Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chap-191
Chương 191: Trộm Nhà Khó Phòng
Chương 191 : Trộm nhà khó phòng
Hai bóng người xanh biển và xanh lơ ra khỏi cửa. Lan Tôn đuổi theo, quỳ xuống trên hành lang dài, váy áo ngắn dính bẩn, nơi bị bẩn rất nổi bật. Không chỉ váy, mà nàng cũng như vậy, trước khi lâm vào tình cảnh tan nhà nát cửa, nàng là hòn ngọc trong tay phụ mẫu, sau khi gia cảnh lụn bại, hạt ngọc phải lênh đênh mặc người ta chà đạp.
Ngay cả mong muốn được cùng người yêu bầu bạn cả đời cũng không thể như ý nguyện.
“Sùng Huy, chàng ở lại có được không?”
Sùng Huy ngoảnh lại nhìn Lan Tôn, nhìn hắn quay đầu còn tổn thương hơn cả không quay đầu. Ánh mắt của hắn lạnh lẽo, tức giận chán ghét, trông như một thanh đao băng chẳng có nhiệt độ, bén nhọn đâm người. Hắn lên tiếng, từng chữ như từng lưỡi đao đâm vào trái tim Lan Tôn: “Cô đừng nói những chuyện đó nữa, nếu nhị lang nổi giận thì ta không tha cho cô đâu!”
Lan Tôn nhìn hắn một cách si dại, nàng gục xuống đất, dập đầu thật mạnh, búi tóc rối loạn, trán rách da, đau đến mức cả người run lên.
Trong gió vang lên tiếng thở dài của Lâm Nhữ. Bước chân của Sùng Huy không hề dừng lại. Hắn kéo Lâm Nhữ, sợ Lâm Nhữ giận hắn. Hai người bước xuống thang lầu, hình ảnh cuối cùng rơi vào đáy mắt Lan Tôn là Sùng Huy dè dặt cười lấy lòng Lâm Nhữ.
Ra khỏi vườn trúc tía, cả đường đi Lâm Nhữ không nói gì.
Thật ra đáng lẽ chỉ nên để một mình Sùng Huy đến. Nếu Lan Tôn không thấy nàng có lẽ sẽ không chịu đả kích đến vậy.
Nàng hơi bận tâm, không giam lỏng Lan Tôn chẳng biết có gây ra tai họa hay không.
Vừa rồi nàng muốn giam lỏng Lan Tôn, nhưng Lan Tôn vừa chữa khỏi cho Hà Lịch, qua sông đoạn cầu không phải là hành vi của người quân tử.
Thân thế của Lan Tôn chẳng kém gì Sùng Huy, nàng ấy phải chịu cảnh nhà tan cửa nát, lang bạc đầu đường, chịu bao đau khổ. Cuộc đời này chỉ ghi dấu trong lòng Lan Tôn những điều ác độc, thù hận thấu trời, tình thương giả dối.
Sùng Huy chưa từng thích Lan Tôn, về sau cũng sẽ không thích Lan Tôn, sao nàng ta vẫn không chịu thấu hiểu, cứ một mực bước đi trên mũi đao?
Vào nhà cưỡi ngựa ra ngoài, nỗi ủ ê trong lòng Lâm Nhữ vẫn chưa tiêu tan, tinh thần không tập trung.
“Đến phường quạt hay về phủ?” Sùng Huy hỏi, trong đôi mắt đen nhánh là hốt hoảng lo âu.
Lâm Nhữ tỉnh táo lại, thở dài, ngồi trên lưng ngựa hơi nghiêng người về phía Sùng Huy, giơ tay sờ tóc hắn, dịu dàng nói: “Cô ấy thích huynh không phải lỗi của huynh, ta sẽ không để ý.”
“Thật sao? Dọa ta sợ muốn chết.” Ánh mắt Sùng Huy chợt sáng rực, hắn vỗ ngực, thở phào nhẹ nhõm như thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Lâm Nhữ mỉm cười, thấy vừa qua giờ Ngọ, nói: “Đến phường quạt đi.”
Hai người mới đi nửa vòng trong thành, còn chưa đến phường quạt thì có hai người đi theo, sau khi thấy Lâm Nhữ và Sùng Huy vào phường quạt, một người ẩn núp quan sát phường quạt chặt chẽ, một người giục nước đại về căn nhà ở phố Kim Sơn.
“Giờ Dần, Phương Lâm Nhữ với vị hôn thê của nó ra khỏi phủ, đi lòng vòng trong thành, các ngươi mất dấu. Ba canh giờ sau, hai người bọn họ lại xuất hiện trong thành?” Tạ phu nhân cau mày, nhìn chằm chằm người báo tin.
“Đúng vậy, không biết hai người họ phát hiện có người theo dõi hay là sợ có người theo dõi, đường đi rất quỷ dị, rẽ chỗ này quẹo chỗ kia, vào rạng sáng người đi bộ cùng xe cộ qua lại ít, hạ nô sợ bị phát hiện nên không dám bám theo quá sát, vì thế để mất dấu.” Người đó bẩm lại.
Bí mật của nhà họ Phương nằm ở trong ba canh giờ đột ngột không thấy Phương Lâm Nhữ với Sùng Huy.
Tạ phu nhân sai Tạ Vận Hưng: “Vẽ lại chân dung Phương Lâm Nhữ, sắp xếp mấy người đi chung quanh chỗ mất dấu nó hỏi thăm từng nhà, bất kể có hỏi ra được gì không cũng phải đưa tiền thưởng để họ đừng đồn ra.”
Của cải nhà họ Tạ vẫn còn, hằng năm tiền lời của lầu Ấp Thúy, lầu Nghênh Tân cùng cửa hàng Hợp Thịnh rất khá nên không lo đến chuyện vung tiền.
Đến hoàng hôn, Tạ Vận Hưng bẩm lại đã tra được căn nhà nhỏ Lâm Nhữ và Sùng Huy bước vào rồi ở yên trong đó ba canh giờ mới ra.
Tạ Vận Hưng vốn là quản gia nhà họ Tạ, rất lanh trí, những tình hình khác cũng nghe ngóng, hỏi được căn nhà đó rất ít người ra vào, ngày và đêm đều yên tĩnh, không thấy khói bếp cũng không thấy thắp đèn.
“Hàng xóm nói, nghe tổ tiên bảo lại, căn nhà đó trăm năm như một, giống như do người có tiền mua để vụng trộm vậy.”
“Vụng trộm!” Tạ phu nhân lắc đầu.
Chừng trăm năm, hẳn là từ đời tổ phụ hay trước đó nữa đã có rồi. Sao có thể không hiểu rõ nhân phẩm tổ phụ của Lâm Nhữ được. Phương Đức Thanh không phải là người ở bên ngoài trêu hoa ghẹo nguyệt, vụng trộm phong lưu. Phương Lâm Nhữ là con gái càng không thể vụng trộm. Huống hố Phương Lâm Nhữ còn mang theo cả Sùng Huy. Nếu muốn vụng trộm, trong phương phủ ai mà quản nổi, cứ khóa kín trong nhà đài Sấu Thạch, làm liên tục mấy ngày cũng chẳng ai hỏi đến.
“Có thể tìm người đập cửa hay đào tường vào trong kiểm tra không?” Tạ phu nhân hỏi.
“Không thể, căn nhà ấy không có sân giữa, cửa dùng ổ khóa làm bằng đồng nguyên chất không đập nổi. Gõ thử cửa viện, tiếng rất nhỏ vì cánh rất dày, nếu gây ra tiếng động lớn để hàng xóm phát hiện báo quan sẽ kinh động đến Phương Lâm Nhữ, không tra được nữa.” Tạ Vận Hưng nói.
Ở trong đó ba canh giờ làm gì?
Tạ phu nhân suy nghĩ mãi không ra lí do.
“Không biết nhà kia có ai đến báo tin không, chi bằng để thuộc hạ rời đi trước, nếu phu nhân có gì căn dặn lại truyền thuộc hạ qua.” Tạ Vận Hưng xin phép.
“Đi đi.” Tạ phu nhân vẫy tay, ánh mắt chợt sáng lên, gọi giật ngược lại: “Quay lại.”
Nhà họ Tạ có thể thỏ đào ba hang, sao nhà họ Phương lại không?
Tình báo của bà đến từ căn nhà dựa lưng vào Tạ phủ ở phố Kim Sơn không tầm thường, nhà họ Phương cũng có thể dùng cách tương tự.
Phải chăng Lâm Nhữ với Sùng Huy đã vào căn nhà mà họ tra được, sau đó từ một căn nhà dựa lưng vào qua một ngõ hẻm khác ra ngoài?
Tạ Vận Hưng đi tra ngôi nhà tựa lưng vào căn nhà đó, chưa đến một khắc đã về báo, quả nhiên có mờ ám, trong thời gian Lâm Nhữ với Sùng Huy đi vào, nhà hàng xóm ở đầu kia thấy có xe ngựa ra ngoài, ba canh giờ sau thì xe ngựa trở lại. Cũng như thế, căn nhà đó rất ít người ra vào, không thấy khói bếp cũng không thấy thắp đèn.
Tạ phu nhân sai ông chủ lầu Nghênh Tân chuẩn bị đất sét dính, ngay trong lúc Sùng Huy và Lâm Nhữ ăn cơm, dùng ít thuốc mê làm họ bất tỉnh, trộm chìa khóa của họ ấn vào đất sét dính lấy khuôn mẫu rồi tìm thợ đúc chìa khóa.
Đi vào trong hai căn nhà đó điều tra thử là có thể biết rõ bí mật của nhà họ Phương.
Ai ngờ Lâm Nhữ cùng Sùng Huy đến lầu Nghênh Tân dùng bữa, ông chủ đã cho thuốc mê vào trong đồ ăn của họ, nhưng lại không thuận lợi làm họ bất tỉnh.
Rốt cuộc không biết kế hoạch chệch ở bước nào, chuyện hai người bách độc bất xâm chắc chắn là không thể.
Trái lo phải nghĩ không có cách nào, muốn nhanh chóng tra ra bí mật trước lễ lớn kế vị của Lâm Nhữ, chỉ có thể truyền lời đến Bạch Chỉ, để Bạch Chỉ ở trong phủ tìm cách lấy được khuôn mẫu chìa khóa, cũng kể lại chuyện thất thủ cho nàng nghe.
Bạch Chỉ nghe tin, cười lạnh một tiếng, khinh khi: “Một đám phế vật vô dụng, nếu Phương Lâm Nhữ dễ trúng kế như vậy thì nhà họ Phương đã lụn bại từ lâu.”
Cho dù có chuốc thuốc mê được Lâm Nhữ với Sùng Huy, lấy được túi cũng không thể đụng vào chìa khóa.
Túi đựng chìa khóa được bện tinh xảo như dùng dây thép đan thành, không thể cắt cũng không thể đốt, miệng túi nhỏ do dây thép buộc gút kỳ quái không thể mở được.
Nhà họ Phương cũng lo lắng có kẻ trộm chìa khóa nên phòng ngừa nghiêm ngặt, trừ phi do chính gia chủ truyền lại, nếu không dù lấy được túi cũng chịu chết.
Mấy ngày này, hôm nào Hà Dư cũng đưa một bức thư vào phủ.
Ngày đầu tiên, Dẫn Tuyền bẩm lại Hà Dư sai người đưa thư đến, hỏi Phương Khương thị có nhận thư hay không. Phương Khương thị đau lòng tỷ tỷ, không thể cho Hà Dư vào ở, nhưng để mẫu tử hai người họ liên lạc với nhau thì không có gì không thể, bà cho phép nhận lấy đưa Hà Khương thị, lại dặn không được bẩm lại với Lâm Nhữ, sợ Lâm Nhữ mà biết sẽ nổi giận.
Hà Khương thị nhận được thư thì run cả người, sợ Phương Khương thị biết được ý đồ của Hà Dư sẽ báo lại cho Lâm Nhữ, Lâm Nhữ mà nổi giận sẽ đánh chết Hà Dư, nên len lén giấu thư vào trong ngực áo.
Không cần đọc Bạch Chỉ cũng biết trong thư viết giục Hà Khương thị mau trộm quạt hợp hoan mỹ nhân.
Vào buổi sáng mùng mười một, mắt của Hà Khương thị được tháo băng thuốc, vì cứu chữa kịp thời nên bình phục trở lại, nhìn thấy ánh sáng. Phương Khương thị vui mừng khôn xiết, mấy ngày nay ở cạnh Hà Khương thị nên ít ghé lầu Thuật Hương, thấy tỷ tỷ không còn gì đáng lo liền vội vã qua lầu Thuật Hương thăm Cẩm Phong.
Bạch Chỉ tự xin ở lại hầu hạ Hà Khương thị, tất nhiên Phương Khương thị đồng ý.
Hôm nay là một ngày nắng đẹp, trên các đền đài lầu gác trùng điệp có luồng sáng ban mai màu vàng kim nhàn nhạt, gió bắc thổi rạo rực như gấm vóc, hào quang trải dài. Bạch Chỉ ra vườn bẻ một cành mai rồi trở lại, cắm vào bình sứ, đang chỉnh sửa thì đột nhiên như nghĩ đến điều gì đó, mò trong túi áo một bức thư đưa cho Hà Khương thị: “Vừa rồi đưa vào từ cổng phủ, nói rằng thư của Hà nhị lang.”
Hà Khương thị thoáng giật mình, cầm lấy thư nhưng không xem mà cất ngay trong ngực áo.
“Di phu nhân không xem thử sao? Hồi nãy tôi ngó thử, chữ viết trên mấy bức thư mỗi ngày không giống nhau, đừng nói Hà nhị lang bị bệnh nên không viết nổi thư.”
Hà Khương thị “hả” lên, thoáng ngơ ngác rồi bước vào trong phòng.
Bạch Chỉ chú ý lắng nghe, có tiếng xé giấy, khóe môi cười lạnh.
Bên trong yên tĩnh không tiếng động, qua thời gian cạn chung trà, tiếng giấy lại vang lên, một lúc sau, Hà Khương thị đi ra, cắn môi dưới rồi nhỏ giọng nói: “Ta có chuyện muốn tìm Lịch lang, cô đi mời nó đến đây.”
Chuyện được một nửa!
Tất nhiên Bạch Chỉ nhận lời, đi mời Hà Lịch qua.
Hà Lịch không thể đứng lâu, nhưng đi lại thì không vấn đề gì, hắn qua ngay. Mộc Vũ với Thanh Tuyền đều bận việc bên phường quạt không ở bên cạnh hắn, Hà Lịch cũng không dẫn theo Uyển Sơ, mọi việc đều trong dự liệu của Bạch Chỉ.
Ngày đó Uyển Sơ chỉ mặc xiêm áo mỏng, hồn vía lên mây, áo treo trên vòng cửa, không khó để suy đoán trước đó đã xảy ra chuyện gì. Tự hiến thân nhưng bị từ chối, Uyển Sơ không còn mặt mũi nào để hầu hạ Hà Lịch nữa, mà Hà Lịch cũng không thể nào tiếp tục để Uyển Sơ ở lại.
Trong bức thư, Bạch Chỉ dùng tay trái giả mạo cách nói của Hà Dư viết cho Hà Khương thị. Hôm qua y không giao nộp ra quạt hợp hoan mỹ nhân nên bị người ta đánh một trận nên thân, hôm nay bị thương rất nặng, ngay cả sức lực để viết thư cũng không có. Bà có thể không giúp y trộm quạt hợp hoan mỹ nhân ra ngoài, nhưng phải giúp y dùng đất sét dính làm khuôn mẫu chìa khóa trong tay Hà Lịch, y len lén mở cửa phường quạt trộm vài miếng chuôi ngọc đi bán, trong tay có tiền sẽ về Việt Châu, tránh cho lại bị đánh.
Đất sét dính cán mỏng đặt trong thư luôn, không cần Hà Khương thị tự tìm.
Hà Khương thị chiều con trai cưng vô độ, không chịu hỗ trợ trộm quạt hợp hoan mỹ nhân chỉ vì nó liên quan rất lớn, nếu làm bừa sẽ động đến căn cơ của nhà họ Phương. Nhưng Hà Dư muốn trộm chuôi ngọc, việc này trong suy nghĩ của bà thì không đáng là gì, lại sợ Hà Dư nếu không giao ra quạt hợp hoan mỹ nhân sẽ bị đánh tiếp, nên tất nhiên sẽ làm theo ý y.
Trong thư còn nói cho Hà Khương thị biết túi đựng chìa khóa được đặc chế, gút rất quái lạ, chỉ có người cầm chìa khóa mới có thể mở.
Còn cách trộm thế nào, người làm kẻ gian sẽ có tâm can lanh lợi, Bạch Chỉ không cần dạy.
Chương 191 : Trộm nhà khó phòng
Hai bóng người xanh biển và xanh lơ ra khỏi cửa. Lan Tôn đuổi theo, quỳ xuống trên hành lang dài, váy áo ngắn dính bẩn, nơi bị bẩn rất nổi bật. Không chỉ váy, mà nàng cũng như vậy, trước khi lâm vào tình cảnh tan nhà nát cửa, nàng là hòn ngọc trong tay phụ mẫu, sau khi gia cảnh lụn bại, hạt ngọc phải lênh đênh mặc người ta chà đạp.
Ngay cả mong muốn được cùng người yêu bầu bạn cả đời cũng không thể như ý nguyện.
“Sùng Huy, chàng ở lại có được không?”
Sùng Huy ngoảnh lại nhìn Lan Tôn, nhìn hắn quay đầu còn tổn thương hơn cả không quay đầu. Ánh mắt của hắn lạnh lẽo, tức giận chán ghét, trông như một thanh đao băng chẳng có nhiệt độ, bén nhọn đâm người. Hắn lên tiếng, từng chữ như từng lưỡi đao đâm vào trái tim Lan Tôn: “Cô đừng nói những chuyện đó nữa, nếu nhị lang nổi giận thì ta không tha cho cô đâu!”
Lan Tôn nhìn hắn một cách si dại, nàng gục xuống đất, dập đầu thật mạnh, búi tóc rối loạn, trán rách da, đau đến mức cả người run lên.
Trong gió vang lên tiếng thở dài của Lâm Nhữ. Bước chân của Sùng Huy không hề dừng lại. Hắn kéo Lâm Nhữ, sợ Lâm Nhữ giận hắn. Hai người bước xuống thang lầu, hình ảnh cuối cùng rơi vào đáy mắt Lan Tôn là Sùng Huy dè dặt cười lấy lòng Lâm Nhữ.
Ra khỏi vườn trúc tía, cả đường đi Lâm Nhữ không nói gì.
Thật ra đáng lẽ chỉ nên để một mình Sùng Huy đến. Nếu Lan Tôn không thấy nàng có lẽ sẽ không chịu đả kích đến vậy.
Nàng hơi bận tâm, không giam lỏng Lan Tôn chẳng biết có gây ra tai họa hay không.
Vừa rồi nàng muốn giam lỏng Lan Tôn, nhưng Lan Tôn vừa chữa khỏi cho Hà Lịch, qua sông đoạn cầu không phải là hành vi của người quân tử.
Thân thế của Lan Tôn chẳng kém gì Sùng Huy, nàng ấy phải chịu cảnh nhà tan cửa nát, lang bạc đầu đường, chịu bao đau khổ. Cuộc đời này chỉ ghi dấu trong lòng Lan Tôn những điều ác độc, thù hận thấu trời, tình thương giả dối.
Sùng Huy chưa từng thích Lan Tôn, về sau cũng sẽ không thích Lan Tôn, sao nàng ta vẫn không chịu thấu hiểu, cứ một mực bước đi trên mũi đao?
Vào nhà cưỡi ngựa ra ngoài, nỗi ủ ê trong lòng Lâm Nhữ vẫn chưa tiêu tan, tinh thần không tập trung.
“Đến phường quạt hay về phủ?” Sùng Huy hỏi, trong đôi mắt đen nhánh là hốt hoảng lo âu.
Lâm Nhữ tỉnh táo lại, thở dài, ngồi trên lưng ngựa hơi nghiêng người về phía Sùng Huy, giơ tay sờ tóc hắn, dịu dàng nói: “Cô ấy thích huynh không phải lỗi của huynh, ta sẽ không để ý.”
“Thật sao? Dọa ta sợ muốn chết.” Ánh mắt Sùng Huy chợt sáng rực, hắn vỗ ngực, thở phào nhẹ nhõm như thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Lâm Nhữ mỉm cười, thấy vừa qua giờ Ngọ, nói: “Đến phường quạt đi.”
Hai người mới đi nửa vòng trong thành, còn chưa đến phường quạt thì có hai người đi theo, sau khi thấy Lâm Nhữ và Sùng Huy vào phường quạt, một người ẩn núp quan sát phường quạt chặt chẽ, một người giục nước đại về căn nhà ở phố Kim Sơn.
“Giờ Dần, Phương Lâm Nhữ với vị hôn thê của nó ra khỏi phủ, đi lòng vòng trong thành, các ngươi mất dấu. Ba canh giờ sau, hai người bọn họ lại xuất hiện trong thành?” Tạ phu nhân cau mày, nhìn chằm chằm người báo tin.
“Đúng vậy, không biết hai người họ phát hiện có người theo dõi hay là sợ có người theo dõi, đường đi rất quỷ dị, rẽ chỗ này quẹo chỗ kia, vào rạng sáng người đi bộ cùng xe cộ qua lại ít, hạ nô sợ bị phát hiện nên không dám bám theo quá sát, vì thế để mất dấu.” Người đó bẩm lại.
Bí mật của nhà họ Phương nằm ở trong ba canh giờ đột ngột không thấy Phương Lâm Nhữ với Sùng Huy.
Tạ phu nhân sai Tạ Vận Hưng: “Vẽ lại chân dung Phương Lâm Nhữ, sắp xếp mấy người đi chung quanh chỗ mất dấu nó hỏi thăm từng nhà, bất kể có hỏi ra được gì không cũng phải đưa tiền thưởng để họ đừng đồn ra.”
Của cải nhà họ Tạ vẫn còn, hằng năm tiền lời của lầu Ấp Thúy, lầu Nghênh Tân cùng cửa hàng Hợp Thịnh rất khá nên không lo đến chuyện vung tiền.
Đến hoàng hôn, Tạ Vận Hưng bẩm lại đã tra được căn nhà nhỏ Lâm Nhữ và Sùng Huy bước vào rồi ở yên trong đó ba canh giờ mới ra.
Tạ Vận Hưng vốn là quản gia nhà họ Tạ, rất lanh trí, những tình hình khác cũng nghe ngóng, hỏi được căn nhà đó rất ít người ra vào, ngày và đêm đều yên tĩnh, không thấy khói bếp cũng không thấy thắp đèn.
“Hàng xóm nói, nghe tổ tiên bảo lại, căn nhà đó trăm năm như một, giống như do người có tiền mua để vụng trộm vậy.”
“Vụng trộm!” Tạ phu nhân lắc đầu.
Chừng trăm năm, hẳn là từ đời tổ phụ hay trước đó nữa đã có rồi. Sao có thể không hiểu rõ nhân phẩm tổ phụ của Lâm Nhữ được. Phương Đức Thanh không phải là người ở bên ngoài trêu hoa ghẹo nguyệt, vụng trộm phong lưu. Phương Lâm Nhữ là con gái càng không thể vụng trộm. Huống hố Phương Lâm Nhữ còn mang theo cả Sùng Huy. Nếu muốn vụng trộm, trong phương phủ ai mà quản nổi, cứ khóa kín trong nhà đài Sấu Thạch, làm liên tục mấy ngày cũng chẳng ai hỏi đến.
“Có thể tìm người đập cửa hay đào tường vào trong kiểm tra không?” Tạ phu nhân hỏi.
“Không thể, căn nhà ấy không có sân giữa, cửa dùng ổ khóa làm bằng đồng nguyên chất không đập nổi. Gõ thử cửa viện, tiếng rất nhỏ vì cánh rất dày, nếu gây ra tiếng động lớn để hàng xóm phát hiện báo quan sẽ kinh động đến Phương Lâm Nhữ, không tra được nữa.” Tạ Vận Hưng nói.
Ở trong đó ba canh giờ làm gì?
Tạ phu nhân suy nghĩ mãi không ra lí do.
“Không biết nhà kia có ai đến báo tin không, chi bằng để thuộc hạ rời đi trước, nếu phu nhân có gì căn dặn lại truyền thuộc hạ qua.” Tạ Vận Hưng xin phép.
“Đi đi.” Tạ phu nhân vẫy tay, ánh mắt chợt sáng lên, gọi giật ngược lại: “Quay lại.”
Nhà họ Tạ có thể thỏ đào ba hang, sao nhà họ Phương lại không?
Tình báo của bà đến từ căn nhà dựa lưng vào Tạ phủ ở phố Kim Sơn không tầm thường, nhà họ Phương cũng có thể dùng cách tương tự.
Phải chăng Lâm Nhữ với Sùng Huy đã vào căn nhà mà họ tra được, sau đó từ một căn nhà dựa lưng vào qua một ngõ hẻm khác ra ngoài?
Tạ Vận Hưng đi tra ngôi nhà tựa lưng vào căn nhà đó, chưa đến một khắc đã về báo, quả nhiên có mờ ám, trong thời gian Lâm Nhữ với Sùng Huy đi vào, nhà hàng xóm ở đầu kia thấy có xe ngựa ra ngoài, ba canh giờ sau thì xe ngựa trở lại. Cũng như thế, căn nhà đó rất ít người ra vào, không thấy khói bếp cũng không thấy thắp đèn.
Tạ phu nhân sai ông chủ lầu Nghênh Tân chuẩn bị đất sét dính, ngay trong lúc Sùng Huy và Lâm Nhữ ăn cơm, dùng ít thuốc mê làm họ bất tỉnh, trộm chìa khóa của họ ấn vào đất sét dính lấy khuôn mẫu rồi tìm thợ đúc chìa khóa.
Đi vào trong hai căn nhà đó điều tra thử là có thể biết rõ bí mật của nhà họ Phương.
Ai ngờ Lâm Nhữ cùng Sùng Huy đến lầu Nghênh Tân dùng bữa, ông chủ đã cho thuốc mê vào trong đồ ăn của họ, nhưng lại không thuận lợi làm họ bất tỉnh.
Rốt cuộc không biết kế hoạch chệch ở bước nào, chuyện hai người bách độc bất xâm chắc chắn là không thể.
Trái lo phải nghĩ không có cách nào, muốn nhanh chóng tra ra bí mật trước lễ lớn kế vị của Lâm Nhữ, chỉ có thể truyền lời đến Bạch Chỉ, để Bạch Chỉ ở trong phủ tìm cách lấy được khuôn mẫu chìa khóa, cũng kể lại chuyện thất thủ cho nàng nghe.
Bạch Chỉ nghe tin, cười lạnh một tiếng, khinh khi: “Một đám phế vật vô dụng, nếu Phương Lâm Nhữ dễ trúng kế như vậy thì nhà họ Phương đã lụn bại từ lâu.”
Cho dù có chuốc thuốc mê được Lâm Nhữ với Sùng Huy, lấy được túi cũng không thể đụng vào chìa khóa.
Túi đựng chìa khóa được bện tinh xảo như dùng dây thép đan thành, không thể cắt cũng không thể đốt, miệng túi nhỏ do dây thép buộc gút kỳ quái không thể mở được.
Nhà họ Phương cũng lo lắng có kẻ trộm chìa khóa nên phòng ngừa nghiêm ngặt, trừ phi do chính gia chủ truyền lại, nếu không dù lấy được túi cũng chịu chết.
Mấy ngày này, hôm nào Hà Dư cũng đưa một bức thư vào phủ.
Ngày đầu tiên, Dẫn Tuyền bẩm lại Hà Dư sai người đưa thư đến, hỏi Phương Khương thị có nhận thư hay không. Phương Khương thị đau lòng tỷ tỷ, không thể cho Hà Dư vào ở, nhưng để mẫu tử hai người họ liên lạc với nhau thì không có gì không thể, bà cho phép nhận lấy đưa Hà Khương thị, lại dặn không được bẩm lại với Lâm Nhữ, sợ Lâm Nhữ mà biết sẽ nổi giận.
Hà Khương thị nhận được thư thì run cả người, sợ Phương Khương thị biết được ý đồ của Hà Dư sẽ báo lại cho Lâm Nhữ, Lâm Nhữ mà nổi giận sẽ đánh chết Hà Dư, nên len lén giấu thư vào trong ngực áo.
Không cần đọc Bạch Chỉ cũng biết trong thư viết giục Hà Khương thị mau trộm quạt hợp hoan mỹ nhân.
Vào buổi sáng mùng mười một, mắt của Hà Khương thị được tháo băng thuốc, vì cứu chữa kịp thời nên bình phục trở lại, nhìn thấy ánh sáng. Phương Khương thị vui mừng khôn xiết, mấy ngày nay ở cạnh Hà Khương thị nên ít ghé lầu Thuật Hương, thấy tỷ tỷ không còn gì đáng lo liền vội vã qua lầu Thuật Hương thăm Cẩm Phong.
Bạch Chỉ tự xin ở lại hầu hạ Hà Khương thị, tất nhiên Phương Khương thị đồng ý.
Hôm nay là một ngày nắng đẹp, trên các đền đài lầu gác trùng điệp có luồng sáng ban mai màu vàng kim nhàn nhạt, gió bắc thổi rạo rực như gấm vóc, hào quang trải dài. Bạch Chỉ ra vườn bẻ một cành mai rồi trở lại, cắm vào bình sứ, đang chỉnh sửa thì đột nhiên như nghĩ đến điều gì đó, mò trong túi áo một bức thư đưa cho Hà Khương thị: “Vừa rồi đưa vào từ cổng phủ, nói rằng thư của Hà nhị lang.”
Hà Khương thị thoáng giật mình, cầm lấy thư nhưng không xem mà cất ngay trong ngực áo.
“Di phu nhân không xem thử sao? Hồi nãy tôi ngó thử, chữ viết trên mấy bức thư mỗi ngày không giống nhau, đừng nói Hà nhị lang bị bệnh nên không viết nổi thư.”
Hà Khương thị “hả” lên, thoáng ngơ ngác rồi bước vào trong phòng.
Bạch Chỉ chú ý lắng nghe, có tiếng xé giấy, khóe môi cười lạnh.
Bên trong yên tĩnh không tiếng động, qua thời gian cạn chung trà, tiếng giấy lại vang lên, một lúc sau, Hà Khương thị đi ra, cắn môi dưới rồi nhỏ giọng nói: “Ta có chuyện muốn tìm Lịch lang, cô đi mời nó đến đây.”
Chuyện được một nửa!
Tất nhiên Bạch Chỉ nhận lời, đi mời Hà Lịch qua.
Hà Lịch không thể đứng lâu, nhưng đi lại thì không vấn đề gì, hắn qua ngay. Mộc Vũ với Thanh Tuyền đều bận việc bên phường quạt không ở bên cạnh hắn, Hà Lịch cũng không dẫn theo Uyển Sơ, mọi việc đều trong dự liệu của Bạch Chỉ.
Ngày đó Uyển Sơ chỉ mặc xiêm áo mỏng, hồn vía lên mây, áo treo trên vòng cửa, không khó để suy đoán trước đó đã xảy ra chuyện gì. Tự hiến thân nhưng bị từ chối, Uyển Sơ không còn mặt mũi nào để hầu hạ Hà Lịch nữa, mà Hà Lịch cũng không thể nào tiếp tục để Uyển Sơ ở lại.
Trong bức thư, Bạch Chỉ dùng tay trái giả mạo cách nói của Hà Dư viết cho Hà Khương thị. Hôm qua y không giao nộp ra quạt hợp hoan mỹ nhân nên bị người ta đánh một trận nên thân, hôm nay bị thương rất nặng, ngay cả sức lực để viết thư cũng không có. Bà có thể không giúp y trộm quạt hợp hoan mỹ nhân ra ngoài, nhưng phải giúp y dùng đất sét dính làm khuôn mẫu chìa khóa trong tay Hà Lịch, y len lén mở cửa phường quạt trộm vài miếng chuôi ngọc đi bán, trong tay có tiền sẽ về Việt Châu, tránh cho lại bị đánh.
Đất sét dính cán mỏng đặt trong thư luôn, không cần Hà Khương thị tự tìm.
Hà Khương thị chiều con trai cưng vô độ, không chịu hỗ trợ trộm quạt hợp hoan mỹ nhân chỉ vì nó liên quan rất lớn, nếu làm bừa sẽ động đến căn cơ của nhà họ Phương. Nhưng Hà Dư muốn trộm chuôi ngọc, việc này trong suy nghĩ của bà thì không đáng là gì, lại sợ Hà Dư nếu không giao ra quạt hợp hoan mỹ nhân sẽ bị đánh tiếp, nên tất nhiên sẽ làm theo ý y.
Trong thư còn nói cho Hà Khương thị biết túi đựng chìa khóa được đặc chế, gút rất quái lạ, chỉ có người cầm chìa khóa mới có thể mở.
Còn cách trộm thế nào, người làm kẻ gian sẽ có tâm can lanh lợi, Bạch Chỉ không cần dạy.