Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 53
Ký sự loài kiến!
Một ngày, Vô Tình đến một vùng đất tên là Thổ Khanh, khá gần Toái Vân Uyên. Tiểu trấn này chỉ có khoảng năm, sáu trăm hộ dân, sống bằng nghề trồng lúa mỳ. Vì rất ít khi ra khỏi trấn nên lý dịch ở đây có kiến thức nông cạn, đến Tứ đại danh bộ là những người như thế nào chỉ sợ họ cũng chưa từng được nghe qua. Nhưng hỏi đến nhóm Lưu Độc Phong, bọn họ lại có một số tin tức.
Đó là tin tức khi Lưu Độc Phong vừa mới đến đây, công phá Hủy Nặc thành và truy kích nhóm Tức đại nương.
Rõ ràng người dân ở vùng này rất yêu mến những nữ tử Hủy Nặc thành, nên không hài lòng với hành vi nối giáo cho giặc của Lưu Độc Phong. Tuy nhiên trên đường Vô Tình đã đi qua, đại đa số đều “dám giận mà không dám nói”. Dân ở Thổ Khanh trấn lại bộc trực, thấy Vô Tình dò la hành tung của lão đều không mặn mà tiếp chuyện.
Khi nhắc đến việc Hủy Nặc Thành bị đồ sát thê thảm và những hành vi như lang sói của đám quan binh, dân làng đều không khỏi nghiến răng căm giận.
Nghe xong, Vô Tình cảm thấy cõi lòng nặng trĩu. Quan binh cư xử ngang ngược như thế, làm sao mà cai quản tốt thiên hạ được đây?
Một sai dịch còn trả lời chàng với thái độ thù địch: “Vị công tử gia này! Nếu ngài muốn dò hỏi về vị quan gia áp giải phạm nhân thì tiểu nhân thật sự không biết gì, nếu có người biết cũng không đến lượt tiểu nhân. Nhưng về các vị quan gia đánh từ Liên Vân trại đánh đến Toái Vân Uyên thì ngựa của họ giẫm nát mạ xanh, chân họ đạp bằng lúa non của chúng tôi, còn phóng hỏa thiêu cháy ruộng đồng, cưỡng bắt đàn bà con gái đi và ăn sạch lương thực dự trữ của chúng tôi nữa. Vụ việc này chúng tôi đã trình lên trên, hương thân không xét, huyện nha cũng không xử, vậy phải giải quyết như thế nào đây?”
Vô Tình cũng không biết nên đáp thế nào.
Một tên sai dịch khác giọng đầy phẫn nộ: “Cả cánh đồng Ngũ Trọng Khê rộng lớn bị thiêu rụi hết, còn lại mấy xác chết. Trong đó có một thi thể bị chôn xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu, ngũ quan đều bị đốt sạch. Lửa là do quan binh đốt, vậy đã xảy ra chuyện gì? Cho dù có xử tử phạm nhân, cũng không cần phải dùng hình phạt tàn khốc như thế! Vả lại, chúng tôi cũng muốn được bồi thường số thóc gạo bị đốt cháy.”
Một lão sai dịch lớn tuổi cảm thán: “Sớm biết thế này, chúng ta thu hoạch sớm vài ngày thì đã không đến nổi mùa đông năm nay chịu đói.”
Nghe thế, Vô Tình chợt để ý: “Các vị có biết người bị chôn rồi bị thiêu cháy đó là ai không?”
Nha dịch đáp: “Làm sao chúng tôi biết được! Ngũ quan đã bị thiêu hủy, nhìn không ra. Cho dù cha mẹ hắn đến đây cũng chẳng thể nào nhận ra được hắn.”
Lão bộ dịch bỗng nhớ ra: “Bên cạnh xác chết còn có một ngọn thương làm bằng vàng bị thiêu nám đen.”
Nha dịch cười nói: “Nếu không bị cháy đen thui, ngọn thương vàng làm sao mà còn tại chỗ đó được, sớm đã bị đám quan quân không bằng cường đạo đó … Ừm, đám người đó cướp đi rồi.”
Vô Tình giật mình, lập tức hỏi: “Ngọn thương đó đang ở đâu?”
Lão bộ dịch hỏi lại: “Công tử muốn kiểm tra hung khí sao?”
Gã nha dịch lầm bầm: “Công tử nếu muốn thì cứ lấy cũng không sao. Nơi này đất đai khô cằn, người dân nghèo khó nên cũng chẳng có gì để biếu tặng.”
Vô Tình nghiêm trang: “Các vị, lần này ta đến đây là để tra án. Một khi thu thập đủ chứng cứ về việc quan binh không tuân phép nước, ngang nhiên hại dân, nhất định ta sẽ báo lên trên, mang chúng ra công lý. Mong các vị vạn lần chớ vì con sâu làm rầu nồi canh mà oán trách triều đình. Ta là người tàn phế, vạn dặm xa xôi đến đây điều tra chính là muốn tìm hiểu kĩ xem thử bên trong có oan tình hay không để lật lại bản án. Nếu không vì thế thì ta đi cả ngàn dặm gió bụi mệt mỏi, khổ sở như vậy làm gì? Hai chân ta bị liệt rồi thì chức cao bổng hậu, vinh hoa phú quý đâu có ý nghĩa gì? Được các vị trượng nghĩa giúp đỡ, giữ gìn phép nước, Thành mỗ cảm kích khôn cùng!”
Những vị sai nha này nghe được những lời chân thành thẳng thắn của Vô Tình, lại thấy rõ thân dưới của chàng đã tàn phế, nên đều xúc động và nghiêm chỉnh lại. Họ đưa chàng vào phòng trực, mang trường thương ra để chàng xem xét.
Vô Tình quan sát cẩn thận thanh kim thương. Chàng thấy tuy cán thương bị đổi màu, nhưng đúng là được thếp bằng vàng thô. Mũi thương có hình gợn sóng, càng đặc biệt hơn chính là mũi thương đã tách ra khỏi cán thương, chỉ nối với nhau bằng một dây xích sắt nhỏ, phía trong có cơ quan. Có lẽ trong lúc đánh nhau kịch liệt, người dùng thương đã phóng mũi thương ám toán đối phương; nhưng lúc kim thương rời khỏi tay, chắc là hắn đang mười phần gấp gáp nên chưa kịp gắn mũi thương vào cán thương trở lại.
Vô Tình hỏi mọi người: “Có thể làm phiền chư vị đưa chúng tôi đến hiện trường xem xét được không?”
Nhóm lão bộ dịch đều đồng ý: “Được!”
Trên đường đi, Kim kiếm nhỏ giọng hỏi Vô Tình: “Công tử, thanh thương đó có điều gì đặc biệt vậy?”
Vô Tình đáp: “Thanh thương này không có gì đặc biệt. Chỉ có điều, nếu ta đoán không sai, người sử dụng thanh thương này chính là thất trại chủ Mạnh Hữu Uy của Liên Vân trại.”
Ngân kiếm hỏi tiếp: “Mạnh Hữu Uy ư? Đúng là ‘Kim xà thương’ Mạnh Hữu Uy sử dụng kim thương, nhưng sao hắn lại bỏ rơi vũ khí?”
Vô Tình đáp: “Cho nên ta mới nghi Mãnh Hữu Uy cũng bị chết thiêu. Nếu không, sau hỏa hoạn, có lẽ hắn đã trở lại tìm kiếm kim thương rồi. Trận chiến khốc liệt có thể khiến cho Mạnh Hữu Uy bị giết rất đáng cho chúng ta đến xem xét.”
Vậy là cuối cùng bọn họ cũng đến Ngũ Trọng Khê.
Vô Tình bảo các vị sai dịch trở lại trấn; để cho Kim kiếm, Ngân kiếm mò tôm bắt cá chơi bên suối. Còn chàng một mình lặng im suy nghĩ giữa chốn hoang vu.
Thật ra, gọi đây là cánh đồng mênh mông bị thiêu cháy hết thì đúng hơn là vùng đất hoang vu.
Một đàn quạ đen đang lượn trên không. Có lẽ vài hôm trước chúng còn sinh sống ở cánh đồng này, nhưng hôm nay thóc lúa bị thiêu sạch, bầy quạ không có chỗ trú ngụ, kêu quang quác trên không.
Ráng chiều đỏ thắm phía chân trời.
Bốn bề mênh mông, từ xa con suối Ngũ Trọng ánh lên như đai vàng.
Những gốc cây cháy dở, những mảnh tro than khắp nơi khiến nơi đây mang một vẻ thê lương, lạnh lẽo.
Sau đám cháy chỗ nào cũng có vẻ tang thương như vậy.
Vùng đất này muốn hồi sinh trở lại, ít nhất cũng phải đến ba, bốn năm sau. Cả cánh đồng phì nhiêu như thế lại bị một mồi lửa cháy rụi, không trách người dân đều oán hận.
Vô Tình thở dài một hơi.
Chàng nhìn ráng chiều, nhìn đàn quạ bay về tổ, nhìn dòng suối lấp lánh ánh vàng phía xa xa, trong đầu chẳng có chút manh mối gì.
Nghe nói trên mặt đất cháy đen, từng phát hiện thi thể một nam, một nữ đang ôm nhau. Nhưng sau đó đã bị “các vị quan quân nghiền xương tung tro” hài cốt cũng không còn.
Nghĩ tới điều này, Vô Tình cho rằng: xem ra bọn Hoàng Kim Lân, Cố Tích Triều đã từng có mặt trong toán cao thủ toàn lực vây bắt phạm nhân ở đây. Trận chiến khốc liệt khiến cho Mạnh Hữu Uy mất mạng, nhưng cũng có hai đại cao thủ, một nam, một nữ trong nhóm phạm nhân bị giết chết.
… Đương nhiên một nam một nữ này không phải là Thích Thiếu Thương và Tức đại nương, vậy thì họ là ai nhỉ?
Trong những ngày qua, Vô Tình cũng dần dần nắm rõ một số thông tin: Lôi Quyển - Đường chủ phân đường Giang Nam của Phích Lịch đường - cùng với nhân tài trẻ tuổi Thẩm Biên Nhi, và Đường nhị nương, Tần tam nương của Hủy Nặc thành cũng bị lôi vào vòng gió tanh mưa máu này.
Nếu như đây là nơi toán quân của Cố Tích Triều kịch chiến với nhóm người của Tức đại nương, thì chẳng liên quan gì đến việc Lưu Độc Phong áp giải Thích Thiếu Thương. Xem ra bản thân chàng đã đi một chuyến dài nhưng uổng công rồi.
Đột nhiên trong lòng Vô Tình nảy ra một ý niệm kỳ quái. Chàng khấn thầm với đôi nam nữ bị thiêu cháy: nếu quả hai vị nam nữ là anh hồn của những người bạn đồng lòng giúp đỡ Thích Thiếu Thương, xin phù hộ cho chàng có khả năng tìm được đầu mối, cứu được Thích Thiếu Thương.
Vô Tình mặc niệm như thế một hồi, nhưng chẳng có linh cảm gì, chỉ thấy ánh chiều càng lúc càng ảm đạm, sắc mây càng lúc càng sẫm mà thôi. Thật ra, chàng cũng không mong mỏi nhận được kết quả gì. Cúi đầu trầm tư một hồi, chàng đang muốn quay về thì bổng nhiên lưng bàn chân nhói đau như có một vật gì đó chích vào.
Ban đầu chàng ngỡ là muỗi đốt, lúc đưa tay bắt lấy mới biết là bị kiến cắn.
Có mấy chú kiến bò lên chiếc xe chàng đang ngồi, đó là loại kiến lửa, chích rất đau.
Vô Tình cũng không để ý mấy.
Thậm chí chàng chẳng buồn giết chú kiến đó nữa.
Chàng chỉ phủi phủi nó đi. Chẳng qua đó chỉ là một con kiến nho nhỏ mà thôi.
Trên mặt đất còn có rất nhiều chú kiến đang kéo nhau đi như đang hành quân, cùng bò qua đống tro rất nhịp nhành.
Vì Vô Tình khẽ di động một chút nên một số kiến binh thiện chiến, cảnh giác cao độ, ngừng lại ngẩng cao đầu, huơ râu liên hồi, giống như muốn dùng tư thế đó để hù dọa những địch nhân xâm phạm.
Bất giác Vô Tình mỉm cười.
Chàng phát giác những chú kiến này đang khiêng một con thằn lằn chết đưa về tổ, hành động rất có quy luật, tuân thủ trật tự.
Có một con gián đang bị một chú kiến cắn chặt một chân, vùng vẫy mãi chưa thoát, con kiến thứ hai lại bò quấn lên mình nó. Con gián càng vùng vẫy dữ dội hơn nhưng vẫn không thoát.
Số phận con gián đã được an bài.
Đàn kiến bu lại, cuối cùng cũng cắn chết được con gián
Trên thân con gián đầy kiến. Sau đó những chú kiến nhỏ bé đồng tâm hiệp lực, râu kề râu, cùng nhấc chân khiêng chú gián to như thế lên, tha về tổ.
Vô Tình bỗng cảm thấy rất bội phục.
Những sinh vật nhỏ bé này có sức chiến đấu kiên cường, oai dũng, lại đoàn kết một lòng; thật hơn xa loài người.
Trong tâm trí chàng, ngoài cảm giác đó ra còn có điều gì nữa lấn cấn nhưng chàng không đặc biệt lưu tâm lắm.
Loang thoáng nghe tiếng cười đùa của Kim kiếm và Ngân kiếm từ xa vọng lại, lòng chàng thấy rất thoải mái.
Chàng cho hai trẻ Kim kiếm và Ngân kiếm ra bờ suối chơi đùa cũng vì không muốn chúng phải căng thẳng, ngột ngạt thái quá. Đây là lứa tuổi được vui vẻ nô đùa mà chàng lại dạy chúng kiếm pháp ngoan độc, võ công ác hiểm nhằm đối phó với những kẻ trưởng thành gian xảo, lật lọng. Điều này thật quá sức với tâm lý của thiếu nhi.
Từ bé thơ, chàng đã mất cha mẹ, thân bị tàn phế. Bất cứ điều gì người khác thực hiện một cách dễ dàng, chàng đều cần phải dốc sức khổ công gấp mấy lần mới đạt được. Vì đáp đền ơn nghĩa của Gia Cát tiên sinh, chàng đã sớm thành danh, chia xẻ lo âu, gánh vác công việc của ông nên chưa từng hưởng được nhiều lạc thú tuổi thơ. Đương nhiên chàng không muốn bốn kiếm đồng sẽ dẫm lên vết xe đổ của mình.
Bốn kiếm đồng là những đứa trẻ bị bắt cóc. Khi Vô Tình phá án đã cứu được chúng ra, nuôi dưỡng dạy dỗ hết lòng nên chúng mới được một thân bản lãnh như ngày nay. Vì nội tức bị tắc nên hai chân chàng xem như bỏ đi. Nhờ tinh thông ám khí nên chàng có thể phòng thân ở cự ly xa, nhưng không thể luyện tập kiếm thuật được. Do đó chàng dốc sức truyền thụ kiếm pháp cho bốn kiếm đồng nhằm bổ khuyết.
Chàng cùng bốn kiếm đồng không những chỉ có quan hệ chủ tớ mà còn có một loại chân tình sâu sắc. Chàng biết rõ bản thân ăn cơm cửa công, cho dù là hảo thủ đệ nhất ở Lục Phiến môn, thì cuộc sống chẳng có chút ổn định nào, ngày ngày đối diện với thanh đao cây kiếm, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp nguy hiểm. Cho nên chàng hy vọng đến khi bốn tiểu đồng lớn lên, sẽ rút bọn chúng ra khỏi giang hồ, cho làm một viên chức hoặc kẻ buôn bán; tóm lại, có cuộc sống ổn định mới là điều quan trọng nhất.
Còn chàng thì sao?
Chàng là người tàn phế, trời sinh ra đã chịu sự bất hạnh và tịch mịch.
Nhưng chàng lại sợ cô tịch, sợ không được hạnh phúc.
Nghĩ đến ba người sư đệ đồng môn, vốn là những kẻ cũng sống trong chốn giang hồ hiểm nguy, sôi động nhưng lại cô độc, đầy biến động nhưng cũng rất bình thường. Tuy nhiên, gần đây họ lại có một số thay đổi.
Lãnh Huyết cùng với Tập Mân Hồng là một đôi oan gia vui vẻ.
Thiết Thủ cùng Tiểu Trân, một cương một nhu, đúng là một đôi tình lữ khiến kẻ khác thèm muốn.
Truy Mệnh luyến ái Li Li trong đau khổ, đúng là “nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm”.
Chỉ còn chàng…
Vô Tình bất giác cười khổ: chàng khó động chân tình, nhưng một khi đã rung động thì khó mà rũ bỏ được. Chàng cùng Cơ Dao Hoa từ yêu thành hận đã khiến lòng chàng đau đớn mãi không thôi.
Con người luôn luôn muốn có một chốn dừng chân êm ấm, chàng hy vọng ngày sau bốn kiếm đồng được hạnh phúc hơn chàng.
Suy nghĩ đến đây, trong lòng chàng lại thoáng chấn động.
Tư tưởng con người đôi khi rất kỳ quái. Ngẫu nhiên có một linh cảm trong thoáng chốc, nhưng lại không dễ nắm bắt, dễ dàng tuột mất, khó lòng nhớ lại.
Vô Tình cũng đang cảm thấy khó hiểu: Có chuyện gì vậy? Đây là lần xuất hiện thứ hai rồi! Thông thường, phải là điều phát hiện cực kỳ trọng yếu mới xảy ra tình trạng như vậy. Nhưng rốt cục là ý niệm gì vậy?
Chàng bắt đầu nhớ lại những điều vừa suy nghĩ, cố gắng liên tưởng xem thử sự việc liên quan như thế nào. Thông thường, đây là cách rất hữu hiệu khi một người muốn gợi lại ký ức của mình.
“…Con người luôn luôn muốn có một chốn nghỉ ngơi êm ấm…” Chàng vừa nhớ đến câu này, ý niệm đó lại lóe lên trong đầu chàng. Chẳng lẽ ý niệm đó và câu này lại có liên quan hay sao?
Chợt chàng hiểu được.
… kiến!
Chàng ngồi thẳng người lại.
Thường khi gặp đại địch hoặc xử lý vụ việc quan trọng, chàng đều có phản ứng căng thẳng như thế này.
Trong lúc suy tư vừa rồi, bất giác chàng nhìn chăm chú hàng ngũ của đàn kiến, nhớ đến câu “…Con người luôn luôn muốn có một chốn nghỉ ngơi êm ấm…” Kiến, chúng cũng đang đi về “chốn nghỉ ngơi êm ấm” của chúng.
Vốn điều này chẳng có gì là lạ, nhưng, chốn này vừa trải qua một trận hỏa hoạn lớn, mọi thứ đều cháy sạch, sao lại còn ổ kiến được?
- Làm sao mà bầy kiến lại có thể chọn làm ổ trong vùng vừa bị bà hỏa viếng thăm?
Sào huyệt của kiến luôn luôn ở không xa vùng có thể kiếm ăn được; hơn nữa, vùng này vừa bị thần Lửa ghé thăm, lại còn có cả thằn lằn và gián!
- Vùng có những loài vật này phải là vùng có chỗ tích trữ đồ ăn thức uống.
- Nhưng, vài ngày trước, vùng này đã bị một trận hỏa hoạn lớn thiêu sạch mọi thứ!
- Vậy thì vì sao?
Vô Tình lần theo lối của đàn kiến đến một nơi hoang phế, có vài rui kèo cháy rụi. Hiển nhiên trước khi xảy ra hỏa hoạn đã có một ngôi nhà dựng tại đây.
Nó đã bị trận hỏa tai thiêu rụi, chẳng còn gì.
Đàn kiến lại từng hàng chui xuống dưới đất.
- Chẳng lẽ dưới đó lại có một thế giới khác?
Vô Tình lập tức bắt tay hành động.
Chàng suy đoán lúc trước ở quanh đây có một ruộng lúa lớn, nếu một ngôi nhà được xây lên thì vị trí đại khái phải thế nào. Rồi từ những vết tích của rui kèo còn lại, chàng suy đoán được phương vị cũng như đồ đạc bên trong nhà, sau đó, nhanh chóng tìm được trọng tâm.
Trong tứ đại danh bộ, Vô Tình là người tinh thông kỳ môn độn giáp, ngũ hành, bố trận. Do đó, chàng nhanh chóng suy luận: nếu muốn đặt địa đạo bí mật ở quanh đây, mà địa đạo đó còn chống được lửa, có nguồn nước riêng, thì sẽ đặt ở đâu?
Chàng đã tìm được một chỗ như thế.
Tiếp đó chàng dùng ba loại thủ pháp, năm loại mánh khóe, cuối cùng cũng gạt sang bên một đống lớn đồ vụn vặt, nâng được nắp hầm bị thiêu cháy nhưng vẫn khít với miệng hầm lên.
Chàng vừa dở nắp sắt lên, một luồng đao quang đã bắn vào mặt!
Vô Tình rất rành ám khí.
Chàng cũng rất giỏi ứng biến.
Khi nắp hầm sắp được mở hẳn ra, chàng cũng đã ngầm phòng bị.
Khinh công chàng siêu tuyệt, chỉ cần có điều khác thường, lập tức xoay mình vọt đi.
Thế nhưng luồng đao quang này lại rất nhanh, rất hiểm, rất sắc bén, khiến chàng không kịp ứng biến, không kịp chống đỡ, không kịp thối lui!
Tay chàng đang cầm nắp sắt, đột nhiên dập xuống!
Trong nháy mắt nắp hầm hạ xuống cùng với sức nặng của nó, vừa khéo kịp thời đậy miệng hố lại!
“Bang!”
Đao đâm lủng tấm sắt, nhô lưỡi đao nhọn hoắt, dài một thước ra ngoài!
Tấm sắt này dày gần nửa tấc. Tuy đã bị hỏa thiêu nhưng chất sắt không hề tổn hại. Mà đao của người dưới lòng đất kia lại có uy lực như thế!
Thanh đao bị nắp hầm chặn lại, mũi đao cách chóp mũi của chàng không đầy một tấc!
Vô Tình biết rõ chàng vừa quay về từ cửa điện diêm la.
Đã trải qua vô số trận đánh lớn nhỏ, nhưng chàng chưa hề gặp nguy hiểm nào như nhát đao vừa rồi.
Nếu chàng không cầm nắp hầm sắt trong tay, chắc chắn sẽ không tránh được nhát đao.
Chàng hít dài một hơi, khen ngợi:
“Hảo công lực!”
Chàng không ca ngợi ám khí nhanh, đao pháp hiểm!
Nếu như người nọ rành đao pháp, giỏi ám khí, thì lúc này chàng đã không còn cách nào nói chuyện được nữa.
Một ngày, Vô Tình đến một vùng đất tên là Thổ Khanh, khá gần Toái Vân Uyên. Tiểu trấn này chỉ có khoảng năm, sáu trăm hộ dân, sống bằng nghề trồng lúa mỳ. Vì rất ít khi ra khỏi trấn nên lý dịch ở đây có kiến thức nông cạn, đến Tứ đại danh bộ là những người như thế nào chỉ sợ họ cũng chưa từng được nghe qua. Nhưng hỏi đến nhóm Lưu Độc Phong, bọn họ lại có một số tin tức.
Đó là tin tức khi Lưu Độc Phong vừa mới đến đây, công phá Hủy Nặc thành và truy kích nhóm Tức đại nương.
Rõ ràng người dân ở vùng này rất yêu mến những nữ tử Hủy Nặc thành, nên không hài lòng với hành vi nối giáo cho giặc của Lưu Độc Phong. Tuy nhiên trên đường Vô Tình đã đi qua, đại đa số đều “dám giận mà không dám nói”. Dân ở Thổ Khanh trấn lại bộc trực, thấy Vô Tình dò la hành tung của lão đều không mặn mà tiếp chuyện.
Khi nhắc đến việc Hủy Nặc Thành bị đồ sát thê thảm và những hành vi như lang sói của đám quan binh, dân làng đều không khỏi nghiến răng căm giận.
Nghe xong, Vô Tình cảm thấy cõi lòng nặng trĩu. Quan binh cư xử ngang ngược như thế, làm sao mà cai quản tốt thiên hạ được đây?
Một sai dịch còn trả lời chàng với thái độ thù địch: “Vị công tử gia này! Nếu ngài muốn dò hỏi về vị quan gia áp giải phạm nhân thì tiểu nhân thật sự không biết gì, nếu có người biết cũng không đến lượt tiểu nhân. Nhưng về các vị quan gia đánh từ Liên Vân trại đánh đến Toái Vân Uyên thì ngựa của họ giẫm nát mạ xanh, chân họ đạp bằng lúa non của chúng tôi, còn phóng hỏa thiêu cháy ruộng đồng, cưỡng bắt đàn bà con gái đi và ăn sạch lương thực dự trữ của chúng tôi nữa. Vụ việc này chúng tôi đã trình lên trên, hương thân không xét, huyện nha cũng không xử, vậy phải giải quyết như thế nào đây?”
Vô Tình cũng không biết nên đáp thế nào.
Một tên sai dịch khác giọng đầy phẫn nộ: “Cả cánh đồng Ngũ Trọng Khê rộng lớn bị thiêu rụi hết, còn lại mấy xác chết. Trong đó có một thi thể bị chôn xuống đất, chỉ chừa lại cái đầu, ngũ quan đều bị đốt sạch. Lửa là do quan binh đốt, vậy đã xảy ra chuyện gì? Cho dù có xử tử phạm nhân, cũng không cần phải dùng hình phạt tàn khốc như thế! Vả lại, chúng tôi cũng muốn được bồi thường số thóc gạo bị đốt cháy.”
Một lão sai dịch lớn tuổi cảm thán: “Sớm biết thế này, chúng ta thu hoạch sớm vài ngày thì đã không đến nổi mùa đông năm nay chịu đói.”
Nghe thế, Vô Tình chợt để ý: “Các vị có biết người bị chôn rồi bị thiêu cháy đó là ai không?”
Nha dịch đáp: “Làm sao chúng tôi biết được! Ngũ quan đã bị thiêu hủy, nhìn không ra. Cho dù cha mẹ hắn đến đây cũng chẳng thể nào nhận ra được hắn.”
Lão bộ dịch bỗng nhớ ra: “Bên cạnh xác chết còn có một ngọn thương làm bằng vàng bị thiêu nám đen.”
Nha dịch cười nói: “Nếu không bị cháy đen thui, ngọn thương vàng làm sao mà còn tại chỗ đó được, sớm đã bị đám quan quân không bằng cường đạo đó … Ừm, đám người đó cướp đi rồi.”
Vô Tình giật mình, lập tức hỏi: “Ngọn thương đó đang ở đâu?”
Lão bộ dịch hỏi lại: “Công tử muốn kiểm tra hung khí sao?”
Gã nha dịch lầm bầm: “Công tử nếu muốn thì cứ lấy cũng không sao. Nơi này đất đai khô cằn, người dân nghèo khó nên cũng chẳng có gì để biếu tặng.”
Vô Tình nghiêm trang: “Các vị, lần này ta đến đây là để tra án. Một khi thu thập đủ chứng cứ về việc quan binh không tuân phép nước, ngang nhiên hại dân, nhất định ta sẽ báo lên trên, mang chúng ra công lý. Mong các vị vạn lần chớ vì con sâu làm rầu nồi canh mà oán trách triều đình. Ta là người tàn phế, vạn dặm xa xôi đến đây điều tra chính là muốn tìm hiểu kĩ xem thử bên trong có oan tình hay không để lật lại bản án. Nếu không vì thế thì ta đi cả ngàn dặm gió bụi mệt mỏi, khổ sở như vậy làm gì? Hai chân ta bị liệt rồi thì chức cao bổng hậu, vinh hoa phú quý đâu có ý nghĩa gì? Được các vị trượng nghĩa giúp đỡ, giữ gìn phép nước, Thành mỗ cảm kích khôn cùng!”
Những vị sai nha này nghe được những lời chân thành thẳng thắn của Vô Tình, lại thấy rõ thân dưới của chàng đã tàn phế, nên đều xúc động và nghiêm chỉnh lại. Họ đưa chàng vào phòng trực, mang trường thương ra để chàng xem xét.
Vô Tình quan sát cẩn thận thanh kim thương. Chàng thấy tuy cán thương bị đổi màu, nhưng đúng là được thếp bằng vàng thô. Mũi thương có hình gợn sóng, càng đặc biệt hơn chính là mũi thương đã tách ra khỏi cán thương, chỉ nối với nhau bằng một dây xích sắt nhỏ, phía trong có cơ quan. Có lẽ trong lúc đánh nhau kịch liệt, người dùng thương đã phóng mũi thương ám toán đối phương; nhưng lúc kim thương rời khỏi tay, chắc là hắn đang mười phần gấp gáp nên chưa kịp gắn mũi thương vào cán thương trở lại.
Vô Tình hỏi mọi người: “Có thể làm phiền chư vị đưa chúng tôi đến hiện trường xem xét được không?”
Nhóm lão bộ dịch đều đồng ý: “Được!”
Trên đường đi, Kim kiếm nhỏ giọng hỏi Vô Tình: “Công tử, thanh thương đó có điều gì đặc biệt vậy?”
Vô Tình đáp: “Thanh thương này không có gì đặc biệt. Chỉ có điều, nếu ta đoán không sai, người sử dụng thanh thương này chính là thất trại chủ Mạnh Hữu Uy của Liên Vân trại.”
Ngân kiếm hỏi tiếp: “Mạnh Hữu Uy ư? Đúng là ‘Kim xà thương’ Mạnh Hữu Uy sử dụng kim thương, nhưng sao hắn lại bỏ rơi vũ khí?”
Vô Tình đáp: “Cho nên ta mới nghi Mãnh Hữu Uy cũng bị chết thiêu. Nếu không, sau hỏa hoạn, có lẽ hắn đã trở lại tìm kiếm kim thương rồi. Trận chiến khốc liệt có thể khiến cho Mạnh Hữu Uy bị giết rất đáng cho chúng ta đến xem xét.”
Vậy là cuối cùng bọn họ cũng đến Ngũ Trọng Khê.
Vô Tình bảo các vị sai dịch trở lại trấn; để cho Kim kiếm, Ngân kiếm mò tôm bắt cá chơi bên suối. Còn chàng một mình lặng im suy nghĩ giữa chốn hoang vu.
Thật ra, gọi đây là cánh đồng mênh mông bị thiêu cháy hết thì đúng hơn là vùng đất hoang vu.
Một đàn quạ đen đang lượn trên không. Có lẽ vài hôm trước chúng còn sinh sống ở cánh đồng này, nhưng hôm nay thóc lúa bị thiêu sạch, bầy quạ không có chỗ trú ngụ, kêu quang quác trên không.
Ráng chiều đỏ thắm phía chân trời.
Bốn bề mênh mông, từ xa con suối Ngũ Trọng ánh lên như đai vàng.
Những gốc cây cháy dở, những mảnh tro than khắp nơi khiến nơi đây mang một vẻ thê lương, lạnh lẽo.
Sau đám cháy chỗ nào cũng có vẻ tang thương như vậy.
Vùng đất này muốn hồi sinh trở lại, ít nhất cũng phải đến ba, bốn năm sau. Cả cánh đồng phì nhiêu như thế lại bị một mồi lửa cháy rụi, không trách người dân đều oán hận.
Vô Tình thở dài một hơi.
Chàng nhìn ráng chiều, nhìn đàn quạ bay về tổ, nhìn dòng suối lấp lánh ánh vàng phía xa xa, trong đầu chẳng có chút manh mối gì.
Nghe nói trên mặt đất cháy đen, từng phát hiện thi thể một nam, một nữ đang ôm nhau. Nhưng sau đó đã bị “các vị quan quân nghiền xương tung tro” hài cốt cũng không còn.
Nghĩ tới điều này, Vô Tình cho rằng: xem ra bọn Hoàng Kim Lân, Cố Tích Triều đã từng có mặt trong toán cao thủ toàn lực vây bắt phạm nhân ở đây. Trận chiến khốc liệt khiến cho Mạnh Hữu Uy mất mạng, nhưng cũng có hai đại cao thủ, một nam, một nữ trong nhóm phạm nhân bị giết chết.
… Đương nhiên một nam một nữ này không phải là Thích Thiếu Thương và Tức đại nương, vậy thì họ là ai nhỉ?
Trong những ngày qua, Vô Tình cũng dần dần nắm rõ một số thông tin: Lôi Quyển - Đường chủ phân đường Giang Nam của Phích Lịch đường - cùng với nhân tài trẻ tuổi Thẩm Biên Nhi, và Đường nhị nương, Tần tam nương của Hủy Nặc thành cũng bị lôi vào vòng gió tanh mưa máu này.
Nếu như đây là nơi toán quân của Cố Tích Triều kịch chiến với nhóm người của Tức đại nương, thì chẳng liên quan gì đến việc Lưu Độc Phong áp giải Thích Thiếu Thương. Xem ra bản thân chàng đã đi một chuyến dài nhưng uổng công rồi.
Đột nhiên trong lòng Vô Tình nảy ra một ý niệm kỳ quái. Chàng khấn thầm với đôi nam nữ bị thiêu cháy: nếu quả hai vị nam nữ là anh hồn của những người bạn đồng lòng giúp đỡ Thích Thiếu Thương, xin phù hộ cho chàng có khả năng tìm được đầu mối, cứu được Thích Thiếu Thương.
Vô Tình mặc niệm như thế một hồi, nhưng chẳng có linh cảm gì, chỉ thấy ánh chiều càng lúc càng ảm đạm, sắc mây càng lúc càng sẫm mà thôi. Thật ra, chàng cũng không mong mỏi nhận được kết quả gì. Cúi đầu trầm tư một hồi, chàng đang muốn quay về thì bổng nhiên lưng bàn chân nhói đau như có một vật gì đó chích vào.
Ban đầu chàng ngỡ là muỗi đốt, lúc đưa tay bắt lấy mới biết là bị kiến cắn.
Có mấy chú kiến bò lên chiếc xe chàng đang ngồi, đó là loại kiến lửa, chích rất đau.
Vô Tình cũng không để ý mấy.
Thậm chí chàng chẳng buồn giết chú kiến đó nữa.
Chàng chỉ phủi phủi nó đi. Chẳng qua đó chỉ là một con kiến nho nhỏ mà thôi.
Trên mặt đất còn có rất nhiều chú kiến đang kéo nhau đi như đang hành quân, cùng bò qua đống tro rất nhịp nhành.
Vì Vô Tình khẽ di động một chút nên một số kiến binh thiện chiến, cảnh giác cao độ, ngừng lại ngẩng cao đầu, huơ râu liên hồi, giống như muốn dùng tư thế đó để hù dọa những địch nhân xâm phạm.
Bất giác Vô Tình mỉm cười.
Chàng phát giác những chú kiến này đang khiêng một con thằn lằn chết đưa về tổ, hành động rất có quy luật, tuân thủ trật tự.
Có một con gián đang bị một chú kiến cắn chặt một chân, vùng vẫy mãi chưa thoát, con kiến thứ hai lại bò quấn lên mình nó. Con gián càng vùng vẫy dữ dội hơn nhưng vẫn không thoát.
Số phận con gián đã được an bài.
Đàn kiến bu lại, cuối cùng cũng cắn chết được con gián
Trên thân con gián đầy kiến. Sau đó những chú kiến nhỏ bé đồng tâm hiệp lực, râu kề râu, cùng nhấc chân khiêng chú gián to như thế lên, tha về tổ.
Vô Tình bỗng cảm thấy rất bội phục.
Những sinh vật nhỏ bé này có sức chiến đấu kiên cường, oai dũng, lại đoàn kết một lòng; thật hơn xa loài người.
Trong tâm trí chàng, ngoài cảm giác đó ra còn có điều gì nữa lấn cấn nhưng chàng không đặc biệt lưu tâm lắm.
Loang thoáng nghe tiếng cười đùa của Kim kiếm và Ngân kiếm từ xa vọng lại, lòng chàng thấy rất thoải mái.
Chàng cho hai trẻ Kim kiếm và Ngân kiếm ra bờ suối chơi đùa cũng vì không muốn chúng phải căng thẳng, ngột ngạt thái quá. Đây là lứa tuổi được vui vẻ nô đùa mà chàng lại dạy chúng kiếm pháp ngoan độc, võ công ác hiểm nhằm đối phó với những kẻ trưởng thành gian xảo, lật lọng. Điều này thật quá sức với tâm lý của thiếu nhi.
Từ bé thơ, chàng đã mất cha mẹ, thân bị tàn phế. Bất cứ điều gì người khác thực hiện một cách dễ dàng, chàng đều cần phải dốc sức khổ công gấp mấy lần mới đạt được. Vì đáp đền ơn nghĩa của Gia Cát tiên sinh, chàng đã sớm thành danh, chia xẻ lo âu, gánh vác công việc của ông nên chưa từng hưởng được nhiều lạc thú tuổi thơ. Đương nhiên chàng không muốn bốn kiếm đồng sẽ dẫm lên vết xe đổ của mình.
Bốn kiếm đồng là những đứa trẻ bị bắt cóc. Khi Vô Tình phá án đã cứu được chúng ra, nuôi dưỡng dạy dỗ hết lòng nên chúng mới được một thân bản lãnh như ngày nay. Vì nội tức bị tắc nên hai chân chàng xem như bỏ đi. Nhờ tinh thông ám khí nên chàng có thể phòng thân ở cự ly xa, nhưng không thể luyện tập kiếm thuật được. Do đó chàng dốc sức truyền thụ kiếm pháp cho bốn kiếm đồng nhằm bổ khuyết.
Chàng cùng bốn kiếm đồng không những chỉ có quan hệ chủ tớ mà còn có một loại chân tình sâu sắc. Chàng biết rõ bản thân ăn cơm cửa công, cho dù là hảo thủ đệ nhất ở Lục Phiến môn, thì cuộc sống chẳng có chút ổn định nào, ngày ngày đối diện với thanh đao cây kiếm, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp nguy hiểm. Cho nên chàng hy vọng đến khi bốn tiểu đồng lớn lên, sẽ rút bọn chúng ra khỏi giang hồ, cho làm một viên chức hoặc kẻ buôn bán; tóm lại, có cuộc sống ổn định mới là điều quan trọng nhất.
Còn chàng thì sao?
Chàng là người tàn phế, trời sinh ra đã chịu sự bất hạnh và tịch mịch.
Nhưng chàng lại sợ cô tịch, sợ không được hạnh phúc.
Nghĩ đến ba người sư đệ đồng môn, vốn là những kẻ cũng sống trong chốn giang hồ hiểm nguy, sôi động nhưng lại cô độc, đầy biến động nhưng cũng rất bình thường. Tuy nhiên, gần đây họ lại có một số thay đổi.
Lãnh Huyết cùng với Tập Mân Hồng là một đôi oan gia vui vẻ.
Thiết Thủ cùng Tiểu Trân, một cương một nhu, đúng là một đôi tình lữ khiến kẻ khác thèm muốn.
Truy Mệnh luyến ái Li Li trong đau khổ, đúng là “nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm”.
Chỉ còn chàng…
Vô Tình bất giác cười khổ: chàng khó động chân tình, nhưng một khi đã rung động thì khó mà rũ bỏ được. Chàng cùng Cơ Dao Hoa từ yêu thành hận đã khiến lòng chàng đau đớn mãi không thôi.
Con người luôn luôn muốn có một chốn dừng chân êm ấm, chàng hy vọng ngày sau bốn kiếm đồng được hạnh phúc hơn chàng.
Suy nghĩ đến đây, trong lòng chàng lại thoáng chấn động.
Tư tưởng con người đôi khi rất kỳ quái. Ngẫu nhiên có một linh cảm trong thoáng chốc, nhưng lại không dễ nắm bắt, dễ dàng tuột mất, khó lòng nhớ lại.
Vô Tình cũng đang cảm thấy khó hiểu: Có chuyện gì vậy? Đây là lần xuất hiện thứ hai rồi! Thông thường, phải là điều phát hiện cực kỳ trọng yếu mới xảy ra tình trạng như vậy. Nhưng rốt cục là ý niệm gì vậy?
Chàng bắt đầu nhớ lại những điều vừa suy nghĩ, cố gắng liên tưởng xem thử sự việc liên quan như thế nào. Thông thường, đây là cách rất hữu hiệu khi một người muốn gợi lại ký ức của mình.
“…Con người luôn luôn muốn có một chốn nghỉ ngơi êm ấm…” Chàng vừa nhớ đến câu này, ý niệm đó lại lóe lên trong đầu chàng. Chẳng lẽ ý niệm đó và câu này lại có liên quan hay sao?
Chợt chàng hiểu được.
… kiến!
Chàng ngồi thẳng người lại.
Thường khi gặp đại địch hoặc xử lý vụ việc quan trọng, chàng đều có phản ứng căng thẳng như thế này.
Trong lúc suy tư vừa rồi, bất giác chàng nhìn chăm chú hàng ngũ của đàn kiến, nhớ đến câu “…Con người luôn luôn muốn có một chốn nghỉ ngơi êm ấm…” Kiến, chúng cũng đang đi về “chốn nghỉ ngơi êm ấm” của chúng.
Vốn điều này chẳng có gì là lạ, nhưng, chốn này vừa trải qua một trận hỏa hoạn lớn, mọi thứ đều cháy sạch, sao lại còn ổ kiến được?
- Làm sao mà bầy kiến lại có thể chọn làm ổ trong vùng vừa bị bà hỏa viếng thăm?
Sào huyệt của kiến luôn luôn ở không xa vùng có thể kiếm ăn được; hơn nữa, vùng này vừa bị thần Lửa ghé thăm, lại còn có cả thằn lằn và gián!
- Vùng có những loài vật này phải là vùng có chỗ tích trữ đồ ăn thức uống.
- Nhưng, vài ngày trước, vùng này đã bị một trận hỏa hoạn lớn thiêu sạch mọi thứ!
- Vậy thì vì sao?
Vô Tình lần theo lối của đàn kiến đến một nơi hoang phế, có vài rui kèo cháy rụi. Hiển nhiên trước khi xảy ra hỏa hoạn đã có một ngôi nhà dựng tại đây.
Nó đã bị trận hỏa tai thiêu rụi, chẳng còn gì.
Đàn kiến lại từng hàng chui xuống dưới đất.
- Chẳng lẽ dưới đó lại có một thế giới khác?
Vô Tình lập tức bắt tay hành động.
Chàng suy đoán lúc trước ở quanh đây có một ruộng lúa lớn, nếu một ngôi nhà được xây lên thì vị trí đại khái phải thế nào. Rồi từ những vết tích của rui kèo còn lại, chàng suy đoán được phương vị cũng như đồ đạc bên trong nhà, sau đó, nhanh chóng tìm được trọng tâm.
Trong tứ đại danh bộ, Vô Tình là người tinh thông kỳ môn độn giáp, ngũ hành, bố trận. Do đó, chàng nhanh chóng suy luận: nếu muốn đặt địa đạo bí mật ở quanh đây, mà địa đạo đó còn chống được lửa, có nguồn nước riêng, thì sẽ đặt ở đâu?
Chàng đã tìm được một chỗ như thế.
Tiếp đó chàng dùng ba loại thủ pháp, năm loại mánh khóe, cuối cùng cũng gạt sang bên một đống lớn đồ vụn vặt, nâng được nắp hầm bị thiêu cháy nhưng vẫn khít với miệng hầm lên.
Chàng vừa dở nắp sắt lên, một luồng đao quang đã bắn vào mặt!
Vô Tình rất rành ám khí.
Chàng cũng rất giỏi ứng biến.
Khi nắp hầm sắp được mở hẳn ra, chàng cũng đã ngầm phòng bị.
Khinh công chàng siêu tuyệt, chỉ cần có điều khác thường, lập tức xoay mình vọt đi.
Thế nhưng luồng đao quang này lại rất nhanh, rất hiểm, rất sắc bén, khiến chàng không kịp ứng biến, không kịp chống đỡ, không kịp thối lui!
Tay chàng đang cầm nắp sắt, đột nhiên dập xuống!
Trong nháy mắt nắp hầm hạ xuống cùng với sức nặng của nó, vừa khéo kịp thời đậy miệng hố lại!
“Bang!”
Đao đâm lủng tấm sắt, nhô lưỡi đao nhọn hoắt, dài một thước ra ngoài!
Tấm sắt này dày gần nửa tấc. Tuy đã bị hỏa thiêu nhưng chất sắt không hề tổn hại. Mà đao của người dưới lòng đất kia lại có uy lực như thế!
Thanh đao bị nắp hầm chặn lại, mũi đao cách chóp mũi của chàng không đầy một tấc!
Vô Tình biết rõ chàng vừa quay về từ cửa điện diêm la.
Đã trải qua vô số trận đánh lớn nhỏ, nhưng chàng chưa hề gặp nguy hiểm nào như nhát đao vừa rồi.
Nếu chàng không cầm nắp hầm sắt trong tay, chắc chắn sẽ không tránh được nhát đao.
Chàng hít dài một hơi, khen ngợi:
“Hảo công lực!”
Chàng không ca ngợi ám khí nhanh, đao pháp hiểm!
Nếu như người nọ rành đao pháp, giỏi ám khí, thì lúc này chàng đã không còn cách nào nói chuyện được nữa.