Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 3
Everett Yow lái một chiếc Buik đen với nhãn của trường đại học De Paul dán ở kính sau. Sức nặng của ông hơi làm nghiêng chiếc xe qua bên trái, Clarice nhận thấy điều này khi lái dưới cơn mưa theo sau ông ta từ khi rời khỏi Baltimore. Trời đã về đêm, vậy là ngày điều tra của cô gần kết thúc và không còn thời giờ nào khác cho việc đó. Vì dòng lưu thông quá chậm trên QL 301, nên cô thả hồn cho sự bồn chồn của mình bằng cách gõ gõ các ngón tay trên vô lăng cho cùng một nhịp với cần gạt nước.
Yow rất mập, ông bị chứng khí thũng nhưng thông minh. Clarice đoán ông ta khoảng sáu mươi tuổi. Cho đến lúc này ông ta tỏ ra dễ dãi. Không phải do lỗi ông ta nếu cô mất hết gần nửa buổi: mới vừa trở về hồi lúc chiều sau một chuyến đi làm ăn gần một tuần tại Chicago, từ phi trường ông ta trở về ngay văn phòng để tiếp cô.
Chiếc xe Packard sang trọng của Raspail đã nằm trong kho hàng một thời gian rất lâu trước khi hắn ta chết, Yow cắt nghĩa cho cô như thế. Nó chưa được đăng ký và cũng chưa hề lăn bánh lần nào. Vị luật sư này chỉ thấy nó có một lần để ghi vào bảng kê khai một ít lâu sau khi thân chủ ông ta bị sát hại. Nếu nhân viên điều tra Starling đồng ý cho phép ông ta quan sát ngay tại chỗ tất cả những gì cô khám được có thể gây thiệt hại cho thân chủ của ông, thì ông chấp nhận cho cô xem qua chiếc xe đó. Một trát khám xét của tòa án với tất cả những hậu quả sau đó không có ích lợi gì cả, ông đã nói như thế.
Cho công việc ban ngày, Clarice sử dụng một chiếc Plymouth trong bãi xe của FBI có gắn điện thoại, và một thẻ hành sự khác do Crawford cấp với hàng chữ: ĐIỀU TRA VIÊN LIÊN BANG, và Clarice nhận thấy nó sẽ hết hạn trong một tuần nữa.
Hai chiếc xe chạy hướng về dãy kho hàng Split City, cách thành phố khoảng sáu cây số. Dòng lưu thông chậm như rùa, nên Clarice dùng điện thoại để biết thêm càng nhiều thông tin càng tốt về những kho này. Khi cô thấy tấm bảng màu cam đề chữ KHO HÀNG SPLIT CITY - NHỚ MANG CHÌA KHÓA THEO, thì cô đã có thêm vài thông tin mới.
Split City đã cấp cho tên Bernard Gary nào đó một giấy phép dịch vụ chuyển hàng của Hội đồng Thương mại Liên Tiểu bang. Tên này suýt nữa bị tòa án liên bang kết án về tội chuyển hàng ăn cắp từ tiểu bang này qua tiểu bang khác ba năm trước đây và người ta đang xem xét lại giấy phép của hắn.
Yow quẹo bên dưới tấm bảng và chìa xâu chìa khóa cho một thanh niên mặt mụn, mặc đồng phục ở ngay cổng ra vào. Người này ghi các số xe vào trong sổ, mở cổng ra và hối họ qua mau như thể còn có nhiều công việc đang chờ anh ta vậy.
Miggs của cô đã chết rồi. - Crawford nói. - Cô không giấu tôi điều gì chứ, cô Starling? Nét mặt mệt mỏi của ông sếp cô cũng nhạy cảm với các tín hiệu như cái vòng cổ dựng đứng của con chim cú, và cũng tàn nhẫn không kém.
- Bằng cách nào? - Cô phải chống chọi cơn tê cóng đang chiếm lấy người cô.
- Hắn đã cắn đứt lưỡi của hắn, một ít lâu trước khi trời sáng. Chilton cho rằng chính Lecter đã ám thị hắn. Nhân viên gác đêm có nghe ông bác sĩ tâm lý thì thầm với hắn. Lecter biết rõ về Miggs. Tiếng thì thầm kéo dài khá lâu, nhưng người gác không hiểu ông ta đã nói những gì. Miggs khóc một lúc rồi sau đó nín thinh. Nhưng cô đã thật sự nói hết cho tôi chứ cô Starling?
- Đúng vậy, thưa ông. Giữa bản báo cáo và các ghi chép của tôi, gần như đúng từng chữ một.
- Chilton cố gọi tôi để than phiền về cô… - Crawford chờ một lúc và tỏ ra hài lòng là cô đã không hỏi ông câu nào. - Tôi có nói với ông ta rằng tôi rất ưng ý về thái độ của cô. Chilton đang chuẩn bị cho một cuộc điều tra về Các Quyền Lợi Công Dân.
- Sẽ có sao?
- Đúng vậy, nếu gia đình của Miggs làm đơn khiếu nại. Bộ phận về Quyền Lợi Công Dân có đến tám ngàn vụ trong năm nay. Họ rất vui sướng mà ghi thêm vụ của Miggs vào trong danh sách của họ. - Crawford chăm chú nhìn cô. - Cô có khỏe không?
- Tôi không biết phải nghĩ như thế nào bây giờ.
- Cô không cần phải nghĩ gì cả. Lecter làm việc đó cho vui thôi. Ông ta biết chúng ta không thể làm gì ông ta được, vậy tại sao không đùa một tý chứ? Chilton sẽ lấy đi hết sách vở của ông ta và cả cái bàn cầu trong một thời gian, có thể cúp luôn món tráng miệng nữa. - Crawford đan hai tay trước bụng và so sánh hai ngón cái của mình. - Thế Lecter có hỏi cô bất cứ điều gì về tôi không?
- Ông ta hỏi có phải ông rất bận không. Tôi đáp là có.
- Thế thôi sao? Cô đã không bỏ bớt một cái gì đó, vì tôi rất cá nhân mà cô không muốn tôi đọc được được trong bản báo cáo, phải không?
- Thưa không. Ông ta nói ông rất “kiên cường”, như tôi có ghi trong báo cáo.
- Đúng vậy. Nhưng không còn gì khác sao?
- Thưa không, tôi không hề giữ điều gì cho cá nhân tôi. Dù sao chắc ông cũng không nghĩ là tôi lại đi kể những điều đồn đại và cũng chính vì thế mà ông ta chấp nhận nói chuyện với tôi chứ?
- Không.
- Tôi không hề biết bất cứ điều gì về cá nhân ông, và dù tôi có biết đi nữa, tôi cũng không dại gì đi nói cho ông ta nghe. Nếu không tin tôi thì ông cứ nói thẳng ra đi.
- Tôi tin cô mà. Thôi chúng ta nói qua chuyện khác đi.
- Ông đang nghĩ đến một điều gì đó hay…
- Thôi, thay đổi đề tài đi, Starling.
- Việc Lecter ám chỉ chiếc xe của Raspail đã đưa tôi vào ngõ cụt. Nó đã bị ép lại cách đây bốn tháng tại Number Nine Ditch, bang Arkansas thành sắt phế thải để tái chế. Nếu tôi trở lại nói chuyện với ông ta, có thể ông ta sẽ cho biết thêm tin tức khác.
- Cô đã khai thác triệt để hướng điều tra đó chứ?
- Đúng vậy.
- Ai nói với cô là Raspail chỉ có mỗi chiếc xe mà hắn sử dụng thôi?
- Chỉ có mỗi một chiếc được đăng ký dưới tên hắn, và vì hắn còn độc thân, nên tôi nghĩ rằng…
- A hà! Hãy chờ một chút! - Ngón trỏ của Crawford chỉ vào một cái gì đó vô hình trong không khí giữa hai người. - Cô nghĩ rằng, phải không, cô Starling? - Crawford viết chữ cho rằng vào trong sổ tay của ông. Rất nhiều huấn luyện viên trong trường đã ăn cắp cái mánh này của Crawford để dùng nhưng Clarice không tiết lộ là người ta đã làm trò này với cô rồi.
Crawford vẽ vòng quanh chữ này.
- Khi nào tôi giao cho cô một nhiệm vụ, cô sẽ nghĩ, và tạo một hình ảnh xấu cho Cơ quan. - Ông ta thả người ta lưng ghế. - Thế cô không biết là Raspail sưu tầm xe hơi sao?
- Thưa không. Thế chúng vẫn còn nằm trong tài sản thừa kế à?
- Tôi không biết. Cô có thể đi kiểm tra lại được không?
- Được chứ.
- Vậy cô bắt đầu từ đâu?
- Từ người thi hành chúc thư.
- Một luật sư tại Baltimore, một người Hoa, nếu tôi nhớ không lầm.
- Everett Yow. Số điện thoại của ông ta có trong niên giám đấy.
- Cô có bao giờ nghĩ rằng cô phải cần đến một trát tòa để có thể lục soát chiếc xe của Raspail không?
Starling im lặng, hay nói đúng hơn cô không dám trả lời. Cuối cùng cô lên tiếng:
- Bởi vì Raspail đã chết mà không có một chút nghi vấn nào và nếu người thi hành chúc thư đồng ý cho chúng ta lục soát chiếc xe, thì đó là một cuộc lục soát hợp pháp, và kết quả của những tìm kiếm là một bằng chứng được luật pháp công nhận. - Cô đọc một hơi.
- Đúng hoàn toàn. Tốt rồi, tôi sẽ báo cho văn phòng trung ương ở Baltimore rằng cô sẽ đến đó, ngày thứ bảy, trong thời gian rảnh của cô, nghe không Starling. Hãy thưởng thức quả đó nếu cô hái được.
Khi Clarice bước ra ngoài, từ trong sọt rác, ông dùng hai ngón tay để lấy lên một mảnh giấy viết thư được vo tròn. Ông để nó lên bàn và vuốt thẳng ra. Đây là miếng giấy nói về vợ ông, được viết bằng một tuồng chữ thật đẹp.
Hỡi các bác sĩ đã tốn công vô ích
Ngọn lửa nào sẽ thiêu đốt cái thế giới này đây
Thế các người không thể hiểu được
Rằng cơn sốt của bà ta có thể làm được hay sao?
Jack, tôi thành thật rất tiếc cho Bella.
Hannibal Lecter.
Đây là một nơi khá buồn tẻ. Giống như chuyến bay trong ngày chủ nhật giữa La Guardia và Juarez cho những người đi ly hôn, những kho hàng được dùng cho dịch vụ của hoạt động kia; nhiệm vụ chính của chúng là giữ các tài sản phân tán của những người ly hôn. Các kho hàng chứa đầy vật dụng của phòng ăn, nhà bếp, nệm đầy vết dơ, đồ chơi và hình ảnh của những cặp vợ chồng bất hạnh. Cảnh sát bang Baltimore có nhiều lý do hợp lý để tin rằng những kho hàng này cũng chứa những vật dụng có giá trị được đánh cắp khỏi các tòa án thương mại.
Nơi này giống các căn cứ quân sự: mười hai mẫu đất có nhiều dãy nhà dài, được ngăn ra bằng những vách chống lửa thành những phòng lớn bằng một nhà xe được trang bị một cánh cửa cuốn. Giá cả cũng phải chăng nên nhiều món hàng được cất ở đây suốt nhiều năm trời. An ninh được bảo đảm. Hai hàng vách tường rào chắc chắn bao quanh toàn bộ khu này và những toán tuần tiểu có chó đi kèm hai mươi bốn trên hai mươi bốn.
Một đống giấy báo ướt và ly uống nước cùng đủ mọi thứ rác khác nằm ở ngay góc cánh cửa cuốn mang số 31, nơi để chiếc xe của Raspail. Ở ngay khóa móc bên trái có băng niêm phong. Yow cúi người xuống một cách khó nhọc để xem xét chúng trong khi Clarice với cây dù che và đèn pin để rọi ánh sáng cho ông.
- Có vẻ như cánh cửa không được mở từ lần cuối cùng tôi đến cách đây năm năm - Ông nói. - Cô thấy không, dấu niêm phong của chưởng khế vẫn còn nguyên. Lúc đó tôi không nghĩ gia đình này rất khó chịu và kéo dài vụ án trong nhiều năm trời.
Nói xong, ông ta mới cầm cây dù và cây đèn pin để Clarice chụp hình ổ khóa và các băng niêm phong.
- Ông Raspail có một căn phòng trong thành phố mà tôi đã trả để giảm bớt chi phí cho các người thừa kế - Ông nói tiếp. - Tôi đã cho chở hết đồ đạc đến đây để cất chung với chiếc xe cùng với những thứ đã có sẵn. Tôi nghĩ hình như có một cây dương cầm đứng, nhiều sách vở và một cái giường.
Yow thử một cái chìa khóa.
- Có thể ổ khóa bị kẹt rồi, nhưng sao nó cứng lắm.
Ông ta thở một cách khó nhọc trong khi cúi người như thế. Khi ông định ngồi xổm, hai đầu gối kêu rắc rắc.
Clarice mừng thầm khi thấy mấy ổ khóa thuộc loại thép xi bình thường. Chúng có vẻ chắc chắn, nhưng cô dễ dàng làm bung các thanh sắt bằng một cây vặn vít hoặc cái xà beng, bởi vì lúc còn nhỏ bà cô đã chỉ cho cô cách mà mấy tên trộm hành động. Vấn đề là cô tìm được các dụng cụ cần thiết đó không, cô không có ngay cả hộp phụ tùng sửa xe trong chiếc Pinto của mình nữa.
Lục trong túi xách, cô tìm thấy ống rã đông mà cô dùng cho ổ khóa của cánh cửa xe.
- Ông có muốn vào trong xe ngồi nghỉ một chút không, ông Yow? - Cô hỏi - Ông cứ ngồi nghỉ trong hơi ấm trong khi tôi mở thử xem sao. Ông cứ giữ cái dù đi vì bây giờ chỉ mưa bụi thôi.
Clarice cho chiếc Plymouth lại gần cánh cửa để cho các đèn pha chiếu sáng hơn. Cô rút cây đo nhớt và bôi một ít nhớt vào ổ khóa, sau đó dùng ống rã đông xịt vào ngay đó. Từ trong chiếc xe, ông Yow mỉm cười tán thưởng. Clarice cũng mừng khi được làm việc với một người thông minh đã cho cô thực hiên công việc của mình một cách yên ổn.
Trời đã tối đen. Trong ánh sáng của các ngọn đèn pha, cô cảm thấy mình quá yếu đuối; tiếng cánh quạt nước kêu rít trong khi máy xe nổ đều trong chế độ quá chậm. Cô đã khóa cánh cửa chiếc Plymouth và ông Yow có vẻ vô hại, nhưng cô không thích gặp nguy cơ bị xe tông vào cánh cửa sắt.
Ổ khóa được mở ra trong bàn tay cô và nó rất nặng, dính đầy nhớt. Cái kia có nhiều thời gian để thấm hơn, cũng dễ dàng bung ra.
Cánh cửa cuốn vẫn trơ lì. Clarice cố hết sức mình để kéo nó lên cho đến mức mắt nổ đom đóm. Yow xuống giúp một tay nhưng do ông này bị thoái vị nên cũng không giúp được gì nhiều.
- Chúng ta có thể trở lại vào tuần sau, với thằng con tôi và vài người thợ nữa - Ông đề nghị. - Bởi vì tôi không thích về nhà quá muộn đâu.
Clarice không tin mình có thể trở lại đây; bởi vì quá dễ để Crawford gọi một cú điện thoại và vụ này sẽ qua tay một nhân viên của ông ta tại Baltimore ngay.
- Tôi sẽ cố một lần nữa xem sao. Ông có con đội nào không?
Để con đội ngay dưới tay cầm, Clarice ấn thật mạnh xuống tay quay. Với một tiếng rít chói tai, cánh cửa nhích lên được một phân. Tiếp đến cô đẩy lên thêm được hai phân nữa, và hai phân nữa; đến lúc này cô mới lấy chiếc bánh dự phòng để chặn ngay giữa và dùng con đội của cô và cái của ông Yow để chặn ở hai đầu rãnh trượt của cánh cửa.
Thao tác luân phiên trên hai con đội, cuối cùng cô cũng đẩy được cánh cửa lên hơn năm mươi phân, nhưng sau đó cánh cửa kẹt cứng và không gì có thể lay chuyển được nữa.
Ông Yow nhìn qua khoảng trống đó, nhưng ông không thể cúi người lâu hơn vài giây được.
- Trong đó hôi mùi chuột quá - Ông nhận xét - Người ta đã bảo đảm với tôi là sẽ đặt thuốc chuột kia mà. Tôi nhớ điều này được ghi trong hợp đồng. Không có bọn gặm nhấm, nhưng tôi nghe tiếng chuột, cô có nghe thấy không?
- Có chứ. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin, cô nhìn thấy nhiều thùng các tông và một cái bánh xe với thân được sơn trắng lòi ra dưới một tấm bạt.
Cô cho chiếc xe Plymouth lui lại cho đến khi ánh đèn pha rọi ngay dưới cánh cửa rồi lấy một tấm thảm lót chân bằng cao su ra.
- Cô vào trong đó sao?
- Tôi phải vào nhìn xem qua mới được.
Ông rút khăn tay ra.
- Tôi có thể nào đề nghị cô nên cột các ống quần ở ngay mắt cá của cô lại được không? Để chuột không thể chui vào ấy mà.
- Xin cám ơn ông, đúng là một ý kiến tuyệt vời. Nếu cánh cửa sập xuống hoặc có bất cứ chuyên gì khác xảy ra xin ông gọi giùm số này - cô vừa nói vừa cười - Đó là số của văn phòng chúng tôi tại Baltimore. Họ biết tôi đang ở đây cùng ông và nếu một lâu sau họ không nhận được tin tức gì của tôi, họ sẽ lo đấy. Ông hiểu không?
- Đương nhiên là hiểu rồi. - Ông ta đưa cho cô chùm chìa khóa của chiếc Packard.
Yow rất mập, ông bị chứng khí thũng nhưng thông minh. Clarice đoán ông ta khoảng sáu mươi tuổi. Cho đến lúc này ông ta tỏ ra dễ dãi. Không phải do lỗi ông ta nếu cô mất hết gần nửa buổi: mới vừa trở về hồi lúc chiều sau một chuyến đi làm ăn gần một tuần tại Chicago, từ phi trường ông ta trở về ngay văn phòng để tiếp cô.
Chiếc xe Packard sang trọng của Raspail đã nằm trong kho hàng một thời gian rất lâu trước khi hắn ta chết, Yow cắt nghĩa cho cô như thế. Nó chưa được đăng ký và cũng chưa hề lăn bánh lần nào. Vị luật sư này chỉ thấy nó có một lần để ghi vào bảng kê khai một ít lâu sau khi thân chủ ông ta bị sát hại. Nếu nhân viên điều tra Starling đồng ý cho phép ông ta quan sát ngay tại chỗ tất cả những gì cô khám được có thể gây thiệt hại cho thân chủ của ông, thì ông chấp nhận cho cô xem qua chiếc xe đó. Một trát khám xét của tòa án với tất cả những hậu quả sau đó không có ích lợi gì cả, ông đã nói như thế.
Cho công việc ban ngày, Clarice sử dụng một chiếc Plymouth trong bãi xe của FBI có gắn điện thoại, và một thẻ hành sự khác do Crawford cấp với hàng chữ: ĐIỀU TRA VIÊN LIÊN BANG, và Clarice nhận thấy nó sẽ hết hạn trong một tuần nữa.
Hai chiếc xe chạy hướng về dãy kho hàng Split City, cách thành phố khoảng sáu cây số. Dòng lưu thông chậm như rùa, nên Clarice dùng điện thoại để biết thêm càng nhiều thông tin càng tốt về những kho này. Khi cô thấy tấm bảng màu cam đề chữ KHO HÀNG SPLIT CITY - NHỚ MANG CHÌA KHÓA THEO, thì cô đã có thêm vài thông tin mới.
Split City đã cấp cho tên Bernard Gary nào đó một giấy phép dịch vụ chuyển hàng của Hội đồng Thương mại Liên Tiểu bang. Tên này suýt nữa bị tòa án liên bang kết án về tội chuyển hàng ăn cắp từ tiểu bang này qua tiểu bang khác ba năm trước đây và người ta đang xem xét lại giấy phép của hắn.
Yow quẹo bên dưới tấm bảng và chìa xâu chìa khóa cho một thanh niên mặt mụn, mặc đồng phục ở ngay cổng ra vào. Người này ghi các số xe vào trong sổ, mở cổng ra và hối họ qua mau như thể còn có nhiều công việc đang chờ anh ta vậy.
Miggs của cô đã chết rồi. - Crawford nói. - Cô không giấu tôi điều gì chứ, cô Starling? Nét mặt mệt mỏi của ông sếp cô cũng nhạy cảm với các tín hiệu như cái vòng cổ dựng đứng của con chim cú, và cũng tàn nhẫn không kém.
- Bằng cách nào? - Cô phải chống chọi cơn tê cóng đang chiếm lấy người cô.
- Hắn đã cắn đứt lưỡi của hắn, một ít lâu trước khi trời sáng. Chilton cho rằng chính Lecter đã ám thị hắn. Nhân viên gác đêm có nghe ông bác sĩ tâm lý thì thầm với hắn. Lecter biết rõ về Miggs. Tiếng thì thầm kéo dài khá lâu, nhưng người gác không hiểu ông ta đã nói những gì. Miggs khóc một lúc rồi sau đó nín thinh. Nhưng cô đã thật sự nói hết cho tôi chứ cô Starling?
- Đúng vậy, thưa ông. Giữa bản báo cáo và các ghi chép của tôi, gần như đúng từng chữ một.
- Chilton cố gọi tôi để than phiền về cô… - Crawford chờ một lúc và tỏ ra hài lòng là cô đã không hỏi ông câu nào. - Tôi có nói với ông ta rằng tôi rất ưng ý về thái độ của cô. Chilton đang chuẩn bị cho một cuộc điều tra về Các Quyền Lợi Công Dân.
- Sẽ có sao?
- Đúng vậy, nếu gia đình của Miggs làm đơn khiếu nại. Bộ phận về Quyền Lợi Công Dân có đến tám ngàn vụ trong năm nay. Họ rất vui sướng mà ghi thêm vụ của Miggs vào trong danh sách của họ. - Crawford chăm chú nhìn cô. - Cô có khỏe không?
- Tôi không biết phải nghĩ như thế nào bây giờ.
- Cô không cần phải nghĩ gì cả. Lecter làm việc đó cho vui thôi. Ông ta biết chúng ta không thể làm gì ông ta được, vậy tại sao không đùa một tý chứ? Chilton sẽ lấy đi hết sách vở của ông ta và cả cái bàn cầu trong một thời gian, có thể cúp luôn món tráng miệng nữa. - Crawford đan hai tay trước bụng và so sánh hai ngón cái của mình. - Thế Lecter có hỏi cô bất cứ điều gì về tôi không?
- Ông ta hỏi có phải ông rất bận không. Tôi đáp là có.
- Thế thôi sao? Cô đã không bỏ bớt một cái gì đó, vì tôi rất cá nhân mà cô không muốn tôi đọc được được trong bản báo cáo, phải không?
- Thưa không. Ông ta nói ông rất “kiên cường”, như tôi có ghi trong báo cáo.
- Đúng vậy. Nhưng không còn gì khác sao?
- Thưa không, tôi không hề giữ điều gì cho cá nhân tôi. Dù sao chắc ông cũng không nghĩ là tôi lại đi kể những điều đồn đại và cũng chính vì thế mà ông ta chấp nhận nói chuyện với tôi chứ?
- Không.
- Tôi không hề biết bất cứ điều gì về cá nhân ông, và dù tôi có biết đi nữa, tôi cũng không dại gì đi nói cho ông ta nghe. Nếu không tin tôi thì ông cứ nói thẳng ra đi.
- Tôi tin cô mà. Thôi chúng ta nói qua chuyện khác đi.
- Ông đang nghĩ đến một điều gì đó hay…
- Thôi, thay đổi đề tài đi, Starling.
- Việc Lecter ám chỉ chiếc xe của Raspail đã đưa tôi vào ngõ cụt. Nó đã bị ép lại cách đây bốn tháng tại Number Nine Ditch, bang Arkansas thành sắt phế thải để tái chế. Nếu tôi trở lại nói chuyện với ông ta, có thể ông ta sẽ cho biết thêm tin tức khác.
- Cô đã khai thác triệt để hướng điều tra đó chứ?
- Đúng vậy.
- Ai nói với cô là Raspail chỉ có mỗi chiếc xe mà hắn sử dụng thôi?
- Chỉ có mỗi một chiếc được đăng ký dưới tên hắn, và vì hắn còn độc thân, nên tôi nghĩ rằng…
- A hà! Hãy chờ một chút! - Ngón trỏ của Crawford chỉ vào một cái gì đó vô hình trong không khí giữa hai người. - Cô nghĩ rằng, phải không, cô Starling? - Crawford viết chữ cho rằng vào trong sổ tay của ông. Rất nhiều huấn luyện viên trong trường đã ăn cắp cái mánh này của Crawford để dùng nhưng Clarice không tiết lộ là người ta đã làm trò này với cô rồi.
Crawford vẽ vòng quanh chữ này.
- Khi nào tôi giao cho cô một nhiệm vụ, cô sẽ nghĩ, và tạo một hình ảnh xấu cho Cơ quan. - Ông ta thả người ta lưng ghế. - Thế cô không biết là Raspail sưu tầm xe hơi sao?
- Thưa không. Thế chúng vẫn còn nằm trong tài sản thừa kế à?
- Tôi không biết. Cô có thể đi kiểm tra lại được không?
- Được chứ.
- Vậy cô bắt đầu từ đâu?
- Từ người thi hành chúc thư.
- Một luật sư tại Baltimore, một người Hoa, nếu tôi nhớ không lầm.
- Everett Yow. Số điện thoại của ông ta có trong niên giám đấy.
- Cô có bao giờ nghĩ rằng cô phải cần đến một trát tòa để có thể lục soát chiếc xe của Raspail không?
Starling im lặng, hay nói đúng hơn cô không dám trả lời. Cuối cùng cô lên tiếng:
- Bởi vì Raspail đã chết mà không có một chút nghi vấn nào và nếu người thi hành chúc thư đồng ý cho chúng ta lục soát chiếc xe, thì đó là một cuộc lục soát hợp pháp, và kết quả của những tìm kiếm là một bằng chứng được luật pháp công nhận. - Cô đọc một hơi.
- Đúng hoàn toàn. Tốt rồi, tôi sẽ báo cho văn phòng trung ương ở Baltimore rằng cô sẽ đến đó, ngày thứ bảy, trong thời gian rảnh của cô, nghe không Starling. Hãy thưởng thức quả đó nếu cô hái được.
Khi Clarice bước ra ngoài, từ trong sọt rác, ông dùng hai ngón tay để lấy lên một mảnh giấy viết thư được vo tròn. Ông để nó lên bàn và vuốt thẳng ra. Đây là miếng giấy nói về vợ ông, được viết bằng một tuồng chữ thật đẹp.
Hỡi các bác sĩ đã tốn công vô ích
Ngọn lửa nào sẽ thiêu đốt cái thế giới này đây
Thế các người không thể hiểu được
Rằng cơn sốt của bà ta có thể làm được hay sao?
Jack, tôi thành thật rất tiếc cho Bella.
Hannibal Lecter.
Đây là một nơi khá buồn tẻ. Giống như chuyến bay trong ngày chủ nhật giữa La Guardia và Juarez cho những người đi ly hôn, những kho hàng được dùng cho dịch vụ của hoạt động kia; nhiệm vụ chính của chúng là giữ các tài sản phân tán của những người ly hôn. Các kho hàng chứa đầy vật dụng của phòng ăn, nhà bếp, nệm đầy vết dơ, đồ chơi và hình ảnh của những cặp vợ chồng bất hạnh. Cảnh sát bang Baltimore có nhiều lý do hợp lý để tin rằng những kho hàng này cũng chứa những vật dụng có giá trị được đánh cắp khỏi các tòa án thương mại.
Nơi này giống các căn cứ quân sự: mười hai mẫu đất có nhiều dãy nhà dài, được ngăn ra bằng những vách chống lửa thành những phòng lớn bằng một nhà xe được trang bị một cánh cửa cuốn. Giá cả cũng phải chăng nên nhiều món hàng được cất ở đây suốt nhiều năm trời. An ninh được bảo đảm. Hai hàng vách tường rào chắc chắn bao quanh toàn bộ khu này và những toán tuần tiểu có chó đi kèm hai mươi bốn trên hai mươi bốn.
Một đống giấy báo ướt và ly uống nước cùng đủ mọi thứ rác khác nằm ở ngay góc cánh cửa cuốn mang số 31, nơi để chiếc xe của Raspail. Ở ngay khóa móc bên trái có băng niêm phong. Yow cúi người xuống một cách khó nhọc để xem xét chúng trong khi Clarice với cây dù che và đèn pin để rọi ánh sáng cho ông.
- Có vẻ như cánh cửa không được mở từ lần cuối cùng tôi đến cách đây năm năm - Ông nói. - Cô thấy không, dấu niêm phong của chưởng khế vẫn còn nguyên. Lúc đó tôi không nghĩ gia đình này rất khó chịu và kéo dài vụ án trong nhiều năm trời.
Nói xong, ông ta mới cầm cây dù và cây đèn pin để Clarice chụp hình ổ khóa và các băng niêm phong.
- Ông Raspail có một căn phòng trong thành phố mà tôi đã trả để giảm bớt chi phí cho các người thừa kế - Ông nói tiếp. - Tôi đã cho chở hết đồ đạc đến đây để cất chung với chiếc xe cùng với những thứ đã có sẵn. Tôi nghĩ hình như có một cây dương cầm đứng, nhiều sách vở và một cái giường.
Yow thử một cái chìa khóa.
- Có thể ổ khóa bị kẹt rồi, nhưng sao nó cứng lắm.
Ông ta thở một cách khó nhọc trong khi cúi người như thế. Khi ông định ngồi xổm, hai đầu gối kêu rắc rắc.
Clarice mừng thầm khi thấy mấy ổ khóa thuộc loại thép xi bình thường. Chúng có vẻ chắc chắn, nhưng cô dễ dàng làm bung các thanh sắt bằng một cây vặn vít hoặc cái xà beng, bởi vì lúc còn nhỏ bà cô đã chỉ cho cô cách mà mấy tên trộm hành động. Vấn đề là cô tìm được các dụng cụ cần thiết đó không, cô không có ngay cả hộp phụ tùng sửa xe trong chiếc Pinto của mình nữa.
Lục trong túi xách, cô tìm thấy ống rã đông mà cô dùng cho ổ khóa của cánh cửa xe.
- Ông có muốn vào trong xe ngồi nghỉ một chút không, ông Yow? - Cô hỏi - Ông cứ ngồi nghỉ trong hơi ấm trong khi tôi mở thử xem sao. Ông cứ giữ cái dù đi vì bây giờ chỉ mưa bụi thôi.
Clarice cho chiếc Plymouth lại gần cánh cửa để cho các đèn pha chiếu sáng hơn. Cô rút cây đo nhớt và bôi một ít nhớt vào ổ khóa, sau đó dùng ống rã đông xịt vào ngay đó. Từ trong chiếc xe, ông Yow mỉm cười tán thưởng. Clarice cũng mừng khi được làm việc với một người thông minh đã cho cô thực hiên công việc của mình một cách yên ổn.
Trời đã tối đen. Trong ánh sáng của các ngọn đèn pha, cô cảm thấy mình quá yếu đuối; tiếng cánh quạt nước kêu rít trong khi máy xe nổ đều trong chế độ quá chậm. Cô đã khóa cánh cửa chiếc Plymouth và ông Yow có vẻ vô hại, nhưng cô không thích gặp nguy cơ bị xe tông vào cánh cửa sắt.
Ổ khóa được mở ra trong bàn tay cô và nó rất nặng, dính đầy nhớt. Cái kia có nhiều thời gian để thấm hơn, cũng dễ dàng bung ra.
Cánh cửa cuốn vẫn trơ lì. Clarice cố hết sức mình để kéo nó lên cho đến mức mắt nổ đom đóm. Yow xuống giúp một tay nhưng do ông này bị thoái vị nên cũng không giúp được gì nhiều.
- Chúng ta có thể trở lại vào tuần sau, với thằng con tôi và vài người thợ nữa - Ông đề nghị. - Bởi vì tôi không thích về nhà quá muộn đâu.
Clarice không tin mình có thể trở lại đây; bởi vì quá dễ để Crawford gọi một cú điện thoại và vụ này sẽ qua tay một nhân viên của ông ta tại Baltimore ngay.
- Tôi sẽ cố một lần nữa xem sao. Ông có con đội nào không?
Để con đội ngay dưới tay cầm, Clarice ấn thật mạnh xuống tay quay. Với một tiếng rít chói tai, cánh cửa nhích lên được một phân. Tiếp đến cô đẩy lên thêm được hai phân nữa, và hai phân nữa; đến lúc này cô mới lấy chiếc bánh dự phòng để chặn ngay giữa và dùng con đội của cô và cái của ông Yow để chặn ở hai đầu rãnh trượt của cánh cửa.
Thao tác luân phiên trên hai con đội, cuối cùng cô cũng đẩy được cánh cửa lên hơn năm mươi phân, nhưng sau đó cánh cửa kẹt cứng và không gì có thể lay chuyển được nữa.
Ông Yow nhìn qua khoảng trống đó, nhưng ông không thể cúi người lâu hơn vài giây được.
- Trong đó hôi mùi chuột quá - Ông nhận xét - Người ta đã bảo đảm với tôi là sẽ đặt thuốc chuột kia mà. Tôi nhớ điều này được ghi trong hợp đồng. Không có bọn gặm nhấm, nhưng tôi nghe tiếng chuột, cô có nghe thấy không?
- Có chứ. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin, cô nhìn thấy nhiều thùng các tông và một cái bánh xe với thân được sơn trắng lòi ra dưới một tấm bạt.
Cô cho chiếc xe Plymouth lui lại cho đến khi ánh đèn pha rọi ngay dưới cánh cửa rồi lấy một tấm thảm lót chân bằng cao su ra.
- Cô vào trong đó sao?
- Tôi phải vào nhìn xem qua mới được.
Ông rút khăn tay ra.
- Tôi có thể nào đề nghị cô nên cột các ống quần ở ngay mắt cá của cô lại được không? Để chuột không thể chui vào ấy mà.
- Xin cám ơn ông, đúng là một ý kiến tuyệt vời. Nếu cánh cửa sập xuống hoặc có bất cứ chuyên gì khác xảy ra xin ông gọi giùm số này - cô vừa nói vừa cười - Đó là số của văn phòng chúng tôi tại Baltimore. Họ biết tôi đang ở đây cùng ông và nếu một lâu sau họ không nhận được tin tức gì của tôi, họ sẽ lo đấy. Ông hiểu không?
- Đương nhiên là hiểu rồi. - Ông ta đưa cho cô chùm chìa khóa của chiếc Packard.