Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 56-70
Chương 56: Vách núi
"Mãn Thương, tất cả bọn họ đều là dân khuân vác. Kéo một lúc là người đầy mồ hôi rồi. Một khi mồ hôi thấm vào, dây kéo thuyền còn cọ sát vào nữa, thì quần áo sẽ bị sờn rách, người nghèo lấy đâu ra lắm quần áo như vậy?"
Trịnh Phương, người tình cờ đi ngang qua, giải thích: "Những người phụ nữ đứng sau thường là vợ của một người kéo thuyền nào đó, thấy cũng nhiều rồi nên chẳng xấu hổ nữa".
“Vợ của người kéo thuyền không kéo thuyền thì đi theo làm gì?”, Mãn Thương hỏi lại.
"Kéo thuyền là việc khổ cực, không thể nhịn ăn, bằng không sẽ không có sức, họ mang theo đồ ăn với nước uống đó".
Trịnh Phương nói: "Đôi khi một người kéo thuyền quá mệt mỏi không thể chịu nổi, họ cũng có thể vào thế chỗ một lúc và để người đàn ông đó lấy hơi".
“Vậy thì họ có mặc quần áo khi kéo thuyền không?”, Mãn Thương tò mò hỏi.
“Đương nhiên cũng không rồi”, Trịnh Phương nói: “Nhưng người phụ nữ này còn mạnh mẽ hơn nam tử hán kìa, sẽ không ai chê cười bọn họ đâu”.
Ngày nay quần áo rất đắt, nhiều người chỉ có một bộ quần áo mặc từ mùa xuân sang mùa đông, hỏng thì sửa.
Trước khi Quan Hạ Nhi kết hôn với Kim Phi, cô cũng chỉ có một bộ quần áo làm khi cô 10 tuổi, khi lớn hơn thì lại nối một đoạn. Khi kết hôn với Kim Phi, bộ quần áo đã bị chia thành nhiều lớp, với các bản vá chồng lên nhau.
Điều này không có gì xấu, có người nghèo cả nhà chỉ có một hoặc hai bộ quần áo, ai ra ngoài thì mặc, ai không ra ngoài thì nằm trong chăn.
Đi làm đồng cũng phải dậy sớm, không phải vì siêng năng mà vì không có quần áo, trời tối cũng không ai thấy.
Cơ thể của người kéo thuyền lúc nào cũng đổ mồ hôi, quần áo nhanh hỏng nên chỉ có thể khỏa thân, nếu không số tiền kiếm được sẽ không đủ mua quần áo.
“Họ có thể kiếm được bao nhiêu tiền cho một ngày kéo thuyền?”, Kim Phi hỏi.
"Khó nói lắm. Ở chỗ tốt cũng được bảy tám văn một ngày. Đối với mấy đoạn đường khó thì giá cao hơn. Lúc cao nhất có thể được ba bốn mươi văn một ngày".
“Cao như vậy sao?”, Mãn Thương kinh ngạc hỏi.
Ngay cả Kim Phi cũng hơi ngạc nhiên.
Kiếm được nhiều thế á?
Phải biết rằng y đưa cho Trương Lương lương tháng là 500 văn, Trương Lương đã bảo quá nhiều.
"Ba bốn mươi là con đường khó đi nhất".
Trịnh Phương cho biết: "Đoạn đó đầy vách núi cheo leo, nước chảy xiết. Hầu hết mọi người đều không thể trèo lên bằng tay không, chưa kể những người kéo thuyền phải kéo thuyền. Số người kéo thuyền chết hàng năm không đếm xuể".
"Như vậy, mọi người đều đang liều mạng, họ thực sự nên được trả nhiều tiền hơn".
Kim Phi gật đầu đồng ý.
"Bốn mươi văn một ngày, ta cũng liều mạng".
Trương Mãn Thương trong mắt đầy ghen tị.
Nhưng ngay sau đó, hắn không còn đố kỵ nữa.
Đến trưa, chiếc thuyền gỗ đến một thung lũng.
Những đỉnh núi hai bên thung lũng hướng vào trong, giống như một cái eo thon nằm giữa quả bầu, con sông Gia Lang rộng gần 100 mét ở đây bị thu hẹp một nửa, nước chảy xiết lạ thường.
Và các vách đá ở hai bên đặc biệt dốc, gần như thẳng đứng.
Tuy đoạn vách núi này chỉ rộng hơn 100 mét, nhưng trên vách đá không có cả chỗ dừng chân, những người kéo thuyền làm cách nào để kéo một chiếc thuyền lớn như vậy vượt qua được đây?
"Làm sao kéo được chứ?"
Mãn Thương hỏi Kim Phi.
"Chỉ cần nhìn là biết?"
Trịnh Phương nói: "Xem xong cậu sẽ biết tại sao họ có thể kiếm được ba mươi bốn mươi văn một ngày".
Thấy Trịnh Phương không nói gì, Mãn Thương cũng không thèm hỏi, dựa vào lan can thuyền tò mò quan sát.
Cách thung lũng vài trăm mét, những người kéo thuyền tìm nơi nước chảy không xiết và dừng lại, buộc dây sợi vào gốc cây.
Hai người phụ nữ đi sau ngay lập tức bước tới với chiếc giỏ trên lưng.
Những người kéo thuyền lấy những chiếc bánh kê cứng từ trong giỏ ra, múc một bát nước sông Gia Lang, uống ngọt dểu.
Trong khi những người kéo thuyền đang ăn uống và nghỉ ngơi, hai người phụ nữ lấy ra hai bộ dây gai trong giỏ, quàng qua cổ rồi đi về phía vách đá.
Một trong hai người phụ nữ xoa tay vào nhau và bắt đầu leo núi.
Vách đá cực kỳ dốc, người phụ nữ nhanh nhẹn như một con vượn, sử dụng các vết nứt và mấy tảng đá nhô cao để tiến theo đường chéo lên trên.
Kim Phi, người trên thuyền, không khỏi đổ mồ hôi cho cô ấy.
Trong kiếp trước, y đã xem rất nhiều video do những người đam mê leo núi thực hiện trên mạng, nhưng y không ngờ được là có ngày mình sẽ có thể xem được trải nghiệm kinh hoàng như vậy.
Những tảng đá trên vách đá bị ướt do nước sông Gia Lang tạt vào, nhiều tảng bị rêu bám đầy khiến chúng trở nên trơn trượt.
Người phụ nữ không có bất kỳ biện pháp bảo vệ nào, chỉ leo lên bằng tay không và chân trần.
Độ khó cao gấp nhiều lần so với những vách đá được bố trí trong phòng huấn luyện.
Người phụ nữ rất nhanh, sau khi người kéo thuyền ăn bánh xong, cô ấy đã leo lên lưng chừng vách núi, cách mặt nước hơn 20m.
Ở đây, có một tảng đá nhô ra hơn một mét, tạo thành một bệ nhỏ chưa đầy hai mét vuông, là điểm nghỉ chân rất tốt.
Người phụ nữ hít thở sâu vài hơi trên bục nhỏ, sau đó tháo sợi dây đang mang theo, cầm một đầu trên tay và ném đầu kia xuống.
Người phụ nữ đứng đợi bên dưới túm dây trói chặt vào gốc cây.
Người phụ nữ trên vách đá cũng buộc dây vào một tảng đá nhô cao.
Người phụ nữ bên dưới kéo sợi dây, sau khi xác định đã chắc chắn liền nắm nó bằng tay phải rồi leo lên.
Với sự trợ giúp của sợi dây, người phụ nữ thứ hai leo nhanh hơn người phụ nữ thứ nhất.
Khi những người kéo thuyền ăn xong chiếc bánh thứ hai, hai người phụ nữ đã gặp nhau trên phiến đá nhỏ.
"Họ đang làm gì vậy?"
Kim Phi chỉ vào vách đá và hỏi.
Trịnh Phương phớt lờ Mãn Thương, nhưng phải trả lời Kim Phi, giải thích với một nụ cười:
"Người kéo thuyền khỏe nhưng không khéo léo. Các cô ấy nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, trèo lên vách núi, luồn dây để những người chèo thuyền có thể kéo dây và đi qua đoạn đường khó khăn nhất.
Nếu không có sợi dây này, ít nhất một nửa số người sẽ chết ở đây".
"Ra vậy".
Kim Phi nhìn những viên đá nhẵn bóng trên vách đá và hỏi: "Hình như hàng năm có rất nhiều thuyền đi qua đây, tại sao chính quyền không đóng một vài chiếc cọc và để lại một đoạn dây? Như vậy cũng không cần hai người phụ nữ liều mình leo lên vách đá như vậy".
"Chính phủ đã từng làm thế, nhưng dây thừng để ở đây được vài ngày là sẽ mất", Trịnh Phương thở dài: "Chính phủ có thay đổi vài lần rồi cũng mặc kệ".
Cũng đúng, dây gai dầu cũng là một mặt hàng có giá trị trong thời này.
Sợi dây gai dày có chiều dài hơn 100 mét nếu trộm được đem bán cũng đủ cho một gia đình bốn người ăn cả tháng.
Khi Kim Phi và Trịnh Phương đang trò chuyện, người phụ nữ đầu tiên gần như đã nghỉ ngơi xong và bắt đầu nửa sau của cuộc hành trình.
Đoạn sau cần đi theo đường chéo xuống, sẽ rắc rối hơn là đi lên, lần này người phụ nữ không theo đuổi tốc độ, bò xuống một cách thận trọng.
May mắn thay, người phụ nữ đã rất khéo léo và đến nơi an toàn mà không gặp bất kỳ rủi ro nào.
Người phụ nữ thứ hai tháo sợi dây quanh cổ và ném xuống.
Tiếc rằng sức của cô ấy không khỏe bằng người phụ nữ thứ nhất, sợi dây không đến đích và rơi xuống nước.
Rơi vào đường cùng, cô ấy phải kéo lại sợi dây và quăng nó một lần nữa.
Lần thứ hai vẫn không thành công ...
Chương 57: Thành Vị Châu
Đám người kéo thuyền cũng đứng dậy và lấy ra một sợi dây gai dầu to bằng quả trứng, người dẫn đầu đeo dây gai vào lưng, nắm lấy dây và bắt đầu leo núi.
Những người kéo thuyền còn lại cũng lấy dây thừng của riêng mình và đi theo phía sau người dẫn đầu.
Đúng như lời Trịnh Phương nói, những người đàn ông này có đôi bàn tay và bàn chân dày, trong quá trình leo núi có người bị trượt chân ngã nhiều lần, may mà tay phải luôn giữ chặt dây, nếu không sẽ rơi xuống dòng nước chảy xiết.
Sau hơn 20 phút, tất cả những người kéo thuyền cuối cùng cũng leo qua được vách đá.
Người đi đầu cởi dây gai sau lưng, chạy về phía trước hàng chục mét, tìm một cây to, quấn dây quanh thân cây hai lần rồi ném phần còn lại xuống nước.
Có những nút thắt trên sợi dây gai dày, khi dây trôi dọc sông đến nơi những người kéo thuyền dừng chân, những người kéo thuyền liền vớt nó lên, buộc dây của bản thân vào để tiếp nối đoạn dây, rồi lại thả nó cuống nước.
"Họ đang làm cái gì vậy?"
Mãn Thương gãi đầu hỏi.
"Đoạn đường này quá nguy hiểm, thậm chí không có chỗ để đi. Họ cần phải kéo dài dây".
Trịnh Phương giải thích và nhắc nhở: "Tiên sinh, đứng vững vào, đừng để rơi xuống".
Kim Phi nhanh chóng nắm lấy lan can trước mặt y.
Sợi dây trôi theo dòng sông đến nơi nghỉ ngơi.
Người phụ nữ đứng đợi bên dưới vớt sợi dây dưới nước buộc vào sợi dây ban đầu.
Sau khi xác định rằng dây đã chặt, liền tháo đầu dây buộc vào cây.
Chiếc thuyền gỗ trôi sông ngay lập tức.
Chỉ là nó chưa kịp trôi xa thì đã bị những người kéo thuyền kéo lại.
"Ba thước vải trắng, hây! Bốn lạng cây gai, hây! Chân đạp tảng đá, hây! Tay đào cát, hây! …"
Những người kéo thuyền lại hát lên và cố gắng hết sức để kéo chiếc thuyền gỗ về phía trước.
Tuy rằng con đường bên dưới không giống như vách núi không có chỗ đặt chân, nhưng cũng rất hẹp, nhiều nhất chỉ có thể đặt một chân.
Những người kéo thuyền gần như bò trên mặt đất, sử dụng tay và chân của họ, siết chặt những viên đá với vẻ mặt dữ tợn để tiến lên.
Khi thuyền được kéo đến nơi nước chảy hẹp nhất, hai người phụ nữ cũng đặt gùi xuống đất, vội vàng cởi bỏ quần áo rồi gia nhập đội người kéo thuyền.
Người phụ nữ làm việc đã lâu, da ngăm đen và thô ráp như những người kéo thuyền, nhưng dáng người rất đẹp, Mãn Thương quan sát đầy thích thú, nhưng Kim Phi không hề xao lòng, trong đầu mơ hồ nhớ đến bài “người chèo thuyền bên sông Volga”.
Nhìn vào bức tranh minh họa, Kim Phi và các bạn cùng lớp của mình cũng thảo luận về việc liệu thực sự có người nào trên thế giới này có thể chịu đựng được loại khổ này hay không.
Khi y thực sự nhìn thấy người kéo thuyền ngày hôm nay, Kim Phi nhận ra rằng thế gian này cực khổ nhiều hơn y tưởng tượng.
Đối với hai người phụ nữ, Kim Phi chỉ có sự tôn trọng và cảm thông.
Nếu có những cách khác, làm gì có người phụ nữ nào sẵn sàng trở thành người kéo thuyền?
Chắc hẳn khi mới bắt đầu họ cũng rất ngại ngùng đúng không?
Kim Phi trước giờ luôn là một kẻ ích kỉ, sau khi xuyên về không hề nghĩ đến việc làm lợi cho thiên hạ hay bất cứ thứ gì, chỉ muốn sống cuộc sống xa hoa của một địa chủ giàu có.
Ngay cả khi đã thành lập các xưởng và lò nung ở làng Tây Hà, cũng không thực sự muốn thay đổi cuộc sống của dân làng, mà chỉ muốn sử dụng họ để kiếm tiền.
Nhưng lúc này, trong lòng Kim Phi rất cảm động, lần đầu tiên y nghĩ nếu có khả năng sẽ giúp đỡ người khác.
Thuyền gỗ tiến lên một chút, chậm rãi đi qua thung lũng hẹp.
Con sông lại mở rộng, con đường ven bờ đi lại dễ dàng hơn.
Rồi những người phụ nữ mới nới lỏng sợi dây, quay lại mặc quần áo rồi đi theo đoàn với chiếc gùi trên lưng.
"Tiên sinh, vài chục dặm phía trước đều là đường tốt. Con thuyền đã ổn định. Đã đến lúc ngài học cách cưỡi ngựa rồi".
Chung Ngũ dẫn hai con ngựa chiến lên boong.
"Không vấn đề gì".
Kim Phi và Mãn Thương mắt sáng lên, háo hức muốn thử.
Làm gì có người đàn ông nào không thích cưỡi ngựa chứ?
Hơn nữa, ngựa là phương tiện giao thông được sử dụng phổ biến nhất trong thời đại ngày nay, sớm muộn gì cũng phải học chúng.
Chung Ngũ đã chuẩn bị một con ngựa cái ngoan ngoãn cho y, chờ sau khi Kim Phi leo lên lưng con ngựa, đã dạy cho y một số điều cơ bản cần thiết, sau đó dẫn con ngựa cái đi đi lại lại trên boong.
Với những điều bản thân quan tâm, thời gian sẽ trôi qua nhanh chóng, vào ngày thứ tám, Kim Phi và Mãn Thương đã có thể điều khiển những con ngựa phi nước kiệu trên boong tàu.
Đường thủy dần hết, thuyền gỗ cập bến.
Tiếp theo, họ đi đường núi trong năm ngày, cả nhóm cuối cùng đã đến đích - thành Vị Châu.
Thành Vị Châu là một trong những thành phố chính để phòng thủ chống lại người Đảng Hạng, bức tường thành cực kỳ cao, nhưng một nửa bức tường thành có màu xanh lam bình thường, trong khi nửa bên dưới là màu đen, trông hơi kỳ quái.
"Vị Châu đã từng bị người Đảng Hạng tiến đánh hai lần, cũng bị đốt hai lần, phần dưới cũng bị cháy đen".
Nhìn thấy vẻ mặt nghi ngờ của Kim Phi, Chung Ngũ thấp giọng giải thích.
"Gì mà đánh, có mà chạy trốn thì có".
Trịnh Phương nói: “Người Đảng Hạng còn cách Vị Châu 80 dặm, các tướng trấn thủ kinh thành đều bỏ chạy hết, để lại thiên hạ cho người Đảng Hạng, sau này còn không biết xấu hổ xin triều đình cho quân lương".
“Không phải bây giờ đã thay thế bằng Phạm tướng quân sao?”, Chung Ngũ nói: “Phạm tướng quân là một vị tướng nổi tiếng máu lửa. Ta nghe nói rằng ông ấy có thể làm một quan chức cấp cao trong triều đình, nhưng ông ấy đã chủ động xin đến thành Vị Châu".
"Phạm tướng quân đến, Hầu gia rốt cuộc cũng đã có chỗ sử dụng năng lực. Không cần giống như lần trước. Rõ ràng lập công, nhưng lại bị đám xu nịnh hãm hại".
"Ta hy vọng Phạm tướng quân có thể lãnh đạo chúng ta đẩy lùi người Đảng Hạng, nếu không thuế nhất định sẽ tăng trở lại vào năm sau".
"Không phải Hầu gia đã thăng chức vị trí chính thức của ngươi lên Bách phu trưởng rồi sao, ngươi không phải nộp thuế, lo cái gì?"
"Nhà ta không đóng thuế, nhưng họ hàng phải nộp. Họ không nộp được, không phải sẽ đến nhà ta nhờ giúp sao?"
Trịnh Phương lắc đầu đau khổ.
Trận chiến giữa Đại Khang với Đảng Hạng và Khiết Đan liên quan trực tiếp đến thuế cống năm đó.
Và thuế cống thì chỉ gõ đầu dân chứ còn ai.
Trong những năm gần đây, người Đảng Hạng và người Khiết Đan yêu cầu triều cống hàng năm ngày càng nhiều, và các loại thuế mà dân thường phải gánh chịu ngày càng nặng nề.
Có lệnh bài của Khánh Hoài mở đường, cả nhóm tiến vào thành Vị Châu một cách suôn sẻ.
Thậm chí không có một cửa hàng nào mở trên đường, thỉnh thoảng có người qua lại, nhưng họ cũng vội vã.
Thỉnh thoảng có một hai binh sĩ lao qua để thay quân trên bức tường thành.
Khánh Hoài từng đóng quân ở biên giới bên ngoài thành Vị Châu hơn một năm, cũng có một ngôi nhà ở thành Vị Châu.
Ngôi nhà này được cho là do một doanh nhân giàu có xây dựng, trước khi người Đảng Hạng bắt đầu xâm chiếm Đại Khang, doanh nhân giàu có đã kiếm được rất nhiều tiền nhờ làm ăn với người Đảng Hạng. Ngôi nhà không nhỏ hơn biệt viện Khánh Phong là bao.
Lần đầu tiên người Đảng Hạng chiếm được thành Vị Châu, trong nhà không có người nào chạy thoát, bọn họ bị giết sạch sẽ, ngôi nhà bị chính quyền lấy đi, sau đó giao cho Khánh Hoài.
Ngôi nhà tuy rộng nhưng còn vắng vẻ hơn cả biệt viện Khánh Phong, ngoài một người gác cổng già ra, thậm chí còn không có lấy một người hầu.
Khánh Hoài đặt hành lý xuống và đưa Chung Ngũ đến phủ thành chủ, chạng vạng tối mới trở về với vẻ mặt rất khó coi.
Ngay khi quay lại, y đã nhờ Chung Ngũ gọi Kim Phi đến thư phòng.
Chương 58: Tình thế nguy cấp
"Tiên sinh ngồi đi".
Khánh Hoài đang đứng trước một tấm bản đồ, cau mày.
Nhìn thấy Kim Phi bước vào, hắn cố nặn ra một nụ cười và chào Kim Phi.
“Chuyện điều lệnh không diễn ra tốt đẹp sao?”, Kim Phi hỏi.
“Không, lệnh điều chuyển Bôn Kinh vẫn chưa được gửi tới”, Khánh Hoài xoa lông mày: “Là chuyện của Thiết Lâm Quân”.
"Thiết Lâm Quân làm sao?"
"Hà Minh Khâm, tên khốn đó, Thiết Lâm Quân đang đóng ở Thanh Thủy Cốc. Nếu người Đảng Hạng đánh đến, thứ đầu tiên chúng muốn đánh sẽ là Thiết Lâm Quân!"
Khánh Hoài đập mạnh vào tấm bản đồ một cú đấm cáu kỉnh: "Ta tưởng rằng vẫn còn thời gian, nhưng hôm nay Phạm tướng quân nói với ta rằng đội quân của người Đảng Hạng sắp được tập hợp, họ có thể tấn công bất cứ lúc nào, ta thậm chí còn không có thời gian để điều chỉnh chiến thuật của mình".
"Có thể thay thế Thiết Lâm Quân không?"
Kim Phi cau mày khi nghe những lời đó.
Y không liên quan gì đến Thiết Lâm Quân, y đến Vị Châu chỉ là vì muốn đánh bóng tên tuổi, hoàn toàn không muốn nộp mạng cho đám người Đảng Hạng.
"Không thể nào, đây là trận chiến đầu tiên với người Đảng Hạng. Dù Thiết Lâm Quân có bị quét sạch, cũng không được bỏ quân tháo chạy. Nếu không, nhuệ khí sẽ tiêu tan, những trận chiến sau đó sẽ không thể đánh được nữa".
"Người Đảng Hạng có thể đánh tới bất cứ lúc nào. Chúng ta lấy đâu ra thời gian để làm dây sắt và nỏ nặng đây?"
Kim Phi hỏi.
"Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân đang ở trong thành phố. Ta đã chỉ thị Phạm tướng quân phái Trịnh Phương đến Thanh Thủy Cốc tìm Hà Minh Khâm để xin thủ lệnh, rồi tiên sinh có thể tiếp quản Tương Tác Doanh".
Khánh Hoài nói: "Đã hơn hai giờ kể từ khi Trịnh Phương rời đi, hẳn là sắp về rồi. Ta hy vọng Hà Minh Khâm không gây khó dễ".
"Chuyện đã đến nước này, đuổi được bao nhiêu thì đuổi vậy, tùy ý trời".
Kim Phi thở dài thườn thượt, cảm thấy thoải mái hơn một chút.
Chỉ cần không để y ra tiền tuyến là được rồi.
Vừa nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến.
Khánh Hoài vừa nói đến Trịnh Phương, thì Trịnh Phương chạy vào.
Theo sau là một thanh niên mập và lùn với đôi mắt thâm quầng.
"Hà Minh Khâm, sao ngươi lại ở đây?"
Nhìn thấy người thanh niên, Khánh Hoài không giấu được vẻ kinh tởm trên mặt.
Chính tên này đã lợi dụng thế lực của gia đình và lấy đi Thiết Lâm Quân do một tay hắn nuôi dưỡng.
Hà Minh Khâm không quan tâm đến thái độ khó chịu của Khánh Hoài, nhìn Khánh Hoài, kích động lau đi hàng nước mắt.
Thiết Lâm Quân ban đầu chỉ là một đội quân tạp nham, sau khi Khánh Hoài tiếp quản, dựa vào phương pháp sắt đá, chỉ mất vài năm đã huấn luyện Thiết Lâm Quân thành một sư đoàn dũng cảm, khi quân doanh khác liên tiếp bị người Đảng Hạng đánh lui thì Thiết Lâm Quân lại nhiều lần thắng trận.
Chính vì điều này mà Khánh Hoài đã được phong chức Hầu gia khi còn rất trẻ.
Sự xuất sắc của Khánh Hoài không chỉ khiến giới công tử bột ở Bôn Kinh ghen tị mà còn khiến một số cựu binh phải xấu hổ.
Bọn họ liên tục thua trận, chỉ có Khánh Hoài hết lần này đến lần khác thắng, chẳng phải giống như đang nói bọn họ bất tài sao?
Vì vậy, trong triều đình, Khánh Hoài là đối tượng bị nhiều người vạch tội nhất.
May mắn thay, Khánh Hoài không làm gì sai, lại có người của Khánh Quốc công bảo vệ, vì vậy những người đó không thể nắm thóp được Khánh Hoài.
Nhưng năm ngoái, trong số các tướng của phe Khánh Quốc công, đã có một người bị đánh bại, lại còn rất thảm, bị kẻ địch nắm được thóp.
Để cứu vị tướng này, Khánh Quốc công chỉ có thể nhượng bộ và hứa sẽ điều chuyển Khánh Hoài khỏi tiền tuyến.
Nhà Hà Minh Khâm có bối cảnh thâm sâu nhất, đã giành được vị trí thống soái Thiết Lâm Quân.
Theo quan điểm của Hà Minh Khâm, lý do Khánh Hoài được phong tước là vì Thiết Lâm Quân, gã cũng không kém hơn Khánh Hoài.
Vì vậy sau khi tiếp quản Thiết Lâm Quân, Hà Minh Khâm lập tức yêu cầu đưa Thiết Lâm Quân đến Thanh Thủy Cốc nguy hiểm nhất để đóng quân.
Vì đây là cách nhanh nhất để được thăng chức.
Nhưng khi đóng quân ở Thanh Thủy Cốc, Hà Minh Khâm nhận ra rằng mình đã sai.
Lại còn vô cùng sai!
Đứng trên ngọn núi bên cạnh Thanh Thủy Cốc, có thể nhìn thấy rõ ràng trại của người Đảng Hạng cách đó vài dặm.
Có thể nhìn thấy lều trại dày đặc, kỵ binh chạy tới chạy lui khắp núi rừng đồng bằng, xa xa vạn dặm còn có thể nghe thấy rõ ràng tiếng ô ô a a quái dị.
Lần đầu tiên Hà Minh Khâm nhìn thấy loại tình huống này, hoảng sợ đến mức hai chân mêm nhũn, phải nhờ thị vệ khiêng xuống núi.
Vừa xuống núi, gã lập tức đề nghị với Phạm tướng quân cho gã từ bỏ Thiết Lâm Quân, nhưng bị Phạm tướng quân mắng cho té tát.
Trong khoảng thời gian gần đây, quân của người Đảng Hạng ngày càng di chuyển nhiều hơn, mọi người đều biết rằng chiến tranh sắp bắt đầu, Hà Minh Khâm sợ hãi đến mức đêm này qua đêm khác không dám ngủ, vì sợ rằng khi ngủ thiếp đi, đầu gã sẽ bị người Đảng Hạng chặt.
Trong hoàn cảnh như vậy, nghe nói Khánh Hoài đã đến thành Vị Châu, Hà Minh Khâm vui mừng ra mặt.
Ngay lập tức bỏ doanh trại và theo Trịnh Phương đến gặp Khánh Hoài.
Hà Minh Khâm lau nước mắt, lo lắng hỏi: "Khánh Hoài, ngươi tới đây để nắm lấy Thiết Lâm Quân sao?"
Khánh Hoài chưa kịp trả lời, Chung Ngũ đã vội vã bước vào lần nữa: "Hầu gia, Phạm tướng quân đến rồi!"
"Tiên sinh, cùng ta đi nghênh đón Phạm tướng quân!"
Khánh Hoài cũng lười để ý tới Hà Minh Khâm, vội vàng gọi Kim Phi đi ra ngoài.
"Không cần!"
Một giọng nói uy nghiêm vang lên từ ngoài cửa.
Kim Phi ban đầu nghĩ rằng Phạm tướng quân, người mà Khánh Hoài, Chung Ngũ và những người khác ngưỡng mộ, phải là một người đàn ông vạm vỡ với kỹ năng tuyệt vời.
Tuy nhiên, khi Phạm tướng quân vào cửa, y phát hiện đối phương không hề vạm vỡ, thậm chí có thể nói là gầy.
Cao nhiều nhất là 1,6 mét, ông ấy trông giống như ở độ tuổi 40 hoặc 50, không mặc bất kỳ bộ giáp nào, chỉ mặc một chiếc áo dài trắng thư sinh giống như Kim Phi.
Sau khi đi vào, ông ấy đá Hà Minh Khâm một cái: "Ngươi có biết tướng lĩnh tự tiện rời khỏi quân doanh sẽ bị phạt tội như nào không? Có tin giờ ta chặt ngươi ra không!"
Hà Minh Khâm cũng là một trong những tay công tử bột hàng đầu ở Bôn Kinh, nhưng khi bị Phạm tướng quân đá, thậm chí còn không dám hự cái nào, nói với vẻ mặt cay đắng:
"Phạm tướng quân, không phải Khánh Hoài ở đây sao? Ta sẵn sàng trả lại Thiết Lâm Quân cho hắn".
"Phế vật, ngươi đã ở trên chiến trường nhiều ngày như vậy, còn không biết quy định cơ bản nhất của quân đội sao! Một ngày không đổi ấn soái, thì ngươi vẫn là thống soái của Thiết Lâm Quân, vì vậy không được rời khỏi doanh trại mà không có sự cho phép!"
Phạm tướng quân tức Hà Minh Khâm đến mức ngón tay của ông ấy run lên.
Kim Phi không khỏi cảm thấy buồn cho những người lính của Đại Khang.
Một người như vậy mà có thể lãnh đạo một đội quân, điều này cho thấy quân đội của Đại Khang đã thảm hại đến mức nào.
"Cút đi, để lại ấn soái!"
Phạm tướng quân vô cùng thất vọng với Hà Minh Khâm: "Giờ cũng không cần về chỗ Thiết Lâm Quân nữa. Chờ Bôn Kinh điều lệnh tới là ngươi có thể về rồi".
Có đánh chết Hà Minh Khâm cũng không muốn ra tiền tuyến nữa, gã nhanh chóng lấy quân ấn, binh phù và các vật dụng khác trong ngực ra, đặt lên bàn rồi lao ra khỏi thư phòng như chạy.
"Khánh Hoài, cất đồ đi".
Phạm tướng quân chỉ vào quân ấn và binh phù.
"Điều này có trái với quy định không?"
Khánh Hoài khẽ cau mày.
Việc trao đổi binh quyền không chỉ cần có điều lệnh của Khánh Hoài mà còn cần sự xác nhận của điều lệnh từ Binh Bộ, hai lệnh có ám hiệu giống nhau mới được coi là hợp pháp.
"Những lúc phi thường hãy làm những việc phi thường. Thiết Lâm Quân chỉ có ở trong tay cậu mới có thể phát huy tối đa sức chiến đấu của mình. Trước khi cậu tới, ta đã lo lắng Thiết Lâm Quân sẽ bị chôn vùi trong tay Hà Minh Khâm. Thật may là cậu đã trở lại".
Phạm tướng quân vỗ vỗ vai Khánh Hoài: "Người của Đảng Hạnh có thể đánh tới bất cứ lúc nào, chuẩn bị tinh thần rồi về doanh trại đi!"
"Vâng!"
Khánh Hoài ôm tay đồng ý: "Nhưng trước khi đến quân doanh, ta phải thu xếp cho tiên sinh đã”.
Chương 59: Tương Tác Doanh
"Tiên sinh?"
Phạm tướng quân nhận thấy Khánh Hoài đang nhìn Kim Phi, cũng nhìn theo.
Trong số các tướng lĩnh của Đại Khang, Khánh Hoài là vị tướng mà Phạm tướng quân hâm mộ nhất và cũng hiều rõ nhất.
Đây là lần đầu tiên Khánh Hoài coi trọng một người đến vậy.
Người thanh niên trước mặt cao gầy, như thể không có gì đặc biệt.
Phạm tướng quân đang đánh giá Kim Phi, và Kim Phi cũng đang nhìn ông ấy một cách tò mò.
Khi trò chuyện với các thị vệ lúc chiều, Kim Phi đã nghe qua về vị Phạm tướng quân này.
Đây là một đại lão thực sự.
Khánh Hoài cũng là tướng quân, nhưng chỉ là Ngũ phẩm Ninh Viễn tướng quân, còn Phạm tướng quân là Nhị phẩm Trấn quân đại tướng quân, địa vị trong quân đội của ông ấy không thua kém gì cha của Khánh Hoài, Khánh Quốc công.
Kinh nghiệm của vị tướng quân này cũng là huyền thoại, xuất thân trong gia đình quyền quý, trước 30 tuổi đã làm quan văn, những năm gần đây, người Khiết Đan và người Đảng Hạng từng bước ép sát, Phạm tướng quân không thể làm ngơ được nữa, liền lên đơn tố cáo các tướng quân trấn thủ biên cương, cho rằng họ ăn không ngồi rỗi, lười biếng.
Các vị tướng không giỏi chiến đấu trên chiến trường, nhưng họ đều là cao thủ trong mấy cuộc chiến trên triều đình.
Hai bên cãi qua cãi lại, cuối cùng các vị tướng đó đã ép Phạm tướng quân: Ông giỏi thì ông lên đi!
Phạm tướng quân cũng là một người nóng tính.
Sau đó ông ấy gác bút nhập ngũ và bắt đầu lên đường tòng quân.
Nhà họ Phạm cũng là một gia tộc lớn ở thủ đô, được sự ủng hộ của nhà họ Phạm, Phạm tướng quân không nói là bất khả chiến bại, nhưng ông ấy đã trở thành một trong số ít tướng lĩnh ở Đại Khang có thể đối đầu với người Đảng Hạng và người Khiết Đan.
Những năm gần đây, tiếng nói của nhân dân đối với cuộc kháng chiến ngày càng lớn hơn, địa vị của Phạm tướng quân đại diện cho phái chủ chiến cũng ngày càng cao.
Lần này, ông ấy bất chấp mọi ý kiến, có được ấn soái của thống soái trấn giữ phía Tây.
"Tiểu sinh bái kiến tướng quân!"
Kim Phi hơi cúi đầu và chào vị tướng huyền thoại.
Phạm tướng quân đã ở trong triều đình nhiều năm, đương nhiên ông ấy sẽ không phạm sai lầm cấp thấp như đánh giá con người qua vẻ bề ngoài, mặc kệ ông ấy có ấn tượng thế nào về Kim Phi, nếu Khánh Hoài đã coi trọng y thì tất nhiên không phải hạng tầm thường.
Ông ấy nở nụ cười rất thân thiện và gật đầu.
"Thưa tướng quân, Kim tiên sinh là một tài năng lớn mà ta đã gặp ở Kim Xuyên, rất có tài trong việc chế tạo đồ thủ công, ta chuẩn bị giao Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân cho tiên sinh".
Khánh Hoài giải thích: "Khi thu xếp xong cho tiên sinh, ta sẽ đến chỗ Thiết Lâm Quân ngay lập tức".
"Hóa ra chỉ là một người thợ thủ công…"
Ban đầu Phạm tướng quân còn có chút kỳ vọng vào Kim Phi, nghĩ rằng đó là một cao nhân mà Khánh Hoài tìm được.
Nhưng sau khi nghe những gì Khánh Hoài nói, ông ấy không khỏi có chút thất vọng.
Một thợ thủ công có giỏi đến đâu thì cũng làm được gì chứ?
Chỉ đơn giản là chế tạo được áo giáp cứng hơn một chút, binh khí rắn hơn một chút thôi mà.
Đảng Hạng và Đại Khang tập hợp hàng chục nghìn binh sĩ ở biên giới. Điều cần ở đây là sỹ khí và chiến lược. Một người thợ thủ công không thể thay đổi được bất cứ điều gì đâu.
Phạm tướng quân ngay lập tức mất hứng thú với Kim Phi, bàn giao lại vài chuyện với Khánh Hoài rồi rời đi.
Khánh Hoài nhận thấy rằng thái độ của Phạm tướng quân đối với Kim Phi có phần khinh thường và chiếu lệ, liền giải thích:
"Trận chiến này rất quan trọng. Phạm tướng quân là thống soái trấn giữ phía Tây. Ngài ấy có rất nhiều việc phải làm. Áp lực rất cao. Tiên sinh đừng trách".
Thực tế đúng là như vậy, nếu không phải vị trí của Thiết Lâm Quân cực kỳ quan trọng, lại nghe nói Hà Minh Khâm đã rời trại mà không được phép đi tìm Khánh Hoài, ông ấy lo lắng rằng Thiết Lâm Quân sẽ mất kiểm soát nên không thể đích thân đi một chuyến.
"Không có gì".
Kim Phi cười lắc đầu: "Ngài không phải đang vội đến chỗ Thiết Lâm Quân sao? Chúng ta đi Tương Tác Doanh đi".
Kiếp trước khi đi làm thêm, không biết bao nhiêu lần bị người khác mắng rồi, chỉ vì vài câu nói của Phạm tướng quân sao có thể làm y suy sụp tinh thần được chứ?
Khánh Hoài quả thực rất nóng lòng muốn lên tiền tuyến để xem Thiết Lâm Quân đã bị tên khốn Hà Minh Khâm dày vò thành ra thế nào rồi, hắn lập tức cất bản đồ và đưa Kim Phi ra khỏi thư phòng.
Trình độ tôi luyện của Đại Khang còn hạn chế, vũ khí của binh lính có tỷ lệ sát thương rất cao, công việc chính của Tương Tác Doanh là sửa chữa vũ khí hư hỏng của binh lính.
Tương Tác Doanh cần lò luyện kim loại, vì vậy Tương Tác Doanh không đặt cùng chỗ với doanh trại quân đội, mà sẽ chọn một nơi an toàn để đóng trại.
Những vũ khí bị hư hỏng trong quân doanh sẽ được gửi đến hàng tháng, sau khi sửa xong sẽ được gửi trả về.
Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân cách nhà Khánh Hoài không xa, không cần cưỡi ngựa, ra ngoài rẽ một cái là đã đến rồi.
Kể từ khi người Đảng Hạng bắt đầu xâm phạm biên giới, người ở thành phố Vị Châu ngày càng ít đi, những người có chút quan hệ đều đã đến Trang nguyên với người thân.
Đất không có giá trị, Tương Tác Doanh chiếm một diện tích lớn, tiếng đinh đinh vang lên không ngớt.
"Hầu gia, ngài cuối cùng đã trở lại!"
Khi giáo úy nhìn thấy Khánh Hoài, anh ta đã quỳ xuống vì phấn khích.
Trong thời gian Khánh Hoài vắng mặt, Tương Tác Doanh bị Hà Minh Khâm dày vò không ít.
"Đây là Kim tiên sinh. Sau này huynh ấy sẽ phụ trách Tương Tác Doanh. Tất cả các ngươi phải tuân theo mệnh lệnh của huynh ấy, nếu ai dám giở trò, đừng trách ta không niệm tình xưa!"
Khánh Hoài đẩy Kim Phi về phía trước: "Chung Ngũ, ngươi ở lại đây giúp tiên sinh, nếu có ai không tuân mệnh, giết tại chỗ”.
"Hầu gia, ngài yên tâm, chúng tôi sẽ phối hợp hết sức với Kim đại nhân".
Sau khi giáo úy trấn an Khánh Hoài, anh ta quay lại và quỳ lạy Kim Phi: "Thuộc hạ Lưu Dương tham kiến Kim đại nhân".
Kim Phi vẫn chưa quen với việc quỳ gối, vì vậy y đã đưa tay ra và kéo giáo úy lên: "Ta mong về sau Lưu đại nhân sẽ hỗ trợ ta".
"Kim đại nhân, chỉ cần dặn dò, tiểu nhân quyết không từ chối".
Giáo úy vỗ ngực bồm bộp.
"Vậy thì hãy kể cho ta nghe về Tương Tác Doanh trước đi".
Kim Phi thản nhiên nói.
"Tương Tác Doanh hiện có 30 quân phòng, 49 thợ thủ công, 72 tạp dịch, ba lò luyện sắt, và một lò sứ…"
Giáo úy còn chưa kịp giới thiệu xong thì đã bị Khánh Hoài cắt ngang: "Tương Tác Doanh xây lò sứ khi nào vậy?"
"Bẩm Hầu gia, bốn tháng trước, Hà tướng quân không biết nghe ai nói đất từ Tán Kim Cốc bên ngoài thành Vị Châu rất thích hợp để làm đồ sứ, nên đã ra lệnh cho thuộc hạ và Tương Tác Doanh xây lò sứ trong vòng một tháng ... "
Nói đến đây, giáo úy mắt ươn ướt: "Thuộc hạ không biết xây lò sứ như nào, cuối cùng cũng tìm được một lão sư, xây trễ một ngày, Hà tướng quân đã đánh thuộc hạ ba mươi roi, suýt nữa thì đánh chết thuộc hạ ... "
"Vớ vẩn, Tương Tác Doanh không lo tu sửa vũ khí, xây lò sứ làm cái gì? Đi tháo dỡ cho ta!"
Khánh Hoài rất tức giận với Hà Minh Khâm.
"Vâng!"
Giáo úy cũng đầy oán hận đối với cái lò sứ này, vừa đồng ý liền định đi gọi người đến tháo dỡ lò sứ.
"Chờ đã, đừng dỡ!"
Kim Phi nghe đến lò sứ hưng phấn vỗ đùi, nhanh chóng ngăn giáo úy đang chuẩn bị chạy đi.
Đây là bảo bối, không được dỡ.
"Cái này……"
Giáo úy nhìn Khánh Hoài rồi nhìn Kim Phi, vẻ khó xử.
Một người bảo phá, một người bảo không, nghe ai bây giờ?
Theo lý thuyết Khánh Hoài là chỉ huy tối cao của Thiết Lâm Quân, nên nghe hắn, nhưng quan to chưa chắc bằng quan gần, chưa kể Khánh Hoài cũng giải thích rằng Kim tiên sinh sẽ tiếp quan Tương Tác Doanh, anh ta cũng vừa đồng ý chỉ nghe lệnh Kim tiên sinh, giờ lại đổi giọng thì về sau làm ăn thế nào được nữa?
Làm thế nào bây giờ?
Chương 60: Địch đến rồi!
"Hầu gia, đừng phá lò sứ này được không, nói không chừng ta sẽ dùng đến nó đấy".
Kim Phi phát hiện giáo úy khó xử, nhanh chóng quay lại nhìn Khánh Hoài.
"Được".
Khánh Hoài chỉ không hài lòng với việc làm xằng bậy của Hà Minh Khâm mới ra lệnh phá bỏ lò sứ, nhưng Kim Phi đã nói là có tác dụng thì hắn sẽ không phá nữa.
Nhìn thấy Khánh Hoài gật đầu, cuối cùng tảng đá trong lòng giáo úy cũng được hạ xuống.
Trong lòng cũng coi trọng Kim Phi nhiều hơn.
Bởi vì anh ta biết Khánh Hoài là người nhất ngôn quân tử, cho dù thỉnh thoảng ra lệnh sai, hắn cũng sẽ không bao giờ rút lại lời.
Vậy mà vì Kim Phi, hắn đã thu hồi mệnh lệnh.
Đây đúng là lần đầu tiên.
“Lò này đã từng nung đồ sứ chưa?” Kim Phi hỏi.
“Có rồi, tổng có ba lần”, giáo úy trả lời.
"Thành phẩm có được không?"
“Người thợ lò già nói sản phẩm rất tốt, nhưng Hà tướng quân không bằng lòng nên không cho để, bảo bỏ rồi”.
"Các ngươi dùng cái gì để đốt, than củi hay than đá?"
"Than đá, thợ lò nói lò nói phải dùng than đá".
Giáo úy than thở: “Để có đống than này, ta đã mất rất nhiều thời gian để tìm được hơn chục xe, nhưng lại chỉ dùng có mấy xe, còn lại thì lại để kia”.
"Còn hơn chục xe than đá á?"
Kim Phi càng vui vẻ, cao hứng nói: "Mau đưa ta đi xem".
Giáo úy nhìn thoáng qua Khánh Hoài, thấy Khánh Hoài không hề phản đối nên nhanh chóng dẫn đường.
Lò sứ nằm ở góc tây bắc của trại, nhỏ hơn lò gạch do Kim Phi xây ở làng Tây Hà một chút, nhưng bố cục và cấu trúc hợp lý hơn.
"Chuyên nghiệp!"
Kim Phi kêu lên: "Lưu huynh, thợ lò mà huynh tìm ra là cao thủ đấy".
"Đại nhân gọi Lưu Dương là được rồi", giáo úy nói: "Đại nhân quả là có mắt nhìn. Gia đình người thợ lò già này đã đốt đồ sứ từ bao đời nay. Mấy năm trước, người Đảng Hạng xuôi về phương nam đã phá hủy đồ sứ của gia đình ông ấy, người thân trong nhà đều đã chết hết rồi, ông ấy trốn vào núi mới thoát được, ta phải đi tìm rất vất vả đấy".
"Vậy người thợ lò già đâu?"
Kim Phi hỏi.
Dù sao kiếp trước y cũng học chế tạo máy móc, chỉ có chút hiểu biết về nung đồ sứ, nhưng cũng không rành lắm, có thợ lò già giúp đỡ, y có thể đỡ được rất nhiều phiền phức.
“Lò sứ không được phép đốt, nên ta đã đưa thợ lò già vào nhóm tạp dịch, ông ấy đang giúp luyện sắt ở kia”, giáo úy đáp.
"Mau đi tìm ông ấy tới đây".
"Vâng!"
Giáo úy nhanh chóng chạy đi.
"Tiên sinh, có phải tiên sinh định dùng lò sứ này để luyện sắt không?"
Khi giáo úy chạy đi, Khánh Hoài hỏi.
"Hầu gia quả nhiên đã nhìn ra".
Kim Phi gật đầu cười.
Muốn luyện thép tốt thì nhiệt độ của lò luyện cần đạt ít nhất 1500 độ C. Với trình độ luyện sắt của Đại Khang, nhiệt độ lò luyện còn lâu mới bằng được.
Nhưng lò nung sứ gần như có thể đạt đến nhiệt độ này.
Chỉ là Đại Khang không có phương tiện đo nhiệt độ, ở trong mắt nhiều người, 800 độ cới 1000 độ hầu như cũng chẳng có gì khác nhau, đều có thể thiêu người thành tro.
Ngoài ra, rèn sắt và nung đồ sứ là hai ngành công nghiệp khác nhau, chưa ai nghĩ đến điều này.
Bao gồm cả Kim Phi, nếu không phải giáo úy nói về lò sứ, y cũng chẳng nhớ ra chuyện này.
"Trong trại có ba cái lò nung sắt, tại sao tiên sinh lại muốn dùng lò sứ?"
Khánh Hoài tò mò hỏi.
"Lửa trong lò sứ mãnh liệt hơn, nếu dùng nung sắt thì tốc độ chế tác dây sắt sẽ nhanh hơn".
Kim Phi không thể giải thích vấn đề nhiệt độ với Khánh Hoài, vì vậy y chỉ có thể nói vậy.
“Tiên sinh thấy nếu dùng lò sứ này thì mỗi ngày có thể làm bao nhiêu dây sắt?”, Khánh Hoài hỏi.
"Cái này rất khó nói. Trên thực tế, ta còn không chắc liệu lò sứ có thể luyện sắt hay không".
Kim Phi cũng là lần đầu tiên dùng lò sứ luyện sắt, cũng không dám nhiều lời: "Ta sẽ để cho lò sứ cùng ba cái lò luyện sắt kia đồng thời cùng hoạt động, nếu cái này không dùng được còn có cái kia".
"Như vậy cũng tốt".
Khánh Hoài gật đầu đồng ý.
Chẳng mấy chốc, giáo úy đã đem người thợ lò già đến.
Lò sứ cần tích nhiệt đạt nhiệt độ đủ cao, sứ sau khi nung xong phải đợi nguội mới có thể đi vào, nếu không nhiệt độ cao hơn 1.000 độ có thể thiêu người vào thành tro.
Tuy nhiên, việc làm dây sắt cần phải tiến hành ở trạng thái khối sắt đã nóng chảy, khi lò sứ đủ nguội mới cho vào thì khối sắt đã cứng lại rồi.
Vì vậy, phải xây lại lò sứ thì mới có thể luyện sắt được.
Kim Phi rất không muốn xây lò gạch, y lại càng không quen với lò sứ, muốn cải tạo cũng không biết phải ra tay từ đâu.
May mắn thay, người thợ lò có kinh nghiệm đã hiểu được kế hoạch của Kim Phi và đề xuất mở một cống thoát nước dưới đáy lò, để một khi sắt nóng chảy, nó có thể chảy ra ngoài qua cống.
Kim Phi cảm thấy đề nghị của thợ lò già rất đáng tin cậy, vì vậy y đã đề nghị giáo úy phân công mười tạp dịch đến giúp người thợ lò già cải tạo lò ngay trong đêm.
Khánh Hoài thấy Kim Phi đã bắt đầu công việc, vì vậy hắn vội vàng rời đi đến chỗ Thiết Lâm Quân.
Kim Phi cũng không đến tiễn hắn, trong khi tạp dịch đang vận chuyển sắt và than vào lò gạch, y đã đi thăm những chỗ còn lại ở Tương Tác Doanh.
Điều làm y thất vọng là, lò luyện sắt được sử dụng cho trại cũng rất thô sơ, phải cải tạo mới có thể luyện sắt được.
May mắn thay, phần thân chính có thể được sử dụng, chỉ cần cải tạo thiết bị hút khói và ống thổi là được. Mặc dù nó không thể theo kịp lò ở nhà, nhưng cũng sẽ dùng được.
Nhưng nếu phải xây lại, Kim Phi không phải là thất vọng, mà là tuyệt vọng.
Biết rằng tình hình trên tiền tuyến rất nguy cấp, Kim Phi yêu cầu giáo úy chia các tạp dịch thành hai ban, một ban bắt đầu cải tạo lò luyện sắt trong đêm.
Để Mãn Thương, người có kinh nghiệm tu bổ, giám sát công việc, Kim Phi lại đến lò sứ để kiểm tra tiến độ công việc.
Sau khi làm việc đến nửa đêm, Kim Phi mới đi ngủ.
Sau khi tỉnh dậy, Chung Ngũ, người đang canh cửa, nói với y rằng buổi trưa Khánh Hoài đã đến.
“Hầu gia có chuyện gì sao?”, Kim Phi hỏi.
"Không có chuyện gì, chỉ là điều lệnh của Bôn Kinh đã đến, Hầu gia đến tìm Phạm tướng quân đổi văn thư liền đến tìm tiên sinh, thấy tiên sinh đang ngủ đã đi rồi".
"Lần sau Hầu gia trở lại, nhớ đánh thức ta".
Kim Phi dặn dò một câu nhưng cũng không để ý lắm.
Nếu Khánh Hoài có chuyện quan trọng, nhất định sẽ đánh thức y.
Sau khi ăn vội chút gì đó, Kim Phi lại đi vào xưởng.
Lần đầu tiên Mãn Thương chỉ huy nhiều người làm việc như vậy, hắn hưng phấn đến mức cả đêm không ngủ, vừa thấy Kim Phi đi tới liền nhanh chóng chạy tới với hai con mắt gấu trúc.
"Sao thế?"
Kim Phi hỏi.
"Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp. Tương Tác Doanh có rất nhiều người và dụng cụ. Ước chừng tối nay là có thể làm xong".
“Vậy là tốt rồi”, Kim Phi gật đầu: “Ngươi cũng về nghỉ ngơi sớm đi, sắp tới còn có nhiều việc phải làm, đừng có vừa đến đã mệt mỏi”.
“Được”, Mãn Thương đồng ý, nhưng trên mặt vẫn chưa có dấu hiệu muốn về ngủ.
Sau khi Mãn Thương rời đi, Kim Phi lại đến lò sứ.
Trong lò có thợ lò già quản lý, việc cải tạo tiến hành rất thuận lợi, ước chừng buổi tối có thể đưa quặng sắt vào lò.
"Hy vọng kịp".
Kim Phi thầm cầu nguyện trong lòng.
Nhưng vừa cầu nguyện xong, y nhìn thấy một con ngựa chiến đang phi nước đại, mang theo Trịnh Phương, người bê bết máu.
Khi đến bên Kim Phi, Trịnh Phương từ ngựa ngã xuống.
"Tiên sinh ... người Đảng Hạng đến rồi!"
"Mãn Thương, tất cả bọn họ đều là dân khuân vác. Kéo một lúc là người đầy mồ hôi rồi. Một khi mồ hôi thấm vào, dây kéo thuyền còn cọ sát vào nữa, thì quần áo sẽ bị sờn rách, người nghèo lấy đâu ra lắm quần áo như vậy?"
Trịnh Phương, người tình cờ đi ngang qua, giải thích: "Những người phụ nữ đứng sau thường là vợ của một người kéo thuyền nào đó, thấy cũng nhiều rồi nên chẳng xấu hổ nữa".
“Vợ của người kéo thuyền không kéo thuyền thì đi theo làm gì?”, Mãn Thương hỏi lại.
"Kéo thuyền là việc khổ cực, không thể nhịn ăn, bằng không sẽ không có sức, họ mang theo đồ ăn với nước uống đó".
Trịnh Phương nói: "Đôi khi một người kéo thuyền quá mệt mỏi không thể chịu nổi, họ cũng có thể vào thế chỗ một lúc và để người đàn ông đó lấy hơi".
“Vậy thì họ có mặc quần áo khi kéo thuyền không?”, Mãn Thương tò mò hỏi.
“Đương nhiên cũng không rồi”, Trịnh Phương nói: “Nhưng người phụ nữ này còn mạnh mẽ hơn nam tử hán kìa, sẽ không ai chê cười bọn họ đâu”.
Ngày nay quần áo rất đắt, nhiều người chỉ có một bộ quần áo mặc từ mùa xuân sang mùa đông, hỏng thì sửa.
Trước khi Quan Hạ Nhi kết hôn với Kim Phi, cô cũng chỉ có một bộ quần áo làm khi cô 10 tuổi, khi lớn hơn thì lại nối một đoạn. Khi kết hôn với Kim Phi, bộ quần áo đã bị chia thành nhiều lớp, với các bản vá chồng lên nhau.
Điều này không có gì xấu, có người nghèo cả nhà chỉ có một hoặc hai bộ quần áo, ai ra ngoài thì mặc, ai không ra ngoài thì nằm trong chăn.
Đi làm đồng cũng phải dậy sớm, không phải vì siêng năng mà vì không có quần áo, trời tối cũng không ai thấy.
Cơ thể của người kéo thuyền lúc nào cũng đổ mồ hôi, quần áo nhanh hỏng nên chỉ có thể khỏa thân, nếu không số tiền kiếm được sẽ không đủ mua quần áo.
“Họ có thể kiếm được bao nhiêu tiền cho một ngày kéo thuyền?”, Kim Phi hỏi.
"Khó nói lắm. Ở chỗ tốt cũng được bảy tám văn một ngày. Đối với mấy đoạn đường khó thì giá cao hơn. Lúc cao nhất có thể được ba bốn mươi văn một ngày".
“Cao như vậy sao?”, Mãn Thương kinh ngạc hỏi.
Ngay cả Kim Phi cũng hơi ngạc nhiên.
Kiếm được nhiều thế á?
Phải biết rằng y đưa cho Trương Lương lương tháng là 500 văn, Trương Lương đã bảo quá nhiều.
"Ba bốn mươi là con đường khó đi nhất".
Trịnh Phương cho biết: "Đoạn đó đầy vách núi cheo leo, nước chảy xiết. Hầu hết mọi người đều không thể trèo lên bằng tay không, chưa kể những người kéo thuyền phải kéo thuyền. Số người kéo thuyền chết hàng năm không đếm xuể".
"Như vậy, mọi người đều đang liều mạng, họ thực sự nên được trả nhiều tiền hơn".
Kim Phi gật đầu đồng ý.
"Bốn mươi văn một ngày, ta cũng liều mạng".
Trương Mãn Thương trong mắt đầy ghen tị.
Nhưng ngay sau đó, hắn không còn đố kỵ nữa.
Đến trưa, chiếc thuyền gỗ đến một thung lũng.
Những đỉnh núi hai bên thung lũng hướng vào trong, giống như một cái eo thon nằm giữa quả bầu, con sông Gia Lang rộng gần 100 mét ở đây bị thu hẹp một nửa, nước chảy xiết lạ thường.
Và các vách đá ở hai bên đặc biệt dốc, gần như thẳng đứng.
Tuy đoạn vách núi này chỉ rộng hơn 100 mét, nhưng trên vách đá không có cả chỗ dừng chân, những người kéo thuyền làm cách nào để kéo một chiếc thuyền lớn như vậy vượt qua được đây?
"Làm sao kéo được chứ?"
Mãn Thương hỏi Kim Phi.
"Chỉ cần nhìn là biết?"
Trịnh Phương nói: "Xem xong cậu sẽ biết tại sao họ có thể kiếm được ba mươi bốn mươi văn một ngày".
Thấy Trịnh Phương không nói gì, Mãn Thương cũng không thèm hỏi, dựa vào lan can thuyền tò mò quan sát.
Cách thung lũng vài trăm mét, những người kéo thuyền tìm nơi nước chảy không xiết và dừng lại, buộc dây sợi vào gốc cây.
Hai người phụ nữ đi sau ngay lập tức bước tới với chiếc giỏ trên lưng.
Những người kéo thuyền lấy những chiếc bánh kê cứng từ trong giỏ ra, múc một bát nước sông Gia Lang, uống ngọt dểu.
Trong khi những người kéo thuyền đang ăn uống và nghỉ ngơi, hai người phụ nữ lấy ra hai bộ dây gai trong giỏ, quàng qua cổ rồi đi về phía vách đá.
Một trong hai người phụ nữ xoa tay vào nhau và bắt đầu leo núi.
Vách đá cực kỳ dốc, người phụ nữ nhanh nhẹn như một con vượn, sử dụng các vết nứt và mấy tảng đá nhô cao để tiến theo đường chéo lên trên.
Kim Phi, người trên thuyền, không khỏi đổ mồ hôi cho cô ấy.
Trong kiếp trước, y đã xem rất nhiều video do những người đam mê leo núi thực hiện trên mạng, nhưng y không ngờ được là có ngày mình sẽ có thể xem được trải nghiệm kinh hoàng như vậy.
Những tảng đá trên vách đá bị ướt do nước sông Gia Lang tạt vào, nhiều tảng bị rêu bám đầy khiến chúng trở nên trơn trượt.
Người phụ nữ không có bất kỳ biện pháp bảo vệ nào, chỉ leo lên bằng tay không và chân trần.
Độ khó cao gấp nhiều lần so với những vách đá được bố trí trong phòng huấn luyện.
Người phụ nữ rất nhanh, sau khi người kéo thuyền ăn bánh xong, cô ấy đã leo lên lưng chừng vách núi, cách mặt nước hơn 20m.
Ở đây, có một tảng đá nhô ra hơn một mét, tạo thành một bệ nhỏ chưa đầy hai mét vuông, là điểm nghỉ chân rất tốt.
Người phụ nữ hít thở sâu vài hơi trên bục nhỏ, sau đó tháo sợi dây đang mang theo, cầm một đầu trên tay và ném đầu kia xuống.
Người phụ nữ đứng đợi bên dưới túm dây trói chặt vào gốc cây.
Người phụ nữ trên vách đá cũng buộc dây vào một tảng đá nhô cao.
Người phụ nữ bên dưới kéo sợi dây, sau khi xác định đã chắc chắn liền nắm nó bằng tay phải rồi leo lên.
Với sự trợ giúp của sợi dây, người phụ nữ thứ hai leo nhanh hơn người phụ nữ thứ nhất.
Khi những người kéo thuyền ăn xong chiếc bánh thứ hai, hai người phụ nữ đã gặp nhau trên phiến đá nhỏ.
"Họ đang làm gì vậy?"
Kim Phi chỉ vào vách đá và hỏi.
Trịnh Phương phớt lờ Mãn Thương, nhưng phải trả lời Kim Phi, giải thích với một nụ cười:
"Người kéo thuyền khỏe nhưng không khéo léo. Các cô ấy nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, trèo lên vách núi, luồn dây để những người chèo thuyền có thể kéo dây và đi qua đoạn đường khó khăn nhất.
Nếu không có sợi dây này, ít nhất một nửa số người sẽ chết ở đây".
"Ra vậy".
Kim Phi nhìn những viên đá nhẵn bóng trên vách đá và hỏi: "Hình như hàng năm có rất nhiều thuyền đi qua đây, tại sao chính quyền không đóng một vài chiếc cọc và để lại một đoạn dây? Như vậy cũng không cần hai người phụ nữ liều mình leo lên vách đá như vậy".
"Chính phủ đã từng làm thế, nhưng dây thừng để ở đây được vài ngày là sẽ mất", Trịnh Phương thở dài: "Chính phủ có thay đổi vài lần rồi cũng mặc kệ".
Cũng đúng, dây gai dầu cũng là một mặt hàng có giá trị trong thời này.
Sợi dây gai dày có chiều dài hơn 100 mét nếu trộm được đem bán cũng đủ cho một gia đình bốn người ăn cả tháng.
Khi Kim Phi và Trịnh Phương đang trò chuyện, người phụ nữ đầu tiên gần như đã nghỉ ngơi xong và bắt đầu nửa sau của cuộc hành trình.
Đoạn sau cần đi theo đường chéo xuống, sẽ rắc rối hơn là đi lên, lần này người phụ nữ không theo đuổi tốc độ, bò xuống một cách thận trọng.
May mắn thay, người phụ nữ đã rất khéo léo và đến nơi an toàn mà không gặp bất kỳ rủi ro nào.
Người phụ nữ thứ hai tháo sợi dây quanh cổ và ném xuống.
Tiếc rằng sức của cô ấy không khỏe bằng người phụ nữ thứ nhất, sợi dây không đến đích và rơi xuống nước.
Rơi vào đường cùng, cô ấy phải kéo lại sợi dây và quăng nó một lần nữa.
Lần thứ hai vẫn không thành công ...
Chương 57: Thành Vị Châu
Đám người kéo thuyền cũng đứng dậy và lấy ra một sợi dây gai dầu to bằng quả trứng, người dẫn đầu đeo dây gai vào lưng, nắm lấy dây và bắt đầu leo núi.
Những người kéo thuyền còn lại cũng lấy dây thừng của riêng mình và đi theo phía sau người dẫn đầu.
Đúng như lời Trịnh Phương nói, những người đàn ông này có đôi bàn tay và bàn chân dày, trong quá trình leo núi có người bị trượt chân ngã nhiều lần, may mà tay phải luôn giữ chặt dây, nếu không sẽ rơi xuống dòng nước chảy xiết.
Sau hơn 20 phút, tất cả những người kéo thuyền cuối cùng cũng leo qua được vách đá.
Người đi đầu cởi dây gai sau lưng, chạy về phía trước hàng chục mét, tìm một cây to, quấn dây quanh thân cây hai lần rồi ném phần còn lại xuống nước.
Có những nút thắt trên sợi dây gai dày, khi dây trôi dọc sông đến nơi những người kéo thuyền dừng chân, những người kéo thuyền liền vớt nó lên, buộc dây của bản thân vào để tiếp nối đoạn dây, rồi lại thả nó cuống nước.
"Họ đang làm cái gì vậy?"
Mãn Thương gãi đầu hỏi.
"Đoạn đường này quá nguy hiểm, thậm chí không có chỗ để đi. Họ cần phải kéo dài dây".
Trịnh Phương giải thích và nhắc nhở: "Tiên sinh, đứng vững vào, đừng để rơi xuống".
Kim Phi nhanh chóng nắm lấy lan can trước mặt y.
Sợi dây trôi theo dòng sông đến nơi nghỉ ngơi.
Người phụ nữ đứng đợi bên dưới vớt sợi dây dưới nước buộc vào sợi dây ban đầu.
Sau khi xác định rằng dây đã chặt, liền tháo đầu dây buộc vào cây.
Chiếc thuyền gỗ trôi sông ngay lập tức.
Chỉ là nó chưa kịp trôi xa thì đã bị những người kéo thuyền kéo lại.
"Ba thước vải trắng, hây! Bốn lạng cây gai, hây! Chân đạp tảng đá, hây! Tay đào cát, hây! …"
Những người kéo thuyền lại hát lên và cố gắng hết sức để kéo chiếc thuyền gỗ về phía trước.
Tuy rằng con đường bên dưới không giống như vách núi không có chỗ đặt chân, nhưng cũng rất hẹp, nhiều nhất chỉ có thể đặt một chân.
Những người kéo thuyền gần như bò trên mặt đất, sử dụng tay và chân của họ, siết chặt những viên đá với vẻ mặt dữ tợn để tiến lên.
Khi thuyền được kéo đến nơi nước chảy hẹp nhất, hai người phụ nữ cũng đặt gùi xuống đất, vội vàng cởi bỏ quần áo rồi gia nhập đội người kéo thuyền.
Người phụ nữ làm việc đã lâu, da ngăm đen và thô ráp như những người kéo thuyền, nhưng dáng người rất đẹp, Mãn Thương quan sát đầy thích thú, nhưng Kim Phi không hề xao lòng, trong đầu mơ hồ nhớ đến bài “người chèo thuyền bên sông Volga”.
Nhìn vào bức tranh minh họa, Kim Phi và các bạn cùng lớp của mình cũng thảo luận về việc liệu thực sự có người nào trên thế giới này có thể chịu đựng được loại khổ này hay không.
Khi y thực sự nhìn thấy người kéo thuyền ngày hôm nay, Kim Phi nhận ra rằng thế gian này cực khổ nhiều hơn y tưởng tượng.
Đối với hai người phụ nữ, Kim Phi chỉ có sự tôn trọng và cảm thông.
Nếu có những cách khác, làm gì có người phụ nữ nào sẵn sàng trở thành người kéo thuyền?
Chắc hẳn khi mới bắt đầu họ cũng rất ngại ngùng đúng không?
Kim Phi trước giờ luôn là một kẻ ích kỉ, sau khi xuyên về không hề nghĩ đến việc làm lợi cho thiên hạ hay bất cứ thứ gì, chỉ muốn sống cuộc sống xa hoa của một địa chủ giàu có.
Ngay cả khi đã thành lập các xưởng và lò nung ở làng Tây Hà, cũng không thực sự muốn thay đổi cuộc sống của dân làng, mà chỉ muốn sử dụng họ để kiếm tiền.
Nhưng lúc này, trong lòng Kim Phi rất cảm động, lần đầu tiên y nghĩ nếu có khả năng sẽ giúp đỡ người khác.
Thuyền gỗ tiến lên một chút, chậm rãi đi qua thung lũng hẹp.
Con sông lại mở rộng, con đường ven bờ đi lại dễ dàng hơn.
Rồi những người phụ nữ mới nới lỏng sợi dây, quay lại mặc quần áo rồi đi theo đoàn với chiếc gùi trên lưng.
"Tiên sinh, vài chục dặm phía trước đều là đường tốt. Con thuyền đã ổn định. Đã đến lúc ngài học cách cưỡi ngựa rồi".
Chung Ngũ dẫn hai con ngựa chiến lên boong.
"Không vấn đề gì".
Kim Phi và Mãn Thương mắt sáng lên, háo hức muốn thử.
Làm gì có người đàn ông nào không thích cưỡi ngựa chứ?
Hơn nữa, ngựa là phương tiện giao thông được sử dụng phổ biến nhất trong thời đại ngày nay, sớm muộn gì cũng phải học chúng.
Chung Ngũ đã chuẩn bị một con ngựa cái ngoan ngoãn cho y, chờ sau khi Kim Phi leo lên lưng con ngựa, đã dạy cho y một số điều cơ bản cần thiết, sau đó dẫn con ngựa cái đi đi lại lại trên boong.
Với những điều bản thân quan tâm, thời gian sẽ trôi qua nhanh chóng, vào ngày thứ tám, Kim Phi và Mãn Thương đã có thể điều khiển những con ngựa phi nước kiệu trên boong tàu.
Đường thủy dần hết, thuyền gỗ cập bến.
Tiếp theo, họ đi đường núi trong năm ngày, cả nhóm cuối cùng đã đến đích - thành Vị Châu.
Thành Vị Châu là một trong những thành phố chính để phòng thủ chống lại người Đảng Hạng, bức tường thành cực kỳ cao, nhưng một nửa bức tường thành có màu xanh lam bình thường, trong khi nửa bên dưới là màu đen, trông hơi kỳ quái.
"Vị Châu đã từng bị người Đảng Hạng tiến đánh hai lần, cũng bị đốt hai lần, phần dưới cũng bị cháy đen".
Nhìn thấy vẻ mặt nghi ngờ của Kim Phi, Chung Ngũ thấp giọng giải thích.
"Gì mà đánh, có mà chạy trốn thì có".
Trịnh Phương nói: “Người Đảng Hạng còn cách Vị Châu 80 dặm, các tướng trấn thủ kinh thành đều bỏ chạy hết, để lại thiên hạ cho người Đảng Hạng, sau này còn không biết xấu hổ xin triều đình cho quân lương".
“Không phải bây giờ đã thay thế bằng Phạm tướng quân sao?”, Chung Ngũ nói: “Phạm tướng quân là một vị tướng nổi tiếng máu lửa. Ta nghe nói rằng ông ấy có thể làm một quan chức cấp cao trong triều đình, nhưng ông ấy đã chủ động xin đến thành Vị Châu".
"Phạm tướng quân đến, Hầu gia rốt cuộc cũng đã có chỗ sử dụng năng lực. Không cần giống như lần trước. Rõ ràng lập công, nhưng lại bị đám xu nịnh hãm hại".
"Ta hy vọng Phạm tướng quân có thể lãnh đạo chúng ta đẩy lùi người Đảng Hạng, nếu không thuế nhất định sẽ tăng trở lại vào năm sau".
"Không phải Hầu gia đã thăng chức vị trí chính thức của ngươi lên Bách phu trưởng rồi sao, ngươi không phải nộp thuế, lo cái gì?"
"Nhà ta không đóng thuế, nhưng họ hàng phải nộp. Họ không nộp được, không phải sẽ đến nhà ta nhờ giúp sao?"
Trịnh Phương lắc đầu đau khổ.
Trận chiến giữa Đại Khang với Đảng Hạng và Khiết Đan liên quan trực tiếp đến thuế cống năm đó.
Và thuế cống thì chỉ gõ đầu dân chứ còn ai.
Trong những năm gần đây, người Đảng Hạng và người Khiết Đan yêu cầu triều cống hàng năm ngày càng nhiều, và các loại thuế mà dân thường phải gánh chịu ngày càng nặng nề.
Có lệnh bài của Khánh Hoài mở đường, cả nhóm tiến vào thành Vị Châu một cách suôn sẻ.
Thậm chí không có một cửa hàng nào mở trên đường, thỉnh thoảng có người qua lại, nhưng họ cũng vội vã.
Thỉnh thoảng có một hai binh sĩ lao qua để thay quân trên bức tường thành.
Khánh Hoài từng đóng quân ở biên giới bên ngoài thành Vị Châu hơn một năm, cũng có một ngôi nhà ở thành Vị Châu.
Ngôi nhà này được cho là do một doanh nhân giàu có xây dựng, trước khi người Đảng Hạng bắt đầu xâm chiếm Đại Khang, doanh nhân giàu có đã kiếm được rất nhiều tiền nhờ làm ăn với người Đảng Hạng. Ngôi nhà không nhỏ hơn biệt viện Khánh Phong là bao.
Lần đầu tiên người Đảng Hạng chiếm được thành Vị Châu, trong nhà không có người nào chạy thoát, bọn họ bị giết sạch sẽ, ngôi nhà bị chính quyền lấy đi, sau đó giao cho Khánh Hoài.
Ngôi nhà tuy rộng nhưng còn vắng vẻ hơn cả biệt viện Khánh Phong, ngoài một người gác cổng già ra, thậm chí còn không có lấy một người hầu.
Khánh Hoài đặt hành lý xuống và đưa Chung Ngũ đến phủ thành chủ, chạng vạng tối mới trở về với vẻ mặt rất khó coi.
Ngay khi quay lại, y đã nhờ Chung Ngũ gọi Kim Phi đến thư phòng.
Chương 58: Tình thế nguy cấp
"Tiên sinh ngồi đi".
Khánh Hoài đang đứng trước một tấm bản đồ, cau mày.
Nhìn thấy Kim Phi bước vào, hắn cố nặn ra một nụ cười và chào Kim Phi.
“Chuyện điều lệnh không diễn ra tốt đẹp sao?”, Kim Phi hỏi.
“Không, lệnh điều chuyển Bôn Kinh vẫn chưa được gửi tới”, Khánh Hoài xoa lông mày: “Là chuyện của Thiết Lâm Quân”.
"Thiết Lâm Quân làm sao?"
"Hà Minh Khâm, tên khốn đó, Thiết Lâm Quân đang đóng ở Thanh Thủy Cốc. Nếu người Đảng Hạng đánh đến, thứ đầu tiên chúng muốn đánh sẽ là Thiết Lâm Quân!"
Khánh Hoài đập mạnh vào tấm bản đồ một cú đấm cáu kỉnh: "Ta tưởng rằng vẫn còn thời gian, nhưng hôm nay Phạm tướng quân nói với ta rằng đội quân của người Đảng Hạng sắp được tập hợp, họ có thể tấn công bất cứ lúc nào, ta thậm chí còn không có thời gian để điều chỉnh chiến thuật của mình".
"Có thể thay thế Thiết Lâm Quân không?"
Kim Phi cau mày khi nghe những lời đó.
Y không liên quan gì đến Thiết Lâm Quân, y đến Vị Châu chỉ là vì muốn đánh bóng tên tuổi, hoàn toàn không muốn nộp mạng cho đám người Đảng Hạng.
"Không thể nào, đây là trận chiến đầu tiên với người Đảng Hạng. Dù Thiết Lâm Quân có bị quét sạch, cũng không được bỏ quân tháo chạy. Nếu không, nhuệ khí sẽ tiêu tan, những trận chiến sau đó sẽ không thể đánh được nữa".
"Người Đảng Hạng có thể đánh tới bất cứ lúc nào. Chúng ta lấy đâu ra thời gian để làm dây sắt và nỏ nặng đây?"
Kim Phi hỏi.
"Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân đang ở trong thành phố. Ta đã chỉ thị Phạm tướng quân phái Trịnh Phương đến Thanh Thủy Cốc tìm Hà Minh Khâm để xin thủ lệnh, rồi tiên sinh có thể tiếp quản Tương Tác Doanh".
Khánh Hoài nói: "Đã hơn hai giờ kể từ khi Trịnh Phương rời đi, hẳn là sắp về rồi. Ta hy vọng Hà Minh Khâm không gây khó dễ".
"Chuyện đã đến nước này, đuổi được bao nhiêu thì đuổi vậy, tùy ý trời".
Kim Phi thở dài thườn thượt, cảm thấy thoải mái hơn một chút.
Chỉ cần không để y ra tiền tuyến là được rồi.
Vừa nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến.
Khánh Hoài vừa nói đến Trịnh Phương, thì Trịnh Phương chạy vào.
Theo sau là một thanh niên mập và lùn với đôi mắt thâm quầng.
"Hà Minh Khâm, sao ngươi lại ở đây?"
Nhìn thấy người thanh niên, Khánh Hoài không giấu được vẻ kinh tởm trên mặt.
Chính tên này đã lợi dụng thế lực của gia đình và lấy đi Thiết Lâm Quân do một tay hắn nuôi dưỡng.
Hà Minh Khâm không quan tâm đến thái độ khó chịu của Khánh Hoài, nhìn Khánh Hoài, kích động lau đi hàng nước mắt.
Thiết Lâm Quân ban đầu chỉ là một đội quân tạp nham, sau khi Khánh Hoài tiếp quản, dựa vào phương pháp sắt đá, chỉ mất vài năm đã huấn luyện Thiết Lâm Quân thành một sư đoàn dũng cảm, khi quân doanh khác liên tiếp bị người Đảng Hạng đánh lui thì Thiết Lâm Quân lại nhiều lần thắng trận.
Chính vì điều này mà Khánh Hoài đã được phong chức Hầu gia khi còn rất trẻ.
Sự xuất sắc của Khánh Hoài không chỉ khiến giới công tử bột ở Bôn Kinh ghen tị mà còn khiến một số cựu binh phải xấu hổ.
Bọn họ liên tục thua trận, chỉ có Khánh Hoài hết lần này đến lần khác thắng, chẳng phải giống như đang nói bọn họ bất tài sao?
Vì vậy, trong triều đình, Khánh Hoài là đối tượng bị nhiều người vạch tội nhất.
May mắn thay, Khánh Hoài không làm gì sai, lại có người của Khánh Quốc công bảo vệ, vì vậy những người đó không thể nắm thóp được Khánh Hoài.
Nhưng năm ngoái, trong số các tướng của phe Khánh Quốc công, đã có một người bị đánh bại, lại còn rất thảm, bị kẻ địch nắm được thóp.
Để cứu vị tướng này, Khánh Quốc công chỉ có thể nhượng bộ và hứa sẽ điều chuyển Khánh Hoài khỏi tiền tuyến.
Nhà Hà Minh Khâm có bối cảnh thâm sâu nhất, đã giành được vị trí thống soái Thiết Lâm Quân.
Theo quan điểm của Hà Minh Khâm, lý do Khánh Hoài được phong tước là vì Thiết Lâm Quân, gã cũng không kém hơn Khánh Hoài.
Vì vậy sau khi tiếp quản Thiết Lâm Quân, Hà Minh Khâm lập tức yêu cầu đưa Thiết Lâm Quân đến Thanh Thủy Cốc nguy hiểm nhất để đóng quân.
Vì đây là cách nhanh nhất để được thăng chức.
Nhưng khi đóng quân ở Thanh Thủy Cốc, Hà Minh Khâm nhận ra rằng mình đã sai.
Lại còn vô cùng sai!
Đứng trên ngọn núi bên cạnh Thanh Thủy Cốc, có thể nhìn thấy rõ ràng trại của người Đảng Hạng cách đó vài dặm.
Có thể nhìn thấy lều trại dày đặc, kỵ binh chạy tới chạy lui khắp núi rừng đồng bằng, xa xa vạn dặm còn có thể nghe thấy rõ ràng tiếng ô ô a a quái dị.
Lần đầu tiên Hà Minh Khâm nhìn thấy loại tình huống này, hoảng sợ đến mức hai chân mêm nhũn, phải nhờ thị vệ khiêng xuống núi.
Vừa xuống núi, gã lập tức đề nghị với Phạm tướng quân cho gã từ bỏ Thiết Lâm Quân, nhưng bị Phạm tướng quân mắng cho té tát.
Trong khoảng thời gian gần đây, quân của người Đảng Hạng ngày càng di chuyển nhiều hơn, mọi người đều biết rằng chiến tranh sắp bắt đầu, Hà Minh Khâm sợ hãi đến mức đêm này qua đêm khác không dám ngủ, vì sợ rằng khi ngủ thiếp đi, đầu gã sẽ bị người Đảng Hạng chặt.
Trong hoàn cảnh như vậy, nghe nói Khánh Hoài đã đến thành Vị Châu, Hà Minh Khâm vui mừng ra mặt.
Ngay lập tức bỏ doanh trại và theo Trịnh Phương đến gặp Khánh Hoài.
Hà Minh Khâm lau nước mắt, lo lắng hỏi: "Khánh Hoài, ngươi tới đây để nắm lấy Thiết Lâm Quân sao?"
Khánh Hoài chưa kịp trả lời, Chung Ngũ đã vội vã bước vào lần nữa: "Hầu gia, Phạm tướng quân đến rồi!"
"Tiên sinh, cùng ta đi nghênh đón Phạm tướng quân!"
Khánh Hoài cũng lười để ý tới Hà Minh Khâm, vội vàng gọi Kim Phi đi ra ngoài.
"Không cần!"
Một giọng nói uy nghiêm vang lên từ ngoài cửa.
Kim Phi ban đầu nghĩ rằng Phạm tướng quân, người mà Khánh Hoài, Chung Ngũ và những người khác ngưỡng mộ, phải là một người đàn ông vạm vỡ với kỹ năng tuyệt vời.
Tuy nhiên, khi Phạm tướng quân vào cửa, y phát hiện đối phương không hề vạm vỡ, thậm chí có thể nói là gầy.
Cao nhiều nhất là 1,6 mét, ông ấy trông giống như ở độ tuổi 40 hoặc 50, không mặc bất kỳ bộ giáp nào, chỉ mặc một chiếc áo dài trắng thư sinh giống như Kim Phi.
Sau khi đi vào, ông ấy đá Hà Minh Khâm một cái: "Ngươi có biết tướng lĩnh tự tiện rời khỏi quân doanh sẽ bị phạt tội như nào không? Có tin giờ ta chặt ngươi ra không!"
Hà Minh Khâm cũng là một trong những tay công tử bột hàng đầu ở Bôn Kinh, nhưng khi bị Phạm tướng quân đá, thậm chí còn không dám hự cái nào, nói với vẻ mặt cay đắng:
"Phạm tướng quân, không phải Khánh Hoài ở đây sao? Ta sẵn sàng trả lại Thiết Lâm Quân cho hắn".
"Phế vật, ngươi đã ở trên chiến trường nhiều ngày như vậy, còn không biết quy định cơ bản nhất của quân đội sao! Một ngày không đổi ấn soái, thì ngươi vẫn là thống soái của Thiết Lâm Quân, vì vậy không được rời khỏi doanh trại mà không có sự cho phép!"
Phạm tướng quân tức Hà Minh Khâm đến mức ngón tay của ông ấy run lên.
Kim Phi không khỏi cảm thấy buồn cho những người lính của Đại Khang.
Một người như vậy mà có thể lãnh đạo một đội quân, điều này cho thấy quân đội của Đại Khang đã thảm hại đến mức nào.
"Cút đi, để lại ấn soái!"
Phạm tướng quân vô cùng thất vọng với Hà Minh Khâm: "Giờ cũng không cần về chỗ Thiết Lâm Quân nữa. Chờ Bôn Kinh điều lệnh tới là ngươi có thể về rồi".
Có đánh chết Hà Minh Khâm cũng không muốn ra tiền tuyến nữa, gã nhanh chóng lấy quân ấn, binh phù và các vật dụng khác trong ngực ra, đặt lên bàn rồi lao ra khỏi thư phòng như chạy.
"Khánh Hoài, cất đồ đi".
Phạm tướng quân chỉ vào quân ấn và binh phù.
"Điều này có trái với quy định không?"
Khánh Hoài khẽ cau mày.
Việc trao đổi binh quyền không chỉ cần có điều lệnh của Khánh Hoài mà còn cần sự xác nhận của điều lệnh từ Binh Bộ, hai lệnh có ám hiệu giống nhau mới được coi là hợp pháp.
"Những lúc phi thường hãy làm những việc phi thường. Thiết Lâm Quân chỉ có ở trong tay cậu mới có thể phát huy tối đa sức chiến đấu của mình. Trước khi cậu tới, ta đã lo lắng Thiết Lâm Quân sẽ bị chôn vùi trong tay Hà Minh Khâm. Thật may là cậu đã trở lại".
Phạm tướng quân vỗ vỗ vai Khánh Hoài: "Người của Đảng Hạnh có thể đánh tới bất cứ lúc nào, chuẩn bị tinh thần rồi về doanh trại đi!"
"Vâng!"
Khánh Hoài ôm tay đồng ý: "Nhưng trước khi đến quân doanh, ta phải thu xếp cho tiên sinh đã”.
Chương 59: Tương Tác Doanh
"Tiên sinh?"
Phạm tướng quân nhận thấy Khánh Hoài đang nhìn Kim Phi, cũng nhìn theo.
Trong số các tướng lĩnh của Đại Khang, Khánh Hoài là vị tướng mà Phạm tướng quân hâm mộ nhất và cũng hiều rõ nhất.
Đây là lần đầu tiên Khánh Hoài coi trọng một người đến vậy.
Người thanh niên trước mặt cao gầy, như thể không có gì đặc biệt.
Phạm tướng quân đang đánh giá Kim Phi, và Kim Phi cũng đang nhìn ông ấy một cách tò mò.
Khi trò chuyện với các thị vệ lúc chiều, Kim Phi đã nghe qua về vị Phạm tướng quân này.
Đây là một đại lão thực sự.
Khánh Hoài cũng là tướng quân, nhưng chỉ là Ngũ phẩm Ninh Viễn tướng quân, còn Phạm tướng quân là Nhị phẩm Trấn quân đại tướng quân, địa vị trong quân đội của ông ấy không thua kém gì cha của Khánh Hoài, Khánh Quốc công.
Kinh nghiệm của vị tướng quân này cũng là huyền thoại, xuất thân trong gia đình quyền quý, trước 30 tuổi đã làm quan văn, những năm gần đây, người Khiết Đan và người Đảng Hạng từng bước ép sát, Phạm tướng quân không thể làm ngơ được nữa, liền lên đơn tố cáo các tướng quân trấn thủ biên cương, cho rằng họ ăn không ngồi rỗi, lười biếng.
Các vị tướng không giỏi chiến đấu trên chiến trường, nhưng họ đều là cao thủ trong mấy cuộc chiến trên triều đình.
Hai bên cãi qua cãi lại, cuối cùng các vị tướng đó đã ép Phạm tướng quân: Ông giỏi thì ông lên đi!
Phạm tướng quân cũng là một người nóng tính.
Sau đó ông ấy gác bút nhập ngũ và bắt đầu lên đường tòng quân.
Nhà họ Phạm cũng là một gia tộc lớn ở thủ đô, được sự ủng hộ của nhà họ Phạm, Phạm tướng quân không nói là bất khả chiến bại, nhưng ông ấy đã trở thành một trong số ít tướng lĩnh ở Đại Khang có thể đối đầu với người Đảng Hạng và người Khiết Đan.
Những năm gần đây, tiếng nói của nhân dân đối với cuộc kháng chiến ngày càng lớn hơn, địa vị của Phạm tướng quân đại diện cho phái chủ chiến cũng ngày càng cao.
Lần này, ông ấy bất chấp mọi ý kiến, có được ấn soái của thống soái trấn giữ phía Tây.
"Tiểu sinh bái kiến tướng quân!"
Kim Phi hơi cúi đầu và chào vị tướng huyền thoại.
Phạm tướng quân đã ở trong triều đình nhiều năm, đương nhiên ông ấy sẽ không phạm sai lầm cấp thấp như đánh giá con người qua vẻ bề ngoài, mặc kệ ông ấy có ấn tượng thế nào về Kim Phi, nếu Khánh Hoài đã coi trọng y thì tất nhiên không phải hạng tầm thường.
Ông ấy nở nụ cười rất thân thiện và gật đầu.
"Thưa tướng quân, Kim tiên sinh là một tài năng lớn mà ta đã gặp ở Kim Xuyên, rất có tài trong việc chế tạo đồ thủ công, ta chuẩn bị giao Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân cho tiên sinh".
Khánh Hoài giải thích: "Khi thu xếp xong cho tiên sinh, ta sẽ đến chỗ Thiết Lâm Quân ngay lập tức".
"Hóa ra chỉ là một người thợ thủ công…"
Ban đầu Phạm tướng quân còn có chút kỳ vọng vào Kim Phi, nghĩ rằng đó là một cao nhân mà Khánh Hoài tìm được.
Nhưng sau khi nghe những gì Khánh Hoài nói, ông ấy không khỏi có chút thất vọng.
Một thợ thủ công có giỏi đến đâu thì cũng làm được gì chứ?
Chỉ đơn giản là chế tạo được áo giáp cứng hơn một chút, binh khí rắn hơn một chút thôi mà.
Đảng Hạng và Đại Khang tập hợp hàng chục nghìn binh sĩ ở biên giới. Điều cần ở đây là sỹ khí và chiến lược. Một người thợ thủ công không thể thay đổi được bất cứ điều gì đâu.
Phạm tướng quân ngay lập tức mất hứng thú với Kim Phi, bàn giao lại vài chuyện với Khánh Hoài rồi rời đi.
Khánh Hoài nhận thấy rằng thái độ của Phạm tướng quân đối với Kim Phi có phần khinh thường và chiếu lệ, liền giải thích:
"Trận chiến này rất quan trọng. Phạm tướng quân là thống soái trấn giữ phía Tây. Ngài ấy có rất nhiều việc phải làm. Áp lực rất cao. Tiên sinh đừng trách".
Thực tế đúng là như vậy, nếu không phải vị trí của Thiết Lâm Quân cực kỳ quan trọng, lại nghe nói Hà Minh Khâm đã rời trại mà không được phép đi tìm Khánh Hoài, ông ấy lo lắng rằng Thiết Lâm Quân sẽ mất kiểm soát nên không thể đích thân đi một chuyến.
"Không có gì".
Kim Phi cười lắc đầu: "Ngài không phải đang vội đến chỗ Thiết Lâm Quân sao? Chúng ta đi Tương Tác Doanh đi".
Kiếp trước khi đi làm thêm, không biết bao nhiêu lần bị người khác mắng rồi, chỉ vì vài câu nói của Phạm tướng quân sao có thể làm y suy sụp tinh thần được chứ?
Khánh Hoài quả thực rất nóng lòng muốn lên tiền tuyến để xem Thiết Lâm Quân đã bị tên khốn Hà Minh Khâm dày vò thành ra thế nào rồi, hắn lập tức cất bản đồ và đưa Kim Phi ra khỏi thư phòng.
Trình độ tôi luyện của Đại Khang còn hạn chế, vũ khí của binh lính có tỷ lệ sát thương rất cao, công việc chính của Tương Tác Doanh là sửa chữa vũ khí hư hỏng của binh lính.
Tương Tác Doanh cần lò luyện kim loại, vì vậy Tương Tác Doanh không đặt cùng chỗ với doanh trại quân đội, mà sẽ chọn một nơi an toàn để đóng trại.
Những vũ khí bị hư hỏng trong quân doanh sẽ được gửi đến hàng tháng, sau khi sửa xong sẽ được gửi trả về.
Tương Tác Doanh của Thiết Lâm Quân cách nhà Khánh Hoài không xa, không cần cưỡi ngựa, ra ngoài rẽ một cái là đã đến rồi.
Kể từ khi người Đảng Hạng bắt đầu xâm phạm biên giới, người ở thành phố Vị Châu ngày càng ít đi, những người có chút quan hệ đều đã đến Trang nguyên với người thân.
Đất không có giá trị, Tương Tác Doanh chiếm một diện tích lớn, tiếng đinh đinh vang lên không ngớt.
"Hầu gia, ngài cuối cùng đã trở lại!"
Khi giáo úy nhìn thấy Khánh Hoài, anh ta đã quỳ xuống vì phấn khích.
Trong thời gian Khánh Hoài vắng mặt, Tương Tác Doanh bị Hà Minh Khâm dày vò không ít.
"Đây là Kim tiên sinh. Sau này huynh ấy sẽ phụ trách Tương Tác Doanh. Tất cả các ngươi phải tuân theo mệnh lệnh của huynh ấy, nếu ai dám giở trò, đừng trách ta không niệm tình xưa!"
Khánh Hoài đẩy Kim Phi về phía trước: "Chung Ngũ, ngươi ở lại đây giúp tiên sinh, nếu có ai không tuân mệnh, giết tại chỗ”.
"Hầu gia, ngài yên tâm, chúng tôi sẽ phối hợp hết sức với Kim đại nhân".
Sau khi giáo úy trấn an Khánh Hoài, anh ta quay lại và quỳ lạy Kim Phi: "Thuộc hạ Lưu Dương tham kiến Kim đại nhân".
Kim Phi vẫn chưa quen với việc quỳ gối, vì vậy y đã đưa tay ra và kéo giáo úy lên: "Ta mong về sau Lưu đại nhân sẽ hỗ trợ ta".
"Kim đại nhân, chỉ cần dặn dò, tiểu nhân quyết không từ chối".
Giáo úy vỗ ngực bồm bộp.
"Vậy thì hãy kể cho ta nghe về Tương Tác Doanh trước đi".
Kim Phi thản nhiên nói.
"Tương Tác Doanh hiện có 30 quân phòng, 49 thợ thủ công, 72 tạp dịch, ba lò luyện sắt, và một lò sứ…"
Giáo úy còn chưa kịp giới thiệu xong thì đã bị Khánh Hoài cắt ngang: "Tương Tác Doanh xây lò sứ khi nào vậy?"
"Bẩm Hầu gia, bốn tháng trước, Hà tướng quân không biết nghe ai nói đất từ Tán Kim Cốc bên ngoài thành Vị Châu rất thích hợp để làm đồ sứ, nên đã ra lệnh cho thuộc hạ và Tương Tác Doanh xây lò sứ trong vòng một tháng ... "
Nói đến đây, giáo úy mắt ươn ướt: "Thuộc hạ không biết xây lò sứ như nào, cuối cùng cũng tìm được một lão sư, xây trễ một ngày, Hà tướng quân đã đánh thuộc hạ ba mươi roi, suýt nữa thì đánh chết thuộc hạ ... "
"Vớ vẩn, Tương Tác Doanh không lo tu sửa vũ khí, xây lò sứ làm cái gì? Đi tháo dỡ cho ta!"
Khánh Hoài rất tức giận với Hà Minh Khâm.
"Vâng!"
Giáo úy cũng đầy oán hận đối với cái lò sứ này, vừa đồng ý liền định đi gọi người đến tháo dỡ lò sứ.
"Chờ đã, đừng dỡ!"
Kim Phi nghe đến lò sứ hưng phấn vỗ đùi, nhanh chóng ngăn giáo úy đang chuẩn bị chạy đi.
Đây là bảo bối, không được dỡ.
"Cái này……"
Giáo úy nhìn Khánh Hoài rồi nhìn Kim Phi, vẻ khó xử.
Một người bảo phá, một người bảo không, nghe ai bây giờ?
Theo lý thuyết Khánh Hoài là chỉ huy tối cao của Thiết Lâm Quân, nên nghe hắn, nhưng quan to chưa chắc bằng quan gần, chưa kể Khánh Hoài cũng giải thích rằng Kim tiên sinh sẽ tiếp quan Tương Tác Doanh, anh ta cũng vừa đồng ý chỉ nghe lệnh Kim tiên sinh, giờ lại đổi giọng thì về sau làm ăn thế nào được nữa?
Làm thế nào bây giờ?
Chương 60: Địch đến rồi!
"Hầu gia, đừng phá lò sứ này được không, nói không chừng ta sẽ dùng đến nó đấy".
Kim Phi phát hiện giáo úy khó xử, nhanh chóng quay lại nhìn Khánh Hoài.
"Được".
Khánh Hoài chỉ không hài lòng với việc làm xằng bậy của Hà Minh Khâm mới ra lệnh phá bỏ lò sứ, nhưng Kim Phi đã nói là có tác dụng thì hắn sẽ không phá nữa.
Nhìn thấy Khánh Hoài gật đầu, cuối cùng tảng đá trong lòng giáo úy cũng được hạ xuống.
Trong lòng cũng coi trọng Kim Phi nhiều hơn.
Bởi vì anh ta biết Khánh Hoài là người nhất ngôn quân tử, cho dù thỉnh thoảng ra lệnh sai, hắn cũng sẽ không bao giờ rút lại lời.
Vậy mà vì Kim Phi, hắn đã thu hồi mệnh lệnh.
Đây đúng là lần đầu tiên.
“Lò này đã từng nung đồ sứ chưa?” Kim Phi hỏi.
“Có rồi, tổng có ba lần”, giáo úy trả lời.
"Thành phẩm có được không?"
“Người thợ lò già nói sản phẩm rất tốt, nhưng Hà tướng quân không bằng lòng nên không cho để, bảo bỏ rồi”.
"Các ngươi dùng cái gì để đốt, than củi hay than đá?"
"Than đá, thợ lò nói lò nói phải dùng than đá".
Giáo úy than thở: “Để có đống than này, ta đã mất rất nhiều thời gian để tìm được hơn chục xe, nhưng lại chỉ dùng có mấy xe, còn lại thì lại để kia”.
"Còn hơn chục xe than đá á?"
Kim Phi càng vui vẻ, cao hứng nói: "Mau đưa ta đi xem".
Giáo úy nhìn thoáng qua Khánh Hoài, thấy Khánh Hoài không hề phản đối nên nhanh chóng dẫn đường.
Lò sứ nằm ở góc tây bắc của trại, nhỏ hơn lò gạch do Kim Phi xây ở làng Tây Hà một chút, nhưng bố cục và cấu trúc hợp lý hơn.
"Chuyên nghiệp!"
Kim Phi kêu lên: "Lưu huynh, thợ lò mà huynh tìm ra là cao thủ đấy".
"Đại nhân gọi Lưu Dương là được rồi", giáo úy nói: "Đại nhân quả là có mắt nhìn. Gia đình người thợ lò già này đã đốt đồ sứ từ bao đời nay. Mấy năm trước, người Đảng Hạng xuôi về phương nam đã phá hủy đồ sứ của gia đình ông ấy, người thân trong nhà đều đã chết hết rồi, ông ấy trốn vào núi mới thoát được, ta phải đi tìm rất vất vả đấy".
"Vậy người thợ lò già đâu?"
Kim Phi hỏi.
Dù sao kiếp trước y cũng học chế tạo máy móc, chỉ có chút hiểu biết về nung đồ sứ, nhưng cũng không rành lắm, có thợ lò già giúp đỡ, y có thể đỡ được rất nhiều phiền phức.
“Lò sứ không được phép đốt, nên ta đã đưa thợ lò già vào nhóm tạp dịch, ông ấy đang giúp luyện sắt ở kia”, giáo úy đáp.
"Mau đi tìm ông ấy tới đây".
"Vâng!"
Giáo úy nhanh chóng chạy đi.
"Tiên sinh, có phải tiên sinh định dùng lò sứ này để luyện sắt không?"
Khi giáo úy chạy đi, Khánh Hoài hỏi.
"Hầu gia quả nhiên đã nhìn ra".
Kim Phi gật đầu cười.
Muốn luyện thép tốt thì nhiệt độ của lò luyện cần đạt ít nhất 1500 độ C. Với trình độ luyện sắt của Đại Khang, nhiệt độ lò luyện còn lâu mới bằng được.
Nhưng lò nung sứ gần như có thể đạt đến nhiệt độ này.
Chỉ là Đại Khang không có phương tiện đo nhiệt độ, ở trong mắt nhiều người, 800 độ cới 1000 độ hầu như cũng chẳng có gì khác nhau, đều có thể thiêu người thành tro.
Ngoài ra, rèn sắt và nung đồ sứ là hai ngành công nghiệp khác nhau, chưa ai nghĩ đến điều này.
Bao gồm cả Kim Phi, nếu không phải giáo úy nói về lò sứ, y cũng chẳng nhớ ra chuyện này.
"Trong trại có ba cái lò nung sắt, tại sao tiên sinh lại muốn dùng lò sứ?"
Khánh Hoài tò mò hỏi.
"Lửa trong lò sứ mãnh liệt hơn, nếu dùng nung sắt thì tốc độ chế tác dây sắt sẽ nhanh hơn".
Kim Phi không thể giải thích vấn đề nhiệt độ với Khánh Hoài, vì vậy y chỉ có thể nói vậy.
“Tiên sinh thấy nếu dùng lò sứ này thì mỗi ngày có thể làm bao nhiêu dây sắt?”, Khánh Hoài hỏi.
"Cái này rất khó nói. Trên thực tế, ta còn không chắc liệu lò sứ có thể luyện sắt hay không".
Kim Phi cũng là lần đầu tiên dùng lò sứ luyện sắt, cũng không dám nhiều lời: "Ta sẽ để cho lò sứ cùng ba cái lò luyện sắt kia đồng thời cùng hoạt động, nếu cái này không dùng được còn có cái kia".
"Như vậy cũng tốt".
Khánh Hoài gật đầu đồng ý.
Chẳng mấy chốc, giáo úy đã đem người thợ lò già đến.
Lò sứ cần tích nhiệt đạt nhiệt độ đủ cao, sứ sau khi nung xong phải đợi nguội mới có thể đi vào, nếu không nhiệt độ cao hơn 1.000 độ có thể thiêu người vào thành tro.
Tuy nhiên, việc làm dây sắt cần phải tiến hành ở trạng thái khối sắt đã nóng chảy, khi lò sứ đủ nguội mới cho vào thì khối sắt đã cứng lại rồi.
Vì vậy, phải xây lại lò sứ thì mới có thể luyện sắt được.
Kim Phi rất không muốn xây lò gạch, y lại càng không quen với lò sứ, muốn cải tạo cũng không biết phải ra tay từ đâu.
May mắn thay, người thợ lò có kinh nghiệm đã hiểu được kế hoạch của Kim Phi và đề xuất mở một cống thoát nước dưới đáy lò, để một khi sắt nóng chảy, nó có thể chảy ra ngoài qua cống.
Kim Phi cảm thấy đề nghị của thợ lò già rất đáng tin cậy, vì vậy y đã đề nghị giáo úy phân công mười tạp dịch đến giúp người thợ lò già cải tạo lò ngay trong đêm.
Khánh Hoài thấy Kim Phi đã bắt đầu công việc, vì vậy hắn vội vàng rời đi đến chỗ Thiết Lâm Quân.
Kim Phi cũng không đến tiễn hắn, trong khi tạp dịch đang vận chuyển sắt và than vào lò gạch, y đã đi thăm những chỗ còn lại ở Tương Tác Doanh.
Điều làm y thất vọng là, lò luyện sắt được sử dụng cho trại cũng rất thô sơ, phải cải tạo mới có thể luyện sắt được.
May mắn thay, phần thân chính có thể được sử dụng, chỉ cần cải tạo thiết bị hút khói và ống thổi là được. Mặc dù nó không thể theo kịp lò ở nhà, nhưng cũng sẽ dùng được.
Nhưng nếu phải xây lại, Kim Phi không phải là thất vọng, mà là tuyệt vọng.
Biết rằng tình hình trên tiền tuyến rất nguy cấp, Kim Phi yêu cầu giáo úy chia các tạp dịch thành hai ban, một ban bắt đầu cải tạo lò luyện sắt trong đêm.
Để Mãn Thương, người có kinh nghiệm tu bổ, giám sát công việc, Kim Phi lại đến lò sứ để kiểm tra tiến độ công việc.
Sau khi làm việc đến nửa đêm, Kim Phi mới đi ngủ.
Sau khi tỉnh dậy, Chung Ngũ, người đang canh cửa, nói với y rằng buổi trưa Khánh Hoài đã đến.
“Hầu gia có chuyện gì sao?”, Kim Phi hỏi.
"Không có chuyện gì, chỉ là điều lệnh của Bôn Kinh đã đến, Hầu gia đến tìm Phạm tướng quân đổi văn thư liền đến tìm tiên sinh, thấy tiên sinh đang ngủ đã đi rồi".
"Lần sau Hầu gia trở lại, nhớ đánh thức ta".
Kim Phi dặn dò một câu nhưng cũng không để ý lắm.
Nếu Khánh Hoài có chuyện quan trọng, nhất định sẽ đánh thức y.
Sau khi ăn vội chút gì đó, Kim Phi lại đi vào xưởng.
Lần đầu tiên Mãn Thương chỉ huy nhiều người làm việc như vậy, hắn hưng phấn đến mức cả đêm không ngủ, vừa thấy Kim Phi đi tới liền nhanh chóng chạy tới với hai con mắt gấu trúc.
"Sao thế?"
Kim Phi hỏi.
"Mọi chuyện diễn ra tốt đẹp. Tương Tác Doanh có rất nhiều người và dụng cụ. Ước chừng tối nay là có thể làm xong".
“Vậy là tốt rồi”, Kim Phi gật đầu: “Ngươi cũng về nghỉ ngơi sớm đi, sắp tới còn có nhiều việc phải làm, đừng có vừa đến đã mệt mỏi”.
“Được”, Mãn Thương đồng ý, nhưng trên mặt vẫn chưa có dấu hiệu muốn về ngủ.
Sau khi Mãn Thương rời đi, Kim Phi lại đến lò sứ.
Trong lò có thợ lò già quản lý, việc cải tạo tiến hành rất thuận lợi, ước chừng buổi tối có thể đưa quặng sắt vào lò.
"Hy vọng kịp".
Kim Phi thầm cầu nguyện trong lòng.
Nhưng vừa cầu nguyện xong, y nhìn thấy một con ngựa chiến đang phi nước đại, mang theo Trịnh Phương, người bê bết máu.
Khi đến bên Kim Phi, Trịnh Phương từ ngựa ngã xuống.
"Tiên sinh ... người Đảng Hạng đến rồi!"