Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Suối Nguồn - Phần 2 - Chương 13 b
Ông hỏi khẽ:
“Hết chưa?”
Cô nhắm mắt lại; rồi cô nói trong lúc dán mắt vào hai bàn tay:
“Rồi ạ… có điều, cháu không phải là người duy nhất như thế. Rất nhiều người như thế, hầu hết những người phụ nữ làm việc ở chỗ cháu đều như thế… Cháu không biết họ đã biến thành như thế bằng cách nào… Cháu không biết việc đó xảy ra với cháu thế nào… Cháu đã từng hạnh phúc khi giúp đỡ người khác. Cháu nhớ một lần – hôm đó cháu ăn trưa với Peter – và trên đường về, cháu thấy một người chơi đàn rong, và cháu cho ông ta 5 đô la cháu có trong túi. Đấy là tất cả số tiền cháu có; cháu đã tiết kiệm để mua một chai “Đêm giáng sinh”; cháu đã rất muốn có nó, nhưng về sau, mỗi lần nghĩ đến người chơi đàn rong đó, cháu thấy rất vui… Hồi đó, cháu còn gặp Peter… Cháu thường về nhà sau khi gặp anh ấy và cháu muốn ôm hôn tất cả những đứa trẻ rách rưới trong khu nhà của chúng ta… Cháu nghĩ là bây giờ cháu ghét người nghèo… Cháu nghĩ những đồng nghiệp của cháu cũng vậy… Nhưng những người nghèo lại không ghét chúng cháu, lẽ ra họ phải thế. Họ khinh bỉ chúng cháu… Chú thấy không, thật là nực cười, lẽ ra phải là ông chủ khinh bỉ nô lệ và nô lệ căm ghét ông chủ. Nhưng bây giờ cháu chẳng biết ai là chủ ai là nô lệ nữa. Có thể ẩn dụ này không hợp. Cũng có thể là nó hợp. Cháu không biết nữa…”
Cô ngẩng đầu lên để thổ lộ nốt.
“Chú có thấy cái mà cháu cần phải hiểu không? Tại sao cháu đã thành thực bắt tay vào làm một việc mà cháu nghĩ là đúng đắn, thế mà rồi cháu lại trở nên tội lỗi? Cháu nghĩ có lẽ vì cháu có bản chất xấu xa và cháu không có khả năng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Đấy là lý giải duy nhất. Nhưng… đôi khi cháu nghĩ thật là vô lý khi một người hoàn toàn thành tâm muốn làm điều tốt nhưng cái tót lại là cái không dành cho anh ta. Cháu không thể nào tội lỗi đến mức ấy. Nhưng… nhưng cháu đã bỏ tất cả, cháu không có một ham muốn cá nhân nào nữa, cháu không còn gì của riêng cháu cả… và cháu thật khổ sở. Và những người giống như cháu đều thế cả. Cháu không biết một người không ích kỷ nào mà lại hạnh phúc cả – trừ chú.”
Cô gục đầu xuống và không ngẩng lên; dường như cô thờ ơ cả với câu trả lời mà cô đang tìm kiếm.
“Katie.” Ông nói khẽ, vẻ trách cứ, “Katie, cháu yêu quý.”
Cô im lặng chờ đợi
“Cháu có thực sự muốn chú cho cháu câu trả lời không?” Cô gật đầu.
“Bởi vì, cháu biết đấy, cháu đã có câu trả lời, ngay trong những điều cháu nói.”
Cô ngước mắt lên một cách trống rỗng.
“Cháu vừa nói gì nào? Cháu vừa phàn nàn về việc gì nào? Về việc cháu khổ sở. Về Katie Halsey – thế thôi. Đấy là bài diễn thuyết tự cao tự đại nhất mà chú từng nghe trong đời chú.”
Cô chớp chớp mắt, như một học sinh đang cố hiểu một bài học khó.
“Cháu không thấy là cháu đã ích kỷ thế nào ư? Cháu đã chọn một sự nghiệp cao cả không phải vì những điều tốt đẹp cháu có thể làm, mà vì hạnh phúc của cá nhân cháu. Cháu hy vọng sẽ tìm thấy nó trong công việc của cháu.”
“Nhưng cháu đã thực lòng muốn giúp đỡ mọi người.”
“Bởi vì cháu nghĩ là cháu sẽ trở nên tốt đẹp và đạo đức nhờ việc đó.”
“Thì… vâng. Bởi vì cháu nghĩ là điều đó đúng đắn. Chả nhẽ làm điều đúng đắn lại là xấu xa sao?”
“Phải, nếu như đấy là động cơ chính của cháu. Cháu không thấy điều đó là ích kỷ đến thế nào ư? Mặc xác mọi người, miễn là ta có đạo đức.”
“Nhưng nếu người ta không có… không có sự tự tôn, thì người ta còn là cái gì nữa?”
“Người ta có nhất thiết phải là cái gì không?”
Cô xoè hai bàn tay, kinh ngạc.
“Nếu như động cơ chính của cháu là những gì cháu nghĩ, cháu cảm thấy, cháu có hoặc không có – thì cháu vẫn cứ là một kẻ ích kỷ thông thường.”
“Nhưng cháu không thể nhảy ra khỏi người cháu được.”
“Không. Nhưng cháu có thể nhảy ra khỏi linh hồn chật chội của cháu.”
“Ý chú là cháu phải mong muốn được khổ sở?”
“Không. Cháu phải triệt tiêu việc mong muốn bất cứ cái gì. Cháu phải quên cô Catherine Halsey quan trọng đến thế nào đi. Bởi vì, cháu thấy đấy, cô ấy không quan trọng. Con người chỉ quan trọng trong quan hệ với những người khác, trong sự hữu dụng của họ, trong những lợi ích mà họ mang lại cho người khác. Trừ khi cháu hiểu điều này hoàn toàn, cháu không thể mong chờ điều gì ngoài sự đau khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Tại sao lại phải khổ sở đến thế chỉ vì cháu nhận thấy cháu có cảm giác độc ác với mọi người? Thế thì sao nào? Đấy chỉ là sự đau khổ khi người ta trưởng thành. Không ai có thể nhảy ra khỏi trạng thái động vật hoang dã để lên làm một sinh linh thần thánh mà không trải qua những chuyển đổi nhất định. Một số chuyển đổi thậm chí còn có vẻ xấu xa. Một phụ nữ đẹp thường là một cô bé xấu xí đã. Tất cả sự trưởng thành đều đòi hỏi sự phá huỷ. Cháu không thể rán trứng mà không đập vỏ trứng. Cháu phải sẵn sàng chịu đựng, phải độc ác, phải không trung thực, phải bẩn thỉu – bất cứ thứ gì, cháu yêu quý, bất cứ thứ gì để giết chết những mầm mống bướng bỉnh nhất của cái tôi. Và chỉ khi cái tôi đã hoàn toàn chết, khi cháu không còn quan tâm nữa, khi cháu không còn danh tính và lãng quên tên hiệu của chính linh hồn mình - chỉ khi đó cháu mới biết đến trạng thái hạnh phúc mà chú vẫn nói đến, và khi đó cánh cửa bước vào sự cao cả của linh hồn mới mở toang trước mặt cháu.”
“Nhưng chú Ellsworth,” cô thì thầm, “khi cửa mở toang ra, thì ai là người bước vào?”
Ông phá ra cười giòn giã. Tiếng cười có âm hưởng của sự ngạc nhiên.
“Cháu yêu quý.” Ông nói, “chú chưa bao giờ nghĩ là cháu lại có thể làm chú ngạc nhiên.”
Rồi khuôn mặt ông trở lại vẻ sốt sắng.
“Đấy là một vết nứt, Katie, nhưng cháu biết đấy, chú hy vọng, đấy chỉ là một vết nứt thôi?”
“Vâng.” Cô nói rụt rè. “Cháu đoán thế. Nhưng mà…”
“Chúng ta không được bám lấy nghĩa đen khi chúng ta bàn về những thứ trừu tượng. Dĩ nhiên, cháu sẽ là người bước qua cổng. Cháu sẽ không đánh mất danh tính của cháu – cháu chỉ có một danh tính mới rộng lớn hơn, một danh tính sẽ là một phần của tất cả mọi người và của cả vũ trụ.”
“Làm thế nào? Theo nghĩa nào? Một phần của cái gì ạ?”
“Giờ thì cháu thấy đấy, thật khó nói những chuyện này khi mà toàn bộ ngôn ngữ của chúng ta là ngôn ngữ của chủ nghĩa cá nhâ, với tất cả những thuật ngữ và tín điều của nó. ‘Danh tính’ là một ảo tưởng, cháu biết đấy. Nhưng cháu không thể xây một ngôi nhà mới từ những đống gạch cũ. Cháu không thể nào hiểu chú hoàn toàn nếu cháu dùng những khái niệm thông thường. Chúng ta đã bị đầu độc bởi những tín điều về cái tôi. Chúng ta không thể phân biệt được cái tốt và cái xấu mà không nghĩ đến cái tôi, chúng ta không thể phân biệt được cảm giác và cũng chẳng biết tại sao. Phải tiêu diệt cái tôi trước. Đó là lý do tại sao trí tuệ lại không đáng tin. Chúng ta không được nghĩ. Chúng ta phải tin. Phải tin, Katie, ngay cả nếu trí óc cháu cưỡng lại điều đó. Đừng nghĩ. Hãy tin. Hãy tin tưởng trái tim cháu, đừng tin đầu có cháu. Đừng nghĩ. Đừng cảm. Hãy tin.”
Cô ngồi yên, ngay ngắn nhưng trông cô như thể vừa bị một cỗ xe tăng đè bẹp. Cô thì thầm một cách ngoan ngoãn:
“Vâng, chú Ellsworth… Cháu… Cháu đã không nghĩ theo cách đó. Ý cháu là cháu đã luôn luôn cho rằng cháu phải nghĩ… Nhưng chú nói đúng, nếu như đúng là từ thích hợp ở đây, nếu như có một từ để diễn tả… Vâng, cháu sẽ tin… Cháu sẽ cố hiểu… Không, không phải là hiểu… Mà là cảm thấy. Cháu sẽ cố tin… Ý cháu là… Có điều, cháu thật yếu ớt… Cháu luôn cảm thấy thật nhỏ mọn sau khi nói chuyện với chú… Cháu đoán là cháu đã đúng chút ít… Cháu thật vô ích… nhưng không sao… không sao cả…”
*
* *
Khi chuông cửa vang lên vào tối hôm sau, Toohey đích thân ra mở cửa.
Ông mỉm cười khi dẫn Peter Keating vào. Từ sau phiên toà, ông đã chờ Keating đến; ông biết rằng Keating sẽ có nhu cầu đến gặp ông. Nhưng ông đã nghĩ Keating sẽ đến sớm hơn thế này.
Keating ngập ngừng bước vào. Hai bàn tay anh dường như trĩu nặng dưới cổ tay. Mắt anh húp lên và da mặt anh sệ xuống.
“Chào Peter.” Toohey vui vẻ nói. “Muốn gặp tôi hả? Vào đi. Anh thật may. Tôi có cả buổi tối rảnh rỗi.”
“Không.” Keating nói, “cháu muốn gặp Katie.”
Anh không nhìn Toohey và anh không thấy vẻ mặt Toohey phía sau đôi mắt kính.
“Katie? Dĩ nhiên rồi.” Toohey nói vui vẻ. “Anh biết không, anh chưa bao giờ đến đây tìm Katie, vì thế tôi đã không nghĩ ra, nhưng… Vào đi, nó có nhà đấy. Lối này – anh không biết phòng nó hả? – cửa thứ hai.”
Keating nặng nề đi qua hành lang và gõ cửa phòng Catherine. Khi cô trả lời, anh bước vào. Toohey đứng nhìn theo anh; trông ông trầm tư.
Catherine nhảy lên khi cô nhìn thấy anh. Cô đứng bần thần, hoang mang một giây, rồi cô chạy tới giường vội vã thu dọn một cái thắt lưng cô để trên giường và giấu nó xuống dưới gối. Rồi cô vội vã gỡ kính ra, nắm chặt nó trong tay và luồn nó vào túi áo. Cô băn khoăn không biết cách nào sẽ tệ hơn: cứ ngồi nguyên ở đây hay ngồi xuống bàn trang điểm và trang điểm ngay trước sự có mặt của anh.
Cô không gặp Keating đã sáu tháng. Trong ba năm qua, họ gặp nhau thỉnh thoảng, cách những quãng dài; họ ăn trưa với nhau vài lần, ăn tối với nhau vài lần, họ đi xem phim hai lần. Họ đã luôn hẹn gặp nhau ở nơi công cộng. Từ lúc anh bắt đầu biết Toohey, Keating không muốn đến gặp cô ở nhà cô. Khi họ gặp nhau, họ nói chuyện như thể chưa có thay đổi gì đã xảy ra. Nhưng họ cũng không hề nói đến chuyện kết hôn từ lâu nay.
“Hello Katie” – Keating nói khẽ – “Anh không biết là em đeo kính.”
“Chỉ… chỉ để đọc thôi… Em… Hello Peter… Em đoán là tối nay trông em thật kinh khủng… Em rất mừng được gặp anh, Peter…”
Anh nặng nhọc ngồi xuống, mũ cầm trong tay, để nguyên cả áo khoác ngoài. Cô đứng mỉm cười sốt sắng. Rồi cô khoát tay thành những vòng tròn mơ hồ và hỏi:
“Anh chỉ vào một chút hay… hay là anh muốn bỏ áo khoác ra?”
“Không, anh chỉ vào một chút thôi.” Anh đứng dậy, ném áo khoác và mũ lên giường; rồi anh cười lần đầu tiên và hỏi:
“Hay là em bận và muốn tống cổ anh đi?”
Cô lấy cùi tay dụi vào hốc mắt rồi nhanh chóng thả rơi hai bàn tay. Cô phải gặp anh như cô đã luôn gặp anh. Cô phải nói chuyện nhẹ nhàng và bình thường.
“Không, không, em không hề bận.”
Anh ngồi xuống và dang tay ra, im lặng mời mọc. Cô lập tức lại gần anh. Cô đặt tay vào tay anh và anh kéo cô ngồi lên thành ghế.
Ánh đèn chiếu vào người anh và cô đã trấn tĩnh lại đủ để nhận thấy vẻ mặt anh.
“Peter,” cô há hốc miệng kinh ngạc, “anh làm gì với bản thân anh thế? Trông anh thật kinh khủng.”
“Uống rượu.”
“Không… không đến mức như thế!”
“Đến mức thế đấy. Nhưng hết rồi.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Anh đã muốn gặp em, Katie. Anh đã muốn thấy em.”
“Anh yêu… họ đã làm gì anh thế?”
“Không ai làm gì anh cả. Giờ anh ổn rồi. Anh không sao. Bởi vì anh đã ở đây… Katie, em có nghe đến Hopton Stoddard bao giờ không?”
“Stoddard?... Em không biết. Em đã thấy cái tên đó ở đâu đó.”
“Không sao đâu, chẳng có gì cả. Anh chỉ nghĩ mọi việc thật là. Em thấy đấy, Stoddard là một lão già; lão ta không thể chịu nổi sự thối tha của lão ấy thêm nữa, thế là lão ấy chuộc tội bằng cách xây một món quá lớn cho thành phố. Nhưng khi anh… khi anh không thể chịu được nữa, anh cảm thấy cách duy nhất anh có thể chuộc tội là làm điều anh muốn làm nhất. Là đến đây.”
“Khi anh không thể chịu đựng được cái gì hả Peter?”
“Anh đã làm một việc rất bẩn thỉu, Katie. Một ngày nào đó anh sẽ nói cho em, nhưng không phải bây giờ… Em có thể nói là em tha thứ cho anh mà không hỏi là là cái gì không? Anh sẽ nghĩ… anh sẽ nghĩ là anh đã được tha thứ bởi một người không bao giờ có thể tha thứ cho anh. Một người không thể bị tổn thương và vì thế không thể tha thứ- nhưng điều đó làm mọi việc càng khủng khiếp với anh.”
Cô không có vẻ bối rối. Cô nói sốt sắng:
“Em tha thứ cho anh, Peter.”
Anh gật đầu chậm chạp vài lần rồi nói:
“Cảm ơn em.”
Rồi cô áp đầu mình vào đầu anh và thì thầm:
“Anh vừa mới đi qua địa ngục, phải không anh?”
“Phải. Nhưng giờ thì ổn rồi.”
Anh kéo cô vào trong vòng tay anh và hôn cô. Rồi anh không nghĩ đến Đền Stoddard nữa, và cô không nghĩ đến chuyện tốt và xấu. Họ không cần nghĩ đến; họ cảm thấy mình trong sạch.
“Katie, tại sao chúng ta chưa cưới nhau?”
“Em không biết” – cô nói. Rồi cô vội vã nói thêm – chỉ vì tim co đang đập mạnh, bởi vì cô không thể giữ im lặng và bởi vì cô thấy cô không được lợi dụng anh – “Em đoán là vì chúng ta biết rằng chúng ta không cần phải vội.”
“Nhưng chúng ta phải vội. Nếu không phải là chúng ta đã quá muộn rồi.”
“Peter, anh … anh đang cầu hôn em lại à?”
“Đừng có ngạc nhiên thế, Katie. Nếu em ngạc nhiên, anh sẽ biết là em đã luôn nghi ngờ điều đó suốt những năm qua. Và anh không thể chịu được ý nghĩ đó vào lúc này. Tối nay anh đến tìm em để nói với em chuyện đó. Chúng ta sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ cưới nhau ngay lập tức.”
“Vâng, Peter.”
“Chúng ta không cần tuyên bố, không cần hẹn ngày, không cần chuẩn bị, khách khứa, không cần gì cả. Chúng ta đã để cho những thứ đó ngăn chúng ta lại. Thực sự anh cũng không hiểu làm sao mà chúng ta lại chần chứ đến tận giờ… Chúng ta sẽ không nói gì với ai cả. Chúng ta sẽ chuồn khỏi thành phố và sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ tuyên bố và giải thích sau, nếu có ai cần giải thích. Và ý anh là chú em, mẹ anh, và tất cả mọi người.”
“Vâng, Peter.”
“Em sẽ nghỉ cái công việc chết tiệt của em ngay ngày mai. Anh sẽ thu xếp ở văn phòng để nghỉ một tháng. Guy chắc sẽ phát điên – anh sẽ rất thích. Chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng – em không cần nhiều đâu – không cần quan tâm đến đồ trang điểm – mà em nói là tối nay trông em khủng khiếp à – chưa bao giờ trông em đáng yêu như bây giờ. Anh sẽ đến đây chín giờ sáng ngày kia. Em phải sẵn sàng để khởi hành lúc đó.”
“Vâng, Peter.”
Sau khi anh đi khỏi, cô nằm trên giường, khóc thành tiếng, không kìm nén, không xấu hổ, không quan tâm đến bất cứ thứ gì khác.
Ellsworth Toohey đã để cửa phòng đọc sách của ông mở. Ông đã nhìn thấy Keating đi ngang qua cửa mà không nhận ra ông và rồi Keating bước ra ngoài. Rồi ông nghe tiếng Catherine khóc. Ông bước vào phòng cô mà không gõ cửa. Ông hỏi:
“Có chuyện gì thế, cháu yêu quý? Peter làm gì cháu à?”
Cô nâng đầu lên khỏi gối. Cô nhìn ông, hất tóc ra khỏi mặt và khóc thổn thức. Cô nói mà không kịp nghĩ xem mình định nói gì. Cô nói một điều mà cô không hiểu nhưng ông thì hiểu:
“Cháu không sợ chú đâu, chú Ellsworth.”
“Hết chưa?”
Cô nhắm mắt lại; rồi cô nói trong lúc dán mắt vào hai bàn tay:
“Rồi ạ… có điều, cháu không phải là người duy nhất như thế. Rất nhiều người như thế, hầu hết những người phụ nữ làm việc ở chỗ cháu đều như thế… Cháu không biết họ đã biến thành như thế bằng cách nào… Cháu không biết việc đó xảy ra với cháu thế nào… Cháu đã từng hạnh phúc khi giúp đỡ người khác. Cháu nhớ một lần – hôm đó cháu ăn trưa với Peter – và trên đường về, cháu thấy một người chơi đàn rong, và cháu cho ông ta 5 đô la cháu có trong túi. Đấy là tất cả số tiền cháu có; cháu đã tiết kiệm để mua một chai “Đêm giáng sinh”; cháu đã rất muốn có nó, nhưng về sau, mỗi lần nghĩ đến người chơi đàn rong đó, cháu thấy rất vui… Hồi đó, cháu còn gặp Peter… Cháu thường về nhà sau khi gặp anh ấy và cháu muốn ôm hôn tất cả những đứa trẻ rách rưới trong khu nhà của chúng ta… Cháu nghĩ là bây giờ cháu ghét người nghèo… Cháu nghĩ những đồng nghiệp của cháu cũng vậy… Nhưng những người nghèo lại không ghét chúng cháu, lẽ ra họ phải thế. Họ khinh bỉ chúng cháu… Chú thấy không, thật là nực cười, lẽ ra phải là ông chủ khinh bỉ nô lệ và nô lệ căm ghét ông chủ. Nhưng bây giờ cháu chẳng biết ai là chủ ai là nô lệ nữa. Có thể ẩn dụ này không hợp. Cũng có thể là nó hợp. Cháu không biết nữa…”
Cô ngẩng đầu lên để thổ lộ nốt.
“Chú có thấy cái mà cháu cần phải hiểu không? Tại sao cháu đã thành thực bắt tay vào làm một việc mà cháu nghĩ là đúng đắn, thế mà rồi cháu lại trở nên tội lỗi? Cháu nghĩ có lẽ vì cháu có bản chất xấu xa và cháu không có khả năng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Đấy là lý giải duy nhất. Nhưng… đôi khi cháu nghĩ thật là vô lý khi một người hoàn toàn thành tâm muốn làm điều tốt nhưng cái tót lại là cái không dành cho anh ta. Cháu không thể nào tội lỗi đến mức ấy. Nhưng… nhưng cháu đã bỏ tất cả, cháu không có một ham muốn cá nhân nào nữa, cháu không còn gì của riêng cháu cả… và cháu thật khổ sở. Và những người giống như cháu đều thế cả. Cháu không biết một người không ích kỷ nào mà lại hạnh phúc cả – trừ chú.”
Cô gục đầu xuống và không ngẩng lên; dường như cô thờ ơ cả với câu trả lời mà cô đang tìm kiếm.
“Katie.” Ông nói khẽ, vẻ trách cứ, “Katie, cháu yêu quý.”
Cô im lặng chờ đợi
“Cháu có thực sự muốn chú cho cháu câu trả lời không?” Cô gật đầu.
“Bởi vì, cháu biết đấy, cháu đã có câu trả lời, ngay trong những điều cháu nói.”
Cô ngước mắt lên một cách trống rỗng.
“Cháu vừa nói gì nào? Cháu vừa phàn nàn về việc gì nào? Về việc cháu khổ sở. Về Katie Halsey – thế thôi. Đấy là bài diễn thuyết tự cao tự đại nhất mà chú từng nghe trong đời chú.”
Cô chớp chớp mắt, như một học sinh đang cố hiểu một bài học khó.
“Cháu không thấy là cháu đã ích kỷ thế nào ư? Cháu đã chọn một sự nghiệp cao cả không phải vì những điều tốt đẹp cháu có thể làm, mà vì hạnh phúc của cá nhân cháu. Cháu hy vọng sẽ tìm thấy nó trong công việc của cháu.”
“Nhưng cháu đã thực lòng muốn giúp đỡ mọi người.”
“Bởi vì cháu nghĩ là cháu sẽ trở nên tốt đẹp và đạo đức nhờ việc đó.”
“Thì… vâng. Bởi vì cháu nghĩ là điều đó đúng đắn. Chả nhẽ làm điều đúng đắn lại là xấu xa sao?”
“Phải, nếu như đấy là động cơ chính của cháu. Cháu không thấy điều đó là ích kỷ đến thế nào ư? Mặc xác mọi người, miễn là ta có đạo đức.”
“Nhưng nếu người ta không có… không có sự tự tôn, thì người ta còn là cái gì nữa?”
“Người ta có nhất thiết phải là cái gì không?”
Cô xoè hai bàn tay, kinh ngạc.
“Nếu như động cơ chính của cháu là những gì cháu nghĩ, cháu cảm thấy, cháu có hoặc không có – thì cháu vẫn cứ là một kẻ ích kỷ thông thường.”
“Nhưng cháu không thể nhảy ra khỏi người cháu được.”
“Không. Nhưng cháu có thể nhảy ra khỏi linh hồn chật chội của cháu.”
“Ý chú là cháu phải mong muốn được khổ sở?”
“Không. Cháu phải triệt tiêu việc mong muốn bất cứ cái gì. Cháu phải quên cô Catherine Halsey quan trọng đến thế nào đi. Bởi vì, cháu thấy đấy, cô ấy không quan trọng. Con người chỉ quan trọng trong quan hệ với những người khác, trong sự hữu dụng của họ, trong những lợi ích mà họ mang lại cho người khác. Trừ khi cháu hiểu điều này hoàn toàn, cháu không thể mong chờ điều gì ngoài sự đau khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Tại sao lại phải khổ sở đến thế chỉ vì cháu nhận thấy cháu có cảm giác độc ác với mọi người? Thế thì sao nào? Đấy chỉ là sự đau khổ khi người ta trưởng thành. Không ai có thể nhảy ra khỏi trạng thái động vật hoang dã để lên làm một sinh linh thần thánh mà không trải qua những chuyển đổi nhất định. Một số chuyển đổi thậm chí còn có vẻ xấu xa. Một phụ nữ đẹp thường là một cô bé xấu xí đã. Tất cả sự trưởng thành đều đòi hỏi sự phá huỷ. Cháu không thể rán trứng mà không đập vỏ trứng. Cháu phải sẵn sàng chịu đựng, phải độc ác, phải không trung thực, phải bẩn thỉu – bất cứ thứ gì, cháu yêu quý, bất cứ thứ gì để giết chết những mầm mống bướng bỉnh nhất của cái tôi. Và chỉ khi cái tôi đã hoàn toàn chết, khi cháu không còn quan tâm nữa, khi cháu không còn danh tính và lãng quên tên hiệu của chính linh hồn mình - chỉ khi đó cháu mới biết đến trạng thái hạnh phúc mà chú vẫn nói đến, và khi đó cánh cửa bước vào sự cao cả của linh hồn mới mở toang trước mặt cháu.”
“Nhưng chú Ellsworth,” cô thì thầm, “khi cửa mở toang ra, thì ai là người bước vào?”
Ông phá ra cười giòn giã. Tiếng cười có âm hưởng của sự ngạc nhiên.
“Cháu yêu quý.” Ông nói, “chú chưa bao giờ nghĩ là cháu lại có thể làm chú ngạc nhiên.”
Rồi khuôn mặt ông trở lại vẻ sốt sắng.
“Đấy là một vết nứt, Katie, nhưng cháu biết đấy, chú hy vọng, đấy chỉ là một vết nứt thôi?”
“Vâng.” Cô nói rụt rè. “Cháu đoán thế. Nhưng mà…”
“Chúng ta không được bám lấy nghĩa đen khi chúng ta bàn về những thứ trừu tượng. Dĩ nhiên, cháu sẽ là người bước qua cổng. Cháu sẽ không đánh mất danh tính của cháu – cháu chỉ có một danh tính mới rộng lớn hơn, một danh tính sẽ là một phần của tất cả mọi người và của cả vũ trụ.”
“Làm thế nào? Theo nghĩa nào? Một phần của cái gì ạ?”
“Giờ thì cháu thấy đấy, thật khó nói những chuyện này khi mà toàn bộ ngôn ngữ của chúng ta là ngôn ngữ của chủ nghĩa cá nhâ, với tất cả những thuật ngữ và tín điều của nó. ‘Danh tính’ là một ảo tưởng, cháu biết đấy. Nhưng cháu không thể xây một ngôi nhà mới từ những đống gạch cũ. Cháu không thể nào hiểu chú hoàn toàn nếu cháu dùng những khái niệm thông thường. Chúng ta đã bị đầu độc bởi những tín điều về cái tôi. Chúng ta không thể phân biệt được cái tốt và cái xấu mà không nghĩ đến cái tôi, chúng ta không thể phân biệt được cảm giác và cũng chẳng biết tại sao. Phải tiêu diệt cái tôi trước. Đó là lý do tại sao trí tuệ lại không đáng tin. Chúng ta không được nghĩ. Chúng ta phải tin. Phải tin, Katie, ngay cả nếu trí óc cháu cưỡng lại điều đó. Đừng nghĩ. Hãy tin. Hãy tin tưởng trái tim cháu, đừng tin đầu có cháu. Đừng nghĩ. Đừng cảm. Hãy tin.”
Cô ngồi yên, ngay ngắn nhưng trông cô như thể vừa bị một cỗ xe tăng đè bẹp. Cô thì thầm một cách ngoan ngoãn:
“Vâng, chú Ellsworth… Cháu… Cháu đã không nghĩ theo cách đó. Ý cháu là cháu đã luôn luôn cho rằng cháu phải nghĩ… Nhưng chú nói đúng, nếu như đúng là từ thích hợp ở đây, nếu như có một từ để diễn tả… Vâng, cháu sẽ tin… Cháu sẽ cố hiểu… Không, không phải là hiểu… Mà là cảm thấy. Cháu sẽ cố tin… Ý cháu là… Có điều, cháu thật yếu ớt… Cháu luôn cảm thấy thật nhỏ mọn sau khi nói chuyện với chú… Cháu đoán là cháu đã đúng chút ít… Cháu thật vô ích… nhưng không sao… không sao cả…”
*
* *
Khi chuông cửa vang lên vào tối hôm sau, Toohey đích thân ra mở cửa.
Ông mỉm cười khi dẫn Peter Keating vào. Từ sau phiên toà, ông đã chờ Keating đến; ông biết rằng Keating sẽ có nhu cầu đến gặp ông. Nhưng ông đã nghĩ Keating sẽ đến sớm hơn thế này.
Keating ngập ngừng bước vào. Hai bàn tay anh dường như trĩu nặng dưới cổ tay. Mắt anh húp lên và da mặt anh sệ xuống.
“Chào Peter.” Toohey vui vẻ nói. “Muốn gặp tôi hả? Vào đi. Anh thật may. Tôi có cả buổi tối rảnh rỗi.”
“Không.” Keating nói, “cháu muốn gặp Katie.”
Anh không nhìn Toohey và anh không thấy vẻ mặt Toohey phía sau đôi mắt kính.
“Katie? Dĩ nhiên rồi.” Toohey nói vui vẻ. “Anh biết không, anh chưa bao giờ đến đây tìm Katie, vì thế tôi đã không nghĩ ra, nhưng… Vào đi, nó có nhà đấy. Lối này – anh không biết phòng nó hả? – cửa thứ hai.”
Keating nặng nề đi qua hành lang và gõ cửa phòng Catherine. Khi cô trả lời, anh bước vào. Toohey đứng nhìn theo anh; trông ông trầm tư.
Catherine nhảy lên khi cô nhìn thấy anh. Cô đứng bần thần, hoang mang một giây, rồi cô chạy tới giường vội vã thu dọn một cái thắt lưng cô để trên giường và giấu nó xuống dưới gối. Rồi cô vội vã gỡ kính ra, nắm chặt nó trong tay và luồn nó vào túi áo. Cô băn khoăn không biết cách nào sẽ tệ hơn: cứ ngồi nguyên ở đây hay ngồi xuống bàn trang điểm và trang điểm ngay trước sự có mặt của anh.
Cô không gặp Keating đã sáu tháng. Trong ba năm qua, họ gặp nhau thỉnh thoảng, cách những quãng dài; họ ăn trưa với nhau vài lần, ăn tối với nhau vài lần, họ đi xem phim hai lần. Họ đã luôn hẹn gặp nhau ở nơi công cộng. Từ lúc anh bắt đầu biết Toohey, Keating không muốn đến gặp cô ở nhà cô. Khi họ gặp nhau, họ nói chuyện như thể chưa có thay đổi gì đã xảy ra. Nhưng họ cũng không hề nói đến chuyện kết hôn từ lâu nay.
“Hello Katie” – Keating nói khẽ – “Anh không biết là em đeo kính.”
“Chỉ… chỉ để đọc thôi… Em… Hello Peter… Em đoán là tối nay trông em thật kinh khủng… Em rất mừng được gặp anh, Peter…”
Anh nặng nhọc ngồi xuống, mũ cầm trong tay, để nguyên cả áo khoác ngoài. Cô đứng mỉm cười sốt sắng. Rồi cô khoát tay thành những vòng tròn mơ hồ và hỏi:
“Anh chỉ vào một chút hay… hay là anh muốn bỏ áo khoác ra?”
“Không, anh chỉ vào một chút thôi.” Anh đứng dậy, ném áo khoác và mũ lên giường; rồi anh cười lần đầu tiên và hỏi:
“Hay là em bận và muốn tống cổ anh đi?”
Cô lấy cùi tay dụi vào hốc mắt rồi nhanh chóng thả rơi hai bàn tay. Cô phải gặp anh như cô đã luôn gặp anh. Cô phải nói chuyện nhẹ nhàng và bình thường.
“Không, không, em không hề bận.”
Anh ngồi xuống và dang tay ra, im lặng mời mọc. Cô lập tức lại gần anh. Cô đặt tay vào tay anh và anh kéo cô ngồi lên thành ghế.
Ánh đèn chiếu vào người anh và cô đã trấn tĩnh lại đủ để nhận thấy vẻ mặt anh.
“Peter,” cô há hốc miệng kinh ngạc, “anh làm gì với bản thân anh thế? Trông anh thật kinh khủng.”
“Uống rượu.”
“Không… không đến mức như thế!”
“Đến mức thế đấy. Nhưng hết rồi.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Anh đã muốn gặp em, Katie. Anh đã muốn thấy em.”
“Anh yêu… họ đã làm gì anh thế?”
“Không ai làm gì anh cả. Giờ anh ổn rồi. Anh không sao. Bởi vì anh đã ở đây… Katie, em có nghe đến Hopton Stoddard bao giờ không?”
“Stoddard?... Em không biết. Em đã thấy cái tên đó ở đâu đó.”
“Không sao đâu, chẳng có gì cả. Anh chỉ nghĩ mọi việc thật là. Em thấy đấy, Stoddard là một lão già; lão ta không thể chịu nổi sự thối tha của lão ấy thêm nữa, thế là lão ấy chuộc tội bằng cách xây một món quá lớn cho thành phố. Nhưng khi anh… khi anh không thể chịu được nữa, anh cảm thấy cách duy nhất anh có thể chuộc tội là làm điều anh muốn làm nhất. Là đến đây.”
“Khi anh không thể chịu đựng được cái gì hả Peter?”
“Anh đã làm một việc rất bẩn thỉu, Katie. Một ngày nào đó anh sẽ nói cho em, nhưng không phải bây giờ… Em có thể nói là em tha thứ cho anh mà không hỏi là là cái gì không? Anh sẽ nghĩ… anh sẽ nghĩ là anh đã được tha thứ bởi một người không bao giờ có thể tha thứ cho anh. Một người không thể bị tổn thương và vì thế không thể tha thứ- nhưng điều đó làm mọi việc càng khủng khiếp với anh.”
Cô không có vẻ bối rối. Cô nói sốt sắng:
“Em tha thứ cho anh, Peter.”
Anh gật đầu chậm chạp vài lần rồi nói:
“Cảm ơn em.”
Rồi cô áp đầu mình vào đầu anh và thì thầm:
“Anh vừa mới đi qua địa ngục, phải không anh?”
“Phải. Nhưng giờ thì ổn rồi.”
Anh kéo cô vào trong vòng tay anh và hôn cô. Rồi anh không nghĩ đến Đền Stoddard nữa, và cô không nghĩ đến chuyện tốt và xấu. Họ không cần nghĩ đến; họ cảm thấy mình trong sạch.
“Katie, tại sao chúng ta chưa cưới nhau?”
“Em không biết” – cô nói. Rồi cô vội vã nói thêm – chỉ vì tim co đang đập mạnh, bởi vì cô không thể giữ im lặng và bởi vì cô thấy cô không được lợi dụng anh – “Em đoán là vì chúng ta biết rằng chúng ta không cần phải vội.”
“Nhưng chúng ta phải vội. Nếu không phải là chúng ta đã quá muộn rồi.”
“Peter, anh … anh đang cầu hôn em lại à?”
“Đừng có ngạc nhiên thế, Katie. Nếu em ngạc nhiên, anh sẽ biết là em đã luôn nghi ngờ điều đó suốt những năm qua. Và anh không thể chịu được ý nghĩ đó vào lúc này. Tối nay anh đến tìm em để nói với em chuyện đó. Chúng ta sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ cưới nhau ngay lập tức.”
“Vâng, Peter.”
“Chúng ta không cần tuyên bố, không cần hẹn ngày, không cần chuẩn bị, khách khứa, không cần gì cả. Chúng ta đã để cho những thứ đó ngăn chúng ta lại. Thực sự anh cũng không hiểu làm sao mà chúng ta lại chần chứ đến tận giờ… Chúng ta sẽ không nói gì với ai cả. Chúng ta sẽ chuồn khỏi thành phố và sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ tuyên bố và giải thích sau, nếu có ai cần giải thích. Và ý anh là chú em, mẹ anh, và tất cả mọi người.”
“Vâng, Peter.”
“Em sẽ nghỉ cái công việc chết tiệt của em ngay ngày mai. Anh sẽ thu xếp ở văn phòng để nghỉ một tháng. Guy chắc sẽ phát điên – anh sẽ rất thích. Chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng – em không cần nhiều đâu – không cần quan tâm đến đồ trang điểm – mà em nói là tối nay trông em khủng khiếp à – chưa bao giờ trông em đáng yêu như bây giờ. Anh sẽ đến đây chín giờ sáng ngày kia. Em phải sẵn sàng để khởi hành lúc đó.”
“Vâng, Peter.”
Sau khi anh đi khỏi, cô nằm trên giường, khóc thành tiếng, không kìm nén, không xấu hổ, không quan tâm đến bất cứ thứ gì khác.
Ellsworth Toohey đã để cửa phòng đọc sách của ông mở. Ông đã nhìn thấy Keating đi ngang qua cửa mà không nhận ra ông và rồi Keating bước ra ngoài. Rồi ông nghe tiếng Catherine khóc. Ông bước vào phòng cô mà không gõ cửa. Ông hỏi:
“Có chuyện gì thế, cháu yêu quý? Peter làm gì cháu à?”
Cô nâng đầu lên khỏi gối. Cô nhìn ông, hất tóc ra khỏi mặt và khóc thổn thức. Cô nói mà không kịp nghĩ xem mình định nói gì. Cô nói một điều mà cô không hiểu nhưng ông thì hiểu:
“Cháu không sợ chú đâu, chú Ellsworth.”