra còn có vài món nhạc cụ. Khèn, sênh, đàn sắt, hình thức đều giống với những thứ mà hai người vừa thấy trong nhà kho, hẳn là đồ cổ của nhà họ Quan.



Một ống sáo bảy lỗ đã thu hút sự chú ý của Quỳ. Loại nhạc khí này không phổ biến thời bấy giờ. Bởi vì số lỗ của nó không cố định nên phương pháp diễn tấu rất khó học. Xung quanh Quỳ không có ai biết cách chơi nó. Có điều, nếu là thê tử của quan chức ở Nhạc phủ thì trong hành lý có một cây sáo cũng chẳng có gì lạ.



“Hội Vũ muội muội, xin hãy nén bi thương.”



“Không cần nói những lời khách sáo ấy nữa, xin Vu Lăng tỷ tỷ nhất định phải tìm ra hung thủ.”



Giọng của Chung Hội Vũ nhỏ như muỗi kêu, nhưng trong ấy đã không còn sự sợ hãi yếu mềm, biến cố và nỗi đau quá lớn đã khiến nàng không thể không mạnh mẽ hơn.



“Vậy ta muốn hỏi một chút, muội biết chơi cây sáo bảy lỗ này không?” Quỳ chỉ vào di vật của bà Quan Khoa rồi hỏi.



“Còn chưa thuần thục, song những khúc nhạc bình thường thì vẫn ứng phó được.”



“Mẫu thân dạy cho muội à?”



“Vâng. Cây sáo này vốn được mẫu thân muội mang từ quê nhà tới Trường An.”



Vậy lần này mang về hẳn là trả vật về cho chủ cũ - Quỳ nghĩ thế nhưng không nói ra.



“Phải rồi, tối qua Chung phu nhân có cố ý lấy ra một đồ vật hoặc một số đồ vật nào đó từ trong hành lý không?”



“Tối qua ư? Đồ trang điểm vốn ở bên ngoài, túi đựng nhạc cụ vẫn chưa từng được mở ra. Y phục...” Chung Hội Vũ trầm tư trong thoáng chốc rồi nói tiếp, “Cũng chỉ có bộ này thôi.”



Nói rồi nàng đưa tay chỉ vào một bộ váy lộng lẫy, trên màu xanh dưới màu trắng, có vẻ như mới may.



“Bộ y phục này chưa mặc bao giờ đúng không?”



“Chúng ta mới may xong trước khi xuất phát từ Trường An, chưa thấy mẫu thân mặc bao giờ.”



Quỳ đoán rằng có thể đây là lễ phục mà bà Quan Khoa định dùng trong lễ tế.



“Những thứ cần dùng trong buổi khâm liệm ngày mai đã được chuẩn bị xong hết chưa?”



“Những chuyện này đều do ca ca lo liệu, Giang Ly tỷ tỷ cũng giúp đỡ. Hình như ca ca rất lo cho muội, nên không cho muội tham gia vào chuyện gì hết, điều này khiến muội thấy rất áy náy. Nếu hai vị tỷ tỷ đã xem xét xong, muội muốn thu dọn lại mấy thứ này, sau đó tới gian chính giúp mọi người chuẩn bị tang lễ.”



“Ta đã xem xong rồi. Nếu Lộ Thân không có ý kiến gì khác thì chúng ta cùng đi thôi.”



“Tại sao ta lại có ý kiến gì khác được?”



“Vậy thì xin chờ một lát để muội thu dọn lại.”



Chung Hội Vũ nói rồi bắt đầu cất di vật của mẫu thân đi. Lộ Thân cũng vội tới giúp nàng. Quỳ không biết có nên tiện tay giúp đỡ hay không, bèn đứng đợi bên cạnh.



Khi tất cả di vật đều được đặt về chỗ cũ, ba người cùng đi đến gian chính.



Các thiếu nữ tiếp tục bận rộn tới khuya. Trong mọi khâu chuẩn bị, Quỳ tinh thông Lễ học lại không hề phát biểu ý kiến của mình. Vì nàng biết lễ nghi trên đất Sở và đất Hán có nhiều khác biệt, không thể áp đặt lễ cổ mà mình học được cho nhà họ Quan.



Đêm hôm ấy, Quỳ và Lộ Thân thắp đuốc trong sân trước gian chính, trên đuốc được quấn vải đã ngâm trong mỡ động vật, khiến trong sân toàn mùi mỡ tanh. Điều này khiến Quỳ nhớ tới lời miêu tả về mảnh sân được đặt vô số đèn đuốc trong Kinh Thi:



Đêm thế nào rồi? Đêm chưa dứt. Sân tỏa hào quang. Quân tử vội tới, tiếng chuông vang.



Đêm thế nào rồi? Đêm chưa tàn. Sân sáng lấp lánh. Quân tử vội tới, tiếng chuông vang.



Đêm thế nào rồi? Đêm đã hết. Sân sáng rực rỡ. Quân tử vội tới, cờ quạt bay.*



* Đây là bài thơ Đình liệu thuộc Tiểu nhã trong Kinh Thi. Đình liệu nghĩa là đèn đuốc được thắp ở sân để soi sáng cho mọi người làm lễ.



Nghe nói đây là thơ miêu tả cảnh Thiên tử triệu kiến chư hầu vào sáng sớm dưới thời Chu Tuyên vương, song nếu đặt vào tình cảnh hôm nay thì lại có nét thú vị rất riêng. Lúc này ánh sáng trong sân đã không thể chỉ lối cho ai, mà chỉ soi sáng được đường về của Quan Khoa. “Quỷ tức là quy*”, đây chính là hành trình cuối cùng của Quan Khoa, nếu bà nhìn lại nhân thế, sẽ nhìn thấy sân nhà rực rỡ ánh đèn này đầu tiên - Quỳ nghĩ vậy, liền cảm thấy nỗ lực của mình và Lộ Thân không hề uổng phí. Tuy rằng mọi nỗ lực cuối cùng đều chẳng để làm gì.



* Quy nghĩa là trở về, quay về.



Trong sân, hai người gặp được Bạch Chỉ Thủy.



“Tiên sinh vẫn chưa ngủ sao?”



Quỳ không biết nên nói gì, đành khách sáo hỏi.



“Nghe nói Vu Lăng quân đang điều tra hung án, nếu có việc gì ta giúp được, xin hãy cho ta biết. Ta và nàng ấy đã quen biết nhiều năm, biến cố này khiến người ta nhất thời khó mà chấp nhận được.”



“Ta và Lộ Thân sẽ cố hết sức để tìm ra chân tướng, tiên sinh không cần bởi vậy mà bận lòng.”



“Vậy tốt rồi. Ta chuẩn bị về đây, người lớn tuổi luôn chóng mệt mỏi, Vu Lăng quân cũng nghỉ sớm đi thôi.”



Bạch Chỉ Thủy và Quỳ ở hai hướng ngược nhau. Sau khi từ biệt ông ta, Lộ Thân và Quỳ cũng quay trở về. Mới đi được mười mấy bước, đáy lòng Quỳ bỗng dâng lên một nỗi bất an. Đó không phải là linh cảm, nhưng lại làm nàng thấy không vui.



Nàng quay người nhìn về phía Bạch Chỉ Thủy đang đi ngày một xa, bóng dáng ông ta đã biến mất trong màn đêm.



Đêm nay, Lộ Thân ngủ trong phòng Quỳ, vì mệt mỏi nên hai người đều mau chóng chìm vào giấc ngủ, cũng không trò chuyện gì thêm. Sau khi thiếp đi, Lộ Thân mơ thấy cảnh tượng bi thảm mà ban ngày mình nhìn thấy, bèn ôm chặt lấy Quỳ. Tảng sáng hôm sau, người nhà họ Quan sẽ tổ chức lễ khâm liệm cho bà Quan Khoa ở gian chính, bởi vậy Quỳ dặn Tiểu Hưu đánh thức mình và Lộ Thân sớm một chút để không tới trễ. Qua nhiều năm, Tiểu Hưu đã dần luyện thành thói quen trời chưa sáng đã thức dậy, do đó luôn có thể hoàn thành lời dặn của chủ nhân. Có lẽ trong mắt người ngoài, thực tại của nàng thật bi thảm, còn nàng lại không muốn chìm đắm trong mộng mị, nàng thích quãng thời gian tỉnh táo hơn.



Màn đêm thăm thẳm, mây đen dần giăng kín chân trời.

------------------

[4]



Lễ khâm liệm được tổ chức ở gian chính.



Mọi người đặt áo quan ở sảnh Đông, phía dưới sắp lễ rượu thịt, được phủ kín bằng vải đặc chế. Đồ tang mà người thân phải thay sau nghi thức thì đặt ở cầu thang phía Đông. Ngoài cửa gian trong có một chiếc đỉnh, trong đỉnh đun thịt heo sữa. Sau đó Quan Giang Ly và Quan Nhã Anh trải hai lớp chiếu trên nền nhà phòng trong, chiếu cói phía dưới, chiếu tre phía trên, rồi trải y phục liệm theo thứ tự. Quan Vô Dật và Chung Triển Thi dời thi thể của Quan Khoa tới trên một bộ y phục đã trải sẵn, rồi cuốn những bộ kia lại, ngoài cùng là một lớp vải liệm màu đen. Quan Vô Dật tháo mũ, cùng mọi người nâng thi thể vào trong sảnh, lại lấy chăn liệm che lên. Cuối cùng, cả nhà đều thay đồ tang.



Khi lễ khâm liệm bắt đầu, Quỳ ở lại phòng khách, không tham dự vào nghi thức ở gian trong, còn Tiểu Hưu thì đứng bên ngoài với người hầu nhà họ Quan. Điều kỳ lạ là, Bạch Chỉ Thủy rất thân thiết với Quan Khoa lại chưa từng xuất hiện. Trước và sau nghi thức, Quan Vô Dật đều phái người hầu đi gọi Bạch Chỉ Thủy, tuy nhiên ông ta lại không có trong phòng mình.



Sau đó có người nhớ ra, sáng nay từng gặp Bạch Chỉ Thủy, trước khi trời sáng ông ta đã đi về phía Nam. Từ hẻm núi nhà họ Quan đi về phía Bắc, có một con đường để xuống núi. Còn đi về phía Nam thì chỉ có thể đi sau vào trong núi.



“Có lẽ Bạch tiên sinh đi hái cỏ thi* rồi.” Quan Vô Dật mặc tang phục, nói: “Tối qua ta từng nhờ ông ấy bói cho Khoa Nhi một quẻ để quyết định ngày đưa tang.”



* Một loại cỏ lá nhỏ dài lại có từng kẽ, hoa trắng hay đỏ phớt, hơi giống như hoa cúc, mỗi gốc đâm ra nhiều rò. Người xưa thường dùng cỏ này để bói.



Cỏ thi là thứ phổ biến nhất dùng để bói toán, mỗi lần bói phải dùng năm mươi nhánh, bởi vậy Bạch Chỉ Thủy mới phải vào núi hái. Có điều đây là loại cỏ thông thường rất dễ kiếm, thực ra chỉ hái năm mươi nhánh không thể lâu như vậy, không lẽ Bạch tiên sinh cũng gặp chuyện chẳng lành?



Nỗi bất an dâng lên trong lòng Quỳ khi từ biệt Bạch Chỉ Thủy vào tối qua, lúc này lại xuất hiện.



“Bạch tiên sinh vội vào núi trước khi trời sáng, chứng tỏ ông ấy vốn định tham gia vào nghi thức khâm liệm. Ta sợ rằng ông ấy đã gặp chuyện không may.” Quỳ bày tỏ suy nghĩ của mình với Quan Vô Dật.



“Lộ Thân, con dẫn đường cho Vu Lăng quân đi.”



Quan Vô Dật ra lệnh. Lộ Thân đương nhiên nghe theo.



“Ta cũng muốn đi cùng.” Chung Triển Thi đề nghị, “Nếu thực sự xảy ra chuyện gì, e là hai cô bé không thể ứng phó được.”



“Vậy là tốt nhất, ta cũng nghĩ nếu chỉ có mình và Lộ Thân đi thì có thể làm lỡ việc. Rất xin lỗi, huynh vừa trải qua chuyện bất hạnh như vậy...”



“Ta đã từng học thơ với Bạch tiên sinh, 'Thầy cũng như cha', sao ta có thể làm ngơ vào những lúc thế này? Nhưng ta cũng không hiểu rõ địa hình ở đây, xin Lộ Thân hãy dẫn đường.”



Thế là Quỳ dặn Tiểu Hưu giúp người hầu nhà họ Quan dọn dẹp, còn nàng thì cùng Lộ Thân và Chung Triển Thi đi về phía Nam.



Cuối xuân là một thời kỳ nguy hiểm, trong núi toàn là thú dữ và sâu độc. Cũng may hôm ấy thời tiết không tốt, mây đen u ám, chim muông biết sắp có mưa lớn, đều ẩn nấp không xuất hiện. Quỳ nghe nói báo đen ở Nam sơn có thể bảy ngày liền không xuống núi kiếm ăn nếu thời tiết âm u có mưa. Bởi vậy nàng luôn cho rằng lên núi vào ngày mưa sẽ an toàn hơn một chút.



Lộ Thân lại không nghĩ như vậy, nàng biết nước mưa có thể tích trữ lại thành những cơn lũ quét bất ngờ.



“Hóa ra Bạch tiên sinh không chỉ hiểu thơ mà còn biết cả về bói toán.” Lộ Thân nói, “Ta cứ tưởng chỉ có các kinh sư* nghiên cứu Chu Dịch mới hiểu bói toán.”



* Chỉ đạo sĩ truyền giáo hoặc các giảng sư truyền thụ kinh thư.



“Ngũ kinh vốn dĩ liên hệ với nhau, bất kỳ ai muốn nghiên cứu một bộ kinh thì đều phải đọc hết các bộ kinh còn lại. Tông sư Thi học Hàn Anh đã quá cố từng nghiên cứu sâu về 'Dịch', còn để lại một bộ Hàn thị Dịch truyện. Đương nhiên đó chỉ là học thuyết của phái 'Thơ Hàn', mà Bạch tiên sinh lại học 'Thơ Tề'. 'Thơ Tề' cũng có một phương pháp bói toán đặc biệt, có thể khái quát thành 'Ngũ Tế Lục Tình'.”



Cứ nhắc đến những vấn đề về Kinh học* là Quỳ lại trở nên hưng phấn.



* Chỉ học vấn kinh điển của nhà Nho.



“Không ngờ Vu Lăng quân lại biết học thuyết này,” Chung Triển Thi ngạc nhiên nói: “Ta nghe Bạch tiên sinh bảo rằng, phương pháp bói toán này không được lưu truyền rộng rãi trong học phái của họ, bởi vậy chính ông ấy cũng không mấy rõ ràng nguyên lý trong đó.”



“Thực ra có một chuyện ta vẫn giấu không nói cho Bạch tiên sinh, ta cũng từng học 'Thi' với Hạ Hầu tiên sinh, tuy chưa thể tốt nghiệp...”



“'Ngũ Tế Lục Tình' là gì?”



Lộ Thân không biết “Hạ Hầu tiên sinh” trong lời của Quỳ là ai, cũng không biết bái ông ấy làm thầy nghĩa là thế nào, bèn chuyển đề tài về chủ đề bói toán mà nàng khá quan tâm.



“Giải thích thì cũng phức tạp đấy. 'Ngũ Tế' là chỉ năm trong số mười hai Địa Chi: Mão, Dậu, Ngọ, Tuất, Hợi. Những năm có Địa Chi này là những năm 'Âm Dương giao hòa', lúc này có thể sẽ xảy ra sự rối loạn về mặt chính trị. Hơn nữa 'Năm Mão Dậu biến động, năm Ngọ Hợi thay đổi'. Tới những năm có Địa Chi là Ngọ, Hợi, ví dụ năm Tân Hợi thì phải cực kỳ cẩn thận, vì khi đó có thể sẽ xảy ra sự thay đổi về triều đại.”



“Vậy 'Lục Tình' thì sao?”



“'Ngũ Tế' liên quan đến năm, còn 'Lục Tình' liên quan khá lớn đến ngày tháng cụ thể. 'Lục Tình' là chỉ tình cảm tương ứng với sáu phương vị Bắc, Đông, Nam, Tây, trên, dưới. Sáu phương đồng thời lại tương ứng với mười hai quy tắc...”



“Thôi thôi, Tiểu Quỳ không cần nói nữa. Học thuyết này quá phức tạp, vượt ra khỏi năng lực phân tích của ta rồi.”



“Phương pháp này có yêu cầu quá cao với người bói toán, chỉ kinh sư uyên bác mới có thể hiểu được. Huống chi nó nói về chuyện quốc gia đại sự, đương nhiên người biết càng ít càng tốt. Mà cũng phải nói, dù dân thường hoặc phụ nữ có biết lúc nào sẽ xảy ra biến cố lớn về chính trị thì cũng đâu làm được chi? Bởi vậy mới nói phương pháp bói toán 'Thơ Tề' định sẵn chỉ phục vụ cho người đang cầm quyền mà thôi, với chúng ta mà nói thì chẳng có giá trị thực tế gì. Nếu Lộ Thân muốn học bói thì cứ ra chợ tìm thầy pháp mua một cuốn Nhật Thư được viết phù hợp với đất Sở, đây mới là phương pháp hiệu quả và mau chóng nhất.”



Tiểu Quỳ cũng thật là, giữa nơi núi thẳm rừng già, ta biết tìm đâu ra thầy pháp bây giờ - Lộ Thân thầm oán nhưng cũng không nói ra.



“Có điều ta nghĩ bói toán gì đó, có thể hạn chế thì nên hết sức hạn chế. 'Bói toán để giải quyết nghi hoặc', chứng tỏ ngươi thiếu khả năng quyết đoán thì mới cần đến bói toán. Tuy ta khá tinh thông về các phương pháp bói toán Ngũ Hành, Phong Thủy, Kiến Trừ, Tùng Thần, Lịch, Thiên Nhất, Thái Nhất, lại từng học Thệ Pháp của Chu Dịch, nhưng rất ít khi bói toán. Vì chuyện ta đã quyết thì dù may mắn hay xui xẻo, ta vẫn sẽ làm, hơn nữa khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc đều được quyết định bởi tâm trạng của chính ta. Thế nên với ta mà nói thì các phương pháp bói toán đều chẳng có ý nghĩa gì hết.”



“Vậy tại sao Tiểu Quỳ còn muốn học chúng?”



“Học để giúp những người luôn do dự không quyết định được. Ta không thể buộc người khác tin tưởng đề nghị của ta, nhưng có thể dùng bói toán để thuyết phục họ.”



“Thực ra Tiểu Quỳ không hề tin đúng không?”



“Không gì đáng tin hơn phán đoán của chính mình. Ta chỉ cần khiến người khác tin tưởng vào bản lĩnh của ta thì mọi cách bói toán đều có thể phát huy tác dụng vào những lúc thế này.”



“Không biết Tiểu Quỳ có thể giữ vững sự tự tin thái quá này tới khi nào, ta lại hy vọng ngươi có thể sớm nhận ra mình chẳng là gì cả. Dù so với ngươi, ta còn kém cỏi hơn nhiều, nhưng ta đã tiên đoán được, một ngày nào đó Tiểu Quỳ sẽ ngã rất thê thảm...”



“Nhắc tới 'ngã rất thê thảm', ta lại vừa nhận ra, nhà Lộ Thân rõ ràng ở hẻm núi, nhưng chúng ta mới đi chưa được bao lâu đã nhìn thấy khe núi sâu thăm thẳm, rốt cuộc là thế nào?”



“Thực ra khe núi hay hẻm núi đều chỉ là cách nói tương đối mà thôi.”



“Ngươi xem kìa, đằng kia có một bãi cỏ thi, chắc chắn đủ để Bạch tiên sinh bói toán. Ta nghĩ hẳn là ông ấy sẽ không đi xa hơn nữa. Thế nên ta đang nghĩ, liệu có phải ông ấy đã rơi xuống khe núi rồi không.”



“Lộ Thân, có lối nào để đi vòng xuống khe núi không?”



Chung Triển Thi hỏi. Quỳ thì lại tới bên vách núi để quan sát.



“Có thì cũng có, nhưng phải tốn chút thời gian.”



“Các ngươi mau tới đây xem này!” Quỳ chỉ vào một khoảnh đất bên vách núi, kêu lên, “Chỗ này có phải là...”



Lộ Thân và Chung Triển Thi vội vã lại gần, chỉ thấy trên mặt đất màu nâu sẫm có một dấu vết đậm màu hơn, dường như do có người dùng giày di nhiều lần trên mặt đất mà thành.



“Phải rồi, Bạch tiên sinh quả thực có thói quen này, khi nói chuyện với người khác sẽ vô thức di chân trên mặt đất.” Chung Triển Thi nói, “Nhưng ở nơi thế này, lẽ ra ông ấy không thể gặp được ai mới đúng chứ?”



“Chưa chắc, có thể sáng nay đã có người đi theo sau ông ấy.” Quỳ lo lắng nói, “Sương mù ở dưới khe núi quá dày, không thể nhìn thấy gì cả. Để phòng ngừa ngộ nhỡ, chúng ta vẫn nên xuống dưới xem thử. Lộ Thân, ngươi hãy dẫn đường.”



“Phải xuống thật à?”



Lộ Thân miệng nói như vậy, nhưng chân đã cất bước. Quỳ và Chung Triển Thi theo sát đằng sau.



Con đường xuống khe núi chỉ vừa một người đi, đi sang phải một bước là vách núi cheo leo, đi sang trái một bước là vực sâu thăm thẳm. Ba người nắm lấy dây leo buông xuống từ ngọn núi, cẩn thận bước đi.



Thỉnh thoảng Quỳ lại ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đã bị vách núi chắn ngang.



Bấy giờ nếu có một tảng đá lớn lăn từ trên xuống, e rằng nàng đang đi ở giữa hai người kia sẽ không thể tránh được.



Nếu Bạch tiên sinh thực sự rơi vào khe núi, chúng ta nên làm sao để đưa ông ấy về nơi ở của gia tộc họ Quan? Nghĩ tới đây, Quỳ càng thấy phiền muộn, thế là nàng suýt nữa thì trượt chân. Nàng thà rằng chuyến đi xa này ra về tay trắng, thà rằng Bạch tiên sinh chỉ bị lạc đường trong núi. Thế nhưng linh cảm chẳng lành vẫn bao phủ lên trái tim nàng như những bóng mây đen.



Lộ Thân lại một lòng cầu nguyện mong trời đừng mưa, nàng biết vào những lúc thế này nước mưa có nghĩa là gì. Tới khi ấy, đặt chân lên đá núi rất khó khăn, dây leo mà bọn họ nắm trong tay lúc này cũng sẽ trở nên trơn trượt, không thể nắm chắc.



Trên đường đi, Lộ Thân đi đầu yêu cầu nghỉ ngơi, hai người còn lại cũng đồng ý. Thực tế thì không phải thân thể họ mệt mỏi mà là thần kinh căng thẳng quá lao lực. Ba người cứ lẳng lặng đối mặt với vực sâu trước mắt, vách núi sau lưng. Tiếng thở của Lộ Thân đã trở nên nặng nề mà trầm đục, từ khi Quan Ký Y qua đời, nàng chưa từng đi vào trong núi xa như vậy. Nàng thầm tính quãng đường đi trong đầu. Từ trên núi xuống đáy khe đi về ước chừng tám dặm, nếu đi chậm thì có thể mất nửa ngày. Sợ rằng bọn họ không thể trở về trước bữa trưa.



Sau khi thấy một con quạ đen đảo quanh trong khe núi, bọn họ tiếp tục bước đi. Tốc độ chậm hơn trước nhiều, đường núi cũng ngày càng hiểm trở. Cuối cùng khi xuống tới đáy khe, Lộ Thân đã mệt tới mức ngã vào người Quỳ, Quỳ giao nàng cho Chung Triển Thi, còn nàng thì chạy tới nơi Bạch Chỉ Thủy có thể rơi xuống.



Thế rồi, nàng nhìn thấy Bạch Chỉ Thủy chỉ còn là một thi thể.



Nghe thấy tiếng kêu của Quỳ, Lộ Thân và Chung Triển Thi vội chạy tới chỗ nàng.



Chỉ thấy Bạch Chỉ Thủy nằm trên đất, ở bên cạnh đầu có một ít máu. Tuy không chảy nhiều máu nhưng sợ rằng nội tạng đã nát bấy. Quỳ bước tới kiểm tra mạch đập của ông ta - không có, bèn lắc đầu với Chung Triển Thi và Lộ Thân. Chung Triển Thi ngã nhào vào thi thể của Bạch Chỉ Thủy, lặng im không nói, cũng không rơi lệ, lát sau, hắn thử nâng thi thể Bạch Chỉ Thủy lên.



Đúng lúc ấy, bọn họ cùng nhìn thấy chữ máu vốn bị tay phải của Bạch Chỉ Thủy che khuất. Đó hẳn là tin tức cuối cùng mà ông để lại cho những người còn sống.



“Tử khâm...”



Quỳ đọc chữ máu trên mặt đất.



Lộ Thân nhớ lại tối hôm trước cũng từng nhìn thấy hai chữ này ở phòng Giang Ly, hơn nữa đó rất có thể là thư hồi âm mà Giang Ly viết cho Chung Triển Thi. Nhưng vì đã hứa với Giang Ly nên Lộ Thân cũng không hỏi Chung Triển Thi về chuyện này. Trực giác của nàng cho rằng hai chuyện này hẳn là không liên quan đến nhau.



Thế nhưng, sự thực lại đúng là như vậy - Lộ Thân phiền muộn, sốt ruột đưa mắt nhìn Quỳ. Quỳ hiểu ý, bèn bước tới bên nàng.



“Ngươi cũng lưu tâm tới thẻ tre hôm trước chúng ta nhìn thấy đúng không.” Quỳ thì thầm vào tai Lộ Thân, “Khi trở lại chúng ta nên tìm cơ hội hỏi Giang Ly tỷ tỷ thì tốt hơn.”



Lộ Thân gật đầu, tỏ ý tán thành.



“Thật xin lỗi, bây giờ người có thể đưa thi thể của Bạch tiên sinh về nhà họ Quan cũng chỉ có huynh.”



Quỳ nói với Chung Triển Thi, rồi cúi người giúp hắn nâng thi thể dậy. Lộ Thân cũng tới giúp, nhờ sự giúp sức của hai thiếu nữ, cuối cùng Chung Triển Thi cũng cõng được Bạch Chỉ Thủy lên vai.



Đúng lúc ấy, trời đổ mưa.



Liệu chúng ta có về được không? Lộ Thân nghĩ vậy, cất bước đi. Nàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy vách núi cheo leo. Đây là chặng đường nguy hiểm nhất nàng đi từ lúc sinh ra tới giờ. Chung Triển Thi cũng không tin tưởng vào thể lực của mình, hắn không biết mình có thể cõng thi thể về tới nơi hay không.



Còn Quỳ thì đang nghĩ về ý nghĩa của hai chữ “Tử khâm”, nàng sợ rằng Bạch Chỉ Thủy không phải người bị hại cuối cùng, hung án vẫn sẽ tiếp tục xảy ra.

-------------------

[5]



Cuối cùng khi ba người về tới nhà, chẳng những bỏ lỡ bữa trưa mà cũng không còn sức để ăn cơm. Sau khi giao thi thể của Bạch Chỉ Thủy cho Quan Vô Dật, Chung Triển Thi ngã gục vì quá mệt mỏi. Phu nhân của Quan Vô Dật, Điếu thị bảo Quỳ và Lộ Thân quay về thay y phục đã ướt đẫm, nghỉ ngơi cho tốt, còn nói bà sẽ chăm sóc Chung Triển Thi bị ngất xỉu.



Khi ấy Nhã Anh đã dẫn Chung Hội Vũ rời khỏi gian chính, đi tới phòng mình. Giang Ly thì không cùng các nàng trở về mà cố ý ở lại chờ ba người quay về.



Khi thấy bọn họ, Giang Ly mừng phát khóc, rồi lại bật khóc nức nở vì cái chết của Bạch Chỉ Thủy.



Lúc trước Tiểu Hưu ở khu bếp, đứng trước cửa ngóng ra sân chờ chủ nhân về. Thấy ba người đi qua, nàng chạy ra khỏi bếp, đứng trong mưa, không lại gần Quỳ, cũng không nói một lời. Quỳ nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc, bèn quay đầu nhìn về phía nàng, hờ hững liếc nàng một thoáng rồi đi vào gian chính. Tiểu Hưu biết lát sau chắc chắn chủ nhân sẽ về phòng thay y phục, bởi vậy trước khi Quỳ và Lộ Thân rời khỏi gian chính, nàng đứng yên ở đó chờ đợi.



Dưới sự khuyên bảo của Điếu thị, cuối cùng Quỳ và Lộ Thân cũng quay về phòng. Tiểu Hưu lẳng lặng đi theo chủ nhân. Giang Ly vẫn ở lại gian chính, cùng Điếu thị trông nom Chung Triển Thi.



“Có thể sống sót trở về là tốt lắm rồi.” Lộ Thân cảm khái giữa màn mưa.



“Đúng, đúng là thế đấy.” Quỳ đưa mắt nhìn Tiểu Hưu, bực bội nói: “Em rất mong ta chết đi đúng không?”



“Sao thế được...”



“Chủ nhân ở ngoài lên núi dầm mưa, sống chết không rõ, còn em thì thoải mái tránh trong phòng hóng chuyện.”



“Xin lỗi, xin lỗi...”



Quỳ đã gần như kiệt sức, nhưng vẫn dùng hết sức lực còn lại để vung tay lên. Mu bàn tay nàng đánh vào mặt Tiểu Hưu, khiến Tiểu Hưu ngã lăn ra đất. Chiếc áo mỏng của Tiểu Hưu chìm vào bùn, đá vụn cứa qua lớp vải, đâm vào thân thể nàng. Nàng không đứng dậy ngay mà nằm im trên đất bùn, như đang đợi mệnh lệnh của chủ nhân.





“Đứng lên!”



Cuối cùng, Quỳ lên tiếng ra lệnh, Tiểu Hưu lập tức làm theo.



Lần này Quỳ nắm lấy tóc Tiểu Hưu, quăng nàng ra xa hai thước. Cả người Tiểu Hưu lại bổ nhào trên đất, lẳng lặng chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo của chủ nhân. Nhưng Quỳ không nói gì nữa mà chầm chậm bước tới bên người Tiểu Hưu.



Đúng lúc Tiểu Hưu quay mặt sang muốn nhìn chủ nhân thì Quỳ nhấc chân, đạp chiếc guốc gỗ dính đầy bùn đất lên đầu Tiểu Hưu. Đầu tiên nàng dùng mũi chân di gần huyệt Thái Dương của Tiểu Hưu, sau đó đạp cả bàn chân xuống, guốc gỗ che khuất tai của Tiểu Hưu.



Lộ Thân giữ Quỳ lại, cố gắng kéo Quỳ ra khỏi người Tiểu Hưu, nhưng dù sao nàng cũng không khỏe bằng Quỳ. Sau một phen cố gắng, nàng buông tay, bước tới trước mặt Quỳ, dùng hết sức bình sinh mà đấm vào má Quỳ. Quỳ lùi về sau mấy bước, giận dữ nhìn Lộ Thân.



“Vu Lăng Quỳ, ta không ngờ ngươi lại là người tàn nhẫn như thế.”



Quỳ mặc kệ nàng, trái lại còn quay người bắt đầu trách mắng Tiểu Hưu.



“Tiểu Hưu, xem ra 'Lộ Thân tỷ tỷ' của em rất thích em đó, vậy thì tốt rồi, ta tặng em cho nàng ấy là được. Sau này chúng ta không còn là chủ tớ nữa, em chỉ cần phụng sự 'Lộ Thân tỷ tỷ' của mình cho tốt là được. Hoặc là nếu em thấy vẫn chưa đủ thì có thể mượn cơ hội này để giết chết ta. Giờ đã có hai người bị sát hại, nếu ta chết thì mọi người đều sẽ coi ta như nạn nhân thứ ba của vụ án giết người liên hoàn này, vốn sẽ không nghi ngờ em. Trước đây ta rất tàn nhẫn với em, không, tới giờ ta vẫn đang ngược đãi em, nhất định là em đã oán hận, bất mãn với ta từ lâu, hay là nhân cơ hội này trả thù ta đi. Chỉ cần giết ta là em sẽ được tự do mãi mãi, thế chẳng phải rất tốt hay sao?”



“Làm sao em có thể oán hận ngài đây?” Người Tiểu Hưu dính đầy bùn, nàng gào khóc, “Em đã dâng tặng cả đời này cho ngài, chối bỏ ngài cũng chính là chối bỏ chính em. Nếu không có ngài, cuộc đời em sẽ tăm tối như màn đêm, sống ở một nơi, làm cùng một việc hết ngày này đến ngày khác, tới chết cũng không có gì thay đổi - Đó vốn không phải cuộc sống của một con người, mà giống như một vật đựng, một công cụ. Sau khi gặp ngài, theo ngài đi khắp nơi, học tập nhiều thứ dưới yêu cầu của ngài, nghe ngài giảng giải đủ loại tri thức, từ đó em mới biến thành một con người, dù rất bi thảm, thiếu tự do nhưng cũng đã thoải mái hơn những tháng ngày làm công cụ kia rất nhiều rồi! Ông Trời rất tàn nhẫn với con người, năm nào cũng trút tai ương xuống trần gian, nhưng con người vẫn tôn sùng trời cao, chưa bao giờ ngừng việc thờ cúng tế lễ. Tại sao lại như thế? Bởi vì ông Trời đã tạo ra con người, ông Trời có quyền chi phối, xử trí với những thứ mà mình tạo ra. Vì gặp được tiểu thư em mới có cơ hội làm người, vậy nên tiểu thư chính là người đã tạo ra em, không, với em thì tiểu thư là thần linh. Bởi vậy dù ngài đối xử với em thế nào chăng nữa thì em cũng sẽ phục tùng. Tiểu thư muốn em chết, em sẽ chết trước mặt ngài ngay lập tức. Khi ngài muốn đánh em, em sẽ đưa roi cho ngài. Bởi vì ngài đã tạo ra em...”



“Được rồi.”



Quỳ đẩy Lộ Thân ra, nhào về phía Tiểu Hưu, quay Tiểu Hưu về phía mình rồi tát nàng thật nhiều cái. Còn Tiểu Hưu thì vẫn đờ đẫn mở to mắt.



“Ai đã dạy cho em cái tà thuyết dị đoan này thế hả? Lẽ nào cha mẹ sinh ra con cái, cũng có thể tùy ý cướp đoạt hạnh phúc của con cái, thậm chí ngược đãi, sát hại chúng hay sao? Lẽ nào quân chủ vô đạo thích tàn sát, thần tử cũng phải nghển cổ chờ chết hay sao? Sao em có thể thoải mái chấp nhận mọi bất công, ta không tốt với em, tại sao em lại không hề oán hận?”



“Nếu tiểu thư muốn em nói những lời này là bất công, không hợp tình hợp lý, em cũng sẽ trả lời theo cách mà ngài thích.”



“Cái dáng vẻ này của em vốn chưa phải là người!” Quỳ nắm lấy vạt áo dơ bẩn của Tiểu Hưu, giận dữ nói, “Ta cực kỳ hối hận vì đã không dẫn em vào con đường , không dạy dỗ em rốt cuộc bổn phận làm người là thế nào. Dáng vẻ hiện giờ của em không khác gì một công cụ cả. Có lẽ em sẽ không bao giờ thành người được đâu...”



Trong thoáng chốc, dường như Lộ Thân đã hiểu ra, những cử chỉ đùa giỡn cợt nhả của Quỳ đối với mình thực ra không bắt nguồn từ tình hữu nghị, mà chỉ bắt nguồn từ sự tàn nhẫn và cay độc trong tính cách của nàng thôi. Hóa ra tất cả đều là tại mình - một Quan Lộ Thân luôn dùng thiện ý để suy đoán về ngươi khác - đã suy đoán sai, chỉ là cách hiểu của một mình mình mà thôi. Cuối cùng bản thân cũng không thể thực sự kết bạn cùng ai, quá khứ đã như vậy, sợ rằng tương lai cũng là như thế.



Nghĩ vậy, trong lòng nàng bỗng nảy sinh sự căm hận với Quỳ.



Thay vì nói Quỳ phản bội mình, chi bằng nói hiện thực trái ngược với mong muốn của Lộ Thân.



Vì sống trong cô độc quá lâu, sự kỳ vọng của Lộ Thân với Quỳ đã tăng đến vô hạn, mà lúc này một khi tan vỡ, tất cả đều biến thành sự thù địch. Thân mật và ỷ lại hóa thành căm ghét, chỉ là chuyện trong chớp mắt, Lộ Thân dần nhận ra, bản thân đang đánh mất lý trí.



“Vu Lăng Quỳ.” Lộ Thân lạnh lùng nói sau lưng nàng, “Theo ta thấy thì kẻ không bao giờ thành người được phải là ngươi mới đúng. Ngươi chỉ là loài cầm thú biết chữ mà thôi. Ngươi vốn không hiểu được tình cảm của con người, không hiểu được nỗi đau của người khác. Sự hiểu biết của ngươi về 'đau' chỉ dừng lại trên mặt chữ, ngươi biết các kiểu thư pháp để viết chữ 'đau', cũng biết cách dùng của nó trong sách cổ, nhưng ngươi không bao giờ hiểu được hàm nghĩa của từ này. Những từ ngữ liên quan đến con người, ngươi cũng đều không hiểu được. Ngươi chỉ có thể phân tích mặt chữ, chỉ có thể trích ra những lập luận trong sách để giải thích chúng, nhưng không thể thấy được chúng trong con người ngươi. Ví dụ hỏi ngươi 'lòng trắc ẩn' là gì, ngươi có thể giảng giải ba ngày ba đêm, nhưng ngươi không thể nói ra một câu từ trong cảm nhận của chính mình, bởi vì ngươi vốn không có trái tim. Ngươi chỉ dùng văn chương của người xưa, nhắc lại lời người khác, sống trong thế giới thiếu thốn và ảm đạm, ngươi không khác gì loài vẹt, loài tinh tinh. Ngươi nhớ đủ loại học thuyết, nhưng những học thuyết này chẳng có tác dụng gì với ngươi cả. Điều này cũng quá bình thường, bởi vì những học thuyết ấy đều để con người học tập, còn ngươi vốn không có tư cách thực hiện chúng! Trước đây ta đã nhìn lầm ngươi, bây giờ ta đã thấy rõ...”



Lộ Thân còn chưa dứt lời, Quỳ đã buông hai tay, đứng dậy rồi một mình đi về phòng ở.



“Tiểu Hưu, kỳ thực ta luôn tìm một cơ hội để em rời khỏi ta. Ta nhận ra, bản thân quá ỷ lại vào em, em cũng quá ỷ lại vào ta. Cứ tiếp tục như vậy thì rất không ổn. Ta nhất định phải sống hết một đời trong cô độc, nhưng ta mong em có thể làm một người bình thường. Vậy nên có lẽ hôm nay chính là một cơ hội tốt, chúng ta giải trừ khế ước, sau này em không phải người hầu của ta nữa. Em có thể lựa chọn tương lai của mình, nhưng không còn mục 'Tiếp tục đi theo Vu Lăng Quỳ'. Không còn nữa. Ta sẽ chia cho em một ít tiền bạc, quần áo, đó là những thứ em đáng được hưởng. Mấy năm nay em đã rất cố gắng, mà ta cũng hơi quá đáng. Ta hy vọng sau này không gặp lại em nữa, mong em có thể sống hạnh phúc ở một nơi mà ta không thấy được. Lộ Thân là người tốt, chuyện tương lai em có thể bàn bạc với nàng, chắc chắn nàng sẽ không hại em. Nhưng dù sao nàng cũng quá ngốc nghếch, nghe lời nàng chưa hẳn đã tốt.” Quỳ quay lưng lại với hai người, nói, “Ta sẽ mau chóng rời khỏi đây. Ta biết cưỡi ngựa, cũng biết đánh xe, dù có lạc đường thì chỉ cần đi loanh quanh rồi cũng sẽ tìm được lối đi, bởi vậy các ngươi không cần lo cho ta. Vĩnh biệt, Lộ Thân.”



Thế rồi bóng dáng Quỳ biến mất khỏi tầm mắt của hai người.



Lộ Thân đỡ Tiểu Hưu dậy, an ủi nàng. Tiểu Hưu lại cười khổ, lắc đầu.



“Làm sao bây giờ, Lộ Thân tỷ tỷ, hình như em đã bị chủ nhân vứt bỏ rồi.”



“Trước đây cũng từng có chuyện như vậy ư?”



“Em thường xuyên bị phạt, nhưng đây là lần đầu tiên tiểu thư bảo không cần em nữa. Không biết liệu có được tha thứ hay không...”



“Tiểu Hưu không làm sai gì cả, không cần cầu xin sự 'tha thứ' từ loại người như vậy!”



“Lộ Thân tỷ tỷ không hiểu đâu.” Tiểu Hưu nói, “Xin lỗi, vì em đã phá hỏng tình bạn của ngài và tiểu thư.”



“Giữa ta và nàng vốn không nên có cái gọi là tình bạn. Nào, tới phòng ta ngồi chút đi, tiện thể thay một bộ y phục khác. Tuy ta không biết y phục của ta có vừa với người em không.”



“Thôi thôi, em có tới nơi cần tới, cũng có việc cần làm. Lộ Thân tỷ tỷ, tạm biệt.”



Dứt lời, Tiểu Hưu bèn chạy về phía phòng ở của Quỳ.



“Tiểu Hưu...”



Lộ Thân gọi vài tiếng nhưng không thấy Tiểu Hưu quay đầu lại. Bấy giờ, Lộ Thân vốn chẳng còn sức lực đâu mà đuổi theo Tiểu Hưu. Cuối cùng nàng đành quay về phòng một mình.



Khi đi qua gian chính, Điếu thị gọi nàng lại, hỏi sao y phục của nàng lại lấm bùn như vậy. Lộ Thân tủi thân nhào vào lòng mẫu thân, khóc nức nở một lúc. Khóc xong nàng lại nghĩ mà kinh hãi, sợ phụ thân thấy dáng vẻ này của mình, bèn hỏi ông đang ở đâu.



“Phụ thân con đi thu xếp di vật của Bạch tiên sinh. Ông ấy nói mong rằng có thể phát hiện ra manh mối gì đó.”



Tiếp đó, Lộ Thân lại hỏi về tình hình của Chung Triển Thi.



“Triển Thi đã tỉnh lại rồi, nhưng chân trái bị thương, bây giờ đi lại không tiện. Giang Ly nói tối qua Hội Vũ bảo rằng Chung phu nhân mang một ít thuốc từ Trường An tới, cất trong một cái hòm sơn mài. Khi nãy Giang Ly nói đi lấy thuốc, chắc cũng sắp về rồi.”



“Cô và Bạch tiên sinh đều chết oan, Giang Ly tỷ nên cẩn thận một chút mới được, đi một mình thì nguy hiểm lắm. Để con đi đón tỷ ấy về.”



“Nhưng một mình con đi thì cũng nguy hiểm đấy.”



“Không sao, con sẽ không sao đâu.”



Lộ Thân nói rồi đứng dậy đi ra cửa.



Người như ta, chết rồi cũng chẳng sao hết - Bấy giờ trong lòng Lộ Thân chứa đầy suy nghĩ chán nản. Nàng nhìn sân nhà trong màn mưa, nhớ tới tình cảnh cùng Quỳ thắp đuốc tối qua, không khỏi ủ rũ. Nhưng cảnh tượng xảy ra sau đó đã ngăn cho dòng hồi tưởng của nàng trôi về miền xa trong ký ức, đẩy nàng vào nỗi kinh hoàng và tuyệt vọng khủng khiếp hơn.



Cuối tầm mắt của Lộ Thân, Quan Giang Ly ôm một cái hòm đi về phía này, hai người cách nhau khoảng một trăm bước.



Khoảnh khắc sau đó, Giang Ly ngã xuống.



Phía sau nàng chừng năm mươi bước có một rừng cây. Khoảng trống giữa rừng cây và Giang Ly không có gì cả, cũng không thấy bóng dáng của bất kỳ ai.



Vì cách quá xa nên Lộ Thân không thấy rõ rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Nàng chạy về phía Giang Ly, lại nghe thấy Giang Ly kêu lên “Đừng tới đây.”



Sau một thoáng do dự, cuối cùng Lộ Thân vẫn cất bước về phía trước, băng qua mặt đất nhơ nhớp bùn lầy, chạy về phía Giang Ly đang trong cơn kinh hoàng.



Khi chỉ cách Giang Ly chừng ba mươi bước, Lộ Thân nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Giang Ly, sau đó, nàng nằm yên không hề nhúc nhích.



Nước mưa rơi trên người nàng, rồi bắn xuống đất.



Bấy giờ cuối cùng Lộ Thân cũng thấy rõ, có hai muỗi tên cắm trên người Giang Ly, một mũi bắn trúng lưng, còn một mũi bắn trúng chân. Trên khoảnh đất phía sau nàng, còn có ba mũi tên không trúng cắm ở đó.



Lộ Thân ngã nhào bên người Giang Ly, nắm chặt lấy tay nàng, khàn giọng gọi tên tỷ tỷ.



Tên nhà họ Quan đều có đầu mũi bằng đồng khía bốn cạnh, sau khi bắn trúng mục tiêu, đầu mũi tên sẽ không cắm hoàn toàn vào vết thương, mà máu sẽ chảy ra theo rãnh. Vậy nên dù không rút tên ra thì vẫn sẽ tạo thành vết thương trí mạng.



Giang Ly tự biết mình khó mà sống được, bèn khẽ thở dài rồi nắm chặt lấy tay Lộ Thân.



“Quả nhiên vẫn không thể trốn thoát... Khi cô tạ thế tỷ đã nghĩ liệu có đến lượt tỷ hay không... Lộ Thân, xin hãy giúp tỷ bảo vệ Triển Thi và Hội Vũ... Có lẽ tiếp theo...”



“Giang Ly tỷ đừng nói nữa, tỷ sẽ được cứu thôi.”



Lộ Thân cổ vũ Giang Ly với vẻ không mấy tự tin.



“Không, tỷ biết mình không sống được nữa... Xin hãy nghiêm túc nghe tỷ nói, lễ tế lần này không giống trước kia... Bởi vậy cô mới bị giết... Vì tỷ đã hứa với cô... nên...”



Sau đó là một tràng ho khan, máu tươi tuôn ra từ miệng Giang Ly, nàng không nói được nữa, hơi thở cũng đã ngừng.



Thế rồi, Điếu thị, Chung Triển Thi và người hầu nhà họ Quan nghe thấy tiếng kêu của Lộ Thân mà chạy tới, cùng chuyển thi thể của Giang Ly vào trong phòng. Còn Lộ Thân thì bất chấp sự ngăn cản của mẫu thân, chạy vào rừng cây nơi có lẽ hung thủ đang ẩn náu.



Bình thường mọi người rất ít đi vào khu rừng này. Trong rừng, rễ cây thường trồi lên mặt đất, người đi qua sẽ không lưu lại dấu chân, bởi vậy không thể lần theo tung tích của hung thủ. Lộ Thân lại vô tình phát hiện ra hung khí, là một chiếc nỏ bị vứt trên đất, bên cạnh còn rải rác sáu, bảy mũi tên. Nàng nhận ra đây là một trong mười bốn chiếc nỏ mà gia tộc cất giữ trong kho, bèn nhặt nó lên rồi mang về gian chính.



Khi Lộ Thân quay về phòng thì Điếu thị đã phái ba người hầu chia nhau đi gọi Quan Vô Dật, Vu Lăng Quỳ, Quan Nhã Anh và Chung Hội Vũ. Lộ Thân gọi người hầu còn lại cùng tới nhà kho sau gian chính để xem xét. Kết quả là bảy chiếc nỏ vẫn ở chỗ cũ. Vì vậy có thể suy ra, chiếc nỏ hung khí này được lấy từ nhà kho nơi Quan Khoa tử vong.



Tại sao phải giết Giang Ly tỷ?



Tại sao khi hấp hối Giang Ly tỷ lại nói như thế?



Tại sao tỷ ấy lại cho rằng mục tiêu tiếp theo là Triển Thi và Hội Vũ?



Rốt cuộc hung thủ là ai?



Lộ Thân ra khỏi nhà kho, một lần nữa tới gần khoảnh sân nơi Giang Ly tử vong. Nàng đứng trong mưa, chăm chú nhìn rừng cây kia rất lâu. Vết máu trên mặt đất đã bị nước mưa rửa trôi, chỉ còn lại mấy mũi tên không bắn trúng mục tiêu lác đác cắm trong bùn đất.



Sau đó, Quan Vô Dật, Vu Lăng Quỳ, Quan Nhã Anh, Chung Hội Vũ đều quay lại gian chính. Nhã Anh nhìn thấy thi thể Giang Ly thì ngất xỉu, Chung Hội Vũ ngồi dưới đất, để Nhã Anh gối lên đầu gối của mình. Quỳ cũng ngồi xổm xuống, nét mặt u ám, chăm chú nhìn người chết. Quan Vô Dật hỏi Lộ Thân rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, Lộ Thân bèn kể lại toàn bộ sự việc, kể cả di ngôn của Giang Ly. Cuối cùng, nàng chất vấn Quỳ:



“Sao Tiểu Hưu không cùng tới?”



“Em ấy vẫn chưa quay về, ta cũng không biết em ấy đã đi đâu. Em ấy ở bên ngoài một mình, ngộ nhỡ gặp phải hung thủ...”



“Có khi Tiểu Hưu về phòng mới gặp phải hung thủ ấy.”



“Lộ Thân, ý ngươi là sao?”



“Vu Lăng Quỳ, ta hỏi ngươi, ngươi đã sát hại Giang Ly tỷ đúng không?”



“Tại sao lại nghi ngờ ta?”



“Khi đó ngươi đang ở đâu?”



Lộ Thân không ngừng chất vấn Quỳ bằng giọng điệu ác nghiệt.



“Trong phòng.”



“Ở cùng ai?”



“Một mình ta, chỉ có một mình ta.”



“Ai có thể chứng minh ngươi vô tội?”



“Không ai cả, nhưng ta thực sự vô tội.”



“Được rồi, khu rừng kia dẫn về phía phòng ngươi. Ngươi hoàn toàn có thể giết người xong rồi quay về phòng, sau đó vờ như vẫn ở trong phòng.”



“Những người khác không làm được ư? Khi ấy bọn họ đang ở những đâu?”



“Mẫu thân và Triển Thi ca đều ở ngay đây, lúc đó phụ thân đang ở trong phòng Bạch tiên sinh, Nhã Anh tỷ và Hội Vũ đều ở trong viện của Nhã Anh tỷ.”



“Vậy đi qua khu rừng kia không tới được nơi ở của Bạch tiên sinh và Nhã Anh tỷ tỷ ư?”



“Có thể. Nhưng mà…”



“Thế sao ngươi lại chỉ nghi ngờ mình ta?” Quỳ bắt đầu phản kích, nàng quay sang hỏi Chung Hội Vũ: “Hội Vũ muội muội, lúc ấy muội đang làm gì?”



“Muội ư, vì mệt nên muội chợp mắt một lúc trong phòng ngủ.”



“Còn Nhã Anh tỷ lúc ấy đang làm gì?”



“Tỷ ấy đang ở gian chính bên ngoài, nói muốn tìm một ít tài liệu lịch sử về tang lễ.”



“Vậy cũng không có ai chứng minh được Nhã Anh vô tội.”



“Ngươi đừng có ép người quá đáng.”



“Tương tự, cũng không có ai chứng minh được phụ thân ngươi vô tội.”



“Vu Lăng Quỳ!”



“Nói cho cùng thì ta và nhà họ Quan các ngươi không ân không oán, có lý do gì mà phải sát hại người nhà của ngươi?”



Trong lúc hai thiếu nữ đối đầu căng thẳng, ngoài cửa truyền tới tiếng của Tiểu Hưu:



“Tiểu thư vô tội.”



Sau đó mọi người thấy bóng dáng Tiểu Hưu xuất hiện trước cửa. Nàng mặc trên người một chiếc áo mỏng dơ bẩn, hai má sưng đỏ, trên tóc cũng dính cát bùn.



“Tiểu Hưu, em đã đi đâu vậy?”



Lộ Thân hỏi, nhưng giọng điệu vẫn rất lạnh lùng.



“Em luôn đứng ở trong sân trước phòng tiểu thư. Em không dám gõ cửa nên vẫn chờ ở đó. Thế nên em có thể chứng minh tiểu thư chưa từng rời khỏi phòng. Sau đó thấy có người tới gần, em sợ người khác thấy dáng vẻ này của mình nên mới tránh đi, nhưng cuối cùng vẫn không yên tâm, em sợ mọi người sẽ nghi ngờ tiểu thư nhà em nên mới âm thầm theo tới đây. Quả nhiên em không lầm... Lộ Thân tỷ tỷ, xin hãy tỉnh táo một chút, tiểu thư không bao giờ làm loại chuyện này đâu.”



“Em hãy để cho mọi người coi, nàng ta đã làm gì em!” Lộ Thân chỉ vào Tiểu Hưu, nói: “Một kẻ có thể đối xử tàn nhẫn với người hầu của mình như vậy, còn có chuyện gì mà không làm được chứ? Trước đây ta bị những lời lẽ đường mật của nàng ta lừa dối, mới không hề nghi ngờ nàng ta. Nhưng bây giờ ta...”



“Tiểu thư vô tội, em có thể làm chứng.”



“Tiểu Hưu, xin lỗi em, ta không thể tin lời em được, vì khi nãy em đã nói, chỉ cần Vu Lăng Quỳ ra lệnh cho em thì em sẽ phục tùng vô điều kiện. Vậy nên nếu nàng ta bắt em phải nói dối thì chắc chắn em cũng sẽ làm.”



Đúng lúc ấy, Quỳ đứng dậy, vỗ tay hai lần.



“Được rồi Lộ Thân, sao ngươi vẫn chưa hiểu nhỉ?” Quỳ than thở, “Xin ngươi hãy nghĩ về di ngôn của Giang Ly, 'Khi cô tạ thế, tỷ đã nghĩ liệu có đến lượt tỷ hay không'. Rốt cuộc câu nói này ám chỉ điều gì? Đừng nhìn ta như vậy, sự nghi ngờ của ngươi với ta vốn không có căn cứ. Bởi vì, theo như di ngôn của Giang Ly, đây hiển nhiên là một vụ giết người liên hoàn, ba nạn nhân đều bị sát hại bởi cùng một lý do. Đương nhiên, hung thủ cũng là một người. Mà khi Chung phu nhân và Bạch tiên sinh bị sát hại, ta vẫn ở cạnh ngươi. Đúng, chính là ngươi, người muốn gán tội lên đầu ta nhất, có thể chứng minh được ta vô tội.”



“Đừng có ngụy biện, ngươi chỉ đang kéo dài thời gian thôi. Vì vụ án của cô lâm vào ngõ cụt nên ngươi mới nghĩ ra cái lý do vô vị như 'giết người liên hoàn' này.”



“Thật ư, ngươi cho là vậy thật ư? Vậy thì giờ ta có thể cho ngươi biết, hung thủ của ba vụ án mạng này rốt cuộc là ai! Và động cơ giết người của kẻ đó rốt cuộc là gì!”

* * *
 
Advertisement

Bình luận facebook

Users who are viewing this thread

Back
Top Bottom