Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Thủy Hử - Chương 19 - Phần 2
Tiều Cái nói:
- Cái đó xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương Sơn một ngày một hưng thịnh mãi lên.
Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Nói về tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về, báo cho Tri Phủ Tế Châu biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo hán ở Lương Sơn Bạc toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả chăng hồ nước mênh mông, kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng mà truy bắt được. Quan phủ nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư rằng:
- Trước đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được thoát ra về, mà chúng còn cắt tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được mống nào. Tới nay sai Đoàn Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem bao nhiêu quân mã đi truy tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt lên núi mà quan quân thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho được?
Tri Phủ đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo rằng:
- Có quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa Đông Môn.
Tri Phủ nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp. Khi đến quan cư hai bên chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri Phủ xem, Tri Phủ xem xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín sương khố, cùng các giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết đãi.
Trong khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể cho quan mới nghe. Quan mới nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng: "Thái Sư đem việc này đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở đây tướng giỏi thì không, binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ chúng kéo đến đây để vay lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được". Nghĩ vậy trong lòng càng áy náy vô cùng.
Sáng hôm sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh tội. Bấy giờ quan phủ mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn định chiêu binh mãi mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và mưu trí hiến sĩ, để phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên Trung Thư Sảnh, xin sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ quân giặc, nhắc diện lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ, cũng phải đề phòng truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc cướp.
Bấy giờ quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi tiếp được giấy sức phải coi giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi Tống Giang lên cho thảo văn án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ cho nghiêm. Tống Giang xem thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: "Ta không ngờ bọn Tiều Cái lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết cả quan quân, cắt tai Hà Đào, rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến chu diệt chín họ chứ chẳng chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật cũng không tha, vậy hoặc khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được?"
Chàng nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền giao các công văn cho Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn hương thôn, rồi một mình lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi. Tống Giang ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương dắt tay một người đàn bà mà bảo rằng:
- Nhà mụ này thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
- Có việc gì thế?
Vương Bà trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
- Nguyên người này là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là Diêm Công, giỏi nghề ca xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới mười tám tuổi, nhan sắc cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng bố con, đưa nhau sang Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện Vận Thành này, cũng muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người thưởng thức, thành ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang cùng ngõ hẻm. Chẳng may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó, mẹ con không có tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây giờ cũng khó lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi qua đây, nên tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà giúp cho người ta một cỗ quan tài.
Tống Giang nghe nói mà đáp rằng:
- Nếu vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút nghiêng tôi viết cho mấy chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan tài.
Khi vào tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Nhà mụ có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà đáp:
- Chẳng dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
- Nếu vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
- Áp Ty có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin được làm trâu ngựa để đền ơn lớn.
Tống Giang gạt đi rằng:
- Bất tất phải nói thế.
Nói đoạn lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy cho đi lấy quan tài, rồi đứng dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma cho chồng. Khi tống táng xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn chi dụng với nhau.
Một hôm Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có đàn bà con trẻ, liền về hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
- Sao nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta chưa có vợ chăng? Vương Bà nói:
- Tôi chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy nói có vợ con chưa? Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời thường lại cho quan tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ chưa có vợ con gì thì phải.
Diêm Bà nói:
- Con bé nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói khôn ngoan, ngày trước ở Đông Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người nhà tử tế toan xin làm con nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên không muốn cho đi, ai ngờ ngày nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy gì để trả ơn, nên cũng muốn kết làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ bà tác thành giúp cho.
Vương Bà nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang trước còn khảng khái không nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói ngon, thì cũng bằng lòng thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây huyện, mà sắm sanh các đồ vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là áo lượt, lượt giắt trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện tập võ nghệ, còn về phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân Bà Tích là con gái mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu, Tống Giang không thể nào mà chiều dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ với nhau, rồi ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là Trương Văn Viễn cùng đến uống rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một phòng Áp Ty với Tống Giang, thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô, hình dung đon đả, bình sinh thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà khác, lại học được đủ mọi ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo. Tích Bà vốn là một tay ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì trong lòng hơi hơi có chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là một phường tửu sắc ăn chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu mày cuối mắt, đôi bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì Trương Tam lại giả vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói chuyện, lâu la sớm mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ lòng sở ước.
Dần dà từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương Tam càng ngày càng đằm thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống Giang có về đến nhà, thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi là tình ân ái. Tống Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan tâm, năm chừng mười họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì thế cái dây thân ái của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng khít, làm cho phố phường ai ai cũng biết.
Sau Tống Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ đồ bán tín bán nghi, vả trong bụng lại tự nghĩ rằng: "Người ấy không phải là một người vợ cái con cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm cho lắm. Nếu nó không có lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh, can chi nói đến thêm phiền!"
Nhân thế có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề qua nhà một lần nào nữa. Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống Giang lại từ chối là bận việc không về nhà được.
Có một hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi ra hàng nước ở đối cửa để ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón chiên, mình mặc áo lá đen, dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh đao, vai vác khăn gói lớn, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào huyện để nom rồi lại đi.
Tống Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo đại hán để xem. Vừa đi được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà nét mặt hơi có ý ngờ ngợ. Tống Giang nhìn kĩ nét mặt người kia, thì thấy dáng cũng hơi quen, nhưng có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng nhìn mãi Tống Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm trong bụng: Anh này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy, nhưng không dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở gần đấy rằng:
- Ông Áp Ty kia là ai đấy? Nhà hàng đáp:
- Ông ấy là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống Giang chào một tiếng rất to mà hỏi rằng:
- Áp Ty có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống Giang đáp:
- Tôi nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người kia nói:
- Xin mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến một tửu điếm ở đấy, người kia bảo với Tống Giang rằng:
- Xin ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ bàn ghế sạch để ngồi. Người kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào một chỗ, rồi đến trước mặt Tống Giang thụp lạy.
Tống Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
- Chẳng hay ngài là ai, tôi không rõ.
- Ân nhân quên tiểu đệ rồi hay sao?
- Tôi trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin tha lỗi cho- Tiểu đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết ngài một lần, ở nhà Tiều Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây...
Tống Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
- Hiền đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn không?
- Vì chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết mà đến đây để bái yết ngài.
- Thế nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao?... Ai bảo hiền đệ đến đây như thế?
- Bẩm, Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được toàn tính mạng, hiện nay làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm quân sư, Công Tôn Thắng giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở đó, và mấy người nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, cũng đều thần phục bảy anh em chúng tôi, tất cả là mười một người Đầu Lĩnh, lâu la bảy tám trăm người, lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi mang cho một phong thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô Đầu một thể.
Lưu Đường nói xong, giở gói hành lí lấy ra một bức thư, và trăm lạng vàng đưa choi Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng vàng và bức thư bỏ vào túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
- Còn số tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên, rồi sai tửu bảo đứng rót rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế, tên tửu bảo đi xuống dưới nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Hiền đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại đương cần tiền bạc để tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin gửi lại ở đấy, rồi khi nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng thì nhà ông ta cũng phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông ta biết cũng xong, như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng không dám lưu hiền đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện to ngay. Vậy xin đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với các vị Đầu Lĩnh rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
- Đại ân của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy gọi là cho tôi đem chút lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em. Đây là Đại Đầu Lĩnh Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi, không phải như chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không chơi, vậy xin Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
- Nếu phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho hiền đệ mang về là xong.
Lưu Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận, rồi gọi mượn bút mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để giao cho Lưu Đường.
Lưu Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái thác như thế, thì cũng không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả phong thư vào bao cẩn thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Vâng, Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay bây giờ.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây được.
Lưu Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi. Tống Giang gọi tửu bảo lên gác mà dặn rằng:
- Ông khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến tính.
Nói xong cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ đương giữa tháng tám, trời im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
- Hiền đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn thám tử rất nhiều, không phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về cho bình yên.
Nói đoạn bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời thanh bóng sáng, liền trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn họ to gan, ngộ lỡ đám công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều Cái dám bỏ nhà đi làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà nghĩ ngợi một mình.
Chợt có tiếng đằng sau gọi:
- Áp Ty đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai... Cho hay là:
Giang hồ nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao nước vẫn còn sâu,
Thân này xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu lấp được miệng đời,
Vàng đâu mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên nhắn hỏi trời công,
Làm chi đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan đến lúc căm trời,
Gươm kia hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Sách này nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai hồi giáp nhau, đều là một việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm đến, như hồi trên vừa tả Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một phen trước đã khua sông động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một dạng tài tình, một dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một câu một chữ giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong lòng, như vẽ ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng dốt như nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác nhau xa vậy.
Sách này đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An chỉ một phen. Hà Đào hai phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả và hữu. Hà Đào hai phen Thủy chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa thực họa, nên nhiều điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau này, cũng những tay hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã phân biệt, mà ý tứ chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét bút phạm vào nhau, không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng diễn ra càng thấy ly kỳ.
Một đoạn văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt ra, để cho Tống Giang có chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người, vì muốn Tống Giang có sự giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện Bà Tích duyên kiếp, thì phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau khi Vương Bà xin áo quan, cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan, chẳng qua đưa lại cho hồi sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế tử, độc giả thấy lúc trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương Bà, cuối đến Vương Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.
- Cái đó xin nhờ ở Quân sư chỉ giáo cho.
Ngô Dụng vâng lời rồi quay ra sai vát các việc, làm cho Lương Sơn một ngày một hưng thịnh mãi lên.
Nước non riêng thú từ đây,
Một sảnh Tụ Nghĩa mấy tay anh hùng,
Đua nhau ngang dọc vẫy vùng,
Bỏ chi cá chậu chim lồng mà chơi!
Nói về tụi quân binh của Hoàng An, có kẻ chạy trốn thoát về, báo cho Tri Phủ Tế Châu biết tin quan quân bị thua, Hoàng An bị bắt, và các hảo hán ở Lương Sơn Bạc toàn là anh hùng dũng đởm, không hề ai dám đến gần, vả chăng hồ nước mênh mông, kênh ngòi rất lắm, đường lối khó dò, sự thế khó lòng mà truy bắt được. Quan phủ nghe vậy cả kinh, bèn phàn nàn với người nhà Thái Sư rằng:
- Trước đây Hà Đào đã bị một phen khốn đốn một thân được thoát ra về, mà chúng còn cắt tai làm nhục, năm trăm quân mã, không còn sót được mống nào. Tới nay sai Đoàn Luyện Sử Hoàng An, và bộ đạo quan của bản phủ, đem bao nhiêu quân mã đi truy tầm, cũng đều bị nguy hiểm cả, hiện Hoàng An còn bị bắt lên núi mà quan quân thì chết chóc vô ngần, như vậy thì biết tính làm sao cho được?
Tri Phủ đương kinh hoàng thở than, thì bỗng thây lính vào báo rằng:
- Có quan mới đến thay, hiện đương ở nhà quan cư ngoài cửa Đông Môn.
Tri Phủ nghe báo, vội vàng lên ngựa ra ngoài Đông Môn để tiếp. Khi đến quan cư hai bên chào hỏi, đoạn rồi quan mới đưa công văn ra, để cho Tri Phủ xem, Tri Phủ xem xong liền cùng quan mới đi vào trong nhà, đem các ấn tín sương khố, cùng các giấy mà tài liệu bàn giao cho quan mới, rồi đặt tiệc để thiết đãi.
Trong khi ăn tiệc Tri Phủ đem các chuyện ở Lương Sơn Bạc kể cho quan mới nghe. Quan mới nghe đoạn xám hẳn mặt lại mà nghĩ thầm trong bụng: "Thái Sư đem việc này đài cử cho ta, ai ngờ là cái nguyên ủy như thế, ở đây tướng giỏi thì không, binh mạnh cũng không, bắt sao được giặc! Mà nhắc lỡ chúng kéo đến đây để vay lương quấy nhiễu thì ta giữ gìn làm sao được". Nghĩ vậy trong lòng càng áy náy vô cùng.
Sáng hôm sau quan phủ cũ, dọn dẹp đồ đạc trở về Đông Kinh thỉnh tội. Bấy giờ quan phủ mới bẩm xin một viên quan quân đến trấn thủ Tế Châu, bàn định chiêu binh mãi mã, chứa thảo đồn lương, mộ các binh phu dân khỏe mạnh và mưu trí hiến sĩ, để phòng bị bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc. Nhắc diện thảo sớ lên Trung Thư Sảnh, xin sức cho các châu quận xung quanh phải giúp sức để tiểu trừ quân giặc, nhắc diện lại thảo công văn sức đi các châu huyện thuộc hạt bản phủ, cũng phải đề phòng truy nã và coi giữ bản hạt cho nghiêm, để dự bị trừ quân giặc cướp.
Bấy giờ quan Huyện Vận thành cũng thuộc hạt bản phủ ấy, khi tiếp được giấy sức phải coi giữ bản cảnh, đề phòng bị giặc Lương Sơn, liền gọi Tống Giang lên cho thảo văn án, sức đi các thôn dã bắt phải nhất luật coi giữ cho nghiêm. Tống Giang xem thấy công văn, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: "Ta không ngờ bọn Tiều Cái lại gớm ghê như thế! Đã cướp đồ lễ sinh nhật giết cả quan quân, cắt tai Hà Đào, rồi lại bắt cả Hoàng An lên núi, tội ấy có lẽ đến chu diệt chín họ chứ chẳng chơi. Đã đành rằng sự bất đắc dĩ thực, nhưng pháp luật cũng không tha, vậy hoặc khi lỡ đến thế nào, thì làm sao cho được?"
Chàng nghĩ vậy, thì cũng hơi có điều ăn năn khó chịu, liền giao các công văn cho Trương Văn Viễn, để lập thành văn án, sức đi các chốn hương thôn, rồi một mình lững thững đi ra ngoài huyện.
Vừa đi được vài ba mươi bước, thì chợt nghe đằng sau có tiếng người gọi. Tống Giang ngoảnh đầu lại nom, thì thấy một mụ mối là Vương Bà đương dắt tay một người đàn bà mà bảo rằng:
- Nhà mụ này thực có duyên, kia Áp Ty đã đến đây kìa!
Tống Giang thấy vậy, đứng dừng lại hỏi:
- Có việc gì thế?
Vương Bà trỏ vào người đàn bà bảo với Tống Giang rằng:
- Nguyên người này là Diêm Bà, người ở Đông Kinh, chồng là Diêm Công, giỏi nghề ca xướng, có một người con gái tên là Bà Tích, năm nay mới mười tám tuổi, nhan sắc cũng khá, mà nghề ca xướng cũng hay. Mới đây ba vợ chồng bố con, đưa nhau sang Sơn Đông tìm quan nhân không gặp, phải lưu lạc đến huyện Vận Thành này, cũng muốn đem nghề ca xướng kiếm ăn, nhưng ở đây không mấy người thưởng thức, thành ra cũng túng bấn long đong, mà phải ở tạm vào một nơi hang cùng ngõ hẻm. Chẳng may Diêm Công hôm qua lại bị bệnh thời tiết, nằm chết ở đó, mẹ con không có tiền để tống táng, phải nhờ đến tôi làm mối giúp cho, nhưng bây giờ cũng khó lòng mà cầu cứu ở đâu cho được. May đâu vơ vẫn lại gặp Áp Ty đi qua đây, nên tôi đưa bà ta đến để nói với Áp Ty, xin Áp Ty rộng lòng thương mà giúp cho người ta một cỗ quan tài.
Tống Giang nghe nói mà đáp rằng:
- Nếu vậy thì các người theo tôi đến nhà hàng này, mượn bút nghiêng tôi viết cho mấy chữ, mà ra nhà Trần Tam Lang bên đông huyện lấy quan tài.
Khi vào tới hàng viết giấy xong rồi, Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Nhà mụ có tiền nong gì để chi vào việc ấy chưa?
Diêm Bà đáp:
- Chẳng dấu gì Áp Ty, quan tài chưa có, thì làm chi có tiền nữa.
- Nếu vậy ta cho mụ mười lạng bạc đây, để mà lo liệu.
- Áp Ty có lòng thương thế, thì thực là cha mẹ tái sinh, xin được làm trâu ngựa để đền ơn lớn.
Tống Giang gạt đi rằng:
- Bất tất phải nói thế.
Nói đoạn lấy ra một đĩnh bạc đưa cho Diêm Bà, và viết giấy cho đi lấy quan tài, rồi đứng dậy ra về. Diêm Bà nhận được giấy và tiền, thì vội vàng cảm tạ rồi ra nhà Trần Tam Lang để lấy quan tài, mà lập tức đem về làm ma cho chồng. Khi tống táng xong, lại thừa được dăm sáu lạng bạc, hai mẹ con dè xẻn chi dụng với nhau.
Một hôm Diêm Bà đến tạ ơn Tống Giang, thấy trong nhà không có đàn bà con trẻ, liền về hỏi Vương Bà ở bên cạnh vách rằng:
- Sao nhà Áp Ty không thấy có người đàn bà nào, hay là ông ta chưa có vợ chăng? Vương Bà nói:
- Tôi chỉ thấy nói ông ta ở Tống Gia Thôn, chứ cũng không thấy nói có vợ con chưa? Hiện nay làm Áp Ty ở huyện, thì vẫn cứ ở trọ nhà hàng, thời thường lại cho quan tài, cho vị thuốc, rất hay cứu những người nghèo nàng, có lẽ chưa có vợ con gì thì phải.
Diêm Bà nói:
- Con bé nhà tôi nó cũng khá, biết nghề hát xướng, ăn nói khôn ngoan, ngày trước ở Đông Kinh ai cũng có lòng thương mến, đã có mấy người nhà tử tế toan xin làm con nuôi, nhưng vì vợ chồng già chỉ có một con, nên không muốn cho đi, ai ngờ ngày nay lại làm khổ nó. Nay nhân Áp Ty chưa có đàn bà nội trợ, tôi nói với Áp Ty có lòng cứu đỡ giúp tôi, ngày nay không biết lấy gì để trả ơn, nên cũng muốn kết làm thân quyến để đi lai cho vui, vậy xin nhờ bà tác thành giúp cho.
Vương Bà nhận lời rồi, hôm sau nói với Tống Giang, Tống Giang trước còn khảng khái không nghe, sau bị Vương Bà tán hươu tán vượn nói ngọt nói ngon, thì cũng bằng lòng thuận, rồi thuê một gian nhà gác ở ngõ phố bên tây huyện, mà sắm sanh các đồ vật liệu cho mẹ con Diêm Bà đến ở đó.
Thấm thoát nửa tháng trời, đã thấy mẹ con Diêm Bà đều quần là áo lượt, lượt giắt trâm cài, nghiễm nhiên ra vẻ phong lưu lịch sự.
Tống Giang nguyên là một tay hảo hán, xưa nay chỉ thích luyện tập võ nghệ, còn về phần mỹ sắc, thì không lấy gì làm đậm đà cho lắm. Lại nhân Bà Tích là con gái mười lăm mười tám, đương trạc thanh xuân, tình tứ phong lưu, Tống Giang không thể nào mà chiều dỗ, bởi thế trong mấy hôm đầu cũng còn vui vẻ với nhau, rồi ngày sau thì một thưa nhạt dần đi.
Một hôm bất thình lình, Tống Giang dắt người Thiếp Thư là Trương Văn Viễn cùng đến uống rượu ở nhà Tích Bà. Người này nguyên cùng làm một phòng Áp Ty với Tống Giang, thường gọi là Tiểu Trương Tam, mặt mũi khôi ngô, hình dung đon đả, bình sinh thích du đãng, rong chơi hết nhà này lại sang nhà khác, lại học được đủ mọi ngón phong lưu đàn địch sênh ca, không gì là không thạo. Tích Bà vốn là một tay ca xướng xuất thân, nhất đán trông thấy Trương Tam thì trong lòng hơi hơi có chiều ưa thích, mà để ý đến luôn. Còn Trương Tam cũng là một phường tửu sắc ăn chơi, cho nên trông thấy thì lòng riêng riêng hiểu, mà đầu mày cuối mắt, đôi bên để ý cùng nhau. Về sau mỗi khi Tống Giang đi vắng, thì Trương Tam lại giả vờ đến gọi Tống Giang; rồi Tích Bà lại mời giữ vào chơi nói chuyện, lâu la sớm mận tối đào, mà mưa Sở mây Tần, không bao lâu đã được phỉ lòng sở ước.
Dần dà từ đó tấm lòng yêu thương của Tích Bà đối với Trương Tam càng ngày càng đằm thắm. Mà không coi Tống Giang vào đâu. Một đôi khi Tống Giang có về đến nhà, thì Tích Bà lại gây chuyện nọ kia, mà không có chút gì gọi là tình ân ái. Tống Giang tuy thế mặc lòng, cũng không hề lấy mỹ sắc làm quan tâm, năm chừng mười họa, mươi bữa nửa tháng mới trở về phòng nghỉ một lần, vì thế cái dây thân ái của Trương Tam cùng với Tích Bà càng ngày càng thêm khắng khít, làm cho phố phường ai ai cũng biết.
Sau Tống Giang cũng nghe tin phảng phất như vậy, nhưng cũng hồ đồ bán tín bán nghi, vả trong bụng lại tự nghĩ rằng: "Người ấy không phải là một người vợ cái con cột, không có lệnh cha mẹ cưới xin gì mà phải quan tâm cho lắm. Nếu nó không có lòng trung thành với mình, thì cũng mặc thây nó cho rảnh, can chi nói đến thêm phiền!"
Nhân thế có khi tới mấy tháng trời, Tống Giang cũng không hề qua nhà một lần nào nữa. Thỉnh thoảng Diêm Bà có cho người đi mời, thì Tống Giang lại từ chối là bận việc không về nhà được.
Có một hôm kia, vào buổi chiều, Tống Giang ở trong huyện đi ra hàng nước ở đối cửa để ngồi uống nước, chợt thấy một đại hán đầu đội nón chiên, mình mặc áo lá đen, dưới chân quấn là đáp, đi giày gai, lưng dắt thanh đao, vai vác khăn gói lớn, mồ hôi nhễ nhại, hơi thở hồng hộc, đứng quay mặt vào huyện để nom rồi lại đi.
Tống Giang thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, liền đứng dậy đi theo đại hán để xem. Vừa đi được vài bước thì đại hán ấy quay lại nhìn Tống Giang mà nét mặt hơi có ý ngờ ngợ. Tống Giang nhìn kĩ nét mặt người kia, thì thấy dáng cũng hơi quen, nhưng có điều gặp ở đâu từ bao giờ không nhớ. Anh chàng kia cứ đứng nhìn mãi Tống Giang, có ý băn khoăn mà không dám hỏi. Tống Giang nghĩ thầm trong bụng: Anh này thật quái lạ, cứ nhìn ta chằm chặp là lý gì? Chàng nghĩ vậy, nhưng không dám cất lời hỏi trước.
Bấy giờ anh chàng đại hán kia chạy vào hỏi một nhà hàng lượt ở gần đấy rằng:
- Ông Áp Ty kia là ai đấy? Nhà hàng đáp:
- Ông ấy là Tống Áp Ty đấy.
Anh kia nghe lời nói, rồi cảm ơn cắp đao chạy ra trước mặt Tống Giang chào một tiếng rất to mà hỏi rằng:
- Áp Ty có nhận được tiểu đệ chăng?
Tống Giang đáp:
- Tôi nom ngài quen mặt lắm thì phải!
Người kia nói:
- Xin mời Áp Ty đi mấy bước lại đây ta nói chuyện.
Tống Giang theo người kia vào một cái ngõ hẻm vắng vẻ, rồi đến một tửu điếm ở đấy, người kia bảo với Tống Giang rằng:
- Xin ngài vào đây nói chuyện tốt hơn.
Nói đoạn hai người cùng vào tửu điếm, lên trên gác chọn chỗ bàn ghế sạch để ngồi. Người kia mở khăn gói để xuống dưới gầm bàn đựng dao vào một chỗ, rồi đến trước mặt Tống Giang thụp lạy.
Tống Giang vội vàng đáp lễ lại rồi bảo rằng:
- Chẳng hay ngài là ai, tôi không rõ.
- Ân nhân quên tiểu đệ rồi hay sao?
- Tôi trông ngài thì quen lắm, nhưng không nhớ ra là ai, xin tha lỗi cho- Tiểu đệ chính là Xích Phát Quỹ Lưu Đường, đã được bái yết ngài một lần, ở nhà Tiều Bảo Chính, mà ngài đã rộng lòng cứu vớt cho đây...
Tống Giang nghe nói cả kinh mà rằng:
- Hiền đệ to gan thế? Lỡ ra bọn thám tử dò biết thì có khốn không?
- Vì chúng tôi mang ơn rất lớn, nên không dám quản ngại sự chết mà đến đây để bái yết ngài.
- Thế nào, các ông Tiều Bảo Chính cận lai ra sao?... Ai bảo hiền đệ đến đây như thế?
- Bẩm, Tiều Ca Ca tôi rất cảm tạ ơn ngài đã cứu thoát được toàn tính mạng, hiện nay làm chúa Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, có Ngô Học Cứu làm quân sư, Công Tôn Thắng giữ binh quyền, còn Lâm Xung phò tá đã giết Vương Luân ở đó, và mấy người nguyên trước ở sơn trại đó, là Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, cũng đều thần phục bảy anh em chúng tôi, tất cả là mười một người Đầu Lĩnh, lâu la bảy tám trăm người, lương thực không biết đâu mà kể. Nhân thế sai Lưu Đường tôi mang cho một phong thư, và trăm lạng vàng đến đây để tạ Áp Ty, và tạ ơn Chu Đô Đầu một thể.
Lưu Đường nói xong, giở gói hành lí lấy ra một bức thư, và trăm lạng vàng đưa choi Tống Giang. Tống Giang bóc thư xem xong, lấy một lạng vàng và bức thư bỏ vào túi văn thư, ở phía trong áo, rồi bảo với Lưu Đường rằng:
- Còn số tiền này hiền đệ bọc lại mang về, tôi không dùng đến.
Nói xong quay ra gọi tửu bảo dọn rượu, và các thức nhắm lên, rồi sai tửu bảo đứng rót rượu mời Lưu Đường uống. Được một lát mặt trời đã xế, tên tửu bảo đi xuống dưới nhà, Lưu Đường lại toan lấy tiền đưa cho Tống Giang.
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Hiền đệ nghe tôi nói: Bảy anh em các bác mới đến sơn trại đương cần tiền bạc để tiêu, và tôi đây trong nhà cũng đủ chi dùng, vậy tôi xin gửi lại ở đấy, rồi khi nào cùng túng, sẽ xin đến lấy về tiêu. Còn như Chu Đồng thì nhà ông ta cũng phong lưu, bất tất phải đưa đến nữa, để tôi nói qua cho ông ta biết cũng xong, như thế không phải là có ý rẻ rúng chê bai đâu? Hôm nay cũng không dám lưu hiền đệ lại chơi nhà, vì lỡ ra bọn thám tử biết được thì xảy chuyện to ngay. Vậy xin đêm nay trời quan mây tạnh, hiền đệ nên mau gót trở về, nói với các vị Đầu Lĩnh rằng: Tôi vì bận việc, không đến mừng được, xin thứ tội cho.
- Đại ân của ngài chúng tôi không biết lấy gì báo đáp được, vậy gọi là cho tôi đem chút lễ mọn, đưa đến Áp Ty để tỏ lòng thành kính của anh em. Đây là Đại Đầu Lĩnh Chính Ca Ca, và quân sư Ngô Học Cứu, đã xuống lệnh cho tôi, không phải như chuyện ngày thường, nếu tôi đem về, thì tất là bị phạt chứ không chơi, vậy xin Áp Ty chớ nên từ chối nữa.
- Nếu phải hiệu lệnh nghiêm minh, vậy tôi viết phong thư cho hiền đệ mang về là xong.
Lưu Đường lại hết sức nói, Tống Giang nhất định không thu nhận, rồi gọi mượn bút mực của nhà hàng, và lấy một tờ giấy viết phong thư cẩn thận để giao cho Lưu Đường.
Lưu Đường là người tính trực, thấy Tống Giang một mực thoái thác như thế, thì cũng không làm sao được, liền chịu phép gói vàng và bỏ cả phong thư vào bao cẩn thận, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Vâng, Áp Ty đã dạy thế thì tiểu đệ xin trở về sơn trại ngay bây giờ.
Tống Giang nói:
- Hiền đệ biết lòng cho, tôi không kịp lưu hiền đệ ở lâu đây được.
Lưu Đường liền lạy tạ Tống Giang bốn lạy rồi sửa soạn ra đi. Tống Giang gọi tửu bảo lên gác mà dặn rằng:
- Ông khách có lưu hai lạng bạc đây, để sáng mai rồi ta sẽ đến tính.
Nói xong cả hai cùng xuống lầu đi ra ngoài tửu điếm. Bây giờ đương giữa tháng tám, trời im mây tạnh, trăng sáng trên không, hai người đưa nhau ra đến đầu ngõ phố, rồi Tống Giang cầm tay Lưu Đường mà dặn rằng:
- Hiền đệ hãy nên cẩn thận, chớ có đến đây nữa, ở đây bọn thám tử rất nhiều, không phải là chuyện chơi đâu! Thôi xin chào hiền đệ trở về cho bình yên.
Nói đoạn bái biệt mà chia tay đôi ngả, Lưu Đường nhân được trời thanh bóng sáng, liền trở gót mau mau trở về sơn trại.
Bấy giờ Tống Giang lững thững vừa đi vừa nghĩ; Gớm thay cho bọn họ to gan, ngộ lỡ đám công sai biết, thì nguy xiết bao! Lại nghĩ đến chuyện Tiều Cái dám bỏ nhà đi làm cái nghề lạc thảo như thế, thì trong bụng càng ra dáng mà nghĩ ngợi một mình.
Chợt có tiếng đằng sau gọi:
- Áp Ty đi đâu đấy? Sao mấy hôm không thấy Áp Ty đâu cả?
Tống Giang nghe tiếng liền giật mình quay lại xem ai... Cho hay là:
Giang hồ nghĩa nặng tri âm,
Hỏi chi tài mệnh thăng trầm về sau.
Non cao nước vẫn còn sâu,
Thân này xoay với bể dâu còn dài.
Đất đâu lấp được miệng đời,
Vàng đâu mua chuộc được người thủy chung?
Ai lên nhắn hỏi trời công,
Làm chi đem thói má hồng trêu ngươi?
Tức gan đến lúc căm trời,
Gươm kia hồ dễ tha đời được sao!
Lời Bàn Của Thánh Thán:
Sách này nhiều chỗ bút lực hơn người, thường thường ở lúc hai hồi giáp nhau, đều là một việc, mà thấy khác đi, không một nét bút nào mà phạm đến, như hồi trên vừa tả Hà Đào, hồi này lại tiếp tả Hoàng An vậy. Thấy rằng một phen trước đã khua sông động bể, đến phen này lại động bể khua sông, thực là một dạng tài tình, một dạng thế bút, độc giả hãy nhận xét kỹ càng cho thấy, không một câu một chữ giống nhau, điều đó có lạ gì đâu? Tác giả đã khéo xếp đặt tự trong lòng, như vẽ ra hai cây trúc vậy. Thì cây trúc nào chẳng có cành, có lá có dóng dốt như nhau, khi vẽ ra hai cây trúc đứng song đôi, rất giống nhau mà rất khác nhau xa vậy.
Sách này đã một hồi tả Hà Đào chia làm hai phen, tả Hoàng An chỉ một phen. Hà Đào hai phen tiền với hậu, Hoàng An một phen lại chia tả và hữu. Hà Đào hai phen Thủy chiến và Hỏa công. Hoàng An cũng hai phen vừa mô tả lại vừa thực họa, nên nhiều điểm sai biệt, cũng là một hồ nước ấy, cũng là một bãi lau này, cũng những tay hão hán ấy, cũng những đám binh quan này sự cách quãng đã phân biệt, mà ý tứ chẳng như nhau thấy rằng đem ngàn vàng ra để cầu lấy một nét bút phạm vào nhau, không thấy chút nào giống cả, văn tả đến thế mới thấy càng diễn ra càng thấy ly kỳ.
Một đoạn văn Tống Giang với Bà Tích, ngòi bút của tác giả đặt ra, để cho Tống Giang có chuyện, nên phải nảy ra một sự Tống Giang giết người, vì muốn Tống Giang có sự giết người, thì phải thêm chuyện Bà Tích, vì có chuyện Bà Tích duyên kiếp, thì phải sinh ra sự Vương Bà xin áo quan. Cho nên từ sau khi Vương Bà xin áo quan, cách sau dăm tờ lại có chuyện Vương Ông xin áo quan, chẳng qua đưa lại cho hồi sau Tống Giang bị phạm tội trốn đi, đó là chính là khế tử, độc giả thấy lúc trước cho áo quan, đến sau lại cho áo quan, đầu thì Vương Bà, cuối đến Vương Ông, thấy tác giả như vảy mực ra đùa, thêm ly kỳ câu chuyện.