Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Chương 26 - Phần 1
Chương 26
1968 - 1982
Yury Popov Borisovich sống và làm việc ở thành phố Sarov tại Nizhny Novgorod, khoảng 350 km về phía đông Moskva.
Sarov là một thành phố bí mật, có khi còn bí mật hơn điệp vụ Hutton. Thậm chí không được phép gọi nó là Sarov mà bằng một cái tên không mấy lãng mạn là Arzamas-16. Hơn nữa, toàn bộ thành phố đã được tẩy xóa khỏi mọi bản đồ. Sarov cùng lúc vừa tồn tại, vừa không tồn tại, tùy vào việc ta đề cập đến thực tế hay cái gì khác. Gần giống như Vlapostok trong vài năm từ 1953 trở đi, dù nó ngược nhau.
Ngoài ra, thành phố được rào bằng dây thép gai, tuyệt đối không ai được phép ra vào mà không bị kiểm tra an ninh ngặt nghèo. Nếu ai có hộ chiếu Mỹ và ở Đại sứ quán Mỹ tại Moskva thì lại càng không nên bén mảng đến gần nơi này.
Nhân viên CIA Ryan Hutton và học trò của ông, Allan Karlsson đã nghiên cứu cuốn sách ABC dành cho gián điệp trong vài tuần trước khi Allan đã được cài vào Đại sứ quán ở Moskva dưới cái tên Allen Carson và chức danh mơ hồ ‘nhân viên hành chính’.
Thật xấu hổ cho mật vụ Hutton là ông đã hoàn toàn bỏ qua thực tế rằng đối tượng mà Allan Karlsson định tiếp cận là bất khả xâm phạm, quây kín sau dây thép gai trong một thành phố được bảo vệ cẩn mật đến mức nó thậm chí còn không được phép gọi bằng tên ra.
Mật vụ Hutton xin lỗi Allan về sai lầm của mình, nhưng đèo thêm rằng chắc chắn Allan sẽ nghĩ ra một cách gì đó. Thỉnh thoảng Popov phải đến Moskva và nhiệm vụ của Allan là điều tra xem lần sau, khi nào Popov sẽ tới.
- Xin ông Karlsson thứ lỗi, mật vụ Hutton nói qua điện thoại từ thủ đô nước Pháp. Tôi có một số việc khác đang cần giải quyết. Chúc ông may mắn!
Rồi mật vụ Hutton gác máy, thở dài, quay lại với mớ hậu quả lộn xộn của vụ đảo chính quân sự - được CIA hỗ trợ - ở Hy Lạp mấy năm trước. Cũng giống như nhiều thứ khác trong thời gian gần đây, nó đã đi chệch hướng.
Về phần mình, Allan chẳng biết làm gì hơn là đi bách bộ đến thư viện thành phố Moskva mỗi ngày, ngồi đó hàng giờ đọc các nhật báo và tạp chí. Ông hi vọng mình sẽ vớ được bài báo nào đó về chuyện Popov sắp xuất hiện công khai đâu đó ngoài hàng rào dây thép gai ở Arzamas-16.
Hàng tháng trôi qua mà chẳng có tin tức nào như thế. Nhưng Allan có thể đọc tin ứng cử viên tổng thống Robert Kennedy cũng gặp số phận tương tự như ông anh mình và Tiệp Khắc đã yêu cầu Liên Xô giúp đỡ để chấn chỉnh chủ nghĩa xã hội ở nước mình.
Ngoài ra, Allan ghi nhận một ngày kia, Richard M Nixon đã lên thay Lyndon B Johnson. Nhưng vì vẫn nhận phong bì lương từ Đại sứ quán đều đều mỗi tháng, Allan nghĩ tốt nhất là mình cứ tiếp tục săn tìm Popov. Nếu có gì đã thay đổi, thể nào mật vụ Hutton cũng liên lạc và báo cho ông.
Qua năm 1968 đến mùa xuân năm 1969, khi đang mải miết lật báo ở thư viện, Allan tình cờ phát hiện ra một tin thú vị. Đoàn nhạc kịch Vienna sẽ có một buổi biểu diễn cho khách mời tại Nhà hát Bolshoi ở Moskva, Franco Corelli hát nam chính và ngôi sao quốc tế người Thụy Điển Birgit Nilsson trong vai Turandot.
Allan gãi gãi râu (giờ lại mọc đầy) và nhớ lại buổi tối đầu tiên và duy nhất mà ông ở bên Yury. Đêm khuya, Yury bắt đầu hát rống lên bài “Nessun Dorma” - không ai được phép ngủ! Chẳng bao lâu, ngấm rượu, ông cũng lăn ra ngủ nhưng đó là một chuyện khác.
Theo suy luận của Allan, chẳng lẽ một người đã từng biểu diễn khá hay Puccini và Turandot ở độ sâu hai trăm mét, lại có thể bỏ lỡ buổi trình diễn từ Vienna với chương trình tương tự tại Nhà hát Bolshoi ở Moskva? Nhất là nếu ông ta chỉ ở cách đó vài tiếng đi xe và thừa huy chương để kiếm một chỗ trong khán phòng.
Nhưng biết đâu không phải thế. Vậy thì Allan vẫn cứ tiếp tục hàng ngày đi bách bộ đến thư viện thôi. Đấy là trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, mà nó cũng không tệ lắm.
Tạm thời, Allan cứ cho rằng Yury sẽ xuất hiện bên ngoài nhà hát, và ông chỉ cần đứng đó, nhắc Yury nhớ đến chầu rượu cuối cùng của họ. Chắc là thế.
Hoặc không phải thế.
Thực tế hoàn toàn khác.
*
Tối ngày 22 tháng Ba 1969, Allan đứng chỗ dễ thấy nhất bên trái lối vào chính của Nhà hát Bolshoi. Ông nghĩ từ chỗ này mình có thể nhận ra Yury khi ông ta trên đường vào khán phòng. Tuy nhiên nảy sinh vấn đề là mọi người khách nhìn gần như giống hệt nhau. Đàn ông đều mặc comple đen dưới áo choàng màu đen còn phụ nữ thì váy dạ hội lấp ló dưới áo khoác lông thú đen hoặc nâu. Họ đều đi thành từng cặp, từ ngoài trời lạnh nhanh chóng tiến vào nhà hát ấm áp, lướt qua chỗ Allan đang đứng ở bậc trên cùng chiếc cầu thang lộng lẫy. Trời thì tối om, Allan làm sao có thể nhận ra một khuôn mặt ông chỉ thấy trong hai ngày, từ hai mươi mốt năm về trước. Trừ khi ông gặp may mắn không thể tin được là chính Yury sẽ nhận ra ông.
Không, Allan không gặp may như thế. Tất nhiên chẳng có gì chắc chắn rằng Yury Borisovich cùng ai đó đã vào bên trong nhà hát, nhưng, nếu có thế thật thì ông ta đã đi qua cách người bạn cũ vài mét mà chẳng có tín hiệu gì. Allan có thể làm gì? Ông nghĩ thành tiếng:
- Nếu vừa đi vào nhà hát, Yury Borisovitch thân mến ạ, thì vài tiếng nữa ông bạn chắc chắn sẽ lại đi ra qua cánh cửa này. Nhưng lúc ấy trông ông vẫn hệt như lúc đi vào. Thế thì tôi không thể tìm thấy ông được. Có nghĩa là ông sẽ phải tìm tôi vậy.
Đành phải thế thôi. Allan về văn phòng nhỏ của mình ở Đại sứ quán, chuẩn bị vài thứ và quay trở lại đúng lúc trước khi Hoàng tử Calif làm trái tim công chúa Turandot tan chảy.
Trong quá trình được mật vụ Hutton huấn luyện, Allan bị nhồi nhét nhiều nhất là từ thận trọng. Một mật vụ giỏi không bao giờ tạo ra bất kì sự chú ý nào xung quanh mình, anh ta không được khác biệt, phải hòa lẫn vào môi trường hoạt động của mình tới mức gần như là vô hình.
- Ông hiểu chứ, ông Karlsson? - Mật vụ Hutton hỏi.
- Chắc chắn rồi, ông Hutton ạ, - Allan đã trả lời.
Khán giả vỗ tay đòi Birgit Nilsson và Franco Corelli trở lại sân khấu hai mươi lần, buổi diễn thành công rực rỡ. Do đó, phải mất thêm một lúc lâu trước khi khán giả rời khỏi khán phòng và đám người trông giống nhau ấy bắt đầu ùn ùn xuống cầu thang lần nữa. Ai cũng thấy một người đàn ông đứng ở giữa bậc cuối cùng, hai tay giơ lên giữ một tấm biển tự chế trên ghi:
TÔI LÀ
ALLAN
EMMANUEL
Tất nhiên Allan Karlsson hiểu rõ bài giảng của mật vụ Hutton, ông chỉ không quan tâm đến nó nữa. Paris chỗ Hutton đang mùa xuân, nhưng Moskva lúc này trời vừa lạnh vừa tối. Allan lạnh cóng và chỉ muốn được việc. Lúc đầu, ông định viết tên Yury trên tấm biển, nhưng cuối cùng quyết định rằng như thế sẽ lộ liễu quá, trước tiên nó phải liên quan đến bản thân mình chứ không phải người khác.
Larissa Aleksandrevna Popova, vợ Yury Borisovich Popov, âu yếm nắm lấy tay chồng, cảm ơn đến lần thứ năm về buổi diễn tuyệt vời họ vừa thưởng thức. Birgit Nilsson đúng là Maria Callas hiện thân! Và chỗ ngồi nữa!
Hàng thứ tư, ở chính giữa. Lâu lắm rồi Larissa mới hạnh phúc như thế. Chưa hết, tối nay bà và chồng sẽ được ở tại khách sạn, không phải quay trở lại cái thành phố kinh khủng đằng sau hàng rào kẽm gai trong gần hai mươi bốn giờ. Họ sẽ có một bữa tối lãng mạn cho hai người... chỉ có bà và Yury... và rồi có lẽ...
- Xin lỗi, em yêu, - Yury nói và dừng lại trên bậc thềm ngay bên ngoài cửa nhà hát.
- Cái gì vậy, anh yêu? - Larissa lo lắng hỏi.
- Không... có lẽ không có gì... nhưng... em có nhìn thấy người đàn ông ở dưới đó với cái biển không? Anh phải ra đó xem sao... không thể thế được... nhưng anh phải... nhưng người ấy đã chết rồi cơ mà!
- Ai chết cơ, anh yêu?
- Đi nào! - Yury nói và đi với vợ xuống cầu thang.
Cách Allan ba mét, Yury dừng lại, cố gắng làm não hiểu những gì mắt thấy. Allan đã nhận ra ông bạn điên cuồng chằm chằm nhìn mình từ nãy, hạ tấm biển xuống và nói:
- Birgit diễn hay không?
Yury vẫn nín lặng, nhưng vợ ông thì thầm hỏi chồng liệu đây có phải là người mà anh cho là đã chết không. Allan nói với Yury là mình chưa chết, và nếu vợ chồng Popov muốn đảm bảo rằng ông không bị cóng đến chết thì tốt nhất, họ nên lập tức dắt ông đến nhà hàng nào đó, cho ông uống ít vodka và chút gì đó để ăn.
- Đúng là anh rồi..., - cuối cùng Yury cũng kêu lên. - Nhưng... anh nói tiếng Nga à...?
- Vâng, sau khi chúng ta gặp nhau lần cuối, tôi đã theo học năm năm tiếng nước anh, - Allan đáp. - Trường GULAG. Còn vodka thì sao?
Yury Borisovich là một người rất đàng hoàng, và suốt hai mốt năm qua, ông cảm thấy rất có lỗi vì đã vô tình dụ anh chàng chuyên gia bom nguyên tử người Thụy Điển đến Moskva rồi đưa đẩy tới Vladisvostok, nơi anh ta, nếu còn sống được tới lúc ấy, thì có lẽ cũng bị chết thiêu trong đám cháy mà ở Liên Xô ai cũng biết. Ông đã ân hận suốt hai mươi mốt năm qua và lập tức cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy anh chàng Thụy Điển, vẫn với vẻ lạc quan như ngày nào.
Giờ thì Yury Borisovich đang đứng bên ngoài Nhà hát Bolshoi ở Moskva, trời lạnh âm 15 độ, sau màn trình diễn opera ấm cúng và... không, ông không thể tin được. Allan Emmanuel Karlsson đã thoát. Và anh ta vẫn còn sống sót, đang đứng sờ sờ trước mặt Yury ngay lúc này. Ở giữa Moskva. Nói tiếng Nga!
Yury Borisovich đã lấy Larissa Aleksandrevna bốn mươi năm và sống rất hạnh phúc. Họ không có con cái nhưng tin tưởng nhau tuyệt đối. Họ chia sẻ với nhau mọi điều hay dở và Yury đã hơn một lần thổ lộ với vợ nỗi buồn thương cho số phận của Allan Emmanuel Karlsson. Lúc này, trong khi Yury vẫn tìm cách liên lạc với não mình, Larissa Aleksandrevna chủ động nói.
- Theo em hiểu thì đây là bạn cũ của anh, người mà anh gián tiếp đẩy đến chỗ chết. Anh yêu, sao mình không nhanh chóng chiều ý anh ấy, đưa anh ấy đến nhà hàng uống ít vodka trước khi anh ấy chết thật?
Yury không đáp, nhưng gật gật đầu và để vợ đưa ra chiếc limousine đang đợi sẵn, ông ngồi vào, cạnh người đồng chí đã chết của mình trong lúc vợ chỉ đường cho lái xe.
- Anh đến nhà hàng Puskhin nhé.
Họ cần hai ly rượu mạnh cho Allan để tan giá và hai ly nữa cho Yury hoàn hồn trở lại. Trong lúc đó, Allan và Larissa làm quen với nhau.
Khi Yury cuối cùng cũng hoàn hồn, và cú sốc biến thành niềm vui (“Chúng ta ăn mừng nào!”), Allan nghĩ đã đến lúc phải nói thẳng. Nếu phải nói thì thà là nói ngay và luôn.
- Trở thành gián điệp thì sao? - Allan nói. - Tôi cũng làm đấy, và thực ra nó thú vị phết.
Yury sặc trên ly rượu thứ năm của mình và phun nó ra khắp bàn ăn.
- Gián điệp á? - Larissa hỏi trong lúc ông chồng ho sặc sụa.
- Vâng, hoặc là điệp viên. Tôi chẳng biết nó có gì khác nhau, thật đấy.
- Hay nhỉ! Anh kể thêm cho chúng tôi đi, Allan Emmanuel.
- Không, không, Allan, - Yury ho. - Đừng nói nữa! Chúng tôi không muốn biết nữa!
- Đừng có ngốc thế, Yury thân yêu, - Larissa nói. - Bao năm rồi không gặp, bạn anh phải được cho chúng mình biết công việc của anh ấy hiện nay chứ. Anh tiếp đi, Allan Emmanuel.
Allan nói tiếp và Larissa chăm chú lắng nghe trong lúc Yury lấy tay ôm mặt. Allan kể về bữa ăn tối với Tổng thống Johnson và mật vụ CIA Hutton, về cuộc gặp Hutton ngày hôm sau, khi Hutton đề xuất Allan nên đi Moskva và tìm hiểu về tên lửa Liên Xô.
Allan thấy mình vẫn có thể chọn cách ở lại Paris, nơi ông chắc chắn sẽ giúp ích cho bà đại sứ và chồng tránh các cuộc khủng hoảng ngoại giao vì vạ miệng. Nhưng vì Amanda và Herbert là hai người mà Allan không thể phân thân nhiều nơi cùng một lúc nên ông đã đồng ý với đề nghị của mật vụ Hutton. Nó có vẻ khá đơn giản và bình tĩnh hơn. Thêm nữa, gặp lại Yury sau chừng ấy năm cũng vui.
Yury vẫn vùi mặt vào hai bàn tay nhưng lén nhìn trộm Allan giữa các khe ngón. Yury nghe nhắc đến tên Herbert Einstein? Yury còn nhớ anh ta và thật là tin tốt lành nếu Herbert cũng sống sót qua vụ bắt cóc và trại tù mà Beria đã tống anh ta vào.
Ồ, có chứ, Allan khẳng định. Rồi ông kể tóm tắt câu chuyện về hai mươi năm ở với Herbert; ông bạn này đầu tiên chỉ muốn chết, nhưng cuối cùng khi phải chết, vào cuối tháng mười hai vừa rồi ở Paris, ở tuổi bảy mươi sáu, ông đã hoàn toàn đổi ý về điều đó. Ông đã để lại một người vợ thành đạt - bây giờ là góa phụ - từng là một nhà ngoại giao ở Paris, và hai đứa con tuổi teen. Tin mới nhất từ thủ đô nước Pháp cho hay, gia đình đã quen dần với sự ra đi của Herbert, và bà Einstein rất được yêu mến trong cộng đồng VIP. Tiếng Pháp của bà đúng là cực kì khủng khiếp, nhưng lại đâm có duyên, vì thỉnh thoảng bà nói những điều ngớ ngẩn mà có lẽ không thể tin được là định nói.
- Chắc là tôi đang bị lạc đề rồi, - Allan nói. - Anh quên chưa trả lời câu hỏi của tôi. Anh có phải là một điệp viên không?
- Nhưng mà Allan Emmanuel, anh bạn tốt của tôi ơi. Làm gì có chuyện đó! Tôi tự hào được phục vụ nước mẹ hơn bất kì thường dân nào khác trong lịch sử hiện đại Liên Xô. Hoàn toàn không có chuyện tôi sẽ làm gián điệp đâu! - Yury nói và đưa ly lên miệng.
- Đừng nói thế, Yury thân yêu, - Larissa bảo, và khiến ông chồng lại sặc ly thứ sáu, giống như ly số năm.
- Uống vodka vào thì tốt hơn là phun nó lên người khác chứ? - Allan thắc mắc bằng giọng thân thiện.
Larissa Popova tiếp tục lập luận, trong lúc ông chồng lại lấy tay che mặt. Ý Larissa là cả mình và Yury sắp sáu mươi lăm tuổi rồi, và họ thực sự phải cảm ơn Liên Xô vì điều gì nào? OK, chồng bà đã nhận được rất nhiều huy chương và giải thưởng, và nhờ thế mà có vé tốt ở Nhà hát. Nhưng ngoài ra thì sao?
Larissa không chờ chồng trả lời, mà tiếp tục nói rằng cả hai đều phải câm lặng ở Arzamas-16, một thành phố mà chỉ cái tên không cũng làm người ta ngán ngẩm. Lại còn quây kín sau dây thép gai nữa. Phải, Larissa biết rằng họ được tự do ra vào, nhưng Yury đừng có ngắt lời vội vì bà còn chưa nói xong.
Yury đã làm nô lệ cho ai ngày này qua ngày khác? Đầu tiên là cho Stalin, và ông ta hoàn toàn điên rồ. Sau đó đến lượt Khrushchev, dấu hiệu duy nhất cho thấy ông ta còn tí tính người là cho tử hình Nguyên soái Beria. Và bây giờ là Brezhnev - người bốc mùi!
- Larissa! - Yury Borisovich kêu lên kinh hoảng.
- Nào, Jilij thân yêu, anh đừng có ngồi đó và réo em Larissa nữa. Brezhnev bốc mùi là chính anh nói nhé.
Rồi bà tiếp tục rằng Allan Emmanuel đã đến thật đúng lúc, vì càng về cuối, bà càng thấy trầm cảm đến chết trong hàng rào dây thép gai ở cái thành phố chính thức không tồn tại này. Thậm chí chẳng biết Larissa và Yury có được tấm bia mộ thực sự sau khi chết không nữa? Hay là cũng phải ghi bằng mật mã, vì lý do an ninh?
- Nơi đây yên nghỉ đồng chí X và bà Y, người vợ thân yêu của ông, - Larissa nói.
Yury không trả lời. Bà vợ thân yêu của ông có lẽ cũng có lý. Và bây giờ Larissa chốt hạ:
- Thế thì sao không làm gián điệp vài năm với bạn anh ở đây, rồi chúng mình sẽ được giúp đỡ trốn đến New York, ở đó mình có thể đến nhà hát Metropolitan mỗi tối. Chúng mình sẽ sống ra sống, Yury thân yêu, trước khi phải chết.
1968 - 1982
Yury Popov Borisovich sống và làm việc ở thành phố Sarov tại Nizhny Novgorod, khoảng 350 km về phía đông Moskva.
Sarov là một thành phố bí mật, có khi còn bí mật hơn điệp vụ Hutton. Thậm chí không được phép gọi nó là Sarov mà bằng một cái tên không mấy lãng mạn là Arzamas-16. Hơn nữa, toàn bộ thành phố đã được tẩy xóa khỏi mọi bản đồ. Sarov cùng lúc vừa tồn tại, vừa không tồn tại, tùy vào việc ta đề cập đến thực tế hay cái gì khác. Gần giống như Vlapostok trong vài năm từ 1953 trở đi, dù nó ngược nhau.
Ngoài ra, thành phố được rào bằng dây thép gai, tuyệt đối không ai được phép ra vào mà không bị kiểm tra an ninh ngặt nghèo. Nếu ai có hộ chiếu Mỹ và ở Đại sứ quán Mỹ tại Moskva thì lại càng không nên bén mảng đến gần nơi này.
Nhân viên CIA Ryan Hutton và học trò của ông, Allan Karlsson đã nghiên cứu cuốn sách ABC dành cho gián điệp trong vài tuần trước khi Allan đã được cài vào Đại sứ quán ở Moskva dưới cái tên Allen Carson và chức danh mơ hồ ‘nhân viên hành chính’.
Thật xấu hổ cho mật vụ Hutton là ông đã hoàn toàn bỏ qua thực tế rằng đối tượng mà Allan Karlsson định tiếp cận là bất khả xâm phạm, quây kín sau dây thép gai trong một thành phố được bảo vệ cẩn mật đến mức nó thậm chí còn không được phép gọi bằng tên ra.
Mật vụ Hutton xin lỗi Allan về sai lầm của mình, nhưng đèo thêm rằng chắc chắn Allan sẽ nghĩ ra một cách gì đó. Thỉnh thoảng Popov phải đến Moskva và nhiệm vụ của Allan là điều tra xem lần sau, khi nào Popov sẽ tới.
- Xin ông Karlsson thứ lỗi, mật vụ Hutton nói qua điện thoại từ thủ đô nước Pháp. Tôi có một số việc khác đang cần giải quyết. Chúc ông may mắn!
Rồi mật vụ Hutton gác máy, thở dài, quay lại với mớ hậu quả lộn xộn của vụ đảo chính quân sự - được CIA hỗ trợ - ở Hy Lạp mấy năm trước. Cũng giống như nhiều thứ khác trong thời gian gần đây, nó đã đi chệch hướng.
Về phần mình, Allan chẳng biết làm gì hơn là đi bách bộ đến thư viện thành phố Moskva mỗi ngày, ngồi đó hàng giờ đọc các nhật báo và tạp chí. Ông hi vọng mình sẽ vớ được bài báo nào đó về chuyện Popov sắp xuất hiện công khai đâu đó ngoài hàng rào dây thép gai ở Arzamas-16.
Hàng tháng trôi qua mà chẳng có tin tức nào như thế. Nhưng Allan có thể đọc tin ứng cử viên tổng thống Robert Kennedy cũng gặp số phận tương tự như ông anh mình và Tiệp Khắc đã yêu cầu Liên Xô giúp đỡ để chấn chỉnh chủ nghĩa xã hội ở nước mình.
Ngoài ra, Allan ghi nhận một ngày kia, Richard M Nixon đã lên thay Lyndon B Johnson. Nhưng vì vẫn nhận phong bì lương từ Đại sứ quán đều đều mỗi tháng, Allan nghĩ tốt nhất là mình cứ tiếp tục săn tìm Popov. Nếu có gì đã thay đổi, thể nào mật vụ Hutton cũng liên lạc và báo cho ông.
Qua năm 1968 đến mùa xuân năm 1969, khi đang mải miết lật báo ở thư viện, Allan tình cờ phát hiện ra một tin thú vị. Đoàn nhạc kịch Vienna sẽ có một buổi biểu diễn cho khách mời tại Nhà hát Bolshoi ở Moskva, Franco Corelli hát nam chính và ngôi sao quốc tế người Thụy Điển Birgit Nilsson trong vai Turandot.
Allan gãi gãi râu (giờ lại mọc đầy) và nhớ lại buổi tối đầu tiên và duy nhất mà ông ở bên Yury. Đêm khuya, Yury bắt đầu hát rống lên bài “Nessun Dorma” - không ai được phép ngủ! Chẳng bao lâu, ngấm rượu, ông cũng lăn ra ngủ nhưng đó là một chuyện khác.
Theo suy luận của Allan, chẳng lẽ một người đã từng biểu diễn khá hay Puccini và Turandot ở độ sâu hai trăm mét, lại có thể bỏ lỡ buổi trình diễn từ Vienna với chương trình tương tự tại Nhà hát Bolshoi ở Moskva? Nhất là nếu ông ta chỉ ở cách đó vài tiếng đi xe và thừa huy chương để kiếm một chỗ trong khán phòng.
Nhưng biết đâu không phải thế. Vậy thì Allan vẫn cứ tiếp tục hàng ngày đi bách bộ đến thư viện thôi. Đấy là trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, mà nó cũng không tệ lắm.
Tạm thời, Allan cứ cho rằng Yury sẽ xuất hiện bên ngoài nhà hát, và ông chỉ cần đứng đó, nhắc Yury nhớ đến chầu rượu cuối cùng của họ. Chắc là thế.
Hoặc không phải thế.
Thực tế hoàn toàn khác.
*
Tối ngày 22 tháng Ba 1969, Allan đứng chỗ dễ thấy nhất bên trái lối vào chính của Nhà hát Bolshoi. Ông nghĩ từ chỗ này mình có thể nhận ra Yury khi ông ta trên đường vào khán phòng. Tuy nhiên nảy sinh vấn đề là mọi người khách nhìn gần như giống hệt nhau. Đàn ông đều mặc comple đen dưới áo choàng màu đen còn phụ nữ thì váy dạ hội lấp ló dưới áo khoác lông thú đen hoặc nâu. Họ đều đi thành từng cặp, từ ngoài trời lạnh nhanh chóng tiến vào nhà hát ấm áp, lướt qua chỗ Allan đang đứng ở bậc trên cùng chiếc cầu thang lộng lẫy. Trời thì tối om, Allan làm sao có thể nhận ra một khuôn mặt ông chỉ thấy trong hai ngày, từ hai mươi mốt năm về trước. Trừ khi ông gặp may mắn không thể tin được là chính Yury sẽ nhận ra ông.
Không, Allan không gặp may như thế. Tất nhiên chẳng có gì chắc chắn rằng Yury Borisovich cùng ai đó đã vào bên trong nhà hát, nhưng, nếu có thế thật thì ông ta đã đi qua cách người bạn cũ vài mét mà chẳng có tín hiệu gì. Allan có thể làm gì? Ông nghĩ thành tiếng:
- Nếu vừa đi vào nhà hát, Yury Borisovitch thân mến ạ, thì vài tiếng nữa ông bạn chắc chắn sẽ lại đi ra qua cánh cửa này. Nhưng lúc ấy trông ông vẫn hệt như lúc đi vào. Thế thì tôi không thể tìm thấy ông được. Có nghĩa là ông sẽ phải tìm tôi vậy.
Đành phải thế thôi. Allan về văn phòng nhỏ của mình ở Đại sứ quán, chuẩn bị vài thứ và quay trở lại đúng lúc trước khi Hoàng tử Calif làm trái tim công chúa Turandot tan chảy.
Trong quá trình được mật vụ Hutton huấn luyện, Allan bị nhồi nhét nhiều nhất là từ thận trọng. Một mật vụ giỏi không bao giờ tạo ra bất kì sự chú ý nào xung quanh mình, anh ta không được khác biệt, phải hòa lẫn vào môi trường hoạt động của mình tới mức gần như là vô hình.
- Ông hiểu chứ, ông Karlsson? - Mật vụ Hutton hỏi.
- Chắc chắn rồi, ông Hutton ạ, - Allan đã trả lời.
Khán giả vỗ tay đòi Birgit Nilsson và Franco Corelli trở lại sân khấu hai mươi lần, buổi diễn thành công rực rỡ. Do đó, phải mất thêm một lúc lâu trước khi khán giả rời khỏi khán phòng và đám người trông giống nhau ấy bắt đầu ùn ùn xuống cầu thang lần nữa. Ai cũng thấy một người đàn ông đứng ở giữa bậc cuối cùng, hai tay giơ lên giữ một tấm biển tự chế trên ghi:
TÔI LÀ
ALLAN
EMMANUEL
Tất nhiên Allan Karlsson hiểu rõ bài giảng của mật vụ Hutton, ông chỉ không quan tâm đến nó nữa. Paris chỗ Hutton đang mùa xuân, nhưng Moskva lúc này trời vừa lạnh vừa tối. Allan lạnh cóng và chỉ muốn được việc. Lúc đầu, ông định viết tên Yury trên tấm biển, nhưng cuối cùng quyết định rằng như thế sẽ lộ liễu quá, trước tiên nó phải liên quan đến bản thân mình chứ không phải người khác.
Larissa Aleksandrevna Popova, vợ Yury Borisovich Popov, âu yếm nắm lấy tay chồng, cảm ơn đến lần thứ năm về buổi diễn tuyệt vời họ vừa thưởng thức. Birgit Nilsson đúng là Maria Callas hiện thân! Và chỗ ngồi nữa!
Hàng thứ tư, ở chính giữa. Lâu lắm rồi Larissa mới hạnh phúc như thế. Chưa hết, tối nay bà và chồng sẽ được ở tại khách sạn, không phải quay trở lại cái thành phố kinh khủng đằng sau hàng rào kẽm gai trong gần hai mươi bốn giờ. Họ sẽ có một bữa tối lãng mạn cho hai người... chỉ có bà và Yury... và rồi có lẽ...
- Xin lỗi, em yêu, - Yury nói và dừng lại trên bậc thềm ngay bên ngoài cửa nhà hát.
- Cái gì vậy, anh yêu? - Larissa lo lắng hỏi.
- Không... có lẽ không có gì... nhưng... em có nhìn thấy người đàn ông ở dưới đó với cái biển không? Anh phải ra đó xem sao... không thể thế được... nhưng anh phải... nhưng người ấy đã chết rồi cơ mà!
- Ai chết cơ, anh yêu?
- Đi nào! - Yury nói và đi với vợ xuống cầu thang.
Cách Allan ba mét, Yury dừng lại, cố gắng làm não hiểu những gì mắt thấy. Allan đã nhận ra ông bạn điên cuồng chằm chằm nhìn mình từ nãy, hạ tấm biển xuống và nói:
- Birgit diễn hay không?
Yury vẫn nín lặng, nhưng vợ ông thì thầm hỏi chồng liệu đây có phải là người mà anh cho là đã chết không. Allan nói với Yury là mình chưa chết, và nếu vợ chồng Popov muốn đảm bảo rằng ông không bị cóng đến chết thì tốt nhất, họ nên lập tức dắt ông đến nhà hàng nào đó, cho ông uống ít vodka và chút gì đó để ăn.
- Đúng là anh rồi..., - cuối cùng Yury cũng kêu lên. - Nhưng... anh nói tiếng Nga à...?
- Vâng, sau khi chúng ta gặp nhau lần cuối, tôi đã theo học năm năm tiếng nước anh, - Allan đáp. - Trường GULAG. Còn vodka thì sao?
Yury Borisovich là một người rất đàng hoàng, và suốt hai mốt năm qua, ông cảm thấy rất có lỗi vì đã vô tình dụ anh chàng chuyên gia bom nguyên tử người Thụy Điển đến Moskva rồi đưa đẩy tới Vladisvostok, nơi anh ta, nếu còn sống được tới lúc ấy, thì có lẽ cũng bị chết thiêu trong đám cháy mà ở Liên Xô ai cũng biết. Ông đã ân hận suốt hai mươi mốt năm qua và lập tức cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy anh chàng Thụy Điển, vẫn với vẻ lạc quan như ngày nào.
Giờ thì Yury Borisovich đang đứng bên ngoài Nhà hát Bolshoi ở Moskva, trời lạnh âm 15 độ, sau màn trình diễn opera ấm cúng và... không, ông không thể tin được. Allan Emmanuel Karlsson đã thoát. Và anh ta vẫn còn sống sót, đang đứng sờ sờ trước mặt Yury ngay lúc này. Ở giữa Moskva. Nói tiếng Nga!
Yury Borisovich đã lấy Larissa Aleksandrevna bốn mươi năm và sống rất hạnh phúc. Họ không có con cái nhưng tin tưởng nhau tuyệt đối. Họ chia sẻ với nhau mọi điều hay dở và Yury đã hơn một lần thổ lộ với vợ nỗi buồn thương cho số phận của Allan Emmanuel Karlsson. Lúc này, trong khi Yury vẫn tìm cách liên lạc với não mình, Larissa Aleksandrevna chủ động nói.
- Theo em hiểu thì đây là bạn cũ của anh, người mà anh gián tiếp đẩy đến chỗ chết. Anh yêu, sao mình không nhanh chóng chiều ý anh ấy, đưa anh ấy đến nhà hàng uống ít vodka trước khi anh ấy chết thật?
Yury không đáp, nhưng gật gật đầu và để vợ đưa ra chiếc limousine đang đợi sẵn, ông ngồi vào, cạnh người đồng chí đã chết của mình trong lúc vợ chỉ đường cho lái xe.
- Anh đến nhà hàng Puskhin nhé.
Họ cần hai ly rượu mạnh cho Allan để tan giá và hai ly nữa cho Yury hoàn hồn trở lại. Trong lúc đó, Allan và Larissa làm quen với nhau.
Khi Yury cuối cùng cũng hoàn hồn, và cú sốc biến thành niềm vui (“Chúng ta ăn mừng nào!”), Allan nghĩ đã đến lúc phải nói thẳng. Nếu phải nói thì thà là nói ngay và luôn.
- Trở thành gián điệp thì sao? - Allan nói. - Tôi cũng làm đấy, và thực ra nó thú vị phết.
Yury sặc trên ly rượu thứ năm của mình và phun nó ra khắp bàn ăn.
- Gián điệp á? - Larissa hỏi trong lúc ông chồng ho sặc sụa.
- Vâng, hoặc là điệp viên. Tôi chẳng biết nó có gì khác nhau, thật đấy.
- Hay nhỉ! Anh kể thêm cho chúng tôi đi, Allan Emmanuel.
- Không, không, Allan, - Yury ho. - Đừng nói nữa! Chúng tôi không muốn biết nữa!
- Đừng có ngốc thế, Yury thân yêu, - Larissa nói. - Bao năm rồi không gặp, bạn anh phải được cho chúng mình biết công việc của anh ấy hiện nay chứ. Anh tiếp đi, Allan Emmanuel.
Allan nói tiếp và Larissa chăm chú lắng nghe trong lúc Yury lấy tay ôm mặt. Allan kể về bữa ăn tối với Tổng thống Johnson và mật vụ CIA Hutton, về cuộc gặp Hutton ngày hôm sau, khi Hutton đề xuất Allan nên đi Moskva và tìm hiểu về tên lửa Liên Xô.
Allan thấy mình vẫn có thể chọn cách ở lại Paris, nơi ông chắc chắn sẽ giúp ích cho bà đại sứ và chồng tránh các cuộc khủng hoảng ngoại giao vì vạ miệng. Nhưng vì Amanda và Herbert là hai người mà Allan không thể phân thân nhiều nơi cùng một lúc nên ông đã đồng ý với đề nghị của mật vụ Hutton. Nó có vẻ khá đơn giản và bình tĩnh hơn. Thêm nữa, gặp lại Yury sau chừng ấy năm cũng vui.
Yury vẫn vùi mặt vào hai bàn tay nhưng lén nhìn trộm Allan giữa các khe ngón. Yury nghe nhắc đến tên Herbert Einstein? Yury còn nhớ anh ta và thật là tin tốt lành nếu Herbert cũng sống sót qua vụ bắt cóc và trại tù mà Beria đã tống anh ta vào.
Ồ, có chứ, Allan khẳng định. Rồi ông kể tóm tắt câu chuyện về hai mươi năm ở với Herbert; ông bạn này đầu tiên chỉ muốn chết, nhưng cuối cùng khi phải chết, vào cuối tháng mười hai vừa rồi ở Paris, ở tuổi bảy mươi sáu, ông đã hoàn toàn đổi ý về điều đó. Ông đã để lại một người vợ thành đạt - bây giờ là góa phụ - từng là một nhà ngoại giao ở Paris, và hai đứa con tuổi teen. Tin mới nhất từ thủ đô nước Pháp cho hay, gia đình đã quen dần với sự ra đi của Herbert, và bà Einstein rất được yêu mến trong cộng đồng VIP. Tiếng Pháp của bà đúng là cực kì khủng khiếp, nhưng lại đâm có duyên, vì thỉnh thoảng bà nói những điều ngớ ngẩn mà có lẽ không thể tin được là định nói.
- Chắc là tôi đang bị lạc đề rồi, - Allan nói. - Anh quên chưa trả lời câu hỏi của tôi. Anh có phải là một điệp viên không?
- Nhưng mà Allan Emmanuel, anh bạn tốt của tôi ơi. Làm gì có chuyện đó! Tôi tự hào được phục vụ nước mẹ hơn bất kì thường dân nào khác trong lịch sử hiện đại Liên Xô. Hoàn toàn không có chuyện tôi sẽ làm gián điệp đâu! - Yury nói và đưa ly lên miệng.
- Đừng nói thế, Yury thân yêu, - Larissa bảo, và khiến ông chồng lại sặc ly thứ sáu, giống như ly số năm.
- Uống vodka vào thì tốt hơn là phun nó lên người khác chứ? - Allan thắc mắc bằng giọng thân thiện.
Larissa Popova tiếp tục lập luận, trong lúc ông chồng lại lấy tay che mặt. Ý Larissa là cả mình và Yury sắp sáu mươi lăm tuổi rồi, và họ thực sự phải cảm ơn Liên Xô vì điều gì nào? OK, chồng bà đã nhận được rất nhiều huy chương và giải thưởng, và nhờ thế mà có vé tốt ở Nhà hát. Nhưng ngoài ra thì sao?
Larissa không chờ chồng trả lời, mà tiếp tục nói rằng cả hai đều phải câm lặng ở Arzamas-16, một thành phố mà chỉ cái tên không cũng làm người ta ngán ngẩm. Lại còn quây kín sau dây thép gai nữa. Phải, Larissa biết rằng họ được tự do ra vào, nhưng Yury đừng có ngắt lời vội vì bà còn chưa nói xong.
Yury đã làm nô lệ cho ai ngày này qua ngày khác? Đầu tiên là cho Stalin, và ông ta hoàn toàn điên rồ. Sau đó đến lượt Khrushchev, dấu hiệu duy nhất cho thấy ông ta còn tí tính người là cho tử hình Nguyên soái Beria. Và bây giờ là Brezhnev - người bốc mùi!
- Larissa! - Yury Borisovich kêu lên kinh hoảng.
- Nào, Jilij thân yêu, anh đừng có ngồi đó và réo em Larissa nữa. Brezhnev bốc mùi là chính anh nói nhé.
Rồi bà tiếp tục rằng Allan Emmanuel đã đến thật đúng lúc, vì càng về cuối, bà càng thấy trầm cảm đến chết trong hàng rào dây thép gai ở cái thành phố chính thức không tồn tại này. Thậm chí chẳng biết Larissa và Yury có được tấm bia mộ thực sự sau khi chết không nữa? Hay là cũng phải ghi bằng mật mã, vì lý do an ninh?
- Nơi đây yên nghỉ đồng chí X và bà Y, người vợ thân yêu của ông, - Larissa nói.
Yury không trả lời. Bà vợ thân yêu của ông có lẽ cũng có lý. Và bây giờ Larissa chốt hạ:
- Thế thì sao không làm gián điệp vài năm với bạn anh ở đây, rồi chúng mình sẽ được giúp đỡ trốn đến New York, ở đó mình có thể đến nhà hát Metropolitan mỗi tối. Chúng mình sẽ sống ra sống, Yury thân yêu, trước khi phải chết.