Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Suối Nguồn - Phần 2 - Chương 06 a
VI.
Roger Enright đã khởi nghiệp với công việc thợ mỏ ở Pennsylvania. Trên con đường đến với hàng triệu đô la mà giờ đây ông sở hữu, không một người nào từng giúp đỡ ông. “Đó,” ông giải thích, “là lý do vì sao chưa từng có một ai ngáng đường tôi.” Thực tế là rất nhiều thứ và nhiều người đã ngáng đường ông; có điều ông chưa bao giờ chú ý đến những điều đó. Người ta không ngưỡng mộ, cũng chẳng xì xào bàn tán về các biến cố trong sự nghiệp dài của ông. Sự nghiệp của ông rõ ràng và công khai như là một bảng thông báo. Ông là một chủ đề nghèo nàn cho những kẻ tống tiền hay những kẻ chuyên viết tiểu sử để hạ bệ người khác. Trong giới những người giàu, ông bị ghét vì đã trở nên giàu có một cách quá thô thiển.
Ông căm ghét các chủ ngân hàng, công đoàn, phụ nữ, người truyền đạo và chứng khoán. Ông chưa bao giờ mua một cổ phiếu nào và cũng không bao giờ bán cổ phiếu các doanh nghiệp của ông. Ông sở hữu gia tài của ông một mình, đơn giản như thể ông mang tất cả tiền mặt của mình trong túi vậy. Ngoài công việc kinh doanh dầu mỏ, ông còn sở hữu một nhà xuất bản, một nhà hàng, một cửa hàng bán rađiô, một gara sửa xe, một nhà máy sản xuất tủ lạnh chạy điện. Trước mỗi công việc làm ăn mới ông đều nghiên cứu lĩnh vực đó rất lâu, rồi tiến hành hành động như thể ông chưa hề nghe nói đến nó và làm đảo lộn tất cả những tiền lệ. Một số dự án đầu tư của ông thành công, một số khác thì thất bại. Ông tiếp tục điều hành tất cả chúng với một sự say mê dữ dội. Ông làm việc 12 tiếng một ngày.
Khi ông quyết định xây một tòa nhà, ông đã dành ra sáu tháng trời để tìm một kiến trúc sư. Rồi ông thuê Roark ở cuối buổi phỏng vấn đầu tiên của họ – cuộc phỏng vấn kéo dài nửa giờ. Sau đó, khi các bản vẽ được làm xong, ông ra lệnh tiến hành xây dựng ngay lập tức. Khi Roark bắt đầu giải trình về các bản vẽ, Enright ngắt lời anh: “Đừng giải thích gì cả. Giải thích những lý tưởng trừu tượng cho tôi là vô ích. Tôi chưa bao giờ có lý tưởng. Người ta bảo tôi là đồ vô đạo đức. Tôi chỉ làm những gì tôi thích. Có điều tôi luôn biết rõ mình thích gì.”
Roark không hề đề cập đến những lần anh đã thử tiếp cận Enright trước đây, cũng không đề cập gì đến cuộc phỏng vấn của anh với viên thư ký tẻ nhạt. Bằng cách nào đó, Enright biết những điều này. Trong vòng năm phút viên thư ký đã bị cho thôi việc chính thức, và trong vòng mười phút anh ta được lệnh ra khỏi văn phòng ngay giữa ngày làm việc bận rộn, và đang đánh dở một lá thư.
Roark mở cửa văn phòng trở lại – vẫn là căn phòng rộng trên nóc một tòa nhà cũ. Anh mở rộng nó bằng cách lấy thêm một căn phòng liền kề – cho những kiến trúc sư anh thuê để bắt kịp tiến độ khẩn trương đã được lên kế hoạch của công trình. Các kiến trúc sư còn trẻ và không có nhiều kinh nghiệm. Anh chưa bao giờ nghe nói đến họ trước đó và anh không hỏi thư giới thiệu. Anh chọn họ trong số nhiều người xin việc, chỉ bằng cách liếc qua các bản vẽ của họ trong vài phút.
Trong sự căng thẳng ngột ngạt của những ngày tiếp theo, anh không bao giờ trò chuyện với họ, ngoại trừ về công việc đang làm. Họ cảm thấy, khi bước vào văn phòng vào buổi sáng, rằng họ không có cuộc sống riêng tư, không quan trọng và không có thực tại nào cả ngoại trừ cái thực tại bao trùm của những tấm giấy vẽ lớn trên bàn mình. Nơi này có vẻ lạnh lẽo và vô hồn như một nhà máy, cho đến khi họ nhìn anh; rồi họ nghĩ đó không phải là một nhà máy, mà là một lò luyện kim. Lò luyện ấy lấy thân thể họ làm nhiên liệu đốt, mà trước tiên là thân thể anh.
Có những lần anh ở lại văn phòng cả đêm. Họ thấy anh vẫn đang làm việc khi họ trở lại vào buổi sáng hôm sau. Anh không có vẻ mệt mỏi. Một lần anh đã ở đó hai ngày hai đêm liền. Vào buổi chiều của ngày thứ ba, anh ngủ gục, nửa người vắt ngang qua bàn làm việc. Anh tỉnh dậy sau mấy tiếng đồng hồ, không nhận xét gì cả và đi từ bàn này đến bàn khác để nhìn xem những việc gì đã được làm xong. Anh sửa chữa các bản vẽ – những lời của anh nghe chắc chắn như thể chưa hề có gì làm gián đoạn một suy nghĩ đã bắt đầu cách đó vài giờ.
“Thật không thể chịu được anh lúc anh đang làm việc, Howard ạ,” Austen Heller bảo anh một buổi tối nọ, mặc dù anh chưa nói gì về công việc của mình.
“Tại sao?” anh hỏi, ngạc nhiên.
“Thật khó chịu khi ở trong cùng một phòng với anh. Sự căng thẳng có tính lây lan, anh biết đấy.”
“Sự căng thẳng nào? Tôi cảm thấy hoàn toàn tự nhiên chính vào lúc tôi làm việc.”
“Chính thế đấy. Anh cảm thấy hoàn toàn tự nhiên khi anh gần như sắp tự nổ tung thành hàng trăm mảnh. Anh được làm bằng cái quái gì thế hả Howard? Rốt cuộc đó chỉ là một tòa nhà thôi mà. Nó không phải tổ hợp của lễ phong thánh với giàn thiêu và cực khoái tình dục như anh tưởng đâu.”
“Có thật là nó không phải?”
*
* *
Anh không thường xuyên nghĩ đến Dominique, nhưng khi anh nghĩ đến cô, ý nghĩ đó không phải là một sự nhớ lại bất thần; nó là sự thừa nhận về một thứ vẫn liên tục hiện hữu – đến mức không cần phải được thừa nhận. Anh muốn cô. Anh biết phải tìm cô ở đâu. Anh chờ đợi. Việc chờ đợi làm anh thấy thích thú, vì anh biết việc chờ đợi này là một cực hình đối với cô. Anh biết là sự vắng mặt của anh trói buộc cô vào anh một cách trọn vẹn và tàn nhẫn hơn so với sự có mặt của anh. Anh đang cho cô thời gian để cố gắng trốn thoát, để cho cô biết sự bất lực của chính cô khi anh chọn việc gặp lại cô. Cô sẽ biết rằng bản thân sự cố gắng trốn thoát đó cũng đã là lựa chọn của anh, rằng đó chỉ là một biểu hiện khác nữa sự sở hữu của anh với cô. Như thế cô sẽ sẵn sàng hoặc là giết anh hoặc là đến với anh một cách tự nguyện. Cả hai hành động đều sẽ ngang bằng nhau trong tâm trí cô. Anh muốn cô phải đi đến được chỗ này. Anh chờ đợi.
*
* *
Việc xây dựng tòa nhà Enright đang chuẩn bị bắt đầu thì Roark được mời đến văn phòng của Joel Sutton. Joel Sutton, một doanh nhân thành đạt, đang lên kế hoạch xây dựng một tòa nhà văn phòng khổng lồ. Sự thành công của Joel Sutton nằm ở chỗ ông không hiểu gì về mọi người. Ông chỉ yêu mến mọi người. Sự yêu mến của ông không hề phân biệt cao thấp. Đấy là một công cụ san phẳng tuyệt vời; nó không chứa những đỉnh cao và cũng không chứa những chỗ trũng, nó giống như bề mặt của một bát mật không hề có chỗ cao thấp.
Joe Sutton gặp Roark trong một bữa tối do Enright tổ chức. Joel Sutton thích Roark. Ông ngưỡng mộ Roark. Ông không thấy có khác biệt gì giữa Roark và những người khác. Khi Roark đến văn phòng của ông, Joel Sutton tuyên bố:
“Giờ thì tôi không chắc, tôi không chắc, tôi không chắc chút nào cả, nhưng lúc trước tôi đã nghĩ là tôi có thể để anh xây tòa cái tòa nhà mà tôi dự định. Tòa nhà Enright của anh hơi... kỳ quặc, nhưng nó hấp dẫn, tất cả các tòa nhà đều hấp dẫn, anh yêu các tòa nhà đúng không? – và Rog Enright là một người khôn ngoan, một người cực kỳ khôn ngoan, ông ta hái ra tiền ở nơi mà chẳng ai nghĩ là có thể. Tôi sẽ nghe theo gợi ý của Rog Enright bất kỳ lúc nào, điều gì tốt cho Enright thì cũng tốt cho tôi.”
Roark đợi hàng tuần sau cuộc phỏng vấn đầu tiên đó. Joel Sutton không bao giờ quyết định vội vàng cả.
Vào một buổi tối tháng Mười hai, Austen Heller ghé thăm Roark mà không báo trước và tuyên bố là anh phải đi cùng ông đến một buổi tiệc trang trọng do bà Ralston Holcombe tổ chức vào thứ sáu tới.
“Quỷ tha ma bắt, không, Austen,” Roark nói.
“Nào Howard, chính xác thì sao lại không nào? Ồ, tôi biết, anh ghét những thứ thế này, nhưng đó không phải là lý do tốt. Trong khi đó, tôi có thể cho anh nhiều lý do rất tuyệt để đi. Cái tiệc đó là một đầu mối phân việc cho các kiến trúc sư và, tất nhiên, anh sẽ bán bất kỳ thứ gì anh có để đổi lấy một công trình – ồ, tôi biết, dĩ nhiên là để đổi lấy kiểu công trình của anh, nhưng anh vẫn sẽ sẵn sàng bán cả cái linh hồn mà anh không có – vậy thì sao anh lại không thể chịu nổi vài giờ chán ngắt để đổi lấy những cơ hội tương lai nhỉ?”
“Chắc chắn rồi. Có điều tôi không tin là những thứ thế này lại có thể dẫn đến bất kỳ cơ hội nào.”
“Anh sẽ đi lần này chứ?”
“Lần này có gì đặc biệt?”
“À, trước tiên là vì bà già lắm chuyện Kiki Holcombe yêu cầu thế. Bà ta đã tốn cả hai giờ đồng hồ hôm qua để yêu cầu thế và làm cho tôi lỡ cả một cái hẹn ăn trưa. Danh tiếng của bà ta sẽ bị phá hỏng mất nếu có một tòa nhà như Enright được xây trong thành phố mà bà ta lại không thể trưng kiến trúc sư của nó trong phòng khách nhà mình. Đó là một thứ thú vui. Bà ta sưu tập các kiến trúc sư. Bà ta khăng khăng là tôi phải mang anh đến và tôi đã hứa là tôi sẽ làm thế.”
“Để làm gì?”
“Cụ thể là bà ta sẽ mời Joel Sutton tới đó vào thứ Sáu tới. Hãy cố cư xử lịch sự với ông ta, kể cả nếu điều đó có làm anh khó chịu. Ông ta hầu như đã quyết định giao cho anh tòa nhà đó rồi – theo những gì tôi nghe được. Một chút quan hệ cá nhân có thể là tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề. Ông ta có rất nhiều tay khác đang theo đuổi. Tất cả bọn họ sẽ ở đó. Tôi muốn anh ở đó. Tôi muốn anh nhận được tòa nhà đó. Tôi không muốn nghe bất kỳ thứ gì về các mỏ đá granit trong vòng mười năm tới. Tôi không thích các mỏ đá granit.”
Roark ngồi trên một chiếc bàn, hai bàn tay anh nắm chặt lấy mép bàn để giữ im thân mình. Anh đã kiệt sức sau 14 giờ làm việc trong văn phòng, anh nghĩ anh hẳn phải kiệt sức nhưng anh không thể cảm thấy điều đó. Anh để vai mình chùng xuống trong một cố gắng để đạt được một sự thư giãn sẽ không đến; hai cánh tay anh căng thẳng, rã rời và một khuỷu tay anh run nhẹ, liên tục. Hai chân anh choãi ra, một chân hơi gập và được giữ yên, đầu gối dựa vào bàn, chân kia thõng xuống thẳng từ hông qua mép bàn, đu đưa một cách nôn nóng. Thật khó có thể tự buộc bản thân anh nghỉ ngơi trong những ngày này.
Nhà mới của anh là một căn phòng rộng trong khu chung cư nhỏ, hiện đại trên một con phố yên tĩnh. Anh đã chọn ngôi nhà này vì nó không có mái đua trên các cửa sổ và không có ván lót trên các bức tường bên trong. Phòng của anh có vài thứ đồ gỗ đơn giản; trông nó sạch sẽ, rộng và trống trải; người ta tưởng như có thể nghe thấy tiếng dội lại của âm thanh từ các góc của nó.
“Sao lại không đi, chỉ một lần thôi?” Heller nói. “Sẽ không quá kinh khủng. Thậm chí nó có thể làm anh thích thú. Anh sẽ thấy rất nhiều bạn cũ của anh ở đấy. John Erik Snyte, Peter Keating, Guy Francon và con gái ông ấy – anh nên gặp con gái ông ta. Anh đã bao giờ đọc những thứ của cô ấy?”
“Tôi sẽ đi,” Roark đột ngột nói.
“Anh thật khó đoán nhưng thỉnh thoảng cũng biết điều. Tôi sẽ cho xe đến lúc tám giờ rưỡi thứ Sáu. Cà-vạt đen nhé. Tiện thể, anh có một bộ tux[73] đấy chứ?”
“Enright đã bắt tôi sắm một bộ.”
“Enright là một người rất sáng suốt.”
Khi Heller rời đi, Roark vẫn ngồi trên bàn hồi lâu. Anh đã quyết định đi đến bữa tiệc, bởi vì anh biết rằng đó sẽ là nơi cuối cùng trong số những nơi mà Dominique mong gặp lại anh.
*
* *
Ellsworth Toohey nói: “Chẳng có gì vô dụng, chị Kiki thân mến của tôi, như việc một người phụ nữ giàu có lại tự biến mình thành một chuyên gia mua vui cho người khác. Nhưng rồi, những điều vô dụng lại có sự hấp dẫn riêng. Giống như chế độ quý tộc chẳng hạn, một khái niệm vô dụng nhất trong số các khái niệm.”
Kiki Holcombe chun mũi trước những lời chỉ trích nhẹ nhàng, nhưng bà thích việc được so sánh với tầng lớp quý tộc. Ba chùm đèn pha lê đang rực sáng trên phòng khiêu vũ Florentine của bà, và khi bà ngước nhìn lên Toohey thì những ngọn đèn được phản chiếu trong đôi mắt bà, biến đôi mắt trở thành một tập hợp những tia sáng ẩm ướt, lấp lánh giữa đôi hàng mi nặng, dày.
“Anh toàn nói những điều kinh khủng, Ellsworth ạ. Tôi không biết tại sao tôi vẫn cứ mời anh.”
“Đó chính là lý do đấy, chị thân mến. Tôi nghĩ tôi sẽ được mời đến đây thường xuyên như tôi muốn.”
“Một người phụ nữ đơn thuần thì có thể làm được gì để chống lại điều đó cơ chứ?”
“Đừng bao giờ tranh cãi với ông Toohey,” bà Gillespie nói; bà là một phụ nữ cao ráo, đeo một chuỗi vòng cổ bằng những viên kim cương lớn cùng cỡ với những chiếc răng bà để lộ khi mỉm cười. “Chẳng ích gì đâu. Chúng ta bị đánh bại sẵn rồi.”
“Tranh luận, thưa bà Gillespie,” Toohey nói, “là một trong số những điều vừa vô ích lại vừa không hấp dẫn. Hãy để nó cho những người đàn ông thông minh. Trí thông minh, tất nhiên, là một sự thú nhận nguy hiểm về sự yếu ớt. Người ta đã nói là đàn ông phát triển trí thông minh khi họ thất bại trong mọi thứ khác.”
“Ông chẳng hề tin điều đó.” bà Gillespie nói, trong khi nụ cười của bà chấp nhận điều đó như một sự thật dễ chịu. Bà sở hữu ông một cách đắc thắng và lái ông đi như một phần thưởng lấy cắp được từ bà Holcombe, người đã quay sang bên một lát để đón những vị khách mới. “Nhưng đàn ông thông minh các ông chỉ là những đứa trẻ thôi. Các ông quá nhạy cảm. Lúc nào cũng phải chiều chuộng các ông.”
“Tôi sẽ không làm thế đâu, bà Gillespie ạ. Chúng tôi sẽ tận dụng điều đó. Và phô bày sự thông minh của mình thì thật là thô thiển. Nó còn thô thiển hơn cả việc phô bày sự giàu có của mình nữa.”
“Ôi trời, ông không tin điều đó đấy chứ? Tất nhiên tôi đã nghe nói ông là một kiểu người cấp tiến nhưng tôi sẽ không coi chuyện ấy là nghiêm túc. Không một chút nào. Ông thấy thế nào?”
“Tôi rất thích thế,” Toohey nói.
“Ông không thể lừa tôi được đâu. Ông không thể làm cho tôi nghĩ ông là một trong số những người nguy hiểm được đâu. Tất cả những kẻ nguy hiểm đều bẩn thỉu và dùng ngữ pháp rất tồi. Còn ông thì lại có một giọng nói thật là hay!”
“Điều gì đã khiến bà nghĩ tôi khao khát trở thành nguy hiểm hở bà Gillespie? Tôi chỉ – ồ, chúng ta gọi là gì nhỉ, cái thứ hòa nhã nhất trong tất cả mọi thứ ấy – một lương tâm? Lương tâm của chính bà, được nhân cách hóa trong thân thể của một người khác và trông nom những mối quan tâm của bà tới những người kém may mắn hơn trên thế giới, nhờ thế mà bà tự do không cần phải chăm lo đến chúng nữa.”
“Ồ, thật là một ý tưởng kỳ quặc! Tôi không biết nó là kinh khủng hay thực sự rất thông minh nữa.”
“Cả hai, bà Gillespie ạ. Như tất cả sự thông thái.”
Kiki Holcombe xem xét phòng khiêu vũ của bà với một sự hài lòng. Bà nhìn lên khoảng tối mờ mờ của trần phòng, cái khoảng không phía trên những chùm đèn, và bà nhận thấy nó thật là cao phía trên các vị khách, thật là nổi bật và yên tĩnh. Đám đông khách khứa không làm chật gian sảnh nhà bà; cái không gian ấy ngự phía trên họ như một cái hộp vuông bằng không khí, to quá cỡ; chính cái khoảng không gian rộng lớn bị giam hãm phía trên đó đã mang lại cho buổi gặp gỡ này một vẻ xa hoa vương giả; nó giống như cái nắp của một hộp trang sức, to một cách không cần thiết phía trên cái đáy phẳng giữ duy nhất một viên đá quý nhỏ.
Khách khứa đi vào theo hai dòng lớn và thay đổi; rồi rút cục đều bị cuốn vào hai cái xoáy; ở trung tâm của một vòng xoáy là Ellsworth Toohey, của vòng xoáy kia là Peter Keating. Trang phục buổi tối không hợp với Ellsworth Toohey; phần ngực áo hình chữ nhật của chiếc sơ mi trắng khiến mặt ông dài ra và kéo dãn cả người ông thành hai chiều; những cánh của chiếc nơ bướm khiến cho chiếc cổ gầy guộc của ông trông giống cổ của con gà đã được vặt lông, nhợt nhạt, xanh xao và sẵn sàng bị vặn chỉ bằng một chuyển động duy nhất của một bàn tay khỏe mạnh nào đó. Nhưng ông mặc trang phục của mình một cách đỏm dáng hơn bất kỳ người đàn ông đang có mặt nào. Ông mặc chúng với vẻ ngạo mạn trễ nải thể hiện sự thoải mái hoàn toàn với cái lố bịch, và chính sự lố bịch trong vẻ ngoài của ông lại trở thành một tuyên ngôn cho sự ưu việt của ông, một sự ưu việt đủ lớn để có thể không thèm quan tâm đến những thứ vụn vặt.
Ông nói với một phụ nữ trẻ có nét mặt âu sầu, đeo cặp kính và mặc một chiếc váy buổi tối ngắn: “Cô gái thân mến, cô sẽ không bao giờ vượt quá địa vị một kẻ amateur trong lĩnh vực tri thức, trừ phi cô ném mình vào trong một sự nghiệp vĩ đại hơn bản thân cô.”
Ông nói với một quý ông béo phị với khuôn mặt đang tím lại giữa cao trào một cuộc tranh cãi: “Nhưng, bạn của tôi ơi, tôi có thể cũng không thích nó. Tôi chỉ nói, những điều như vậy tình cờ lại là tiến trình không thể tránh khỏi của lịch sử. Và ông hay tôi là ai mà phản đối tiến trình của lịch sử cơ chứ?”
Ông nói với một kiến trúc sư trẻ bất hạnh: “Không, chàng trai của tôi, điều tôi phản đối cậu không phải là tòa nhà tồi tệ mà cậu đã thiết kế, mà là cái thị hiếu tồi cậu đã thể hiện trong việc rên rỉ về lời phê bình của tôi với tòa nhà. Cậu nên cẩn thận. Ai đó có thể nói là cậu chẳng thể phản bác lại mà cũng chẳng biết chấp nhận những lời phê bình.”
Ông nói với một bà quả phụ của một triệu phú: “Vâng, tôi thực sự nghĩ sẽ là ý hay nếu bà đóng góp vào Hội thảo Nghiên cứu Xã hội. Đó sẽ là một cách để tham gia vào dòng chảy vĩ đại của những thành tựu văn hóa của con người, mà không làm đảo lộn hoạt động thường ngày hay việc tiêu hóa của bà.”
Những người xung quanh ông nói: “Chẳng phải ông ta thật là hóm hỉnh đấy sao? Và quả là dũng cảm!”
Peter Keating mỉm cười rạng rỡ. Anh cảm thấy sự chú ý và ngưỡng mộ chảy dồn vào anh từ mọi phía của phòng khiêu vũ. Anh ngắm nhìn mọi người, tất cả những con người gọn ghẽ, sức nước hoa, quần áo lụa sột soạt, bao bọc bởi ánh sáng, chảy ròng ròng trong ánh sáng, như trước đó mấy tiếng tất cả họ cũng đứng ròng ròng dưới vòi hoa sen, rồi chuẩn bị ăn mặc để đến đây và đứng một cách thành kính trước con người có tên Peter Keating. Có những lúc anh quên mất rằng anh là Peter Keating và anh liếc vào gương, vào chính hình dáng của mình, anh muốn hòa vào sự ngưỡng mộ chung với cái hình dáng đó.
Có lần dòng người để lại anh mặt đối mặt với Ellsworth Toohey. Keating mỉm cười như một cậu bé nhô lên từ một dòng suối trong một ngày hè, lấp lánh nước, hăng hái, tràn đầy năng lượng. Toohey đứng nhìn anh; hai bàn tay Toohey trượt cẩu thả vào hai túi quần, khiến cho chiếc áo vét của ông loe ra trên hai bên hông gầy của ông; ông dường như hơi loạng choạng trên đôi bàn chân nhỏ bé của mình; đôi mắt ông chăm chú trong sự đánh giá bí ẩn.
“Nào... đây, chú Ellsworth... đây... không phải là một buổi tối tuyệt vời hay sao?” Keating nói, như một đứa trẻ nói với một người mẹ cảm thông, và hơi giống như một người say.
“Đang vui hả Peter? Cậu rất được chú ý đêm nay đấy. Peter bé nhỏ dường như đã bước qua cái vạch để trở thành một người nổi tiếng rồi. Điều đó phải xảy ra, người ta chẳng bao giờ có thể nói được chính xác là khi nào và vì sao... Tuy nhiên, có một người ở đây dường như đang lờ cậu đi một cách khá trắng trợn đúng không nào?”
Keating nhăn mặt. Anh tự hỏi khi nào và bằng cách nào mà Toohey đã có thời gian để để ý đến điều đó.
“Ôi dào,” Toohey nói, “ngoại lệ chứng minh cho quy luật. Đáng tiếc, tuy vậy. Tôi đã luôn có một ý tưởng ngu ngốc là một người đàn ông phi thường nhất mới có thể hấp dẫn nổi Dominique Francon. Vì thế tất nhiên tôi đã nghĩ đến anh. Chỉ là một ý nghĩ vu vơ thôi. Tuy thế, cậu biết đấy, người đàn ông chinh phục nổi cô ấy sẽ có thứ gì đó mà cậu không thể sánh được. Anh ta sẽ đánh bại cậu ở điểm đó.”
“Không ai có được cô ấy cả,” Keating rít lên.
“Không, dĩ nhiên rồi. Chưa ai. Điều đó khá đáng ngạc nhiên. Ồ, tôi cho là đó sẽ phải là một kiểu đàn ông phi thường.”
“Nào, ông đang làm cái quái gì thế? Ông không thích Dominique Francon. Đúng không?”
“Tôi chưa bao giờ nói tôi thích.”
Một lát sau Keating nghe thấy Toohey nói một cách long trọng giữa một cuộc thảo luận sôi nổi nào đó: “Hạnh phúc ư? Nhưng như thế thì có vẻ trung lưu quá. Hạnh phúc là gì vậy? Có quá nhiều thứ trong cuộc sống quan trọng hơn hạnh phúc rất nhiều.”
Keating chầm chậm đi về phía Dominique. Cô đứng hơi ưỡn người ra phía sau, như thể không khí là một vật đỡ đủ cứng cho hai bả vai thanh mảnh để trần của cô vậy. Chiếc váy dài buổi tối của cô có màu của thủy tinh. Anh có cái cảm giác anh có thể nhìn thấy bức tường đằng sau cô, xuyên qua cơ thể cô. Cô dường như quá mong manh, như thể cô không tồn tại; và chính sự mong manh đó nói lên một sức mạnh đáng sợ – cái sức mạnh đã giữ cô neo bám vào sự tồn tại bằng một cơ thể dường như không có thật.
Khi anh đến gần, cô không cố lờ anh đi; cô quay sang anh, cô trả lời; nhưng sự chính xác đều đều trong những câu trả lời của cô đã ngăn anh lại, khiến anh bất lực, khiến anh rời bỏ cô trong chốc lát.
Khi Roark và Heller bước vào, Kiki Holcombe đón họ ở ngưỡng cửa. Heller giới thiệu Roark với bà, và bà nói như bà vẫn luôn nói, giọng bà như một quả rốc-két rít lên, đẩy bật mọi thứ sang bên nhờ vận tốc khủng khiếp của nó.
“Ồ anh Roark, tôi đã rất nóng lòng mong gặp anh! Tất cả chúng tôi đều đã nghe về anh rất nhiều! Nào, tôi phải cảnh báo với anh là chồng tôi không tán thành anh. – ồ, chỉ thuần túy về mặt nghệ thuật thôi, anh biết đấy – nhưng đừng để điều đó làm anh lo lắng, anh có một đồng minh trong nhà này, một đồng minh nhiệt tình!”
“Bà thật tốt bụng, thưa bà Holcombe,” Roark nói. “Và có thể lòng tốt của bà là không cần thiết.”
“Ồ, tôi mê mẩn tòa nhà Enright! Tất nhiên, tôi không thể nói là nó đại diện cho những quan niệm thẩm mỹ của bản thân tôi, nhưng những người có văn hóa phải giữ cho đầu óc mình rộng mở với bất kỳ điều gì, ý tôi là để thu nhận bất kỳ quan điểm nào trong nghệ thuật sáng tạo, trên tất cả, chúng ta phải có đầu óc thật thoáng, anh có nghĩ vậy không?”
“Tôi không biết,” Roark nói. “Tôi chưa bao giờ có đầu óc thoáng cả.”
Bà chắc chắn là anh không có ý định ngạo mạn; giọng nói và cử chỉ của anh không cho thấy điều đó; nhưng sự ngạo mạn lại là ấn tượng đầu tiên của bà về anh. Anh mặc trang phục buổi tối và chúng trông đẹp trên thân hình cao gầy của anh, nhưng theo cách nào đó dường như anh không ở trong chúng; mái tóc màu cam trông hoàn toàn đối lập với bộ quần áo trang trọng của anh; bên cạnh đó, bà không thích khuôn mặt anh; khuôn mặt đó hợp với một công trường hay trong quân đội, nó không có chỗ trong phòng khách của bà. Bà nói:
“Tất cả chúng tôi đều rất quan tâm đến công việc của anh. Tòa nhà đầu tiên của anh?”
“Tòa thứ năm của tôi.”
“Ồ, thật thế sao? Tất nhiên rồi. Thật là thú vị.”
Bà siết hai tay lại, và quay đi để đón một người khách mới đến.
Heller nói: “Anh muốn gặp ai trước?... Kìa, có Dominique Francon đang nhìn chúng ta. Đi nào.”
Roger Enright đã khởi nghiệp với công việc thợ mỏ ở Pennsylvania. Trên con đường đến với hàng triệu đô la mà giờ đây ông sở hữu, không một người nào từng giúp đỡ ông. “Đó,” ông giải thích, “là lý do vì sao chưa từng có một ai ngáng đường tôi.” Thực tế là rất nhiều thứ và nhiều người đã ngáng đường ông; có điều ông chưa bao giờ chú ý đến những điều đó. Người ta không ngưỡng mộ, cũng chẳng xì xào bàn tán về các biến cố trong sự nghiệp dài của ông. Sự nghiệp của ông rõ ràng và công khai như là một bảng thông báo. Ông là một chủ đề nghèo nàn cho những kẻ tống tiền hay những kẻ chuyên viết tiểu sử để hạ bệ người khác. Trong giới những người giàu, ông bị ghét vì đã trở nên giàu có một cách quá thô thiển.
Ông căm ghét các chủ ngân hàng, công đoàn, phụ nữ, người truyền đạo và chứng khoán. Ông chưa bao giờ mua một cổ phiếu nào và cũng không bao giờ bán cổ phiếu các doanh nghiệp của ông. Ông sở hữu gia tài của ông một mình, đơn giản như thể ông mang tất cả tiền mặt của mình trong túi vậy. Ngoài công việc kinh doanh dầu mỏ, ông còn sở hữu một nhà xuất bản, một nhà hàng, một cửa hàng bán rađiô, một gara sửa xe, một nhà máy sản xuất tủ lạnh chạy điện. Trước mỗi công việc làm ăn mới ông đều nghiên cứu lĩnh vực đó rất lâu, rồi tiến hành hành động như thể ông chưa hề nghe nói đến nó và làm đảo lộn tất cả những tiền lệ. Một số dự án đầu tư của ông thành công, một số khác thì thất bại. Ông tiếp tục điều hành tất cả chúng với một sự say mê dữ dội. Ông làm việc 12 tiếng một ngày.
Khi ông quyết định xây một tòa nhà, ông đã dành ra sáu tháng trời để tìm một kiến trúc sư. Rồi ông thuê Roark ở cuối buổi phỏng vấn đầu tiên của họ – cuộc phỏng vấn kéo dài nửa giờ. Sau đó, khi các bản vẽ được làm xong, ông ra lệnh tiến hành xây dựng ngay lập tức. Khi Roark bắt đầu giải trình về các bản vẽ, Enright ngắt lời anh: “Đừng giải thích gì cả. Giải thích những lý tưởng trừu tượng cho tôi là vô ích. Tôi chưa bao giờ có lý tưởng. Người ta bảo tôi là đồ vô đạo đức. Tôi chỉ làm những gì tôi thích. Có điều tôi luôn biết rõ mình thích gì.”
Roark không hề đề cập đến những lần anh đã thử tiếp cận Enright trước đây, cũng không đề cập gì đến cuộc phỏng vấn của anh với viên thư ký tẻ nhạt. Bằng cách nào đó, Enright biết những điều này. Trong vòng năm phút viên thư ký đã bị cho thôi việc chính thức, và trong vòng mười phút anh ta được lệnh ra khỏi văn phòng ngay giữa ngày làm việc bận rộn, và đang đánh dở một lá thư.
Roark mở cửa văn phòng trở lại – vẫn là căn phòng rộng trên nóc một tòa nhà cũ. Anh mở rộng nó bằng cách lấy thêm một căn phòng liền kề – cho những kiến trúc sư anh thuê để bắt kịp tiến độ khẩn trương đã được lên kế hoạch của công trình. Các kiến trúc sư còn trẻ và không có nhiều kinh nghiệm. Anh chưa bao giờ nghe nói đến họ trước đó và anh không hỏi thư giới thiệu. Anh chọn họ trong số nhiều người xin việc, chỉ bằng cách liếc qua các bản vẽ của họ trong vài phút.
Trong sự căng thẳng ngột ngạt của những ngày tiếp theo, anh không bao giờ trò chuyện với họ, ngoại trừ về công việc đang làm. Họ cảm thấy, khi bước vào văn phòng vào buổi sáng, rằng họ không có cuộc sống riêng tư, không quan trọng và không có thực tại nào cả ngoại trừ cái thực tại bao trùm của những tấm giấy vẽ lớn trên bàn mình. Nơi này có vẻ lạnh lẽo và vô hồn như một nhà máy, cho đến khi họ nhìn anh; rồi họ nghĩ đó không phải là một nhà máy, mà là một lò luyện kim. Lò luyện ấy lấy thân thể họ làm nhiên liệu đốt, mà trước tiên là thân thể anh.
Có những lần anh ở lại văn phòng cả đêm. Họ thấy anh vẫn đang làm việc khi họ trở lại vào buổi sáng hôm sau. Anh không có vẻ mệt mỏi. Một lần anh đã ở đó hai ngày hai đêm liền. Vào buổi chiều của ngày thứ ba, anh ngủ gục, nửa người vắt ngang qua bàn làm việc. Anh tỉnh dậy sau mấy tiếng đồng hồ, không nhận xét gì cả và đi từ bàn này đến bàn khác để nhìn xem những việc gì đã được làm xong. Anh sửa chữa các bản vẽ – những lời của anh nghe chắc chắn như thể chưa hề có gì làm gián đoạn một suy nghĩ đã bắt đầu cách đó vài giờ.
“Thật không thể chịu được anh lúc anh đang làm việc, Howard ạ,” Austen Heller bảo anh một buổi tối nọ, mặc dù anh chưa nói gì về công việc của mình.
“Tại sao?” anh hỏi, ngạc nhiên.
“Thật khó chịu khi ở trong cùng một phòng với anh. Sự căng thẳng có tính lây lan, anh biết đấy.”
“Sự căng thẳng nào? Tôi cảm thấy hoàn toàn tự nhiên chính vào lúc tôi làm việc.”
“Chính thế đấy. Anh cảm thấy hoàn toàn tự nhiên khi anh gần như sắp tự nổ tung thành hàng trăm mảnh. Anh được làm bằng cái quái gì thế hả Howard? Rốt cuộc đó chỉ là một tòa nhà thôi mà. Nó không phải tổ hợp của lễ phong thánh với giàn thiêu và cực khoái tình dục như anh tưởng đâu.”
“Có thật là nó không phải?”
*
* *
Anh không thường xuyên nghĩ đến Dominique, nhưng khi anh nghĩ đến cô, ý nghĩ đó không phải là một sự nhớ lại bất thần; nó là sự thừa nhận về một thứ vẫn liên tục hiện hữu – đến mức không cần phải được thừa nhận. Anh muốn cô. Anh biết phải tìm cô ở đâu. Anh chờ đợi. Việc chờ đợi làm anh thấy thích thú, vì anh biết việc chờ đợi này là một cực hình đối với cô. Anh biết là sự vắng mặt của anh trói buộc cô vào anh một cách trọn vẹn và tàn nhẫn hơn so với sự có mặt của anh. Anh đang cho cô thời gian để cố gắng trốn thoát, để cho cô biết sự bất lực của chính cô khi anh chọn việc gặp lại cô. Cô sẽ biết rằng bản thân sự cố gắng trốn thoát đó cũng đã là lựa chọn của anh, rằng đó chỉ là một biểu hiện khác nữa sự sở hữu của anh với cô. Như thế cô sẽ sẵn sàng hoặc là giết anh hoặc là đến với anh một cách tự nguyện. Cả hai hành động đều sẽ ngang bằng nhau trong tâm trí cô. Anh muốn cô phải đi đến được chỗ này. Anh chờ đợi.
*
* *
Việc xây dựng tòa nhà Enright đang chuẩn bị bắt đầu thì Roark được mời đến văn phòng của Joel Sutton. Joel Sutton, một doanh nhân thành đạt, đang lên kế hoạch xây dựng một tòa nhà văn phòng khổng lồ. Sự thành công của Joel Sutton nằm ở chỗ ông không hiểu gì về mọi người. Ông chỉ yêu mến mọi người. Sự yêu mến của ông không hề phân biệt cao thấp. Đấy là một công cụ san phẳng tuyệt vời; nó không chứa những đỉnh cao và cũng không chứa những chỗ trũng, nó giống như bề mặt của một bát mật không hề có chỗ cao thấp.
Joe Sutton gặp Roark trong một bữa tối do Enright tổ chức. Joel Sutton thích Roark. Ông ngưỡng mộ Roark. Ông không thấy có khác biệt gì giữa Roark và những người khác. Khi Roark đến văn phòng của ông, Joel Sutton tuyên bố:
“Giờ thì tôi không chắc, tôi không chắc, tôi không chắc chút nào cả, nhưng lúc trước tôi đã nghĩ là tôi có thể để anh xây tòa cái tòa nhà mà tôi dự định. Tòa nhà Enright của anh hơi... kỳ quặc, nhưng nó hấp dẫn, tất cả các tòa nhà đều hấp dẫn, anh yêu các tòa nhà đúng không? – và Rog Enright là một người khôn ngoan, một người cực kỳ khôn ngoan, ông ta hái ra tiền ở nơi mà chẳng ai nghĩ là có thể. Tôi sẽ nghe theo gợi ý của Rog Enright bất kỳ lúc nào, điều gì tốt cho Enright thì cũng tốt cho tôi.”
Roark đợi hàng tuần sau cuộc phỏng vấn đầu tiên đó. Joel Sutton không bao giờ quyết định vội vàng cả.
Vào một buổi tối tháng Mười hai, Austen Heller ghé thăm Roark mà không báo trước và tuyên bố là anh phải đi cùng ông đến một buổi tiệc trang trọng do bà Ralston Holcombe tổ chức vào thứ sáu tới.
“Quỷ tha ma bắt, không, Austen,” Roark nói.
“Nào Howard, chính xác thì sao lại không nào? Ồ, tôi biết, anh ghét những thứ thế này, nhưng đó không phải là lý do tốt. Trong khi đó, tôi có thể cho anh nhiều lý do rất tuyệt để đi. Cái tiệc đó là một đầu mối phân việc cho các kiến trúc sư và, tất nhiên, anh sẽ bán bất kỳ thứ gì anh có để đổi lấy một công trình – ồ, tôi biết, dĩ nhiên là để đổi lấy kiểu công trình của anh, nhưng anh vẫn sẽ sẵn sàng bán cả cái linh hồn mà anh không có – vậy thì sao anh lại không thể chịu nổi vài giờ chán ngắt để đổi lấy những cơ hội tương lai nhỉ?”
“Chắc chắn rồi. Có điều tôi không tin là những thứ thế này lại có thể dẫn đến bất kỳ cơ hội nào.”
“Anh sẽ đi lần này chứ?”
“Lần này có gì đặc biệt?”
“À, trước tiên là vì bà già lắm chuyện Kiki Holcombe yêu cầu thế. Bà ta đã tốn cả hai giờ đồng hồ hôm qua để yêu cầu thế và làm cho tôi lỡ cả một cái hẹn ăn trưa. Danh tiếng của bà ta sẽ bị phá hỏng mất nếu có một tòa nhà như Enright được xây trong thành phố mà bà ta lại không thể trưng kiến trúc sư của nó trong phòng khách nhà mình. Đó là một thứ thú vui. Bà ta sưu tập các kiến trúc sư. Bà ta khăng khăng là tôi phải mang anh đến và tôi đã hứa là tôi sẽ làm thế.”
“Để làm gì?”
“Cụ thể là bà ta sẽ mời Joel Sutton tới đó vào thứ Sáu tới. Hãy cố cư xử lịch sự với ông ta, kể cả nếu điều đó có làm anh khó chịu. Ông ta hầu như đã quyết định giao cho anh tòa nhà đó rồi – theo những gì tôi nghe được. Một chút quan hệ cá nhân có thể là tất cả những gì cần thiết để giải quyết vấn đề. Ông ta có rất nhiều tay khác đang theo đuổi. Tất cả bọn họ sẽ ở đó. Tôi muốn anh ở đó. Tôi muốn anh nhận được tòa nhà đó. Tôi không muốn nghe bất kỳ thứ gì về các mỏ đá granit trong vòng mười năm tới. Tôi không thích các mỏ đá granit.”
Roark ngồi trên một chiếc bàn, hai bàn tay anh nắm chặt lấy mép bàn để giữ im thân mình. Anh đã kiệt sức sau 14 giờ làm việc trong văn phòng, anh nghĩ anh hẳn phải kiệt sức nhưng anh không thể cảm thấy điều đó. Anh để vai mình chùng xuống trong một cố gắng để đạt được một sự thư giãn sẽ không đến; hai cánh tay anh căng thẳng, rã rời và một khuỷu tay anh run nhẹ, liên tục. Hai chân anh choãi ra, một chân hơi gập và được giữ yên, đầu gối dựa vào bàn, chân kia thõng xuống thẳng từ hông qua mép bàn, đu đưa một cách nôn nóng. Thật khó có thể tự buộc bản thân anh nghỉ ngơi trong những ngày này.
Nhà mới của anh là một căn phòng rộng trong khu chung cư nhỏ, hiện đại trên một con phố yên tĩnh. Anh đã chọn ngôi nhà này vì nó không có mái đua trên các cửa sổ và không có ván lót trên các bức tường bên trong. Phòng của anh có vài thứ đồ gỗ đơn giản; trông nó sạch sẽ, rộng và trống trải; người ta tưởng như có thể nghe thấy tiếng dội lại của âm thanh từ các góc của nó.
“Sao lại không đi, chỉ một lần thôi?” Heller nói. “Sẽ không quá kinh khủng. Thậm chí nó có thể làm anh thích thú. Anh sẽ thấy rất nhiều bạn cũ của anh ở đấy. John Erik Snyte, Peter Keating, Guy Francon và con gái ông ấy – anh nên gặp con gái ông ta. Anh đã bao giờ đọc những thứ của cô ấy?”
“Tôi sẽ đi,” Roark đột ngột nói.
“Anh thật khó đoán nhưng thỉnh thoảng cũng biết điều. Tôi sẽ cho xe đến lúc tám giờ rưỡi thứ Sáu. Cà-vạt đen nhé. Tiện thể, anh có một bộ tux[73] đấy chứ?”
“Enright đã bắt tôi sắm một bộ.”
“Enright là một người rất sáng suốt.”
Khi Heller rời đi, Roark vẫn ngồi trên bàn hồi lâu. Anh đã quyết định đi đến bữa tiệc, bởi vì anh biết rằng đó sẽ là nơi cuối cùng trong số những nơi mà Dominique mong gặp lại anh.
*
* *
Ellsworth Toohey nói: “Chẳng có gì vô dụng, chị Kiki thân mến của tôi, như việc một người phụ nữ giàu có lại tự biến mình thành một chuyên gia mua vui cho người khác. Nhưng rồi, những điều vô dụng lại có sự hấp dẫn riêng. Giống như chế độ quý tộc chẳng hạn, một khái niệm vô dụng nhất trong số các khái niệm.”
Kiki Holcombe chun mũi trước những lời chỉ trích nhẹ nhàng, nhưng bà thích việc được so sánh với tầng lớp quý tộc. Ba chùm đèn pha lê đang rực sáng trên phòng khiêu vũ Florentine của bà, và khi bà ngước nhìn lên Toohey thì những ngọn đèn được phản chiếu trong đôi mắt bà, biến đôi mắt trở thành một tập hợp những tia sáng ẩm ướt, lấp lánh giữa đôi hàng mi nặng, dày.
“Anh toàn nói những điều kinh khủng, Ellsworth ạ. Tôi không biết tại sao tôi vẫn cứ mời anh.”
“Đó chính là lý do đấy, chị thân mến. Tôi nghĩ tôi sẽ được mời đến đây thường xuyên như tôi muốn.”
“Một người phụ nữ đơn thuần thì có thể làm được gì để chống lại điều đó cơ chứ?”
“Đừng bao giờ tranh cãi với ông Toohey,” bà Gillespie nói; bà là một phụ nữ cao ráo, đeo một chuỗi vòng cổ bằng những viên kim cương lớn cùng cỡ với những chiếc răng bà để lộ khi mỉm cười. “Chẳng ích gì đâu. Chúng ta bị đánh bại sẵn rồi.”
“Tranh luận, thưa bà Gillespie,” Toohey nói, “là một trong số những điều vừa vô ích lại vừa không hấp dẫn. Hãy để nó cho những người đàn ông thông minh. Trí thông minh, tất nhiên, là một sự thú nhận nguy hiểm về sự yếu ớt. Người ta đã nói là đàn ông phát triển trí thông minh khi họ thất bại trong mọi thứ khác.”
“Ông chẳng hề tin điều đó.” bà Gillespie nói, trong khi nụ cười của bà chấp nhận điều đó như một sự thật dễ chịu. Bà sở hữu ông một cách đắc thắng và lái ông đi như một phần thưởng lấy cắp được từ bà Holcombe, người đã quay sang bên một lát để đón những vị khách mới. “Nhưng đàn ông thông minh các ông chỉ là những đứa trẻ thôi. Các ông quá nhạy cảm. Lúc nào cũng phải chiều chuộng các ông.”
“Tôi sẽ không làm thế đâu, bà Gillespie ạ. Chúng tôi sẽ tận dụng điều đó. Và phô bày sự thông minh của mình thì thật là thô thiển. Nó còn thô thiển hơn cả việc phô bày sự giàu có của mình nữa.”
“Ôi trời, ông không tin điều đó đấy chứ? Tất nhiên tôi đã nghe nói ông là một kiểu người cấp tiến nhưng tôi sẽ không coi chuyện ấy là nghiêm túc. Không một chút nào. Ông thấy thế nào?”
“Tôi rất thích thế,” Toohey nói.
“Ông không thể lừa tôi được đâu. Ông không thể làm cho tôi nghĩ ông là một trong số những người nguy hiểm được đâu. Tất cả những kẻ nguy hiểm đều bẩn thỉu và dùng ngữ pháp rất tồi. Còn ông thì lại có một giọng nói thật là hay!”
“Điều gì đã khiến bà nghĩ tôi khao khát trở thành nguy hiểm hở bà Gillespie? Tôi chỉ – ồ, chúng ta gọi là gì nhỉ, cái thứ hòa nhã nhất trong tất cả mọi thứ ấy – một lương tâm? Lương tâm của chính bà, được nhân cách hóa trong thân thể của một người khác và trông nom những mối quan tâm của bà tới những người kém may mắn hơn trên thế giới, nhờ thế mà bà tự do không cần phải chăm lo đến chúng nữa.”
“Ồ, thật là một ý tưởng kỳ quặc! Tôi không biết nó là kinh khủng hay thực sự rất thông minh nữa.”
“Cả hai, bà Gillespie ạ. Như tất cả sự thông thái.”
Kiki Holcombe xem xét phòng khiêu vũ của bà với một sự hài lòng. Bà nhìn lên khoảng tối mờ mờ của trần phòng, cái khoảng không phía trên những chùm đèn, và bà nhận thấy nó thật là cao phía trên các vị khách, thật là nổi bật và yên tĩnh. Đám đông khách khứa không làm chật gian sảnh nhà bà; cái không gian ấy ngự phía trên họ như một cái hộp vuông bằng không khí, to quá cỡ; chính cái khoảng không gian rộng lớn bị giam hãm phía trên đó đã mang lại cho buổi gặp gỡ này một vẻ xa hoa vương giả; nó giống như cái nắp của một hộp trang sức, to một cách không cần thiết phía trên cái đáy phẳng giữ duy nhất một viên đá quý nhỏ.
Khách khứa đi vào theo hai dòng lớn và thay đổi; rồi rút cục đều bị cuốn vào hai cái xoáy; ở trung tâm của một vòng xoáy là Ellsworth Toohey, của vòng xoáy kia là Peter Keating. Trang phục buổi tối không hợp với Ellsworth Toohey; phần ngực áo hình chữ nhật của chiếc sơ mi trắng khiến mặt ông dài ra và kéo dãn cả người ông thành hai chiều; những cánh của chiếc nơ bướm khiến cho chiếc cổ gầy guộc của ông trông giống cổ của con gà đã được vặt lông, nhợt nhạt, xanh xao và sẵn sàng bị vặn chỉ bằng một chuyển động duy nhất của một bàn tay khỏe mạnh nào đó. Nhưng ông mặc trang phục của mình một cách đỏm dáng hơn bất kỳ người đàn ông đang có mặt nào. Ông mặc chúng với vẻ ngạo mạn trễ nải thể hiện sự thoải mái hoàn toàn với cái lố bịch, và chính sự lố bịch trong vẻ ngoài của ông lại trở thành một tuyên ngôn cho sự ưu việt của ông, một sự ưu việt đủ lớn để có thể không thèm quan tâm đến những thứ vụn vặt.
Ông nói với một phụ nữ trẻ có nét mặt âu sầu, đeo cặp kính và mặc một chiếc váy buổi tối ngắn: “Cô gái thân mến, cô sẽ không bao giờ vượt quá địa vị một kẻ amateur trong lĩnh vực tri thức, trừ phi cô ném mình vào trong một sự nghiệp vĩ đại hơn bản thân cô.”
Ông nói với một quý ông béo phị với khuôn mặt đang tím lại giữa cao trào một cuộc tranh cãi: “Nhưng, bạn của tôi ơi, tôi có thể cũng không thích nó. Tôi chỉ nói, những điều như vậy tình cờ lại là tiến trình không thể tránh khỏi của lịch sử. Và ông hay tôi là ai mà phản đối tiến trình của lịch sử cơ chứ?”
Ông nói với một kiến trúc sư trẻ bất hạnh: “Không, chàng trai của tôi, điều tôi phản đối cậu không phải là tòa nhà tồi tệ mà cậu đã thiết kế, mà là cái thị hiếu tồi cậu đã thể hiện trong việc rên rỉ về lời phê bình của tôi với tòa nhà. Cậu nên cẩn thận. Ai đó có thể nói là cậu chẳng thể phản bác lại mà cũng chẳng biết chấp nhận những lời phê bình.”
Ông nói với một bà quả phụ của một triệu phú: “Vâng, tôi thực sự nghĩ sẽ là ý hay nếu bà đóng góp vào Hội thảo Nghiên cứu Xã hội. Đó sẽ là một cách để tham gia vào dòng chảy vĩ đại của những thành tựu văn hóa của con người, mà không làm đảo lộn hoạt động thường ngày hay việc tiêu hóa của bà.”
Những người xung quanh ông nói: “Chẳng phải ông ta thật là hóm hỉnh đấy sao? Và quả là dũng cảm!”
Peter Keating mỉm cười rạng rỡ. Anh cảm thấy sự chú ý và ngưỡng mộ chảy dồn vào anh từ mọi phía của phòng khiêu vũ. Anh ngắm nhìn mọi người, tất cả những con người gọn ghẽ, sức nước hoa, quần áo lụa sột soạt, bao bọc bởi ánh sáng, chảy ròng ròng trong ánh sáng, như trước đó mấy tiếng tất cả họ cũng đứng ròng ròng dưới vòi hoa sen, rồi chuẩn bị ăn mặc để đến đây và đứng một cách thành kính trước con người có tên Peter Keating. Có những lúc anh quên mất rằng anh là Peter Keating và anh liếc vào gương, vào chính hình dáng của mình, anh muốn hòa vào sự ngưỡng mộ chung với cái hình dáng đó.
Có lần dòng người để lại anh mặt đối mặt với Ellsworth Toohey. Keating mỉm cười như một cậu bé nhô lên từ một dòng suối trong một ngày hè, lấp lánh nước, hăng hái, tràn đầy năng lượng. Toohey đứng nhìn anh; hai bàn tay Toohey trượt cẩu thả vào hai túi quần, khiến cho chiếc áo vét của ông loe ra trên hai bên hông gầy của ông; ông dường như hơi loạng choạng trên đôi bàn chân nhỏ bé của mình; đôi mắt ông chăm chú trong sự đánh giá bí ẩn.
“Nào... đây, chú Ellsworth... đây... không phải là một buổi tối tuyệt vời hay sao?” Keating nói, như một đứa trẻ nói với một người mẹ cảm thông, và hơi giống như một người say.
“Đang vui hả Peter? Cậu rất được chú ý đêm nay đấy. Peter bé nhỏ dường như đã bước qua cái vạch để trở thành một người nổi tiếng rồi. Điều đó phải xảy ra, người ta chẳng bao giờ có thể nói được chính xác là khi nào và vì sao... Tuy nhiên, có một người ở đây dường như đang lờ cậu đi một cách khá trắng trợn đúng không nào?”
Keating nhăn mặt. Anh tự hỏi khi nào và bằng cách nào mà Toohey đã có thời gian để để ý đến điều đó.
“Ôi dào,” Toohey nói, “ngoại lệ chứng minh cho quy luật. Đáng tiếc, tuy vậy. Tôi đã luôn có một ý tưởng ngu ngốc là một người đàn ông phi thường nhất mới có thể hấp dẫn nổi Dominique Francon. Vì thế tất nhiên tôi đã nghĩ đến anh. Chỉ là một ý nghĩ vu vơ thôi. Tuy thế, cậu biết đấy, người đàn ông chinh phục nổi cô ấy sẽ có thứ gì đó mà cậu không thể sánh được. Anh ta sẽ đánh bại cậu ở điểm đó.”
“Không ai có được cô ấy cả,” Keating rít lên.
“Không, dĩ nhiên rồi. Chưa ai. Điều đó khá đáng ngạc nhiên. Ồ, tôi cho là đó sẽ phải là một kiểu đàn ông phi thường.”
“Nào, ông đang làm cái quái gì thế? Ông không thích Dominique Francon. Đúng không?”
“Tôi chưa bao giờ nói tôi thích.”
Một lát sau Keating nghe thấy Toohey nói một cách long trọng giữa một cuộc thảo luận sôi nổi nào đó: “Hạnh phúc ư? Nhưng như thế thì có vẻ trung lưu quá. Hạnh phúc là gì vậy? Có quá nhiều thứ trong cuộc sống quan trọng hơn hạnh phúc rất nhiều.”
Keating chầm chậm đi về phía Dominique. Cô đứng hơi ưỡn người ra phía sau, như thể không khí là một vật đỡ đủ cứng cho hai bả vai thanh mảnh để trần của cô vậy. Chiếc váy dài buổi tối của cô có màu của thủy tinh. Anh có cái cảm giác anh có thể nhìn thấy bức tường đằng sau cô, xuyên qua cơ thể cô. Cô dường như quá mong manh, như thể cô không tồn tại; và chính sự mong manh đó nói lên một sức mạnh đáng sợ – cái sức mạnh đã giữ cô neo bám vào sự tồn tại bằng một cơ thể dường như không có thật.
Khi anh đến gần, cô không cố lờ anh đi; cô quay sang anh, cô trả lời; nhưng sự chính xác đều đều trong những câu trả lời của cô đã ngăn anh lại, khiến anh bất lực, khiến anh rời bỏ cô trong chốc lát.
Khi Roark và Heller bước vào, Kiki Holcombe đón họ ở ngưỡng cửa. Heller giới thiệu Roark với bà, và bà nói như bà vẫn luôn nói, giọng bà như một quả rốc-két rít lên, đẩy bật mọi thứ sang bên nhờ vận tốc khủng khiếp của nó.
“Ồ anh Roark, tôi đã rất nóng lòng mong gặp anh! Tất cả chúng tôi đều đã nghe về anh rất nhiều! Nào, tôi phải cảnh báo với anh là chồng tôi không tán thành anh. – ồ, chỉ thuần túy về mặt nghệ thuật thôi, anh biết đấy – nhưng đừng để điều đó làm anh lo lắng, anh có một đồng minh trong nhà này, một đồng minh nhiệt tình!”
“Bà thật tốt bụng, thưa bà Holcombe,” Roark nói. “Và có thể lòng tốt của bà là không cần thiết.”
“Ồ, tôi mê mẩn tòa nhà Enright! Tất nhiên, tôi không thể nói là nó đại diện cho những quan niệm thẩm mỹ của bản thân tôi, nhưng những người có văn hóa phải giữ cho đầu óc mình rộng mở với bất kỳ điều gì, ý tôi là để thu nhận bất kỳ quan điểm nào trong nghệ thuật sáng tạo, trên tất cả, chúng ta phải có đầu óc thật thoáng, anh có nghĩ vậy không?”
“Tôi không biết,” Roark nói. “Tôi chưa bao giờ có đầu óc thoáng cả.”
Bà chắc chắn là anh không có ý định ngạo mạn; giọng nói và cử chỉ của anh không cho thấy điều đó; nhưng sự ngạo mạn lại là ấn tượng đầu tiên của bà về anh. Anh mặc trang phục buổi tối và chúng trông đẹp trên thân hình cao gầy của anh, nhưng theo cách nào đó dường như anh không ở trong chúng; mái tóc màu cam trông hoàn toàn đối lập với bộ quần áo trang trọng của anh; bên cạnh đó, bà không thích khuôn mặt anh; khuôn mặt đó hợp với một công trường hay trong quân đội, nó không có chỗ trong phòng khách của bà. Bà nói:
“Tất cả chúng tôi đều rất quan tâm đến công việc của anh. Tòa nhà đầu tiên của anh?”
“Tòa thứ năm của tôi.”
“Ồ, thật thế sao? Tất nhiên rồi. Thật là thú vị.”
Bà siết hai tay lại, và quay đi để đón một người khách mới đến.
Heller nói: “Anh muốn gặp ai trước?... Kìa, có Dominique Francon đang nhìn chúng ta. Đi nào.”