Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 2-1
JONATHAN
Chúng tôi là người tình một nửa của nhau. Chúng tôi cùng nhau cư ngụ nơi thượng tầng trong sáng của tình yêu, nơi người ta say mê nhau, yêu thương sự kì cục của nhau, và mong ước mọi điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đối phương. Vì chúng tôi không phải là tình nhân theo nghĩa xác thịt, nên chúng tôi không mắc phải những phiền toái nho nhỏ. Clare và tôi kể cho nhau nghe những bí mật tồi tệ nhất và thừa nhận những nỗi sợ hãi ngốc nghếch nhất. Chúng tôi ăn tối và đi mua sắm cùng nhau, phán đoán tính cách của những người đàn ông đang băng qua chúng tôi trên đường. Khi nhìn lại, tôi nghĩ chúng tôi giống như hai chị em gái trong những câu chuyện cổ tích, trong đó cô em trẻ trung xinh đẹp không được lấy chồng cho đến khi nào có người đến cầu hôn cô chị, người kém hấp dẫn hơn. Dù vậy, trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi cùng lúc vừa là cô chị vừa là cô dâu. Cuộc sống của chúng tôi chỉ xoay quanh những bọ quần áo, những câu chuyện gẫu và những lời tự kiểm điểm. Chúng tôi bình thản chờ đợi xem liệu có ai đến để mang một trong hai người chúng tôi đến với một loại tình yêu khác đáng sợ hơn không.
Trong ba năm, chúng tôi cùng nhau sống trong một tòa nhà sáu tầng không có thang máy trên phố Ba Đông giữa đại lộ A và B, nơi những phụ nữ Puerto Rico cãi nhau bằng tiếng Tây Ban Nha và những kẻ bán ma túy không ngừng ra vào những căn hộ dưới tầng hầm. Những cậu bé phê thuốc đẹp đến nao lòng thường say sưa nhảy nhót theo tiếng nhạc phát ra từ những chiếc radio khổng lồ trên phố. Chúng tôi sống ở khu này vì giá thuê nhà rẻ, và bởi vì – chúng tôi thừa nhận điều này trong một đêm say xỉn – chúng tôi thấy nó thú vị hơn cả những khu vực an toàn trong thành phố. Tôi phải thú nhận thêm rằng tôi coi khu này là một ngọn nguồn cho những câu chuyện mà tôi sẽ kể trong cuộc đời tốt đẹp hơn sắp tới. Khi tôi nói thế, Clare đã nhìn tôi ngờ vực và nói: “Quả là vớ vẩn khi tin tưởng vào tương lai, cậu không nghĩ thế à? Nó hơi giống như việc chế tạo những con thuyền trong chai ấy. Cậu biết không? Tuyệt vời một cách đáng sợ.”
Clare ba mươi sáu, hơn tôi mười một tuổi. Chị cứ khăng khăng sống theo vài giả thuyết mà mình đã đặt ra. Chị tin rằng James M. Cain[39] là nhà văn Mỹ vĩ đại nhất, xã hội đã lên đến cực điểm vào cuối những năm ba mươi của thế kỉ XX, và không còn người đàn ông nào để dành cho một phụ nữ lập dị ở độ tuổi của chị. Khi tranh luận ở điểm cuối cùng, chị đáp lại bằng một giọng thiện chí nhưng gần như mất hết kiên nhẫn, như một giáo viên giỏi đang đối mặt với đứa học sinh không có triển vọng thứ mười nghìn của mình. “Bỏ qua những người đàn ông này nhé,” chị nói, đếm ngón tay. “Những người đồng tính. Những người đã có gia đình. Những người dưới hai mươi lăm tuổi. Những người trên hai mươi lăm nhưng chỉ hứng thú với những phụ nữ trẻ xinh đẹp. Những người vẫn còn độc thân chỉ vì họ không thể gắn bó đời mình với bất cứ ai. Những kẻ đê tiện thấy rõ. Những kẻ hiếp dâm và những tên sát nhân tâm thần. Còn lại ai nữa nào?”
[39] James M.Cain (1892-1977): nhà văn và phóng viên người Mỹ.
Trong cuộc sống thường ngày, chị luôn có thái độ vui vẻ đầy mỉa mai, như nhân vật phụ trong một vở hài kịch hồi những năm ba mươi. Như một kẻ sống sót sau chiến tranh, vẫn đi giày cao gót và tô son khi đi giữa đống đổ nát.
Khi chị buồn chán, chúng tôi thường bàn tính đến việc có con với nhau. Clare từng trải qua một lần kết hôn, một lần phá thai, hàng tá tình nhân và ba lần đổi việc. Tôi rời trường đại học đã được ba năm, phụ trách chuyên mục ẩm thực cho một tờ tuần báo, và có đôi chút ham muốn với một người đàn ông mà tôi gọi là tình nhân. Về đêm, con phố của chúng tôi lấp lánh những mảnh kính vỡ. Mỗi sáng, một phụ nữ Mỹ Latin đẫy đà thường đi ngang qua phía dưới cửa sổ căn hộ của chúng tôi, hát vang những bản tình ca cảm động trên đường chị ta đi làm.
Một buổi sáng đầu xuân, khi chiếc lá thường xuân màu xanh nhạt đơn độc rơi xuống giữa thanh ngang của lưới sắt chống trộm trên cửa sổ phòng bếp, Clare vừa đưa tách cà phê lên miệng vừa thở dài nói: “Có lẽ tôi sẽ nhuộm lại tóc về màu bình thường. Cậu có nghĩ là đến tuổi nào đó thì người phụ nữ nên ngừng việc tỏ ra lập dị không?”
Chị đang mặc chiếc áo kimono mua ở cửa hàng giảm giá, không phải bằng lụa nhã nhặn mà bằng tơ nhân tạo có màu son chói mắt, chắc là đã được chủ nhân trước đây của nó mua mới ở Hawaii hay Las Vegas năm năm trước. Clare không đẹp, thậm chí còn bị coi là phản lại vẻ đẹp thông thường.
“Không,” tôi nói. “Em nghĩ đến độ tuổi nào đó người phụ nữ càng có quyền làm thế hơn.” Tôi đứng ở cửa, vì bếp của chúng tôi chỉ vừa chỗ cho một người.
“Sự khác biệt giữa ba mươi sáu và hai mươi lăm,” chị nói, “là ở tuổi hai mươi lăm, cậu sẽ không có vẻ kì cục. Tuổi trẻ là sự bào chữa quan trọng hơn hết. Cậu có thể thử bất cứ thứ gì, làm bất cứ điều gì với tóc cậu, và vẫn tự tin với vẻ ngoài đó để đi khắp nơi. Cậu vẫn đang khám phá bản thân, vì thế điều đó là bình thường. Nhưng khi cậu già hơn một chút, cậu sẽ thấy những ảo tưởng của mình bắt đầu lộ ra.”
“Vậy hôm nay sẽ trở thành một ngày thứ Bảy đen tối khác à?”
“Chưa biết được.”
“Đừng. Ngoài trời đẹp thế kia cơ mà. Hãy đi mua sắm và xem phim thay vì nghĩ đến việc tự sát.”
“Khi chúng ta có con,” chị nói, “cậu nghĩ tóc nó sẽ mang màu gì?”
“Tóc chị có màu gì vậy?”
“Chúa ơi, để tôi nhớ lại đã. Hơi nâu xỉn, tôi nghĩ vậy. Kiểu tóc của cô nhân viên bán hàng.”
“Có lẽ đứa bé sẽ mang màu tóc của em,” tôi nói. “Em cược rằng những loại gen yếu nhưng mang tính quyết định có thể làm cho chúng ta ngạc nhiên đấy.”
Chị nhấp một ngụm cà phê. “Thành thực mà nói,” chị nói, “tôi có cảm giác rằng những tổ tiên Rumani ghê gớm của tôi sẽ lấn át những tổ tiên Thụy Điển trầm ngâm của cậu.”
“Thế chị có muốn một phiên bản thu nhỏ của chị à?”
“Chúa ơi, không. Một tôi khác nữa à? Chúng tôi sẽ ghét nhau mất. Tôi chỉ mong một điều là đứa bé có trí thông minh của cậu.”
“Đừng khiêm tốn thế,” tôi nói. “Chị rất thông minh mà.”
“Nếu tôi thông minh như thế,” chị nói, “thì tôi đâu có cho rằng mình đã ba mươi sáu tuổi, đứng trong một căn bếp bé xíu và cố nghĩ ra cách tốt nhất để có con mà không cần yêu đương.”
Chúng tôi vẫn thường nói chuyện về đứa bé. Chúng tôi không lập kế hoạch, nhưng chúng tôi nói về nó rất nhiều. Đó là thói quen của chúng tôi. Hồi trước chúng tôi cũng từng có những ý định khác: chúng tôi đã cùng bàn về việc khai trương dịch vụ giao đồ ăn sáng đến tận giường, và chuyển đến vùng duyên hải ở Tây Ban Nha. Chúng tôi luôn bàn bạc về chi tiết của những việc này tỉ mỉ đến mức kết quả là chúng tôi đã băng qua một ranh giới vô hình và bắt đầu cảm thấy như thể chúng tôi đã thực hiện chúng, những lời trò chuyện của chúng tôi chủ yếu chỉ mang tính mộng tưởng. Chúng tôi đã từng mang món Benedict trứng[40] từ phố Ba lên phía trên đại lộ Công Viên trong một cái tủ hơi (chúng đã biến thành một món hổ lốn bị vón cục), chúng tôi đã mua những cuốn hướng dẫn du lịch và băng cassette dạy hội thoại bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi không nghĩ rằng chuyện về đứa bé này sẽ có gì khác so với những việc đó.
[40] Món ăn với hai lát bánh nướng, trên mỗi lát xếp một miếng thịt xông khói, một quả trứng chần và một loại nước xốt làm từ bơ, trứng và dầu.
“Nếu là con trai, em muốn đặt tên nó là Ethan,” tôi nói. “Hoặc Trevor.”
“Thôi nào cưng,” chị nói. “Không có cái tên mỹ miều nào hết. Nếu là con trai hãy gọi nó là Jon Junior. Nếu là con gái, sao không gọi nó là Mary hay Ann?”
“Tại sao không là Clare Junior?”
“Tôi đã bảo cậu rồi. Tôi muốn nó khác tôi.”
Đối thủ của Clare chính là hình ảnh của chị, là cái tính cách phức tạp mà chị đã tạo ra cho bản thân. Chị không dễ gì bộc lộ khả năng dữ dằn, sắc sảo và “thú vị” của mình. Khi thực hiện những điệu bộ đó quá hoàn hảo, chị có thể hơi kì quặc – thành thạo và khéo léo. Tôi có thể nhận thấy nó gây phiền phức cho chị như thế nào. Đôi khi chị ôm lấy cá tính của mình với sự thách thức thấy rõ, nhìn ra xã hội như thể muốn nói: “Đúng thế, thì sao?” Đôi khi chị tự làm mình sợ. Chị đã trở nên quá điêu luyện đến nỗi chị khó có thể thoát ra khỏi tính cách đó được nữa.
Tuy nhiên, chị vẫn có một cuộc sống mà tôi cho là đầy đủ, thú vị, và tôi không thích nghe những lời tự hạ thấp mình của chị. Chị từng lấy một vũ công hiện đang sống ở Tây Berlin, đoàn ca kịch của gã vẫn định kì đến diễn ở New York trước sự hoan nghênh thái quá. Chị từng là tình nhân của một nữ nhà văn khá nổi tiếng. Chị từng dùng heroin và thuốc phiện, và dùng lượng Dexedrine nhiều đến mức cần được điều trị tại một bệnh viện tư ở Baltimore. Cuộc sống của tôi, so với chị, có vẻ rụt rè và cẩn trọng. Tôi không muốn phải nghĩ rằng cả hai sự lựa chọn – một cuộc sống nguy hiểm, quá cỡ và một cuộc sống lao động thoải mái – cuối cùng đều dẫn đến một thôi thúc mơ hồ, một niềm tin như nhau rằng thế hệ kế tiếp phải cải thiện vận mệnh của nó.
“Chị nghĩ ra sao về sự trừng phạt?” Tôi hỏi.
“Cho bản thân? Hay cho đứa bé?”
“Cho đứa bé.”
“Tôi sẽ không đánh nó,” chị nói. “Tôi không thể. Ôi, tôi không biết nữa. Có lẽ tôi sẽ là một trong những bà mẹ hay giận dỗi và thất vọng, và đứa bé sẽ mong rằng thà nó bị mắng mỏ hay ăn tát để cho xong chuyện còn hơn.”
Clare làm việc cho một thợ kim hoàn trên quảng trường Thánh Marks. Chị có năng khiếu trong việc kết hợp những thứ kì cục lại với nhau – chị làm vòng đeo tai và nhưng cái trâm từ kim cương giả, thủy tinh vỡ, thiếc gỉ và những vật bằng nhựa nhỏ xíu từ những cửa hàng một giá. Lượng khách quen của chị tuy ít nhưng trung thành. Tôi đã bất ngờ trở thành người viết bài phê bình về các nhà hàng cho một tờ tuần báo, nó khởi sự một cách lặng lẽ và dần trở nên quá nổi tiếng bất chấp những tiện nghi thiếu thốn và đội ngũ nhân viên thiếu kinh nghiệm. Khi tôi nhận công việc này, ngay sau khi rời NYU, tôi đã coi nó là bước đầu tiên dẫn đến sự nghiệp thực sự của mình trong đội ngũ nhân viên của một tờ tạp chí quốc gia hào nhoáng. Nhưng không ngờ tôi đã vô tình bước lên – gần như nằm ngoài mong đợi của tôi – nền tảng của một điều tốt đẹp. Trong ba năm, tòa soạn đã chuyển từ những văn phòng ẩm thấp trong khu bán quần áo đến một tòa nhà sang trọng trên quảng trường Thống Nhất. Đội ngũ nhân viên của nó đã tăng lên gấp ba. Và tôi đã được thăng chức từ nhân viên đánh máy và phóng viên không thường xuyên lên người phụ trách chuyên mục ẩm thực.
Điều trớ trêu là: tôi chẳng biết tí gì về đồ ăn thức uống cả. Đó là niềm đam mê của mẹ tôi, còn tôi lại luôn thờ ơ với mọi kiến thức về chủ đề này. Khi tổng biên tập quyết định mở thêm mục nhà hàng và bảo tôi là ông muốn tôi viết bài cho nó, tôi đã phản đối rằng tôi thậm chí còn không biết món bánh trứng Lorraine được chế biến thế nào. Ông nói: “Vấn đề là ở đó đấy. Nhiều người khác cũng đâu có biết.” Ông ngỏ ý sẽ tăng lương cho tôi, và giao cho tôi viết tối thiểu là sáu trăm chữ một tuần. Và thế là tôi trở thành Plain John, một nhân vật giàu có tương đối khiêm tốn, người đánh giá cao các món ăn ngon nhưng không nhảy dựng lên trước một chút bột gia vị bạch đậu khấu không mong muốn trong món xúp đặc nghiền nhừ có ớt, người thích đi ăn tối với bạn bè hoặc các cô nhân tình mỗi tuần đôi lần, và sẵn sàng bật dậy trước thứ gì đó hấp dẫn nếu cần. Tôi viết bài đánh giá về những nhà hàng Trung Quốc và Ba Lan, lùng sục khắp Manhattan để tìm được những loại hamburger, pizza và mì xào Thái ngon nhất. Tôi chỉ ra những nhà hàng thức thời nào phục vụ những khẩu phần nhỏ lố bịch, nơi nào sẽ gây ấn tượng sâu sắc nhưng lại không khiến các bậc cha mẹ lo lắng khi họ từ nơi khác đến thăm. Cả Clare và tôi đều sống dựa vào những bữa ăn được tờ báo chi trả, dù chúng tôi phải trả giá thông qua chế độ ăn thất thường của mình. Có tuần chúng tôi chỉ ăn mỗi món bánh bột ngô cuộn, tuần khác thì chẳng có gì vào bụng ngoài món vịt Bắc Kinh. Clare băn khoăn liệu việc mỗi tuần chỉ ăn mỗi một loại thức ăn như thế có thể gây hại lâu dài cho chúng tôi không. Chị mang về nhà nào vitamin, nào đồ uống làm từ cây lô hội, và bột protein được coi là thứ mà những vận động viên thể hình nổi tiếng ưa chuộng, những người đang nhe răng cười và làm động tác gồng mình trên những cái nhãn lòe loẹt sặc sỡ.
Chúng tôi bảo nhau rằng chúng tôi nên nói chuyện với đứa bé liên tục, ngay cả trước khi nó đủ tuổi để hiểu. Chúng tôi cùng nhất trí rằng tốt hơn hết là bố mẹ nên thành thật với con trẻ, cả về những việc xấu xa cũng như những điều thú vị.
Người tình một nửa khác của tôi tên là Erich. Anh và tôi đã làm tình với nhau, mặc dù anh không truyền cho tôi nỗi nhớ nhung cồn cào hay tâm trạng bồn chồn, khắc khoải khi kết hợp với khao khát sẽ tạo thành tình yêu. Tôi vẫn bình thản trước Erich. Thành thực mà nói, từ khi rời Cleveland tôi chưa bao giờ yêu người đàn ông nào mà tôi ngủ cùng – tôi không hề tới gần được cảm xúc đó, dù tôi đã biết hàng tá cơ thể trong mọi tâm trạng và thể xác khác nhau. Sự quan tâm của tôi trên thực tế là dành cho Clare và trên giả thuyết là cho những người đàn ông nào đó mà chúng tôi thấy trên những con đường trong thành phố: những người đàn ông mạnh mẽ không khao khát danh tiếng hay hạnh phúc thông thường mà chỉ hành động theo sự bất cẩn của mình. Tôi nhìn một cách kín đáo nhất có thể vào những gã du côn đi giày quân đội màu đen, những cậu chàng Italia ủ rũ và những đứa trẻ tóc dài hung bạo đến New York từ những thị trấn nhỏ, hi vọng tiếng tăm về tội lỗi của chúng vẫn được giữ vững.
Tôi biết những ham thích của tôi là phi lý và có lẽ không lành mạnh. Nhưng chúng vẫn cứ dai dẳng – chúng là miền khát vọng của tôi. Một cậu bé nào đó mà tôi thấy đôi lần ở quầy bán báo trên phố, với mái tóc rối bù và vẻ mặt cau có, có thể khiến tôi ngứa ngáy muốn huých khuỷu tay vào tay áo cậu. Người đàn ông mà tôi ngủ cùng có vẻ còn thiếu sót và xa cách.
Erich và tôi làm tình một hay hai lần một tuần, thường là ở nhà anh trong khu phố Hai mươi Đông. Chúng tôi đã gặp nhau hai năm trước, trong nhà hàng nơi anh làm phục vụ quầy bar. Tuần đó tôi đang viết bài đánh giá về những nhà hàng dành cho dân đồng tính nam – chuyên mục của tôi sẽ đánh giá nhiều địa điểm khác nhau nơi các độc giả đồng tính nam có thể đến cùng người tình của họ nếu họ muốn công khai nắm tay nhau trên bàn. Tối hôm đó tôi đi ăn một mình và nán lại quầy bar để uống một ly brandy trên đường ra ngoài. Tuy quầy bar không đông, nhưng người pha chế rượu vẫn mất gần năm phút để hỏi xem tôi muốn uống gì. Anh đang khom người từ phía đầu kia của quầy bar, tay khoanh trên mặt quầy như một bà nội trợ Flemish đang thò người ra khỏi cửa, khẽ gật đầu một cách nhịp nhàng, dứt khoát trước câu chuyện mà một ông già đeo đồ trang sức bằng vàng và quàng khăn màu xanh ngọc bích đang kể. Trong khi chờ đợi, tôi ngắm cái mông của anh chàng pha chế, nó nhỏ và chắc nịch, lắc lắc nhịp nhàng theo những cái gật đầu của anh.
Cuối cùng, ông già đang kể chuyện hất đầu về phía tôi, nói: “Tôi nghĩ cậu có một vị khách đấy.” Người pha chế ngoảnh lại với vẻ giật mình. Mặt anh ta mỏng, mũi và cằm quá nhọn so với tiêu chuẩn đẹp trai thông thường, dù sắc mặt anh ta hồng hào và đôi mắt mang màu xanh thơ ngây, e dè như của trẻ con. Đó là kiểu mặt khiến người ta có thể nản lòng khi nhìn vào trong gương, dựa theo thói kiêu hãnh của con người – một khuôn mặt lúc thì thấy đẹp lúc lại thấy xấu. New York đầy những khuôn mặt như thế, những khuôn mặt không đẹp lắm của đám thanh niên, những người bị các bà mẹ quan tâm quá mức và tin rằng, với hi vọng nghiêm túc dù hơi e dè, họ có thể tạo nên tương lai bằng vẻ ngoài của họ.
“Ôi, xin lỗi,” anh ta nói. “Anh muốn uống gì?”
Tôi gọi một ly brandy. “Tối nay việc kinh doanh có vẻ chậm chạp nhỉ?” Tôi hỏi.
Anh gật đầu, rót brandy vào một chiếc ly hẹp miệng cỡ lớn. Ông già quàng chiếc khăn màu xanh ngọc rút một điếu thuốc ra khỏi bao thuốc đang được ông đặt trên mặt quầy trước mặt, và nhét nó vào một cái bót thuốc lá ngắn bằng vàng với sự tập trung tỉ mỉ.
“Thường thì, anh biết đấy, nó vẫn hơi chậm thế mà,” nhân viên pha chế rượu nói.
Tôi ngờ rằng nhà hàng này sẽ chẳng tồn tại bao lâu nữa. Nó đang có dấu hiệu xuống dốc, và tôi biết ít nhiều về những gì tôi sẽ viết trong chuyên mục của mình vào ngày hôm sau. Một vài cụm từ đã nảy ra: “Một nơi tầm thường theo phong cách những năm năm mươi, phục vụ thứ thức ăn thông thường, hơi đáng xấu hổ”, “như một con tàu ma cứ trăm năm lại đi vào bến cảng lúc nửa đêm.” Đó là địa điểm mà bạn có thể được một bà cô già giàu có đưa đến, tuy nhiên khách hàng ở đây lại chỉ có những ông già và những anh chàng có vẻ thèm thuồng, háo hức thay vì những mệnh phụ mặc áo lông thú và đeo ghim cài áo.
“Chà, nói thật thì,” tôi nói, “nơi này hơi ghê ghê.”
Anh đặt ly brandy trước mặt tôi trên một cái khăn lót cocktail và liếc về phía ông già kia, người đang từ từ nhả ra những chùm khói qua lỗ mũi. “Đó có phải là điều ghê nhất không?” Anh nói nhỏ. “Tôi đang kiếm một công việc khác.”
“Có lẽ đó là ý kiến hay đấy,” tôi nói.
Anh lại liếc sang ông già đang hút thuốc và đứng yên ở đầu này của quầy bar. Anh khoanh tay trên mặt quầy và gật đầu.
“Anh sẽ ngạc nhiên khi biết rằng công việc pha chế rượu này khó kiếm như thế nào,” anh nói. “Ý tôi là, anh biết đấy, kiếm được việc ở những nơi tử tế ấy. Anh chưa từng đến đây bao giờ, đúng không?”
“Đúng.”
“Tôi không nghĩ là đã từng trông thấy anh.”
Một thoáng chăm chú lướt qua đôi mắt xanh nhạt của anh. Anh đang cố, nhưng không có vẻ tin chắc hay tò mò, tìm hiểu tôi. Tôi cho rằng quầy bar này là chốn thường xuyên lui tới của những thanh niên muốn kiếm tiền. Tôi không đủ đẹp trai để là một kẻ bán thân, cũng không mang vẻ giàu có đến mức được coi là một khách mua.
“Tôi chỉ muốn đến thử xem nơi này như thế nào thôi,” tôi nói. “Anh không thể cứ mãi đến mấy chỗ quen thuộc được.”
Ah gật đầu, không tin lắm. Đó không phải là một nhà hàng bình thường, không phải là nơi dành cho những người đàng hoàng.
“Anhh, ừm, làm việc ở quanh đây à?” Anh hỏi.
“Ở khu trung tâm,” tôi nói. “Tôi ở ngay đây thôi. Tôi làm nghề viết lách.”
“Thật à? Anh viết gì thế?”
Tôi nói cho anh ta biết tên tờ báo, và anh ta gật đầu với sự sốt sắng đặc biệt. Hồi đó tờ báo đang có tiếng. “Anh viết gì vậy?” Anh hỏi lại.
“Ồ, nhiều thứ. Mà này, anh sắp nghỉ chưa?”
“Ừm, một tiếng nữa chúng tôi sẽ đóng cửa.”
“Anh có muốn đi uống với tôi ở một nơi ít kinh khủng hơn không?” Tôi hỏi.
“Ồ, được chứ,” anh nói. “Ý tôi là, đồng ý.”
“Tôi tên là Jonathan.”
“Tôi là Erich. Tên tôi là Erich.”
Anh gật đầu khi giới thiệu tên mình. Trong mắt anh đã không còn vẻ e dè. Đây là công việc ngoài lề của tôi – tôi đã đến để làm quen với nhân viên pha chế rượu.
Tôi đi dạo và gặp anh một giờ sau đó ở một địa điểm trong khu phố Ba mươi. Anh đã đến trước tôi. Anh đứng ở quầy bar với một chai Budweiser, vờ như đang chăm chú với bộ phim của Esther Williams[41] trên màn hình video. Anh chào và khẽ gật đầu, như thể đồng tình với lời chào của anh.
[41] Esther Jane William (sinh năm 1921): diễn viên, vận động viên bơi lội nổi tiếng của Mỹ.
Tôi gọi một chai bia và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Chúng tôi nói về những chuyện bình thường, giới thiệu qua loa về lai lịch và những tham vọng của chúng tôi. Hôm đó là tối thứ Tư, đám đông ở quán bar chỉ còn thưa thớt. Hình ảnh những cô gái hát hợp xướng mặc đồ sặc sỡ đang vui đùa trong làn nước xanh biếc lấp lánh trên màn hình video khiến cho căn phòng như ngập tràn ánh hoàng hôn rực rỡ, liên tục đổi màu. Erich rất lơ đãng, anh là mẫu người cứ xé khăn ăn, gõ chân và không thể nghe được một nửa những gì người ta nói với mình. Tóc trên đỉnh đầu anh đã mỏng đi – tôi ngạc nhiên khi biết anh kém tôi ba tháng tuổi.
Sau thứ có vẻ là một khoảng cách thích hợp đối với cả hai chúng tôi – hai cốc bia – chúng tôi đến căn hộ của anh trên phố Hai mươi tư, nơi anh đã đem đến cho tôi sự ngạc nhiên thứ hai.
Anh rất tuyệt khi ở trên giường. Tôi không còn cách nào khác để diễn đạt điều đó. Có vẻ nó giống sự lột xác. Lúc bình thường, anh cứ bồn chồn và thiếu tập trung, bằng chứng là anh thường ngừng lại bất chợt và hay bật ra những điệu cười kì cục. Nhưng khi cởi quần áo, anh bỗng có được sự tự tin duyên dáng của một vũ công. Vóc dáng anh khiêm tốn và gân guốc, với hai cánh tay nổi gân và lồng ngực nở nang. Đêm đầu tiên đó, khi chúng tôi đến căn hộ của anh (một phòng đơn với căn bếp kiểu Pullman[42] và phòng tắm), anh cởi đồ nhanh chóng như thể anh đã mặc một bồ đồ dễ cởi, giống kiểu những diễn viên hài kịch thường mặc. Mới đây anh vẫn còn quần áo trên người, thế mà trong nháy mắt tôi đã thấy anh khỏa thân, trong khi tôi vẫn đang cởi nốt cái khuy áo cuối cùng.
[42] Căn bếp nhỏ được tận dụng từ những hốc tường và được che bởi cửa hoặc rèm.
“Này,” tôi nói, “sao anh làm được thế?”
Anh cười và giúp tôi cởi nốt quần áo. Những động tác của anh nhanh nhẹn và hiệu quả nhưng vẫn đầy dịu dàng. Anh đột ngột biến phong thái e dè, do dự thành sự tập trung điềm tĩnh và khéo léo, thong thả. Anh cởi khuy quần tôi và nhẹ nhàng tụt nó xuống mắt cá chân, rồi vòng tay quanh eo tôi và nhấc tôi lên giường, chỉ hơi căng thẳng một chút.
Anh không tạo ra hứng thú cho tôi. Tôi chỉ thấy hứng thú khi nghĩ về tình dục, về sự dễ chịu của nó – tôi đã ra ngoài và bắt gặp một người, một gã đàn ông bình thường sẵn sàng làm theo những gì tôi thích. Tôi thừa nhận rằng – trong những ham muốn của tôi có một nét bạo dâm. Một thói kiêu ngạo. Tôi lựa chọn những người đàn ông bình thường, những người sẽ không từ chối tôi; những người sẽ thấy may mắn khi có tôi. Tôi không rung động nhiều trước hình ảnh da thịt họ - dù vạm vỡ hay gầy gò thì vẫn luôn lúng túng và khoan khoái – mà chủ yếu vì cảm giác của tôi khi chiếm đoạt được họ. Khi Erich đưa tôi lên giường, tôi cảm thấy một sự hứng thú thông thường, quen thuộc. Tôi sẽ để anh điều khiển cuộc chơi nhưng rời khỏi căn hộ của anh tôi nhất định sẽ không phải là người chiến bại. Một phần trong tôi đã biến mất, ngay cả vào lúc này, khi ngực chúng tôi chạm nhau lần đầu tiên và chân chúng tôi vụng về tìm vị trí. Tôi không chỉ đơn giản như thế. Tôi cảm thấy một sự phấn chấn rạo rực nhưng không hoàn toàn dễ chịu, như thể một đàn ong đang vo ve trong ngực tôi.
Erich rúc vào vai tôi, nhẹ nhàng lướt những ngón tay dọc theo sườn tôi. Những đụng chạm của anh thật dịu dàng. Trong sự nghiêm túc và vẻ lơ đãng cùng ngoại hình không ưa nhìn của anh có vẻ gì đó ngọt ngào. Ở nó còn có vẻ gì đó đáng sợ.
Anh nằm trên người tôi một lúc, tới tấp hôn lên ngực tôi. Rồi anh khéo léo xoay cơ thể của chúng tôi để tôi nằm lên trên. Tôi nhìn trọn vẹn cơ thể anh, lần đầu tiên. Anh gầy nhưng có khung xương to, bụng nhiều lông hơn ngực. dương v*t anh nằm chếch về phía bên phải. Cái bụng rậm rạp, gầy gò và cái dương v*t nằm chênh chếch của anh đột nhiên làm tôi thấy chán nản. Thường thường với những người lạ, tôi vẫn có một khoảnh khắc bị sốc như thế này, khi mà tôi hoàn toàn hiểu rõ sự riêng tư của cơ thể họ. Nhìn vào thân hình gầy gò của Erich, tôi cảm thấy như mình đã bắt gặp anh đang hớ hênh. Tôi thấy một khía cạnh khác của anh, và nó đẩy tôi từ thích thú sang ghê tởm – sự kích động của tôi bị giảm đi, và tôi đành phải giả vờ, nhắm mắt nhắm mũi nhét dương v*t của anh vào miệng mình. Tôi đã nghĩ đến việc về nhà và uống gì đó với Clare. Ngay lúc chuyện này xảy ra, nó đã trở thành một câu chuyện mà tôi sẽ kể với chị. Chị và tôi sẽ cùng lắc đầu và bàn luận về sự khan hiếm tình yêu đến khó hiểu này.
“Hãy thư giãn đi,” Erich thì thầm. Tôi không trả lời, vì miệng tôi đang bị lấp đầy. Khi anh lặp lại, tôi ngẩng đầu lên và nói: “Tôi hoàn toàn thoải mái mà, cảm ơn.” Tôi sẽ đưa anh đến đích thật nhanh chóng, rồi tự làm mình đến đích, và trở lại là chính tôi, tự do trên đường phố.
Anh trườn ra, để tôi nằm sấp trên đệm. “Anh quá căng thẳng đấy,” anh nói. Tôi ngờ vực tuân theo, và anh bắt đầu xoa bóp lưng tôi, dùng những đầu ngón tay lần theo bờ vai và xương sống tôi. “Anh rất săn chắc,” anh nói. “Tôi có thể cảm nhận được qua đôi bàn tay mình.”
Chúng tôi là người tình một nửa của nhau. Chúng tôi cùng nhau cư ngụ nơi thượng tầng trong sáng của tình yêu, nơi người ta say mê nhau, yêu thương sự kì cục của nhau, và mong ước mọi điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đối phương. Vì chúng tôi không phải là tình nhân theo nghĩa xác thịt, nên chúng tôi không mắc phải những phiền toái nho nhỏ. Clare và tôi kể cho nhau nghe những bí mật tồi tệ nhất và thừa nhận những nỗi sợ hãi ngốc nghếch nhất. Chúng tôi ăn tối và đi mua sắm cùng nhau, phán đoán tính cách của những người đàn ông đang băng qua chúng tôi trên đường. Khi nhìn lại, tôi nghĩ chúng tôi giống như hai chị em gái trong những câu chuyện cổ tích, trong đó cô em trẻ trung xinh đẹp không được lấy chồng cho đến khi nào có người đến cầu hôn cô chị, người kém hấp dẫn hơn. Dù vậy, trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi cùng lúc vừa là cô chị vừa là cô dâu. Cuộc sống của chúng tôi chỉ xoay quanh những bọ quần áo, những câu chuyện gẫu và những lời tự kiểm điểm. Chúng tôi bình thản chờ đợi xem liệu có ai đến để mang một trong hai người chúng tôi đến với một loại tình yêu khác đáng sợ hơn không.
Trong ba năm, chúng tôi cùng nhau sống trong một tòa nhà sáu tầng không có thang máy trên phố Ba Đông giữa đại lộ A và B, nơi những phụ nữ Puerto Rico cãi nhau bằng tiếng Tây Ban Nha và những kẻ bán ma túy không ngừng ra vào những căn hộ dưới tầng hầm. Những cậu bé phê thuốc đẹp đến nao lòng thường say sưa nhảy nhót theo tiếng nhạc phát ra từ những chiếc radio khổng lồ trên phố. Chúng tôi sống ở khu này vì giá thuê nhà rẻ, và bởi vì – chúng tôi thừa nhận điều này trong một đêm say xỉn – chúng tôi thấy nó thú vị hơn cả những khu vực an toàn trong thành phố. Tôi phải thú nhận thêm rằng tôi coi khu này là một ngọn nguồn cho những câu chuyện mà tôi sẽ kể trong cuộc đời tốt đẹp hơn sắp tới. Khi tôi nói thế, Clare đã nhìn tôi ngờ vực và nói: “Quả là vớ vẩn khi tin tưởng vào tương lai, cậu không nghĩ thế à? Nó hơi giống như việc chế tạo những con thuyền trong chai ấy. Cậu biết không? Tuyệt vời một cách đáng sợ.”
Clare ba mươi sáu, hơn tôi mười một tuổi. Chị cứ khăng khăng sống theo vài giả thuyết mà mình đã đặt ra. Chị tin rằng James M. Cain[39] là nhà văn Mỹ vĩ đại nhất, xã hội đã lên đến cực điểm vào cuối những năm ba mươi của thế kỉ XX, và không còn người đàn ông nào để dành cho một phụ nữ lập dị ở độ tuổi của chị. Khi tranh luận ở điểm cuối cùng, chị đáp lại bằng một giọng thiện chí nhưng gần như mất hết kiên nhẫn, như một giáo viên giỏi đang đối mặt với đứa học sinh không có triển vọng thứ mười nghìn của mình. “Bỏ qua những người đàn ông này nhé,” chị nói, đếm ngón tay. “Những người đồng tính. Những người đã có gia đình. Những người dưới hai mươi lăm tuổi. Những người trên hai mươi lăm nhưng chỉ hứng thú với những phụ nữ trẻ xinh đẹp. Những người vẫn còn độc thân chỉ vì họ không thể gắn bó đời mình với bất cứ ai. Những kẻ đê tiện thấy rõ. Những kẻ hiếp dâm và những tên sát nhân tâm thần. Còn lại ai nữa nào?”
[39] James M.Cain (1892-1977): nhà văn và phóng viên người Mỹ.
Trong cuộc sống thường ngày, chị luôn có thái độ vui vẻ đầy mỉa mai, như nhân vật phụ trong một vở hài kịch hồi những năm ba mươi. Như một kẻ sống sót sau chiến tranh, vẫn đi giày cao gót và tô son khi đi giữa đống đổ nát.
Khi chị buồn chán, chúng tôi thường bàn tính đến việc có con với nhau. Clare từng trải qua một lần kết hôn, một lần phá thai, hàng tá tình nhân và ba lần đổi việc. Tôi rời trường đại học đã được ba năm, phụ trách chuyên mục ẩm thực cho một tờ tuần báo, và có đôi chút ham muốn với một người đàn ông mà tôi gọi là tình nhân. Về đêm, con phố của chúng tôi lấp lánh những mảnh kính vỡ. Mỗi sáng, một phụ nữ Mỹ Latin đẫy đà thường đi ngang qua phía dưới cửa sổ căn hộ của chúng tôi, hát vang những bản tình ca cảm động trên đường chị ta đi làm.
Một buổi sáng đầu xuân, khi chiếc lá thường xuân màu xanh nhạt đơn độc rơi xuống giữa thanh ngang của lưới sắt chống trộm trên cửa sổ phòng bếp, Clare vừa đưa tách cà phê lên miệng vừa thở dài nói: “Có lẽ tôi sẽ nhuộm lại tóc về màu bình thường. Cậu có nghĩ là đến tuổi nào đó thì người phụ nữ nên ngừng việc tỏ ra lập dị không?”
Chị đang mặc chiếc áo kimono mua ở cửa hàng giảm giá, không phải bằng lụa nhã nhặn mà bằng tơ nhân tạo có màu son chói mắt, chắc là đã được chủ nhân trước đây của nó mua mới ở Hawaii hay Las Vegas năm năm trước. Clare không đẹp, thậm chí còn bị coi là phản lại vẻ đẹp thông thường.
“Không,” tôi nói. “Em nghĩ đến độ tuổi nào đó người phụ nữ càng có quyền làm thế hơn.” Tôi đứng ở cửa, vì bếp của chúng tôi chỉ vừa chỗ cho một người.
“Sự khác biệt giữa ba mươi sáu và hai mươi lăm,” chị nói, “là ở tuổi hai mươi lăm, cậu sẽ không có vẻ kì cục. Tuổi trẻ là sự bào chữa quan trọng hơn hết. Cậu có thể thử bất cứ thứ gì, làm bất cứ điều gì với tóc cậu, và vẫn tự tin với vẻ ngoài đó để đi khắp nơi. Cậu vẫn đang khám phá bản thân, vì thế điều đó là bình thường. Nhưng khi cậu già hơn một chút, cậu sẽ thấy những ảo tưởng của mình bắt đầu lộ ra.”
“Vậy hôm nay sẽ trở thành một ngày thứ Bảy đen tối khác à?”
“Chưa biết được.”
“Đừng. Ngoài trời đẹp thế kia cơ mà. Hãy đi mua sắm và xem phim thay vì nghĩ đến việc tự sát.”
“Khi chúng ta có con,” chị nói, “cậu nghĩ tóc nó sẽ mang màu gì?”
“Tóc chị có màu gì vậy?”
“Chúa ơi, để tôi nhớ lại đã. Hơi nâu xỉn, tôi nghĩ vậy. Kiểu tóc của cô nhân viên bán hàng.”
“Có lẽ đứa bé sẽ mang màu tóc của em,” tôi nói. “Em cược rằng những loại gen yếu nhưng mang tính quyết định có thể làm cho chúng ta ngạc nhiên đấy.”
Chị nhấp một ngụm cà phê. “Thành thực mà nói,” chị nói, “tôi có cảm giác rằng những tổ tiên Rumani ghê gớm của tôi sẽ lấn át những tổ tiên Thụy Điển trầm ngâm của cậu.”
“Thế chị có muốn một phiên bản thu nhỏ của chị à?”
“Chúa ơi, không. Một tôi khác nữa à? Chúng tôi sẽ ghét nhau mất. Tôi chỉ mong một điều là đứa bé có trí thông minh của cậu.”
“Đừng khiêm tốn thế,” tôi nói. “Chị rất thông minh mà.”
“Nếu tôi thông minh như thế,” chị nói, “thì tôi đâu có cho rằng mình đã ba mươi sáu tuổi, đứng trong một căn bếp bé xíu và cố nghĩ ra cách tốt nhất để có con mà không cần yêu đương.”
Chúng tôi vẫn thường nói chuyện về đứa bé. Chúng tôi không lập kế hoạch, nhưng chúng tôi nói về nó rất nhiều. Đó là thói quen của chúng tôi. Hồi trước chúng tôi cũng từng có những ý định khác: chúng tôi đã cùng bàn về việc khai trương dịch vụ giao đồ ăn sáng đến tận giường, và chuyển đến vùng duyên hải ở Tây Ban Nha. Chúng tôi luôn bàn bạc về chi tiết của những việc này tỉ mỉ đến mức kết quả là chúng tôi đã băng qua một ranh giới vô hình và bắt đầu cảm thấy như thể chúng tôi đã thực hiện chúng, những lời trò chuyện của chúng tôi chủ yếu chỉ mang tính mộng tưởng. Chúng tôi đã từng mang món Benedict trứng[40] từ phố Ba lên phía trên đại lộ Công Viên trong một cái tủ hơi (chúng đã biến thành một món hổ lốn bị vón cục), chúng tôi đã mua những cuốn hướng dẫn du lịch và băng cassette dạy hội thoại bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi không nghĩ rằng chuyện về đứa bé này sẽ có gì khác so với những việc đó.
[40] Món ăn với hai lát bánh nướng, trên mỗi lát xếp một miếng thịt xông khói, một quả trứng chần và một loại nước xốt làm từ bơ, trứng và dầu.
“Nếu là con trai, em muốn đặt tên nó là Ethan,” tôi nói. “Hoặc Trevor.”
“Thôi nào cưng,” chị nói. “Không có cái tên mỹ miều nào hết. Nếu là con trai hãy gọi nó là Jon Junior. Nếu là con gái, sao không gọi nó là Mary hay Ann?”
“Tại sao không là Clare Junior?”
“Tôi đã bảo cậu rồi. Tôi muốn nó khác tôi.”
Đối thủ của Clare chính là hình ảnh của chị, là cái tính cách phức tạp mà chị đã tạo ra cho bản thân. Chị không dễ gì bộc lộ khả năng dữ dằn, sắc sảo và “thú vị” của mình. Khi thực hiện những điệu bộ đó quá hoàn hảo, chị có thể hơi kì quặc – thành thạo và khéo léo. Tôi có thể nhận thấy nó gây phiền phức cho chị như thế nào. Đôi khi chị ôm lấy cá tính của mình với sự thách thức thấy rõ, nhìn ra xã hội như thể muốn nói: “Đúng thế, thì sao?” Đôi khi chị tự làm mình sợ. Chị đã trở nên quá điêu luyện đến nỗi chị khó có thể thoát ra khỏi tính cách đó được nữa.
Tuy nhiên, chị vẫn có một cuộc sống mà tôi cho là đầy đủ, thú vị, và tôi không thích nghe những lời tự hạ thấp mình của chị. Chị từng lấy một vũ công hiện đang sống ở Tây Berlin, đoàn ca kịch của gã vẫn định kì đến diễn ở New York trước sự hoan nghênh thái quá. Chị từng là tình nhân của một nữ nhà văn khá nổi tiếng. Chị từng dùng heroin và thuốc phiện, và dùng lượng Dexedrine nhiều đến mức cần được điều trị tại một bệnh viện tư ở Baltimore. Cuộc sống của tôi, so với chị, có vẻ rụt rè và cẩn trọng. Tôi không muốn phải nghĩ rằng cả hai sự lựa chọn – một cuộc sống nguy hiểm, quá cỡ và một cuộc sống lao động thoải mái – cuối cùng đều dẫn đến một thôi thúc mơ hồ, một niềm tin như nhau rằng thế hệ kế tiếp phải cải thiện vận mệnh của nó.
“Chị nghĩ ra sao về sự trừng phạt?” Tôi hỏi.
“Cho bản thân? Hay cho đứa bé?”
“Cho đứa bé.”
“Tôi sẽ không đánh nó,” chị nói. “Tôi không thể. Ôi, tôi không biết nữa. Có lẽ tôi sẽ là một trong những bà mẹ hay giận dỗi và thất vọng, và đứa bé sẽ mong rằng thà nó bị mắng mỏ hay ăn tát để cho xong chuyện còn hơn.”
Clare làm việc cho một thợ kim hoàn trên quảng trường Thánh Marks. Chị có năng khiếu trong việc kết hợp những thứ kì cục lại với nhau – chị làm vòng đeo tai và nhưng cái trâm từ kim cương giả, thủy tinh vỡ, thiếc gỉ và những vật bằng nhựa nhỏ xíu từ những cửa hàng một giá. Lượng khách quen của chị tuy ít nhưng trung thành. Tôi đã bất ngờ trở thành người viết bài phê bình về các nhà hàng cho một tờ tuần báo, nó khởi sự một cách lặng lẽ và dần trở nên quá nổi tiếng bất chấp những tiện nghi thiếu thốn và đội ngũ nhân viên thiếu kinh nghiệm. Khi tôi nhận công việc này, ngay sau khi rời NYU, tôi đã coi nó là bước đầu tiên dẫn đến sự nghiệp thực sự của mình trong đội ngũ nhân viên của một tờ tạp chí quốc gia hào nhoáng. Nhưng không ngờ tôi đã vô tình bước lên – gần như nằm ngoài mong đợi của tôi – nền tảng của một điều tốt đẹp. Trong ba năm, tòa soạn đã chuyển từ những văn phòng ẩm thấp trong khu bán quần áo đến một tòa nhà sang trọng trên quảng trường Thống Nhất. Đội ngũ nhân viên của nó đã tăng lên gấp ba. Và tôi đã được thăng chức từ nhân viên đánh máy và phóng viên không thường xuyên lên người phụ trách chuyên mục ẩm thực.
Điều trớ trêu là: tôi chẳng biết tí gì về đồ ăn thức uống cả. Đó là niềm đam mê của mẹ tôi, còn tôi lại luôn thờ ơ với mọi kiến thức về chủ đề này. Khi tổng biên tập quyết định mở thêm mục nhà hàng và bảo tôi là ông muốn tôi viết bài cho nó, tôi đã phản đối rằng tôi thậm chí còn không biết món bánh trứng Lorraine được chế biến thế nào. Ông nói: “Vấn đề là ở đó đấy. Nhiều người khác cũng đâu có biết.” Ông ngỏ ý sẽ tăng lương cho tôi, và giao cho tôi viết tối thiểu là sáu trăm chữ một tuần. Và thế là tôi trở thành Plain John, một nhân vật giàu có tương đối khiêm tốn, người đánh giá cao các món ăn ngon nhưng không nhảy dựng lên trước một chút bột gia vị bạch đậu khấu không mong muốn trong món xúp đặc nghiền nhừ có ớt, người thích đi ăn tối với bạn bè hoặc các cô nhân tình mỗi tuần đôi lần, và sẵn sàng bật dậy trước thứ gì đó hấp dẫn nếu cần. Tôi viết bài đánh giá về những nhà hàng Trung Quốc và Ba Lan, lùng sục khắp Manhattan để tìm được những loại hamburger, pizza và mì xào Thái ngon nhất. Tôi chỉ ra những nhà hàng thức thời nào phục vụ những khẩu phần nhỏ lố bịch, nơi nào sẽ gây ấn tượng sâu sắc nhưng lại không khiến các bậc cha mẹ lo lắng khi họ từ nơi khác đến thăm. Cả Clare và tôi đều sống dựa vào những bữa ăn được tờ báo chi trả, dù chúng tôi phải trả giá thông qua chế độ ăn thất thường của mình. Có tuần chúng tôi chỉ ăn mỗi món bánh bột ngô cuộn, tuần khác thì chẳng có gì vào bụng ngoài món vịt Bắc Kinh. Clare băn khoăn liệu việc mỗi tuần chỉ ăn mỗi một loại thức ăn như thế có thể gây hại lâu dài cho chúng tôi không. Chị mang về nhà nào vitamin, nào đồ uống làm từ cây lô hội, và bột protein được coi là thứ mà những vận động viên thể hình nổi tiếng ưa chuộng, những người đang nhe răng cười và làm động tác gồng mình trên những cái nhãn lòe loẹt sặc sỡ.
Chúng tôi bảo nhau rằng chúng tôi nên nói chuyện với đứa bé liên tục, ngay cả trước khi nó đủ tuổi để hiểu. Chúng tôi cùng nhất trí rằng tốt hơn hết là bố mẹ nên thành thật với con trẻ, cả về những việc xấu xa cũng như những điều thú vị.
Người tình một nửa khác của tôi tên là Erich. Anh và tôi đã làm tình với nhau, mặc dù anh không truyền cho tôi nỗi nhớ nhung cồn cào hay tâm trạng bồn chồn, khắc khoải khi kết hợp với khao khát sẽ tạo thành tình yêu. Tôi vẫn bình thản trước Erich. Thành thực mà nói, từ khi rời Cleveland tôi chưa bao giờ yêu người đàn ông nào mà tôi ngủ cùng – tôi không hề tới gần được cảm xúc đó, dù tôi đã biết hàng tá cơ thể trong mọi tâm trạng và thể xác khác nhau. Sự quan tâm của tôi trên thực tế là dành cho Clare và trên giả thuyết là cho những người đàn ông nào đó mà chúng tôi thấy trên những con đường trong thành phố: những người đàn ông mạnh mẽ không khao khát danh tiếng hay hạnh phúc thông thường mà chỉ hành động theo sự bất cẩn của mình. Tôi nhìn một cách kín đáo nhất có thể vào những gã du côn đi giày quân đội màu đen, những cậu chàng Italia ủ rũ và những đứa trẻ tóc dài hung bạo đến New York từ những thị trấn nhỏ, hi vọng tiếng tăm về tội lỗi của chúng vẫn được giữ vững.
Tôi biết những ham thích của tôi là phi lý và có lẽ không lành mạnh. Nhưng chúng vẫn cứ dai dẳng – chúng là miền khát vọng của tôi. Một cậu bé nào đó mà tôi thấy đôi lần ở quầy bán báo trên phố, với mái tóc rối bù và vẻ mặt cau có, có thể khiến tôi ngứa ngáy muốn huých khuỷu tay vào tay áo cậu. Người đàn ông mà tôi ngủ cùng có vẻ còn thiếu sót và xa cách.
Erich và tôi làm tình một hay hai lần một tuần, thường là ở nhà anh trong khu phố Hai mươi Đông. Chúng tôi đã gặp nhau hai năm trước, trong nhà hàng nơi anh làm phục vụ quầy bar. Tuần đó tôi đang viết bài đánh giá về những nhà hàng dành cho dân đồng tính nam – chuyên mục của tôi sẽ đánh giá nhiều địa điểm khác nhau nơi các độc giả đồng tính nam có thể đến cùng người tình của họ nếu họ muốn công khai nắm tay nhau trên bàn. Tối hôm đó tôi đi ăn một mình và nán lại quầy bar để uống một ly brandy trên đường ra ngoài. Tuy quầy bar không đông, nhưng người pha chế rượu vẫn mất gần năm phút để hỏi xem tôi muốn uống gì. Anh đang khom người từ phía đầu kia của quầy bar, tay khoanh trên mặt quầy như một bà nội trợ Flemish đang thò người ra khỏi cửa, khẽ gật đầu một cách nhịp nhàng, dứt khoát trước câu chuyện mà một ông già đeo đồ trang sức bằng vàng và quàng khăn màu xanh ngọc bích đang kể. Trong khi chờ đợi, tôi ngắm cái mông của anh chàng pha chế, nó nhỏ và chắc nịch, lắc lắc nhịp nhàng theo những cái gật đầu của anh.
Cuối cùng, ông già đang kể chuyện hất đầu về phía tôi, nói: “Tôi nghĩ cậu có một vị khách đấy.” Người pha chế ngoảnh lại với vẻ giật mình. Mặt anh ta mỏng, mũi và cằm quá nhọn so với tiêu chuẩn đẹp trai thông thường, dù sắc mặt anh ta hồng hào và đôi mắt mang màu xanh thơ ngây, e dè như của trẻ con. Đó là kiểu mặt khiến người ta có thể nản lòng khi nhìn vào trong gương, dựa theo thói kiêu hãnh của con người – một khuôn mặt lúc thì thấy đẹp lúc lại thấy xấu. New York đầy những khuôn mặt như thế, những khuôn mặt không đẹp lắm của đám thanh niên, những người bị các bà mẹ quan tâm quá mức và tin rằng, với hi vọng nghiêm túc dù hơi e dè, họ có thể tạo nên tương lai bằng vẻ ngoài của họ.
“Ôi, xin lỗi,” anh ta nói. “Anh muốn uống gì?”
Tôi gọi một ly brandy. “Tối nay việc kinh doanh có vẻ chậm chạp nhỉ?” Tôi hỏi.
Anh gật đầu, rót brandy vào một chiếc ly hẹp miệng cỡ lớn. Ông già quàng chiếc khăn màu xanh ngọc rút một điếu thuốc ra khỏi bao thuốc đang được ông đặt trên mặt quầy trước mặt, và nhét nó vào một cái bót thuốc lá ngắn bằng vàng với sự tập trung tỉ mỉ.
“Thường thì, anh biết đấy, nó vẫn hơi chậm thế mà,” nhân viên pha chế rượu nói.
Tôi ngờ rằng nhà hàng này sẽ chẳng tồn tại bao lâu nữa. Nó đang có dấu hiệu xuống dốc, và tôi biết ít nhiều về những gì tôi sẽ viết trong chuyên mục của mình vào ngày hôm sau. Một vài cụm từ đã nảy ra: “Một nơi tầm thường theo phong cách những năm năm mươi, phục vụ thứ thức ăn thông thường, hơi đáng xấu hổ”, “như một con tàu ma cứ trăm năm lại đi vào bến cảng lúc nửa đêm.” Đó là địa điểm mà bạn có thể được một bà cô già giàu có đưa đến, tuy nhiên khách hàng ở đây lại chỉ có những ông già và những anh chàng có vẻ thèm thuồng, háo hức thay vì những mệnh phụ mặc áo lông thú và đeo ghim cài áo.
“Chà, nói thật thì,” tôi nói, “nơi này hơi ghê ghê.”
Anh đặt ly brandy trước mặt tôi trên một cái khăn lót cocktail và liếc về phía ông già kia, người đang từ từ nhả ra những chùm khói qua lỗ mũi. “Đó có phải là điều ghê nhất không?” Anh nói nhỏ. “Tôi đang kiếm một công việc khác.”
“Có lẽ đó là ý kiến hay đấy,” tôi nói.
Anh lại liếc sang ông già đang hút thuốc và đứng yên ở đầu này của quầy bar. Anh khoanh tay trên mặt quầy và gật đầu.
“Anh sẽ ngạc nhiên khi biết rằng công việc pha chế rượu này khó kiếm như thế nào,” anh nói. “Ý tôi là, anh biết đấy, kiếm được việc ở những nơi tử tế ấy. Anh chưa từng đến đây bao giờ, đúng không?”
“Đúng.”
“Tôi không nghĩ là đã từng trông thấy anh.”
Một thoáng chăm chú lướt qua đôi mắt xanh nhạt của anh. Anh đang cố, nhưng không có vẻ tin chắc hay tò mò, tìm hiểu tôi. Tôi cho rằng quầy bar này là chốn thường xuyên lui tới của những thanh niên muốn kiếm tiền. Tôi không đủ đẹp trai để là một kẻ bán thân, cũng không mang vẻ giàu có đến mức được coi là một khách mua.
“Tôi chỉ muốn đến thử xem nơi này như thế nào thôi,” tôi nói. “Anh không thể cứ mãi đến mấy chỗ quen thuộc được.”
Ah gật đầu, không tin lắm. Đó không phải là một nhà hàng bình thường, không phải là nơi dành cho những người đàng hoàng.
“Anhh, ừm, làm việc ở quanh đây à?” Anh hỏi.
“Ở khu trung tâm,” tôi nói. “Tôi ở ngay đây thôi. Tôi làm nghề viết lách.”
“Thật à? Anh viết gì thế?”
Tôi nói cho anh ta biết tên tờ báo, và anh ta gật đầu với sự sốt sắng đặc biệt. Hồi đó tờ báo đang có tiếng. “Anh viết gì vậy?” Anh hỏi lại.
“Ồ, nhiều thứ. Mà này, anh sắp nghỉ chưa?”
“Ừm, một tiếng nữa chúng tôi sẽ đóng cửa.”
“Anh có muốn đi uống với tôi ở một nơi ít kinh khủng hơn không?” Tôi hỏi.
“Ồ, được chứ,” anh nói. “Ý tôi là, đồng ý.”
“Tôi tên là Jonathan.”
“Tôi là Erich. Tên tôi là Erich.”
Anh gật đầu khi giới thiệu tên mình. Trong mắt anh đã không còn vẻ e dè. Đây là công việc ngoài lề của tôi – tôi đã đến để làm quen với nhân viên pha chế rượu.
Tôi đi dạo và gặp anh một giờ sau đó ở một địa điểm trong khu phố Ba mươi. Anh đã đến trước tôi. Anh đứng ở quầy bar với một chai Budweiser, vờ như đang chăm chú với bộ phim của Esther Williams[41] trên màn hình video. Anh chào và khẽ gật đầu, như thể đồng tình với lời chào của anh.
[41] Esther Jane William (sinh năm 1921): diễn viên, vận động viên bơi lội nổi tiếng của Mỹ.
Tôi gọi một chai bia và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Chúng tôi nói về những chuyện bình thường, giới thiệu qua loa về lai lịch và những tham vọng của chúng tôi. Hôm đó là tối thứ Tư, đám đông ở quán bar chỉ còn thưa thớt. Hình ảnh những cô gái hát hợp xướng mặc đồ sặc sỡ đang vui đùa trong làn nước xanh biếc lấp lánh trên màn hình video khiến cho căn phòng như ngập tràn ánh hoàng hôn rực rỡ, liên tục đổi màu. Erich rất lơ đãng, anh là mẫu người cứ xé khăn ăn, gõ chân và không thể nghe được một nửa những gì người ta nói với mình. Tóc trên đỉnh đầu anh đã mỏng đi – tôi ngạc nhiên khi biết anh kém tôi ba tháng tuổi.
Sau thứ có vẻ là một khoảng cách thích hợp đối với cả hai chúng tôi – hai cốc bia – chúng tôi đến căn hộ của anh trên phố Hai mươi tư, nơi anh đã đem đến cho tôi sự ngạc nhiên thứ hai.
Anh rất tuyệt khi ở trên giường. Tôi không còn cách nào khác để diễn đạt điều đó. Có vẻ nó giống sự lột xác. Lúc bình thường, anh cứ bồn chồn và thiếu tập trung, bằng chứng là anh thường ngừng lại bất chợt và hay bật ra những điệu cười kì cục. Nhưng khi cởi quần áo, anh bỗng có được sự tự tin duyên dáng của một vũ công. Vóc dáng anh khiêm tốn và gân guốc, với hai cánh tay nổi gân và lồng ngực nở nang. Đêm đầu tiên đó, khi chúng tôi đến căn hộ của anh (một phòng đơn với căn bếp kiểu Pullman[42] và phòng tắm), anh cởi đồ nhanh chóng như thể anh đã mặc một bồ đồ dễ cởi, giống kiểu những diễn viên hài kịch thường mặc. Mới đây anh vẫn còn quần áo trên người, thế mà trong nháy mắt tôi đã thấy anh khỏa thân, trong khi tôi vẫn đang cởi nốt cái khuy áo cuối cùng.
[42] Căn bếp nhỏ được tận dụng từ những hốc tường và được che bởi cửa hoặc rèm.
“Này,” tôi nói, “sao anh làm được thế?”
Anh cười và giúp tôi cởi nốt quần áo. Những động tác của anh nhanh nhẹn và hiệu quả nhưng vẫn đầy dịu dàng. Anh đột ngột biến phong thái e dè, do dự thành sự tập trung điềm tĩnh và khéo léo, thong thả. Anh cởi khuy quần tôi và nhẹ nhàng tụt nó xuống mắt cá chân, rồi vòng tay quanh eo tôi và nhấc tôi lên giường, chỉ hơi căng thẳng một chút.
Anh không tạo ra hứng thú cho tôi. Tôi chỉ thấy hứng thú khi nghĩ về tình dục, về sự dễ chịu của nó – tôi đã ra ngoài và bắt gặp một người, một gã đàn ông bình thường sẵn sàng làm theo những gì tôi thích. Tôi thừa nhận rằng – trong những ham muốn của tôi có một nét bạo dâm. Một thói kiêu ngạo. Tôi lựa chọn những người đàn ông bình thường, những người sẽ không từ chối tôi; những người sẽ thấy may mắn khi có tôi. Tôi không rung động nhiều trước hình ảnh da thịt họ - dù vạm vỡ hay gầy gò thì vẫn luôn lúng túng và khoan khoái – mà chủ yếu vì cảm giác của tôi khi chiếm đoạt được họ. Khi Erich đưa tôi lên giường, tôi cảm thấy một sự hứng thú thông thường, quen thuộc. Tôi sẽ để anh điều khiển cuộc chơi nhưng rời khỏi căn hộ của anh tôi nhất định sẽ không phải là người chiến bại. Một phần trong tôi đã biến mất, ngay cả vào lúc này, khi ngực chúng tôi chạm nhau lần đầu tiên và chân chúng tôi vụng về tìm vị trí. Tôi không chỉ đơn giản như thế. Tôi cảm thấy một sự phấn chấn rạo rực nhưng không hoàn toàn dễ chịu, như thể một đàn ong đang vo ve trong ngực tôi.
Erich rúc vào vai tôi, nhẹ nhàng lướt những ngón tay dọc theo sườn tôi. Những đụng chạm của anh thật dịu dàng. Trong sự nghiêm túc và vẻ lơ đãng cùng ngoại hình không ưa nhìn của anh có vẻ gì đó ngọt ngào. Ở nó còn có vẻ gì đó đáng sợ.
Anh nằm trên người tôi một lúc, tới tấp hôn lên ngực tôi. Rồi anh khéo léo xoay cơ thể của chúng tôi để tôi nằm lên trên. Tôi nhìn trọn vẹn cơ thể anh, lần đầu tiên. Anh gầy nhưng có khung xương to, bụng nhiều lông hơn ngực. dương v*t anh nằm chếch về phía bên phải. Cái bụng rậm rạp, gầy gò và cái dương v*t nằm chênh chếch của anh đột nhiên làm tôi thấy chán nản. Thường thường với những người lạ, tôi vẫn có một khoảnh khắc bị sốc như thế này, khi mà tôi hoàn toàn hiểu rõ sự riêng tư của cơ thể họ. Nhìn vào thân hình gầy gò của Erich, tôi cảm thấy như mình đã bắt gặp anh đang hớ hênh. Tôi thấy một khía cạnh khác của anh, và nó đẩy tôi từ thích thú sang ghê tởm – sự kích động của tôi bị giảm đi, và tôi đành phải giả vờ, nhắm mắt nhắm mũi nhét dương v*t của anh vào miệng mình. Tôi đã nghĩ đến việc về nhà và uống gì đó với Clare. Ngay lúc chuyện này xảy ra, nó đã trở thành một câu chuyện mà tôi sẽ kể với chị. Chị và tôi sẽ cùng lắc đầu và bàn luận về sự khan hiếm tình yêu đến khó hiểu này.
“Hãy thư giãn đi,” Erich thì thầm. Tôi không trả lời, vì miệng tôi đang bị lấp đầy. Khi anh lặp lại, tôi ngẩng đầu lên và nói: “Tôi hoàn toàn thoải mái mà, cảm ơn.” Tôi sẽ đưa anh đến đích thật nhanh chóng, rồi tự làm mình đến đích, và trở lại là chính tôi, tự do trên đường phố.
Anh trườn ra, để tôi nằm sấp trên đệm. “Anh quá căng thẳng đấy,” anh nói. Tôi ngờ vực tuân theo, và anh bắt đầu xoa bóp lưng tôi, dùng những đầu ngón tay lần theo bờ vai và xương sống tôi. “Anh rất săn chắc,” anh nói. “Tôi có thể cảm nhận được qua đôi bàn tay mình.”