Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 2-8
Erich và tôi không liệt kê ra từng trường hợp một. Chúng tôi không quá lạnh nhạt như thế. Chúng tôi chỉ nêu ra những điểm nổi bật, nhưng nhấn mạnh thật rõ ràng – một cách vui vẻ - vào những khoái lạc chúng tôi đã tự phủ nhận. Cầm ly rượu bằng ngón tay dài, Erich cau mày nói: “Tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến việc làm tình với những người lạ. Chưa bao giờ. Tôi đã gặp khá nhiều đàn ông làm việc trong các quán bar, và tôi, anh biết đấy, về nhà với vài người trong số họ, nhưng thực sự tôi chưa bao giờ thực hiện việc đó cho trọn vẹn. Tôi cũng đã thử đến các nhà tắm, nhưng chúng chỉ làm tôi thấy sợ. Tôi chỉ vào tắm hơi rồi đi về nhà.” Sau một lúc ngừng, anh nói thêm: “Để thủ dâm” và cười đau khổ, trán anh gần như tím tái đi.
Dù ngồi cùng nhau trong chiếc sofa khổng lồ đó, nhưng chúng tôi không chạm vào nhau. Mỗi người chiếm lấy một quầng sáng riêng cho mình. Sự dè dặt này là tiêu chuẩn của chúng tôi, được thể hiện một cách rõ rệt khi chúng tôi nói chuyện về những mối tình mà chúng tôi cầu mong chúng sẽ không biến thành tai họa. Trong những lúc bình thường, chúng tôi luôn duy trì một khoảng cách với nhau. Bất cứ ai trông thấy chúng tôi đi trên phố cùng nhau cũng có thể cho rằng chúng tôi là những người bạn chung phòng hồi học đại học, tuy đang dần xa cách nhưng vẫn không chịu chính thức tuyên bố rằng mối thân tình trước đây giữa chúng tôi đã hết. Chỉ những khi ở nhà, cùng khỏa thân, chúng tôi mới trở nên thân mật. Trên giàn âm thanh, Coltrane đang chơi bản A love supreme.
“Điều nực cười là,” tôi nói, “tôi thường thấy có lỗi vì đã không mạo hiểm hơn. Tôi thường nghe những người đàn ông khác nói về việc họ thay đổi bạn tình bốn lần trong một đêm như thế nào và tôi đã nghĩ: “Mình là kẻ đồng tính kiềm chế nhất từ trước tới giờ.” Ý tôi là, đối với hầu hết những anh chàng mà tôi đi cùng, tôi biết có thể tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ. Nhưng tôi luôn cảm thấy rằng có lẽ tôi muốn gặp họ lần nữa, như thể trong chừng mực nào đó chúng tôi có thể yêu nhau. Dù chúng tôi chưa bao giờ như thế.”
Erich nhìn vào ly rượu vang của mình và lẩm bẩm gì đó.
“Hả?”
Anh nói: “Ừm, anh có nghĩ rằng chúng ta, anh biết đấy, đang yêu nhau không?”
Tôi chưa từng thấy ai bẽn lẽn như thế. Mặt anh đỏ bừng lên, và ly rượu vang của anh sóng sánh.
Tôi tin rằng tôi biết anh muốn gì. Anh muốn được yêu. Cuộc sống quả thật khủng khiếp. Danh tiếng vẫn từ chối không đến với anh bất chấp những nỗ lực liên tục của anh, và cái tương lai mà chúng tôi đang kì vọng có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào bởi một cơn ho dai dẳng, hay một vết hoa gấm tim tím trên ống chân.
“Không,” tôi nói. “Tôi thích anh. Nhưng không phải là yêu.”
Anh gật đầu. Anh không nói gì.
“Anh yêu tôi à?” Tôi hỏi, dù đã biết câu trả lời. Anh chỉ khao khát muốn yêu ai đó. Tôi là kẻ phù hợp với những yêu cầu căn bản về tuổi tác, chiều cao và cân nặng. Nhưng anh không khao khát bản thân tôi. Không hẳn.
Anh lắc đầu. Chúng tôi ngồi một lúc trong im lặng, rồi tôi giơ tay ra và cầm lấy tay anh. Tôi phải tỏ ra dịu dàng với anh vì tôi ghét anh, vì tôi muốn quát mắng anh bởi anh chỉ là một người bình thường, bởi anh không thể thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi cũng cảm thấy sợ nữa. Tôi cũng muốn yêu. Tôi vuốt ve bàn tay Erich. Chiếc máy quay đĩa, được đặt ở chế độ lặp lại, bắt đầu phát lại đĩa hát của Coltrane. Erich định cười, nhưng đành nén lại với một hớp rượu dài.
Đáng ra tôi phải giết anh, dù tội lỗi duy nhất của anh chỉ là thiếu tập trung và kém nhanh nhạy. Đáng ra tôi phải dùng dĩa xiên vào trái tim anh vì anh là một kẻ kém cỏi, bị hoàn cảnh xô đẩy đến với một vai diễn mà anh chưa đủ trình độ để thực hiện. Tôi không thể phủ nhận rằng: tôi nghĩ mình xứng đáng có được nhiều hơn thế.
Chúng tôi đứng dậy và đi lên giường mà không nói năng gì. Đó là việc làm tự nguyện duy nhất của chúng tôi – thường thì chúng tôi hay giải thích cho những hành động đơn giản nhất bằng quá nhiều chi tiết. Những đêm đó chúng tôi chỉ cầm lấy ly rượu, không nói năng gì mà đi lên giường của anh, cởi quần áo và nằm xuống, trong vòng tay nhau.
“Đây là những thời điểm đáng sợ,” tôi nói.
“Đúng. Đúng như vậy.”
Chúng tôi nằm một lúc mà không bàn luận gì về lần làm tình gần đây nhất của chúng tôi – về việc chúng tôi không hề dùng đến những biện pháp đề phòng. Giờ có muốn bảo vệ bản thân khỏi người kia thì cũng đã quá muộn. Chẳng có sự giải thích nào có lý hơn việc ngay từ bốn năm về trước, khi chúng tôi gặp nhau, căn bệnh có vẻ chỉ xảy ra với những loại người khác. Dĩ nhiên chúng tôi đã biết về nó. Dĩ nhiên chúng tôi đã sợ. Nhưng không người quen nào của chúng tôi bị mắc bệnh đó cả. Chúng tôi đã cố tin rằng nó chỉ xảy ra với những người đàn ông có máu loãng bởi dùng quá nhiều ma túy, hay những người ngủ với một tá người khác nhau mỗi đêm. Erich có một bộ sưu tập những đĩa nhạc hay, và những bức ảnh đóng khung của những người anh chị em gầy gò đang đứng tạo dáng bên hồ, trong một căn phòng khách trang trí giấy dán tường, và bên cạnh một chiếc xe Camaro đỏ hào nhoáng. Anh kể về những lần đi thử vai, và nhắc đến việc tìm kiếm một công việc tốt hơn. Anh có vẻ quá bận rộn, chưa sẵn sàng đón nhận một cái chết sớm. Tôi không thể biết được anh giải quyết ra sao với cái phương trình đó trong đầu, vì đây có vẻ không phải là một cuộc trò chuyện mà chúng tôi có thể kéo dài. Thay vào đó, chúng tôi ôm nhau thật lâu trong im lặng. Rồi, với một sự hấp dẫn mới, chúng tôi làm tình khi đĩa của Coltrane cứ lặp đi lặp lại.
Vài ngày sau, Bobby kể cho tôi nghe về chuyện của cậu và Clare. Trước đó, tôi đã đến thăm Arthur ở bệnh viện. Bệnh viêm phổi của anh đang đỡ nhiều – anh đã tỏ ra lạc quan về tương lai, và tin chắc rằng việc ngừng uống rượu và chấp nhận một chế độ ăn lành mạnh sẽ cải thiện hoàn toàn sức khỏe của anh. Mặc dù vẫn còn có việc quan trọng cần làm ở văn phòng, nhưng tôi cũng chẳng thiết tha gì đến nó. Thay vào đó tôi đi về nhà, để dành buổi tối hôm đó với Bobby và Clare.
Khi tôi về, họ đang cùng nhau nấu bữa tối trong bếp. Căn bếp của chúng tôi chỉ bé bằng cái bốt điện thoại công cộng, khó mà vừa chỗ cho hai người, nhưng không hiểu sao họ vẫn lèn vào được. Từ phòng khách, tôi nghe thấy tiếng cười của Clare. Bobby nói: “Em phải, ờ, dịch mông sang một chút nếu không anh không thể lấy cái này ra khỏi lò được.”
Tôi gọi: “Chào các cưng.”
“Jonathan,” Clare nói với giọng vui vẻ, thánh thót. “Ôi, Chúa ơi, cậu ấy về rồi.”
Có vẻ họ đã cùng cố chen nhau để ra khỏi bếp một lúc, và bị mắc kẹt. Tôi lại nghe thấy tiếng cười, và một tiếng làu bàu của Bobby. Clare vào phòng khách trước. Chị mặc cái áo bowling màu vàng, với một chuỗi hạt thủy tinh màu đỏ. Bobby theo sau, mặc áo phông và quần jean màu đen.
“Chào cưng,” Clare nói. “Ngạc nhiên quá. Tòa soạn bị thiêu trụi rồi à?”
“Không, chỉ vì em nhớ hai người thôi. Đêm nay em muốn nghỉ ngơi. Hai người muốn đi chơi bowling hay thứ gì đó không?”
Clare hôn lên má tôi, Bobby cũng làm thế.
“Bọn mình đang làm, ờ, thịt gà và bánh quy,” cậu nói.
“Không hề giống với những gì mà các bà mẹ của chúng ta làm,” Clare thêm vào. “Tôi không biết chỗ cậu thế nào, chứ ở quê tôi, chúng tôi chỉ mua đồ ăn sẵn khi nấu nướng ở nhà. Món thịt gà với nước xốt kem có vẻ được coi là quá kì cục và xa lạ.”
“Mẹ của Jon là một đầu bếp tuyệt vời,” Bobby bảo chị. “Bà không bao giờ mua, em biết đấy, đồ đông lạnh. Hay đồ hộp cả.”
“Phải,” Clare nói. “Và bà hãy tự lặn xuống biển để mò tìm ngọc trai và tự bẫy những con chồn vizon cho mình. Jonathan, cưng ơi, cậu muốn uống cocktail không?”
“Có chứ,” tôi nói. “Chúng ta làm một bình martini nhé?”
Dạo này chúng tôi bắt đầu thích uống martini. Chúng tôi đã mua ba chiếc ly, và cất những hộp ôliu xanh trong tủ lạnh.
“Tuyệt,” Bobby nói. “Chúng ta có thể, ừm, uống mừng.”
“Cậu hiểu mình đấy. Mình sẽ uống mừng cho bất cứ điều gì. Có phải là ngày Guy Fawkes[52] hay ngày gì nhỉ?”
[52] Lễ kỉ niệm hằng năm tổ chức vào tối ngày mồng 5 tháng Mười một để đánh dấu sự thất bại trong vụ mưu sát vua James I của Anh và VI của Scotland của một nhóm tín đồ Công giáo Anh vào ngày 5 tháng Mười một năm 1605.
“Ờ,” Bobby nói. Cậu cười với vẻ bối rối thực sự.
“Có gì đó đặc biệt hơn cần được uống mừng hay sao?” Tôi hỏi.
“Tôi sẽ đi làm Martini,” Clare nói. “Hai người đợi ở đây nhé?”
Chị trở lại bếp. “Sao thế, anh bạn?” Tôi hỏi Bobby khi chỉ còn lại hai người chúng tôi.
Cậu vẫn cứ cười và nhìn xuống sàn nhà như thể cậu trông thấy những bí mật được in trên thảm. Bobby không có khả năng giấu giếm điều gì. Cậu có thể không trả lời một câu hỏi, nhưng không thể nói dối. Tôi không biết liệu đó có là do sự trung thực hay chỉ đơn giản là do cậu thiếu khả năng tưởng tượng. Đôi khi hai thứ đó quá gần gũi đến nỗi không thể nào phân biệt nổi.
“Jonny,” cậu nói. “Clare và mình…”
“Clare và cậu làm sao?”
“Bọn mình đã bắt đầu… bọn mình đã… Cậu biết đấy.”
“Không. Mình có biết đâu.”
“Có, cậu biết mà.”
“Ý cậu là hai người đã ngủ với nhau?” Tôi nói.
Cậu ngước mắt lên, nhưng không thể nhìn vào mắt tôi. Cậu cười nhăn nhó, với niềm vui bị kìm nén thấy rõ, như thể cậu đang đợi tôi nhận ra là tôi đã quên mặc quần.
“Ừm,” một lúc sau cậu nói. “Ôi, Jonny. Bọn mình, ờ, đang yêu. Ngạc nhiên không?”
“Có. Thực là ngạc nhiên.”
Tôi đã không nghĩ rằng giọng mình lại lạnh lùng và tức tối như thế. Tôi đã định đáp lại với giọng dứt khoát nhưng thân mật – để bày tỏ thái độ của mình trước chuyện tình vô lý này. Khi nghe thấy giọng nói của tôi, Bobby nhìn tôi ngần ngại, nụ cười của cậu nhạt dần.
“Jon,” cậu nói. “Bây giờ bọn, ờ, đã là một gia đình thực sự rồi.”
“Gì cơ?”
“Ba người chúng ta. Chúa ơi, cậu không thấy điều đó tuyệt vời thế nào sao? Ý mình là, ờ, giờ thì cả ba người chúng ta đều đang yêu.”
Clare bước ra với chiếc khay đựng những ly martini vốn đã trở thành một phần trong nghi thức uống cocktail của chúng tôi. Cái khay đó là một món đồ lưu niệm cũ méo mó của Nam California, có hình những quả cam giấy bìa carton và những người đẹp đang thơ thẩn đi dạo trên một bãi biển màu xanh ngọc với vẻ mặt thẫn thờ, thất vọng.
“Anh đã kể với cậu ấy rồi,” Bobby tự hào nói.
“Vậy là anh đã làm như anh nói.” Chị nhìn tôi với vẻ vừa giễu cợt vừa ngần ngại. “Của cậu đây, Jonathan. Uống đi nào.”
“Thật không?” Tôi hỏi chị.
“Về chuyện giữa Bobby và tôi à? Thật. Tôi nghĩ bọn tôi đang tuyên bố chính thức đây.”
Bobby cầm lấy một chiếc ly trên khay và nâng lên. “Vì gia đình chúng ta,” cậu nói.
“Ôi, thực sự thì, Bobby,” Clare nói. “Vì Chúa. Anh và em đang ngủ cùng nhau.” Chị quay sang tôi và nói: “Tôi và anh ấy đã ngủ cùng nhau.”
Tôi hớp một ngụm martini của mình. Tôi biết tôi cần phải có cảm giác như thế nào: hân hoan trước thói quen xuất hiện bất ngờ của tình yêu và khả năng làm thay đổi những điều thường nhật của nó. Thay vào đó, tôi lại cảm thấy lạnh nhạt và trống rỗng, như cát đang rơi xuống hố cát. Tôi cố tạo ra sự vui vẻ cần thiết. Tôi nghĩ nếu tôi giả vờ đủ khéo, tôi có thể bù lại cho sự lạnh nhạt ban nãy.
“Không thể tin được,” tôi nói. “Chuyện này diễn ra bao lâu rồi? Đó là tên một bài hát, đúng không? Một trong những rắc rối của tình yêu là, ta không thể nhắc đến nó mà không cảm thấy như mình đang liên tưởng đến những bài hát cũ.”
“Mới được vài ngày,” Clare nói. “Chúng vẫn muốn nói với cậu về chuyện này, nhưng có vẻ đây là điều không nên đưa ra trong những cuộc trò chuyện thông thường.”
Tôi gật đầu và trừng trừng nhìn chị. Không ai trong chúng tôi tin vào những gì chị vừa nói. Chúng tôi đều biết rằng chị và Bobby, dù có cố tình hay không, đã giấu giếm tình yêu của họ với tôi vì họ nghĩ họ có lý do để giấu nó.
“Nếu bây giờ chúng ta có con thì sao nhỉ?” Bobby nói. “Cả ba người chúng ta ấy.”
“Bobby,” Clare nói, “làm ơn im đi. Xin hãy ngậm miệng lại.”
“Hai người vẫn muốn có con mà, đúng không? Hai người đang bàn về việc đó còn gì. Nếu ba người chúng ta có một đứa con thì sao nhỉ? Hay là nhiều hơn?”
“Chắc chắn rồi,” tôi nói. “Hãy sinh sáu đứa đi. Chẵn nửa tá.”
“Hãy xem liệu đến Giáng sinh chúng ta có còn chịu đựng được nhau không đã,” Clare nói.
“Chà, chúc mừng cặp đôi hạnh phúc,” tôi nói, nâng ly lên.
Chúng tôi cùng uống mừng cho cặp đôi hạnh phúc. Tôi nói: “Mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Giờ thì rõ ràng nó đã xảy ra rồi. Nhưng thực sự thì, Bobby à, khi cậu đến đây, mình không bao giờ nghĩ rằng cậu và Clare…”
“Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ thế,” Clare nói.
“Tốt hơn là hãy kể cho mình nghe nó xảy ra như thế nào,” tôi nói. “Mọi chi tiết, dù là riêng tư nhất.”
Chúng tôi cạn ly và uống thêm một lượt nữa, khi Clare kể chuyện, còn Bobby thỉnh thoảng chêm vào những lời thanh minh qua quýt. Không như Bobby, Clare có thể khéo léo thêm thắt vào câu chuyện đến nỗi đôi khi chị quên mất ranh giới giữa những lời cường điệu và cái sự thật chẳng có gì kịch tính. Chị không phải là kẻ vụ lợi. Trái lại, chị chỉ chọn cách mô tả mình một cách chân thực nhất. Chị thường xuất hiện trong những câu chuyện của mình như một nhân vật hơi kì cục, ngây thơ, dễ bị mắng mỏ như Lucy Ricardo[53] và hay gặp rủi ro, tận tụy đến mù quáng như gã ngốc trong phim Con đường. Chị luôn cường điệu sự thật – những lời nói đối với chị là những lời phóng đại, chứ không phải bịa đặt. Chị tả lại cuộc đời mình trong một thế giới kì dị, khôi hài, tuy thích hợp với chị nhưng vẫn tồn tại ở một khoảng cách sâu thẳm so với thế giới nội tâm chứa đầy những ký ức về sự bạo hành và một ký ức hoang mang về những khả năng bị giới hạn của chị.
[53] Nhân vật trong bộ phim hài kịch tình huống I love Lucy (Tôi yêu Lucy) của Mỹ.
Clare nói: “Về cơ bản. Mẹ đã quyết định dạy cho Junio một bài học về cuộc đời. Và, ừm, tôi nghĩ rằng Mẹ cũng hơi mất tự chủ một chút. Tôi không biết những cô gái cùng chơi bowling với tôi sẽ nói gì về chuyện này.”
“Họ sẽ không thích đâu,” tôi nói. “Có lẽ họ sẽ bắt chị phải treo giày dấy.”
“Ôi, chú Jonny. Tôi đã ngoan quá lâu rồi. Tôi nghĩ có thể tôi đã không chịu được thêm nữa.”
“Chà, ông chú này không nói gì được nữa rồi. Ngạc nhiên quá.”
“Đúng vậy,” chị nói.
Với sự vui vẻ quá đỗi, Bobby đưa tay ra nhéo khuỷu tay trần của chị. Những đầu ngón tay cậu in dấu mờ mờ trên cánh tay mịn màng đó. Tôi bỗng nghĩ đến một hình hoặc của họ khi về già: Clare, một bà già lập dị, phê ma túy, đội một cái mũ kì cục và trang điểm quá đậm, đang kể chi tiết về chuyện tình của mình, trong khi Bobby, hói đầu và bụng phệ, ngồi bẽn lẽn bên cạnh, lẩm bẩm: “Ôi, Clare.” Bản thân chúng tôi sẽ trở thành những câu chuyện để chúng tôi có thể kể cho nhau nghe.
“Tôi nghĩ đây chính là kết thúc của gia đình Henderson mà chúng ta vẫn biết,” chị nói.
“Đúng, em cũng nghĩ thế.”
Một trạng thái ngại ngùng bỗng dưng ập đến, khiến chúng tôi cứ đứng như thế một lúc, như thể chúng tôi là những bị khách bị một người bạn chung bỏ lại bên nhau. Bobby nói: “Bữa tối sắp xong rồi đấy. Cậu có muốn, ờ, ăn gì đó không?”
Tôi nói là tôi cũng đã thấy đói, vì ngoài việc ăn thì tôi cũng chẳng biết phải làm gì tiếp theo. Đầu tôi có vẻ trôi nổi đâu đó phía trên cơ thể. Vì rượu gin đã ngấm nên tôi cảm thấy những cảm xúc của mình giống như sóng radio được cái đầu đã lìa khỏi thể xác đó phát ra. Tôi thấy tức giận và ghen tỵ. Tôi muốn Bobby. Mặt khác, tôi cũng muốn Clare.
Chúng tôi ăn tối, và nói về những chuyện linh tính khác. Sau bữa ăn, chúng tôi đi xem phim Những tên trộm như chúng ta ở rạp Thalia. Trong mấy năm qua, Clare và tôi đã xem bộ phim đó vài lần, nhưng chị cứ nhất định đòi Bobby cũng phải xem. “Nếu đột nhiên chúng ta là một thứ gì đó,” chị nói, “tôi muốn ít nhất anh ấy cũng phải xem vài bộ phim cơ bản.” Trong suốt buổi chiếu, chị thủ thỉ với cậu và nhấn mạnh những ý kiến của mình bằng cách nhéo vào đầu gối cậu. Chị đã sơn móng tay màu hồng rực, nó ánh lên ngay cả trong bóng tối của rạp chiếu phim.
Tôi từ chối đi uống rượu sau khi xem xong phim, dù chúng tôi đã hình thành thói quen kết thúc những buổi tối bên nhau ở một quán bar, bất kể lúc đó đã muộn thế nào. Clare sờ tay lên trán tôi và hỏi: “Cưng ốm à?” Tôi bảo rằng không, tôi chỉ thấy mệt và sẽ phải có mặt ở văn phòng vào sáng sớm mai để làm bù những việc mà tôi chưa làm tối nay. Bobby và Clare nói họ sẽ về nhà với tôi, nhưng tôi bảo họ cứ đi uống một mình. Tôi hôn cả hai người. Khi tôi về nhà, bầu trời quá trong trẻo và lạnh giá. Chòm Đại Hùng Tinh hiện lên rõ rệt qua những ánh đèn của Manhattan, nằm chênh chếch phía trên mái của trường Cooper Union. Không gian lạnh lẽo rạng rỡ quanh những ánh đèn cửa sổ. Ngay cả trong một đêm như thế, những cậu bé có đôi mắt đờ đẫn vẫn đi trên phố với những chiếc radio hình chữ nhật màu đen, tiếng nhạc của chúng bị loãng đi trong cái lạnh.
Về đến nhà, tôi cuộn chiếc túi ngủ của Bobby lên và cất vào tủ. Tôi biết rằng, từ giờ, cậu sẽ ngủ ở phòng của Clare. Tôi tự làm cho mình thêm một ly martini để uống trước khi ngủ. Tuyết bắt đầu lấp lánh rơi, những bông tuyết lả lướt trông chẳng khác gì không khí bị nén thành những viên màu xám. Tôi uống martini trong phòng mình, và hình dung ra cảnh Bobby và Clare đang bắt đầu xây dựng một tương lai cùng nhau. Họ là một cặp không hợp nhau lắm. Có lẽ họ sẽ cùng nhau chạm đến giới hạn của sự khác thường, và chuyện tình của họ sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Nhưng có thể, chỉ là có thể, mọi chuyện sẽ không như thế. Nếu họ vẫn ở bên nhau, do sự hấp dẫn kết hợp với tính cố chấp và may mắn rõ rệt, họ sẽ có được một tổ ấm. Có lẽ họ sẽ có con. Họ sẽ có những công việc bình thường và thấy mình đẩy một cái xe hàng qua các dãy hàng sáng ánh đèn huỳnh quang của một siêu thị. Họ sẽ có tất cả những điều tương tự như thế.
ALICE
Ned và tôi đã chuyển khỏi ngôi nhà thân thuộc mà chúng tôi tự dựng lên cho mình để đến sống trong một ngôi nhà mới ở sa mạc Arizona, theo những yêu cầu của bác sĩ. Chúng tôi đã mua một căn hộ chung cư có diện tích chưa bằng một nửa ngôi nhà cũ, trong một tổ hợp không thỏa mãn sự mong đợi của những người chủ công trình. Gần một nửa số căn hộ vẫn còn trống không sau ba năm được xây xong, và những chuỗi cờ đuôi nheo nhiều màu sắc, một vài cái đã rách, vẫn lòe loẹt kết thành dây hoa ở các cổng vào. Những tòa nhà được trang trí như những ngôi làng của người Da đỏ, những bức tường bê tông lốm đốm màu bùn đỏ và có những đầu cọc nhô ra bên trên những ô cửa sổ khung nhôm. Chúng tôi có thể dễ dàng mua được một căn hộ một phòng ngủ, dù túi tiền của chúng tôi hơi eo hẹp. Căn nhà và rạp chiếu phim không bán được nhiều tiền.
“Hacienda Glover,” Ned gọi nó thế. Và, khi tâm trạng u ám hơn, anh gọi nó là “Con đường Thuốc lá, 1987.”
Anh không cho phép bản thân bộc lộ nhiều vẻ buồn rầu hay bi quan. Có lẽ anh không thể làm thế. Những cảm xúc được anh thể hiện ra chỉ biến thiên từ sự chấp nhận miễn cưỡng đến sự bất đồng ôn hòa, và khi tôi giã biệt căn bếp ở Cleveland và cây lê trong sân sau, tôi nhận ra rằng tôi đã luôn có ý định, một cách mơ hồ, rời bỏ anh. Hay, đúng hơn thì, tôi đã nuôi ý định một ngày nào đó sẽ hưởng thụ cuộc sống nằm ngoài cái hài kịch gia đình êm đềm của chúng tôi, với sự vui vẻ thân mật trong những bữa ăn tối và những giấc ngủ trong lành, không mộng mị. Rắc rối trong một cuộc hôn nhân bình lặng là nó không chịu rạn nứt – sự bất công hay tàn nhẫn không bao giờ tạo nên một khe hở để qua đó bạn có thể thản nhiên bước vào một lối sống khác. Bạn sống trong những chi tiết sau: một căn bếp được sắp xếp theo ý bạn, những quả cà chua chín đỏ trên những cành dây leo mà bạn đã tự tay đóng cọc và buộc chặt. Giờ Ned đang ốm, và buộc phải đến một nơi anh lạ, thế nên tôi không thể tập trung được sự giận dữ hay tính tư lợi cần thiết để bỏ mặc anh đến đó một mình. Khi tôi xếp những con dao vào một cái hộp carton, tôi cứ suy ngẫm về tỷ lệ ly hôn đang gia tăng tại sao lại có quá nhiều người làm được như thế nhỉ? Những bộ phim và những cuốn tiểu thuyết từ thời thơ ấu không chuẩn bị đầy đủ cho vài người trong số chúng tôi những ấn tượng về gia đình tương lai của mình, chúng tôi không được báo trước về sức quyến rũ của những ô cửa sổ phòng khách quay mặt về hướng nam, hay những bông thục quỳ men theo một bộ cửa ra vào kiểu Pháp.
Và giờ đây, Ned và tôi đang tháo rời nó, như thế đó, vì phổi anh không thể chịu được không khí Ohio ẩm ướt. Không ngờ việc này lại khá dễ dàng. Chúng tôi kê khai tài sản với một phụ nữ trang điểm đậm và mặc quần kiểu võ sĩ đấu bò. Cô ta mất chưa đầy một tháng để bán nó với giá phải chăng cho một cặp lập trình viên máy tính còn trẻ, sẵn sàng đầu cơ vào một khu vực không biết là trong tương lai có phát triển hay không. Rạp chiếu phim sẽ bị phá dỡ để làm khu đỗ xe. Chưa đầy tám tháng sau lời khuyên của bác sĩ, chúng tôi đã đến sống ở một nơi mà tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ là sẽ tới thăm.
Sa mạc có một vẻ đẹp thật hoang dã, với sự kết hợp kì cục giữa vẻ trống vắng và tầm quan trọng cùng bầu trời nóng nực cao vời vợi. Từ lúc đóng bản giao kèo cho đến ngày chúng tôi dọn đến đây, cây xương rồng trước căn hộ của chúng tôi đã nở một bông hoa màu ngà duy nhất, như thể nó đang đội một cái mũ ngông cuồng. Vài điều định mệnh quả thực vô cùng khó chịu. Vì thế, tốt hơn là chúng ta nên tránh khỏi chúng. Ned và tôi bắt tay vào sắp xếp những căn phòng nhỏ bé sơn màu trắng, treo những tấm rèm và móc những cái xoong chảo bằng đồng lên tường bếp mới, nơi chúng sáng bóng lên trong ánh nắng sa mạc. Tôi nhận ra nơi này sẽ không bao giờ mang vẻ quen thuộc. Thực sự nó đang cố khoác lấy cái đặc tính đó ngay khi chúng tôi bàn bạc về việc sắp xếp bàn ghế và tranh ảnh. Ned thân mật ôm tôi khi chúng tôi ngừng tay. Anh giữ lấy vai tôi một cách dịu dàng, chắc chắn như anh đã từng làm hồi còn là người đàn ông hai mươi sáu tuổi, khi tôi chui vào trong chiếc xe mui trần cùng anh và được anh đưa đến nhánh sông Louisiana. Anh nói: “Sẽ không tệ lắm đâu. Em nghĩ sao, bé con?”
Tôi bảo anh rằng rồi mọi chuyện sẽ ổn, và tôi cảm thấy đó không phải là một lời nói dối. Chúng tôi là những sinh vật dễ thích nghi. Đó là nguồn gốc cho sự thoải mái trên đời này và, tôi cho rằng, cả cơn thịnh nộ âm thầm của chúng tôi nữa. Ned ôm tôi ở nơi sẽ là căn phòng khách mới. Những chiếc rèm quen thuộc đã được vén lên, và ngoài kia là một phong cảnh hoang vắng đáng yêu mà một lữ khách không được bảo vệ sẽ không thể chịu nổi quá một ngày.
Dù ngồi cùng nhau trong chiếc sofa khổng lồ đó, nhưng chúng tôi không chạm vào nhau. Mỗi người chiếm lấy một quầng sáng riêng cho mình. Sự dè dặt này là tiêu chuẩn của chúng tôi, được thể hiện một cách rõ rệt khi chúng tôi nói chuyện về những mối tình mà chúng tôi cầu mong chúng sẽ không biến thành tai họa. Trong những lúc bình thường, chúng tôi luôn duy trì một khoảng cách với nhau. Bất cứ ai trông thấy chúng tôi đi trên phố cùng nhau cũng có thể cho rằng chúng tôi là những người bạn chung phòng hồi học đại học, tuy đang dần xa cách nhưng vẫn không chịu chính thức tuyên bố rằng mối thân tình trước đây giữa chúng tôi đã hết. Chỉ những khi ở nhà, cùng khỏa thân, chúng tôi mới trở nên thân mật. Trên giàn âm thanh, Coltrane đang chơi bản A love supreme.
“Điều nực cười là,” tôi nói, “tôi thường thấy có lỗi vì đã không mạo hiểm hơn. Tôi thường nghe những người đàn ông khác nói về việc họ thay đổi bạn tình bốn lần trong một đêm như thế nào và tôi đã nghĩ: “Mình là kẻ đồng tính kiềm chế nhất từ trước tới giờ.” Ý tôi là, đối với hầu hết những anh chàng mà tôi đi cùng, tôi biết có thể tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ. Nhưng tôi luôn cảm thấy rằng có lẽ tôi muốn gặp họ lần nữa, như thể trong chừng mực nào đó chúng tôi có thể yêu nhau. Dù chúng tôi chưa bao giờ như thế.”
Erich nhìn vào ly rượu vang của mình và lẩm bẩm gì đó.
“Hả?”
Anh nói: “Ừm, anh có nghĩ rằng chúng ta, anh biết đấy, đang yêu nhau không?”
Tôi chưa từng thấy ai bẽn lẽn như thế. Mặt anh đỏ bừng lên, và ly rượu vang của anh sóng sánh.
Tôi tin rằng tôi biết anh muốn gì. Anh muốn được yêu. Cuộc sống quả thật khủng khiếp. Danh tiếng vẫn từ chối không đến với anh bất chấp những nỗ lực liên tục của anh, và cái tương lai mà chúng tôi đang kì vọng có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào bởi một cơn ho dai dẳng, hay một vết hoa gấm tim tím trên ống chân.
“Không,” tôi nói. “Tôi thích anh. Nhưng không phải là yêu.”
Anh gật đầu. Anh không nói gì.
“Anh yêu tôi à?” Tôi hỏi, dù đã biết câu trả lời. Anh chỉ khao khát muốn yêu ai đó. Tôi là kẻ phù hợp với những yêu cầu căn bản về tuổi tác, chiều cao và cân nặng. Nhưng anh không khao khát bản thân tôi. Không hẳn.
Anh lắc đầu. Chúng tôi ngồi một lúc trong im lặng, rồi tôi giơ tay ra và cầm lấy tay anh. Tôi phải tỏ ra dịu dàng với anh vì tôi ghét anh, vì tôi muốn quát mắng anh bởi anh chỉ là một người bình thường, bởi anh không thể thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi cũng cảm thấy sợ nữa. Tôi cũng muốn yêu. Tôi vuốt ve bàn tay Erich. Chiếc máy quay đĩa, được đặt ở chế độ lặp lại, bắt đầu phát lại đĩa hát của Coltrane. Erich định cười, nhưng đành nén lại với một hớp rượu dài.
Đáng ra tôi phải giết anh, dù tội lỗi duy nhất của anh chỉ là thiếu tập trung và kém nhanh nhạy. Đáng ra tôi phải dùng dĩa xiên vào trái tim anh vì anh là một kẻ kém cỏi, bị hoàn cảnh xô đẩy đến với một vai diễn mà anh chưa đủ trình độ để thực hiện. Tôi không thể phủ nhận rằng: tôi nghĩ mình xứng đáng có được nhiều hơn thế.
Chúng tôi đứng dậy và đi lên giường mà không nói năng gì. Đó là việc làm tự nguyện duy nhất của chúng tôi – thường thì chúng tôi hay giải thích cho những hành động đơn giản nhất bằng quá nhiều chi tiết. Những đêm đó chúng tôi chỉ cầm lấy ly rượu, không nói năng gì mà đi lên giường của anh, cởi quần áo và nằm xuống, trong vòng tay nhau.
“Đây là những thời điểm đáng sợ,” tôi nói.
“Đúng. Đúng như vậy.”
Chúng tôi nằm một lúc mà không bàn luận gì về lần làm tình gần đây nhất của chúng tôi – về việc chúng tôi không hề dùng đến những biện pháp đề phòng. Giờ có muốn bảo vệ bản thân khỏi người kia thì cũng đã quá muộn. Chẳng có sự giải thích nào có lý hơn việc ngay từ bốn năm về trước, khi chúng tôi gặp nhau, căn bệnh có vẻ chỉ xảy ra với những loại người khác. Dĩ nhiên chúng tôi đã biết về nó. Dĩ nhiên chúng tôi đã sợ. Nhưng không người quen nào của chúng tôi bị mắc bệnh đó cả. Chúng tôi đã cố tin rằng nó chỉ xảy ra với những người đàn ông có máu loãng bởi dùng quá nhiều ma túy, hay những người ngủ với một tá người khác nhau mỗi đêm. Erich có một bộ sưu tập những đĩa nhạc hay, và những bức ảnh đóng khung của những người anh chị em gầy gò đang đứng tạo dáng bên hồ, trong một căn phòng khách trang trí giấy dán tường, và bên cạnh một chiếc xe Camaro đỏ hào nhoáng. Anh kể về những lần đi thử vai, và nhắc đến việc tìm kiếm một công việc tốt hơn. Anh có vẻ quá bận rộn, chưa sẵn sàng đón nhận một cái chết sớm. Tôi không thể biết được anh giải quyết ra sao với cái phương trình đó trong đầu, vì đây có vẻ không phải là một cuộc trò chuyện mà chúng tôi có thể kéo dài. Thay vào đó, chúng tôi ôm nhau thật lâu trong im lặng. Rồi, với một sự hấp dẫn mới, chúng tôi làm tình khi đĩa của Coltrane cứ lặp đi lặp lại.
Vài ngày sau, Bobby kể cho tôi nghe về chuyện của cậu và Clare. Trước đó, tôi đã đến thăm Arthur ở bệnh viện. Bệnh viêm phổi của anh đang đỡ nhiều – anh đã tỏ ra lạc quan về tương lai, và tin chắc rằng việc ngừng uống rượu và chấp nhận một chế độ ăn lành mạnh sẽ cải thiện hoàn toàn sức khỏe của anh. Mặc dù vẫn còn có việc quan trọng cần làm ở văn phòng, nhưng tôi cũng chẳng thiết tha gì đến nó. Thay vào đó tôi đi về nhà, để dành buổi tối hôm đó với Bobby và Clare.
Khi tôi về, họ đang cùng nhau nấu bữa tối trong bếp. Căn bếp của chúng tôi chỉ bé bằng cái bốt điện thoại công cộng, khó mà vừa chỗ cho hai người, nhưng không hiểu sao họ vẫn lèn vào được. Từ phòng khách, tôi nghe thấy tiếng cười của Clare. Bobby nói: “Em phải, ờ, dịch mông sang một chút nếu không anh không thể lấy cái này ra khỏi lò được.”
Tôi gọi: “Chào các cưng.”
“Jonathan,” Clare nói với giọng vui vẻ, thánh thót. “Ôi, Chúa ơi, cậu ấy về rồi.”
Có vẻ họ đã cùng cố chen nhau để ra khỏi bếp một lúc, và bị mắc kẹt. Tôi lại nghe thấy tiếng cười, và một tiếng làu bàu của Bobby. Clare vào phòng khách trước. Chị mặc cái áo bowling màu vàng, với một chuỗi hạt thủy tinh màu đỏ. Bobby theo sau, mặc áo phông và quần jean màu đen.
“Chào cưng,” Clare nói. “Ngạc nhiên quá. Tòa soạn bị thiêu trụi rồi à?”
“Không, chỉ vì em nhớ hai người thôi. Đêm nay em muốn nghỉ ngơi. Hai người muốn đi chơi bowling hay thứ gì đó không?”
Clare hôn lên má tôi, Bobby cũng làm thế.
“Bọn mình đang làm, ờ, thịt gà và bánh quy,” cậu nói.
“Không hề giống với những gì mà các bà mẹ của chúng ta làm,” Clare thêm vào. “Tôi không biết chỗ cậu thế nào, chứ ở quê tôi, chúng tôi chỉ mua đồ ăn sẵn khi nấu nướng ở nhà. Món thịt gà với nước xốt kem có vẻ được coi là quá kì cục và xa lạ.”
“Mẹ của Jon là một đầu bếp tuyệt vời,” Bobby bảo chị. “Bà không bao giờ mua, em biết đấy, đồ đông lạnh. Hay đồ hộp cả.”
“Phải,” Clare nói. “Và bà hãy tự lặn xuống biển để mò tìm ngọc trai và tự bẫy những con chồn vizon cho mình. Jonathan, cưng ơi, cậu muốn uống cocktail không?”
“Có chứ,” tôi nói. “Chúng ta làm một bình martini nhé?”
Dạo này chúng tôi bắt đầu thích uống martini. Chúng tôi đã mua ba chiếc ly, và cất những hộp ôliu xanh trong tủ lạnh.
“Tuyệt,” Bobby nói. “Chúng ta có thể, ừm, uống mừng.”
“Cậu hiểu mình đấy. Mình sẽ uống mừng cho bất cứ điều gì. Có phải là ngày Guy Fawkes[52] hay ngày gì nhỉ?”
[52] Lễ kỉ niệm hằng năm tổ chức vào tối ngày mồng 5 tháng Mười một để đánh dấu sự thất bại trong vụ mưu sát vua James I của Anh và VI của Scotland của một nhóm tín đồ Công giáo Anh vào ngày 5 tháng Mười một năm 1605.
“Ờ,” Bobby nói. Cậu cười với vẻ bối rối thực sự.
“Có gì đó đặc biệt hơn cần được uống mừng hay sao?” Tôi hỏi.
“Tôi sẽ đi làm Martini,” Clare nói. “Hai người đợi ở đây nhé?”
Chị trở lại bếp. “Sao thế, anh bạn?” Tôi hỏi Bobby khi chỉ còn lại hai người chúng tôi.
Cậu vẫn cứ cười và nhìn xuống sàn nhà như thể cậu trông thấy những bí mật được in trên thảm. Bobby không có khả năng giấu giếm điều gì. Cậu có thể không trả lời một câu hỏi, nhưng không thể nói dối. Tôi không biết liệu đó có là do sự trung thực hay chỉ đơn giản là do cậu thiếu khả năng tưởng tượng. Đôi khi hai thứ đó quá gần gũi đến nỗi không thể nào phân biệt nổi.
“Jonny,” cậu nói. “Clare và mình…”
“Clare và cậu làm sao?”
“Bọn mình đã bắt đầu… bọn mình đã… Cậu biết đấy.”
“Không. Mình có biết đâu.”
“Có, cậu biết mà.”
“Ý cậu là hai người đã ngủ với nhau?” Tôi nói.
Cậu ngước mắt lên, nhưng không thể nhìn vào mắt tôi. Cậu cười nhăn nhó, với niềm vui bị kìm nén thấy rõ, như thể cậu đang đợi tôi nhận ra là tôi đã quên mặc quần.
“Ừm,” một lúc sau cậu nói. “Ôi, Jonny. Bọn mình, ờ, đang yêu. Ngạc nhiên không?”
“Có. Thực là ngạc nhiên.”
Tôi đã không nghĩ rằng giọng mình lại lạnh lùng và tức tối như thế. Tôi đã định đáp lại với giọng dứt khoát nhưng thân mật – để bày tỏ thái độ của mình trước chuyện tình vô lý này. Khi nghe thấy giọng nói của tôi, Bobby nhìn tôi ngần ngại, nụ cười của cậu nhạt dần.
“Jon,” cậu nói. “Bây giờ bọn, ờ, đã là một gia đình thực sự rồi.”
“Gì cơ?”
“Ba người chúng ta. Chúa ơi, cậu không thấy điều đó tuyệt vời thế nào sao? Ý mình là, ờ, giờ thì cả ba người chúng ta đều đang yêu.”
Clare bước ra với chiếc khay đựng những ly martini vốn đã trở thành một phần trong nghi thức uống cocktail của chúng tôi. Cái khay đó là một món đồ lưu niệm cũ méo mó của Nam California, có hình những quả cam giấy bìa carton và những người đẹp đang thơ thẩn đi dạo trên một bãi biển màu xanh ngọc với vẻ mặt thẫn thờ, thất vọng.
“Anh đã kể với cậu ấy rồi,” Bobby tự hào nói.
“Vậy là anh đã làm như anh nói.” Chị nhìn tôi với vẻ vừa giễu cợt vừa ngần ngại. “Của cậu đây, Jonathan. Uống đi nào.”
“Thật không?” Tôi hỏi chị.
“Về chuyện giữa Bobby và tôi à? Thật. Tôi nghĩ bọn tôi đang tuyên bố chính thức đây.”
Bobby cầm lấy một chiếc ly trên khay và nâng lên. “Vì gia đình chúng ta,” cậu nói.
“Ôi, thực sự thì, Bobby,” Clare nói. “Vì Chúa. Anh và em đang ngủ cùng nhau.” Chị quay sang tôi và nói: “Tôi và anh ấy đã ngủ cùng nhau.”
Tôi hớp một ngụm martini của mình. Tôi biết tôi cần phải có cảm giác như thế nào: hân hoan trước thói quen xuất hiện bất ngờ của tình yêu và khả năng làm thay đổi những điều thường nhật của nó. Thay vào đó, tôi lại cảm thấy lạnh nhạt và trống rỗng, như cát đang rơi xuống hố cát. Tôi cố tạo ra sự vui vẻ cần thiết. Tôi nghĩ nếu tôi giả vờ đủ khéo, tôi có thể bù lại cho sự lạnh nhạt ban nãy.
“Không thể tin được,” tôi nói. “Chuyện này diễn ra bao lâu rồi? Đó là tên một bài hát, đúng không? Một trong những rắc rối của tình yêu là, ta không thể nhắc đến nó mà không cảm thấy như mình đang liên tưởng đến những bài hát cũ.”
“Mới được vài ngày,” Clare nói. “Chúng vẫn muốn nói với cậu về chuyện này, nhưng có vẻ đây là điều không nên đưa ra trong những cuộc trò chuyện thông thường.”
Tôi gật đầu và trừng trừng nhìn chị. Không ai trong chúng tôi tin vào những gì chị vừa nói. Chúng tôi đều biết rằng chị và Bobby, dù có cố tình hay không, đã giấu giếm tình yêu của họ với tôi vì họ nghĩ họ có lý do để giấu nó.
“Nếu bây giờ chúng ta có con thì sao nhỉ?” Bobby nói. “Cả ba người chúng ta ấy.”
“Bobby,” Clare nói, “làm ơn im đi. Xin hãy ngậm miệng lại.”
“Hai người vẫn muốn có con mà, đúng không? Hai người đang bàn về việc đó còn gì. Nếu ba người chúng ta có một đứa con thì sao nhỉ? Hay là nhiều hơn?”
“Chắc chắn rồi,” tôi nói. “Hãy sinh sáu đứa đi. Chẵn nửa tá.”
“Hãy xem liệu đến Giáng sinh chúng ta có còn chịu đựng được nhau không đã,” Clare nói.
“Chà, chúc mừng cặp đôi hạnh phúc,” tôi nói, nâng ly lên.
Chúng tôi cùng uống mừng cho cặp đôi hạnh phúc. Tôi nói: “Mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Giờ thì rõ ràng nó đã xảy ra rồi. Nhưng thực sự thì, Bobby à, khi cậu đến đây, mình không bao giờ nghĩ rằng cậu và Clare…”
“Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ thế,” Clare nói.
“Tốt hơn là hãy kể cho mình nghe nó xảy ra như thế nào,” tôi nói. “Mọi chi tiết, dù là riêng tư nhất.”
Chúng tôi cạn ly và uống thêm một lượt nữa, khi Clare kể chuyện, còn Bobby thỉnh thoảng chêm vào những lời thanh minh qua quýt. Không như Bobby, Clare có thể khéo léo thêm thắt vào câu chuyện đến nỗi đôi khi chị quên mất ranh giới giữa những lời cường điệu và cái sự thật chẳng có gì kịch tính. Chị không phải là kẻ vụ lợi. Trái lại, chị chỉ chọn cách mô tả mình một cách chân thực nhất. Chị thường xuất hiện trong những câu chuyện của mình như một nhân vật hơi kì cục, ngây thơ, dễ bị mắng mỏ như Lucy Ricardo[53] và hay gặp rủi ro, tận tụy đến mù quáng như gã ngốc trong phim Con đường. Chị luôn cường điệu sự thật – những lời nói đối với chị là những lời phóng đại, chứ không phải bịa đặt. Chị tả lại cuộc đời mình trong một thế giới kì dị, khôi hài, tuy thích hợp với chị nhưng vẫn tồn tại ở một khoảng cách sâu thẳm so với thế giới nội tâm chứa đầy những ký ức về sự bạo hành và một ký ức hoang mang về những khả năng bị giới hạn của chị.
[53] Nhân vật trong bộ phim hài kịch tình huống I love Lucy (Tôi yêu Lucy) của Mỹ.
Clare nói: “Về cơ bản. Mẹ đã quyết định dạy cho Junio một bài học về cuộc đời. Và, ừm, tôi nghĩ rằng Mẹ cũng hơi mất tự chủ một chút. Tôi không biết những cô gái cùng chơi bowling với tôi sẽ nói gì về chuyện này.”
“Họ sẽ không thích đâu,” tôi nói. “Có lẽ họ sẽ bắt chị phải treo giày dấy.”
“Ôi, chú Jonny. Tôi đã ngoan quá lâu rồi. Tôi nghĩ có thể tôi đã không chịu được thêm nữa.”
“Chà, ông chú này không nói gì được nữa rồi. Ngạc nhiên quá.”
“Đúng vậy,” chị nói.
Với sự vui vẻ quá đỗi, Bobby đưa tay ra nhéo khuỷu tay trần của chị. Những đầu ngón tay cậu in dấu mờ mờ trên cánh tay mịn màng đó. Tôi bỗng nghĩ đến một hình hoặc của họ khi về già: Clare, một bà già lập dị, phê ma túy, đội một cái mũ kì cục và trang điểm quá đậm, đang kể chi tiết về chuyện tình của mình, trong khi Bobby, hói đầu và bụng phệ, ngồi bẽn lẽn bên cạnh, lẩm bẩm: “Ôi, Clare.” Bản thân chúng tôi sẽ trở thành những câu chuyện để chúng tôi có thể kể cho nhau nghe.
“Tôi nghĩ đây chính là kết thúc của gia đình Henderson mà chúng ta vẫn biết,” chị nói.
“Đúng, em cũng nghĩ thế.”
Một trạng thái ngại ngùng bỗng dưng ập đến, khiến chúng tôi cứ đứng như thế một lúc, như thể chúng tôi là những bị khách bị một người bạn chung bỏ lại bên nhau. Bobby nói: “Bữa tối sắp xong rồi đấy. Cậu có muốn, ờ, ăn gì đó không?”
Tôi nói là tôi cũng đã thấy đói, vì ngoài việc ăn thì tôi cũng chẳng biết phải làm gì tiếp theo. Đầu tôi có vẻ trôi nổi đâu đó phía trên cơ thể. Vì rượu gin đã ngấm nên tôi cảm thấy những cảm xúc của mình giống như sóng radio được cái đầu đã lìa khỏi thể xác đó phát ra. Tôi thấy tức giận và ghen tỵ. Tôi muốn Bobby. Mặt khác, tôi cũng muốn Clare.
Chúng tôi ăn tối, và nói về những chuyện linh tính khác. Sau bữa ăn, chúng tôi đi xem phim Những tên trộm như chúng ta ở rạp Thalia. Trong mấy năm qua, Clare và tôi đã xem bộ phim đó vài lần, nhưng chị cứ nhất định đòi Bobby cũng phải xem. “Nếu đột nhiên chúng ta là một thứ gì đó,” chị nói, “tôi muốn ít nhất anh ấy cũng phải xem vài bộ phim cơ bản.” Trong suốt buổi chiếu, chị thủ thỉ với cậu và nhấn mạnh những ý kiến của mình bằng cách nhéo vào đầu gối cậu. Chị đã sơn móng tay màu hồng rực, nó ánh lên ngay cả trong bóng tối của rạp chiếu phim.
Tôi từ chối đi uống rượu sau khi xem xong phim, dù chúng tôi đã hình thành thói quen kết thúc những buổi tối bên nhau ở một quán bar, bất kể lúc đó đã muộn thế nào. Clare sờ tay lên trán tôi và hỏi: “Cưng ốm à?” Tôi bảo rằng không, tôi chỉ thấy mệt và sẽ phải có mặt ở văn phòng vào sáng sớm mai để làm bù những việc mà tôi chưa làm tối nay. Bobby và Clare nói họ sẽ về nhà với tôi, nhưng tôi bảo họ cứ đi uống một mình. Tôi hôn cả hai người. Khi tôi về nhà, bầu trời quá trong trẻo và lạnh giá. Chòm Đại Hùng Tinh hiện lên rõ rệt qua những ánh đèn của Manhattan, nằm chênh chếch phía trên mái của trường Cooper Union. Không gian lạnh lẽo rạng rỡ quanh những ánh đèn cửa sổ. Ngay cả trong một đêm như thế, những cậu bé có đôi mắt đờ đẫn vẫn đi trên phố với những chiếc radio hình chữ nhật màu đen, tiếng nhạc của chúng bị loãng đi trong cái lạnh.
Về đến nhà, tôi cuộn chiếc túi ngủ của Bobby lên và cất vào tủ. Tôi biết rằng, từ giờ, cậu sẽ ngủ ở phòng của Clare. Tôi tự làm cho mình thêm một ly martini để uống trước khi ngủ. Tuyết bắt đầu lấp lánh rơi, những bông tuyết lả lướt trông chẳng khác gì không khí bị nén thành những viên màu xám. Tôi uống martini trong phòng mình, và hình dung ra cảnh Bobby và Clare đang bắt đầu xây dựng một tương lai cùng nhau. Họ là một cặp không hợp nhau lắm. Có lẽ họ sẽ cùng nhau chạm đến giới hạn của sự khác thường, và chuyện tình của họ sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Nhưng có thể, chỉ là có thể, mọi chuyện sẽ không như thế. Nếu họ vẫn ở bên nhau, do sự hấp dẫn kết hợp với tính cố chấp và may mắn rõ rệt, họ sẽ có được một tổ ấm. Có lẽ họ sẽ có con. Họ sẽ có những công việc bình thường và thấy mình đẩy một cái xe hàng qua các dãy hàng sáng ánh đèn huỳnh quang của một siêu thị. Họ sẽ có tất cả những điều tương tự như thế.
ALICE
Ned và tôi đã chuyển khỏi ngôi nhà thân thuộc mà chúng tôi tự dựng lên cho mình để đến sống trong một ngôi nhà mới ở sa mạc Arizona, theo những yêu cầu của bác sĩ. Chúng tôi đã mua một căn hộ chung cư có diện tích chưa bằng một nửa ngôi nhà cũ, trong một tổ hợp không thỏa mãn sự mong đợi của những người chủ công trình. Gần một nửa số căn hộ vẫn còn trống không sau ba năm được xây xong, và những chuỗi cờ đuôi nheo nhiều màu sắc, một vài cái đã rách, vẫn lòe loẹt kết thành dây hoa ở các cổng vào. Những tòa nhà được trang trí như những ngôi làng của người Da đỏ, những bức tường bê tông lốm đốm màu bùn đỏ và có những đầu cọc nhô ra bên trên những ô cửa sổ khung nhôm. Chúng tôi có thể dễ dàng mua được một căn hộ một phòng ngủ, dù túi tiền của chúng tôi hơi eo hẹp. Căn nhà và rạp chiếu phim không bán được nhiều tiền.
“Hacienda Glover,” Ned gọi nó thế. Và, khi tâm trạng u ám hơn, anh gọi nó là “Con đường Thuốc lá, 1987.”
Anh không cho phép bản thân bộc lộ nhiều vẻ buồn rầu hay bi quan. Có lẽ anh không thể làm thế. Những cảm xúc được anh thể hiện ra chỉ biến thiên từ sự chấp nhận miễn cưỡng đến sự bất đồng ôn hòa, và khi tôi giã biệt căn bếp ở Cleveland và cây lê trong sân sau, tôi nhận ra rằng tôi đã luôn có ý định, một cách mơ hồ, rời bỏ anh. Hay, đúng hơn thì, tôi đã nuôi ý định một ngày nào đó sẽ hưởng thụ cuộc sống nằm ngoài cái hài kịch gia đình êm đềm của chúng tôi, với sự vui vẻ thân mật trong những bữa ăn tối và những giấc ngủ trong lành, không mộng mị. Rắc rối trong một cuộc hôn nhân bình lặng là nó không chịu rạn nứt – sự bất công hay tàn nhẫn không bao giờ tạo nên một khe hở để qua đó bạn có thể thản nhiên bước vào một lối sống khác. Bạn sống trong những chi tiết sau: một căn bếp được sắp xếp theo ý bạn, những quả cà chua chín đỏ trên những cành dây leo mà bạn đã tự tay đóng cọc và buộc chặt. Giờ Ned đang ốm, và buộc phải đến một nơi anh lạ, thế nên tôi không thể tập trung được sự giận dữ hay tính tư lợi cần thiết để bỏ mặc anh đến đó một mình. Khi tôi xếp những con dao vào một cái hộp carton, tôi cứ suy ngẫm về tỷ lệ ly hôn đang gia tăng tại sao lại có quá nhiều người làm được như thế nhỉ? Những bộ phim và những cuốn tiểu thuyết từ thời thơ ấu không chuẩn bị đầy đủ cho vài người trong số chúng tôi những ấn tượng về gia đình tương lai của mình, chúng tôi không được báo trước về sức quyến rũ của những ô cửa sổ phòng khách quay mặt về hướng nam, hay những bông thục quỳ men theo một bộ cửa ra vào kiểu Pháp.
Và giờ đây, Ned và tôi đang tháo rời nó, như thế đó, vì phổi anh không thể chịu được không khí Ohio ẩm ướt. Không ngờ việc này lại khá dễ dàng. Chúng tôi kê khai tài sản với một phụ nữ trang điểm đậm và mặc quần kiểu võ sĩ đấu bò. Cô ta mất chưa đầy một tháng để bán nó với giá phải chăng cho một cặp lập trình viên máy tính còn trẻ, sẵn sàng đầu cơ vào một khu vực không biết là trong tương lai có phát triển hay không. Rạp chiếu phim sẽ bị phá dỡ để làm khu đỗ xe. Chưa đầy tám tháng sau lời khuyên của bác sĩ, chúng tôi đã đến sống ở một nơi mà tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ là sẽ tới thăm.
Sa mạc có một vẻ đẹp thật hoang dã, với sự kết hợp kì cục giữa vẻ trống vắng và tầm quan trọng cùng bầu trời nóng nực cao vời vợi. Từ lúc đóng bản giao kèo cho đến ngày chúng tôi dọn đến đây, cây xương rồng trước căn hộ của chúng tôi đã nở một bông hoa màu ngà duy nhất, như thể nó đang đội một cái mũ ngông cuồng. Vài điều định mệnh quả thực vô cùng khó chịu. Vì thế, tốt hơn là chúng ta nên tránh khỏi chúng. Ned và tôi bắt tay vào sắp xếp những căn phòng nhỏ bé sơn màu trắng, treo những tấm rèm và móc những cái xoong chảo bằng đồng lên tường bếp mới, nơi chúng sáng bóng lên trong ánh nắng sa mạc. Tôi nhận ra nơi này sẽ không bao giờ mang vẻ quen thuộc. Thực sự nó đang cố khoác lấy cái đặc tính đó ngay khi chúng tôi bàn bạc về việc sắp xếp bàn ghế và tranh ảnh. Ned thân mật ôm tôi khi chúng tôi ngừng tay. Anh giữ lấy vai tôi một cách dịu dàng, chắc chắn như anh đã từng làm hồi còn là người đàn ông hai mươi sáu tuổi, khi tôi chui vào trong chiếc xe mui trần cùng anh và được anh đưa đến nhánh sông Louisiana. Anh nói: “Sẽ không tệ lắm đâu. Em nghĩ sao, bé con?”
Tôi bảo anh rằng rồi mọi chuyện sẽ ổn, và tôi cảm thấy đó không phải là một lời nói dối. Chúng tôi là những sinh vật dễ thích nghi. Đó là nguồn gốc cho sự thoải mái trên đời này và, tôi cho rằng, cả cơn thịnh nộ âm thầm của chúng tôi nữa. Ned ôm tôi ở nơi sẽ là căn phòng khách mới. Những chiếc rèm quen thuộc đã được vén lên, và ngoài kia là một phong cảnh hoang vắng đáng yêu mà một lữ khách không được bảo vệ sẽ không thể chịu nổi quá một ngày.