Hồi 37 - Mặt nạ
Căng lực biểu đạt bằng ngôn ngữ của lão Dương Bì rất có hạn, ông già lại còn nói năng lập cà lập cập chẳng ra đâu vào đâu, tôi với Tuyền béo nghe mà như người đi giữa đám sương mù, nhưng rốt cuộc cũng hiểu được đại khái ý tứ. Ở quê lão Dương Bì, có một khu vực chỉ toàn đất pha cát. Nơi ấy khô hạn thiếu nước, nhưng giữa vùng ấy lại có một chỗ đất bùn rất ẩm ướt, theo các truyền thuyết cổ xưa thì đó là đất dưỡng thi, người chết chôn vào đó thì có thể giữ mãi không bị thối rữa. Sự thực là, ở nơi ấy có một loài thực vật cổ quái sinh trưởng.
Tương truyền, từ thời cổ đại, loài thực vật này đã được du nhập từ thành Nguyên Sa của nước Hồi Hồi ở Tây Vực xa xôi. Loài này cực độc, hình dáng như con người, thoạt nhìn hơi giống cây nhân sâm lớn, nhưng phải to hơn gấp mấy chục mấy trăm lần. Bản thân nó cũng chẳng có họ hàng gì với nhân sâm cả, nhưng ở Trung Nguyên không có tên gọi chuẩn xác, đành gọi bừa là thi sâm hoặc quỷ sâm, còn người Hồi Hồi cổ thì gọi là "Yabulu".
Thứ này chuyên mọc ở những vùng đất bùn tối tăm ẩm thấp và hôi thối. Một số mộ huyệt bị hơi ẩm xâm thực, hoặc lòng sông cổ vẫn còn bùn nước đọng, đều là những nơi rất thích hợp cho nó sinh trưởng. Bộ rễ của nó có thể ăn sâu xuống lòng đất đến cả chục mét, tuy là thực vật, nhưng rễ cây lại có thể vươn lên mặt đất cuốn lấy người và súc vật làm thức ăn, về bản chất thực ra là một loại cỏ ăn thịt người khổng lồ. Nếu đào đất gặp phải loại thực vật này, bất luận là người hay súc vật, chỉ cần tiếp xúc với độc khí của nó ắt hẳn sẽ mất mạng chứ chẳng nghi.
Phương pháp khai thác loại cây này là, sau khi xác nhận vị trí Yabulu sinh trưởng, người ta đào xưng quanh nó bốn rãnh đất, sâu rộng đủ để chứa một cái lu nước lớn ở nông thôn là vừa. Kế đó, bắt đầu dùng gạch mộ chất vào trong rãnh, xây thành hình dạng như cái lò gạch, bít kín hoàn toàn cả phía trên. Trước khi xây bít vào thì thả vào trong mấy con chó dữ. Bọn chó dữ bị nhốt trong căn phòng gạch kín mít ấy bị khó thở, sau một hồi sủa loạn, theo bản năng, chúng sẽ dùng móng vuốt bới đất, hòng đào một đường hầm thoát ra bên ngoài. Khi đào chạm đến rễ cây Yabulu kịch độc, lũ chó ấy sẽ lập tức chết vì trúng độc. Ngoài ra, còn có một cách khác là trực tiếp dùng dây da buộc chân chó vào với rễ cây độc, rồi người nấp ở đầu ngọn gió đốt pháo, lũ chó bị giật mình sẽ kéo theo cả bộ rễ cây lên. Cách này tuy tiết kiệm được thời gian và sức lực, nhưng rất nguy hiểm, thường khiến người khai thác trúng độc mà chết, vì vậy không được lưu truyền rộng rãi như là cách đầu tiên.
Loài cây Yabulu của nước Hồi Hồi này một khi ra khỏi đất, chẳng bao lâu sau liền mất đi độc tính. Lúc này, người ta mới mang cả xác lũ chó trúng độc với cây Yabulu đã không còn độc tính ấy chôn xuống hố, một năm sau mới đào lên. Khi đó, xác chó đã kết hợp với rễ cây thành một thể, xương thịt tuy đã thối rữa, nhưng ở chỗ không có ánh mặt trời lại có thể nhúc nhích như khi còn sống. Thứ thịt thối ấy đem phơi nắng cho khô, liền trở thành một loại thuốc cực quý, bán rất được giá.
Dùng một chút rượu thuốc ấy có thể khiến người ta tê liệt toàn thân, tựa như rơi vào trạng thái chết giả, cho dù lấy dao lấy búa cắt đứt chân tay cũng không có bất cứ cảm giác gì, mấy ngày sau cho uống thuốc giải thì lại trở về trạng thái bình thường. Tương truyền, Hoa Đà thời xưa có thể phẫu thuật mổ bụng, cũng đều nhờ vào loại thuốc mê này. Đến thời Tống, Ngự y viện trong hoàng cung cũng có ghi chép về việc sử dụng nó.
Hồi còn ở quê, lão Dương Bì từng thấy người ta đi khai hoang, đào xới cả khu mộ địa lên làm đất ruộng, gặp phải loại độc vật hình người này. Lần đó đào lên cả một dây xác người dính chặt với nhau, toàn là dân làng vô ý đi qua đây những lúc đêm đen tối trời lâm nạn. Cây Yabulu quấn lấy người ta, rồi truyền độc vào trong cơ thể. Người chết tuy đã chết, nhưng đầu tóc và móng tay móng chân vẫn tiếp tục mọc dài, lại được âm khí tiềm tàng nuôi dưỡng, mỗi khi gặp dương khí liền nhúc nhích cử động, bắt được người hay súc vật gì cũng đều truyền chất độc cho rồi biến con mồi thành một phần của giống cây quái dị ấy.
Chúng tôi đoán cái hầm đất số "0" ấy là do quân Nhật đặc biệt xây dựng để nuôi trồng cây thuốc. Kỳ thực từ xưa, thịt cương thi, hay còn gọi là "mật hương" đã được dùng làm thuốc rồi, những cái xác thối rữa cơ hồ đã trở thành một phần của cây Yabulu cũng có thể coi như một loại dược phẩm đặc biệt, chẳng qua là cách nuôi cấy thực sự quá ghê tởm mà thôi.
Tôi đang định hỏi lão Dương Bì xem có cách gì có thể tiêu diệt hoàn toàn cái giống cây quái dị này không, chứ để nó chắn trước cửa thế này thì rốt cuộc bọn tôi cũng không thể thoát đi đâu được. Nhưng đang định cất tiếng, chợt bỗng nhớ ra một việc cực kỳ quan trọng, cả người lập tức lạnh buốt cả ra. Tôi và Tuyền béo quần nhau vớì lũ xác chết thối thây đó bao nhiêu lâu, trên người hai thằng bị dính phải rất nhiều chất dịch vừa tanh vừa thối ấy, sợ rằng đều đã trúng độc mất rồi.
Hai chúng tôi vội vàng giơ đôi tay lộ ra ngoài lên quan sát. Tay chúng tôi đều dính rất nhiều thứ, bẩn đến mức chẳng còn nhìn ra gì nữa cả, nhưng trên mu bàn tay dường như đã mọc lên một đống mụn nhỏ li ti, hơi hơi có cảm giác ngứa ngứa tê tê, ngoài ra, tạm thời cũng không có triệu chứng gì khác. Tuy không rõ đây có phải dấu hiệu trúng độc hay không, nhưng quá nửa cũng chẳng phải điều tốt lành gì.
Đinh Tư Điềm trúng độc còn chưa tìm ra cách trị liệu, không ngờ cả tôi và Tuyền béo cũng lần lượt dính đòn. Tâm trạng tôi vô cùng phức tạp, có điều trời sập xuống lấy làm chăn đắp là cùng, tình cảnh chúng tôi lúc này vốn đã loạn cào cào lên cả rồi, thêm một chút phiền phức nữa cũng chẳng có gì to tát cả, cùng lắm thì ba người chúng tôi cùng đi gặp cụ Mác cụ Lê thôi vậỵ.
Thanh niên thời đại ấy, chẳng ai có tư tưởng tình cảm phức tạp gì, vả lại hệ thống giáo dục tiếp nhận từ thuở ấu thơ khiến chúng tôi đều không biết hai chữ "khó khăn" viết như thế nào, dưới gầm trời này có chuyện gì làm khó được chiến sĩ cách mạng đâu chứ? Vì vậy, chuyện lớn bằng trời, chúng tôi cũng không để trong lòng cho lắm, chỉ thoáng sau đó tôi đã nhanh chóng gạt chuyện mình có trúng độc hay không ra khỏi đầu, quay sang hỏi lão Dương Bì xem có cách gì không.
Lão Dương Bì lắc đầu thở dài, bảo rằng chẳng có cách gì hết, loài độc vật nước Hồi Hồi ấy rời khỏi đất là chết, đợi chốc nữa âm khí tiêu tan, phỏng chừng nó sẽ không động cựa gì được nữa, trước mắt chỉ còn cách ngồi đợi mà thôi. Nhưng có trời mới biết rễ của cái thứ ấy dài bao nhiêu, nếu có một phần vẫn hút được hơi đất, vậy thì chúng tôi chỉ cần bước ra khỏi cửa là sẽ lập tức bị nó quấn lấy ngay.
Chúng tôi đang không biết phải làm sao, đột nhiên nghe thấy phía trên đầu vang lên tiếng động lạ. Tôi và Tuyền béo vội chiếu đèn pin lên xem, chỉ thấy chỗ tiếp giáp giữa tường và trần nhà, có mấy cửa sổ hẹp mở thông ra hành lang. Rễ cây Yabulu phía bên ngoài đã luồn qua ô cửa, đang định đánh lén. Tuyền béo lập tức vung đao lên chém bay đoạn rễ cây vừa thò vào trong phòng, chỉ nghe âm thanh như thể một cái túi da bị cứa đứt vang lên, chỗ lưỡi đao chặt xuống, nước thối bắn tung tóe, đoạn rễ cây liền nhanh chóng rụt trở về.
Chúng tôi bấy giờ mới phát hiện căn phòng này tuy cửa và tường đều rất kiên cố, nhưng lại không kín, lỗ thông khí và cửa sổ nhỏ cực nhiều, rất dễ bị đối phương thừa cơ xâm nhập. Căn phòng ngầm này dường như là một kho tồn trữ tài liệu, có nhiều tủ sắt và các hòm gỗ bên trong đựng hồ sơ văn kiện và giấy tờ lỉnh kỉnh. Tôi với Tuyền béo vội hè nhau đẩy tủ sắt ra chắn hết các lỗ hở phía bên ngoài lại.
Ở góc trong cùng của căn phòng có một cái tủ sắt rất dày, đây vốn là thứ tốt nhất để chắn cửa, nhưng mặc cho tôi và Tuyền béo dùng sức đẩy thế nào, nó cũng không chịu nhúc nhích, cứ như thể mọc rễ xuống dưới đất vậy. Tôi điều chỉnh lại ánh sáng đèn pin, cẩn thận quan sát lại cái tủ sắt ấy, trong lòng không khỏi ngờ vực ở đây có một cánh cửa ngầm, cần có công tắc hay chốt lẫy gì mới mở được. Mấy phim phản gián thời bấy giờ, đa phần đều có những tình tiết kiểu như vậy.
Tôi và Tuyền béo đoán bừa đoán bậy, không ngờ lần này lại trúng thật, khi tôi men theo mép tủ sắt, điều chỉnh ngọn đèn chiếu vào trong góc tường, bỗng thình lình trông thấy trong khe hẹp ngăn cách giữa tường và tủ sắt có kẹt một bàn tay. Bàn tay ấy khô đét tím bầm, mọc lông như lông thú. Phỏng chừng chủ nhân cánh tay này cũng giống như đại đa số những tử thi khác trong viện nghiên cứu, đều chết vì một nguyên nhân không rõ nào đấy, sau khi chết lại chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh đặc thù vùng động Bách Nhãn này mà nảy sinh ra hiện tượng thi biến dị thường.
Phía sau cái khe dường như là một không gian không nhỏ, nhưng tôi chiếu đèn pin vào một hồi lâu mà chẳng nhìn được gì hết. Trước mắt, hành lang bên ngoài gian phòng ngầm dưới lòng đất này đã bị cây thi sâm dính chùm cả đống xác chết bịt chặt, nếu sau cái tủ sắt này còn có thông đạo, nói không chừng lại có thể thoát ra từ đây, vả lại, đường hầm bí mật này có vẻ rất kỳ lạ, biết đâu bên trong lại cất giữ những thứ chúng tôi đang cần tìm cũng nên.
Tôi và Tuyền béo đều tràn đầy lòng tin với suy đoán khiến người ta phấn chấn tinh thần này, cậu ta lập tức mò mẫm khắp nơi tìm kiếm chốt lẫy để mở tủ sắt ra. Tôi không vội bắt tay vào ngay, mà cảm giác con đường ngầm phía sau tủ sắt này có gì đó không ổn lắm, nhưng không ổn ở đâu thì nhất thời lại không nghĩ ra được. Nghĩ đoạn, tôi hít sâu một hơi, cố gắng trấn tĩnh, đầu óc không ngừng hoạt động hết cỡ. Rất có thể tình hình khi ấy là, trong một tình huống vô cùng khẩn cấp, người bị kẹt giữa tủ sắt và bức tường này định chạy vào mật thất tránh nạn, nhưng vì cái chết đến quá bất ngờ, vừa mới mở được cánh cửa ngụy trang thành tủ sắt bước vào đường hầm bí mật đã lập tức tử vong, và bị cái tủ sắt tự động trở về vị trí ban đầu kẹp cứng cái xác lại, chứ không phải là tủ sắt kẹp vào mà chết.
Còn nữa, trong viện nghiên cứu giới bị cực kỳ thâm nghiêm, tựa hồ như hoàn toàn không cần thiết phải bố trí một cái cửa ngầm bí mật nữa ở dưới công trình ngầm dưới lòng đất vốn đã cực kỳ ẩn mật này làm gì. Trừ phi, không gian phía sau cánh cửa ẩn chứa những thứ cơ mật trong cơ mật, rất có thể là hầu hết nhân viên trong viện nghiên cứu đều không hề biết đến sự tồn tại của nó, mà chỉ có một số nhân vật đầu não của cơ quan mới nắm được. Cái xác bị kẹt ở đây xem chừng là một trong những người đứng đầu cái ổ quỷ này, nhưng tại sao cánh tay của cái xác lại thò ra phía ngoài, tư thế này có bình thường không nhỉ? Lẽ nào không phải là chạy vào bên trong, mà đang từ trong ấy chạy ra ngoài? Cái mật thất bên trong mật thất này...
Đầu óc tôi không ngừng tính đến các khả năng khác nhau, đang suy đoán lung tung thì Tuyền béo đã tìm được một viên gạch lát sàn gồ lên ở dưới gầm bàn, vị trí hết sức ẩn mật, cũng hoàn toàn không bắt mắt chút nào, nếu không phải mò mẫm từng viên gạch một thì cũng không thể nào phát hiện được. Cậu ta mắm môi mắm lợi cậy mấy cái mà không nhúc nhích gì, liền đổi sang dùng chân giẫm xuống. Cú giẫm này khá mạnh, viên gạch liền lún xuống một hai phân, sau tiếng động "ầm ầm", cái tủ sắt đã rút vào một bên tường, để lộ ra một lối đi hẹp. Có lẽ tại Tuyền béo dùng sức quá độ, giẫm xuống sâu quá, cái tủ sắt ấy trượt sang một bên rồi đứng yên chứ không tự động bật lại vị trí ban đầu như tôi dự đoán.
Bên trong lối đi ấy lại có một cửa nữa, cánh cửa mở rộng, sâu bên trong là một căn mật thất lớn hơn căn phòng chúng tôi đang ở. Tuyền béo cho rằng trong mật thất ấy thể nào cũng có thuốc men và thức ăn, liền nóng lòng muốn đi vào ngay. Tôi vội vàng chặn trước lối đi, nói với cậu ta và lão Dương Bì: "Hai người nhìn thử cái xác bị kẹt ở đây mà xem, đầu và cánh tay đều vươn ra phía ngoài, tư thế này chứng tỏ rằng rất có thể, trước lúc chết, kẻ này đang từ bên trong chạy ra phía ngoài, chứ không phải vì chạy nạn mà trốn vào trong mật thất, bên trong đó..."
Tôi mới nói được nửa chừng, bỗng nghe thấy một tiếng động lớn, cái ghế gỗ chắn ở cửa đột nhiên gãy ra làm mấy mảnh. Lão Dương Bì đang ngồi sau cánh cửa sắt giật bắn mình, vội vàng kéo Đinh Tư Điềm lùi ra xa. Tôi giơ đèn pin chiếu về phía ấy, chỉ thấy cánh cửa sắt đã bị húc bật ra, một gương mặt quái dị như bà già nhăn nheo từ bên ngoài thò vào. Loài thực vật dị hình này trông rất giống nhân sâm, nhưng hình thái thì hung ác hơn nhân sâm cả vạn lần. Bấy giờ, tôi nhìn thấy hết sức rõ ràng, trên "mặt" cái cây yêu quái đó toàn là nếp nhăn, nổi bật nhất là hai "con mắt" to tướng. Tôi thầm nhủ, bảo nó là thực vật, chi bằng nói đây là một loại bán sinh vật sống trong bùn đất, sinh tồn bằng cách hút chất dịch bên trong xác chết thì có lẽ chính xác hơn.
Đừng nói là phải đối diện với bộ mặt quái đản xấu xí của nó, chỉ riêng ngửi cái mùi ẩm thấp vừa tanh vừa thối trên người nó thôi cũng đã choáng váng đầu óc muốn té xỉu tại chỗ rồi. Chuyện đến nước này, chúng tôi cũng chỉ còn biết lùi dần về phía sau, tôi và lão Dương Bì xốc hai bên đỡ Đinh Tư Điềm, Tuyền béo cầm đao chặt đứt những đoạn rễ cây đang không ngừng vươn tới, bốn người bị bức ép dần dần lùi vào trong đường hầm bí mật phía sau cái tủ sắt.
Tôi lo Tuyền béo một mình gặp nạn, sau khi chạy vào trong mật thất cũng chẳng kịp nhìn rõ xung quanh thế nào, đã để Đinh Tư Điềm lại cho lão Dương Bì trông chừng, sau đó quay đầu chạy ra chỗ cửa tiếp ứng cho Tuyền béo, định đóng cửa ngầm lại hòng chặn đứng thế tiến công của cái cây yêu quái, nhưng trong lúc hoảng loạn như thế, sao có thể tìm được chốt lẫy bí mật ở phía bên trong này cơ chứ?
Tuyền béo gặp cái khó ló cái khôn, liền đẩy cái xác bên trong lối đi bí mật ấy ra ngoài. Một cái rễ cây lập tức cuốn chặt lấy nó bọc vào bên trong bộ rễ xù xì, tôi lợi dụng cơ hội ấy đóng ập cánh cửa bên trong mật thất lại, rồi cùng Tuyền béo tìm tất cả mọi thứ có thể tìm được chặn ra sau cửa. Bấy giờ mới nhìn ra, gian mật thất rộng lớn này đâu đâu cũng toàn là các tủ lớn bày đầy những bình chứa tiêu bản. Trong lúc hỗn loạn, chúng tôi đã làm vỡ rất nhiều bình thủy tinh, các bộ phận thân thể người và xác chết của đủ thứ động vật kỳ dị rơi lăn lóc đầy ra đất, trong không gian lập tức nồng nặc mùi chất chống phân hủy.
Chúng tôi trải qua một phen hoảng loạn, thân thể gần như kiệt quệ, tạm thời thấy cánh cửa đã bị chặn, thần kinh đang căng liền thả lỏng ra một chút, hai chân bỗng mềm nhũn ra. Vết thương trên vai lại đau nhức khó chịu vô cùng, thuận đà tôi loạng choạng lùi mấy bước, định kiếm chỗ ngồi tạm xuống nghỉ ngơi. Vừa khéo sau lưng có một bệ đá, trong bóng tối tù mù, tôi cũng chẳng kịp nhìn rõ, cứ ngồi phịch xuống. Ngồi lên đấy rồi, tôi mới cảm thấy sau lưng lạnh buốt lạ thường, liền vòng tay ra sờ thử, phát hiện ngón tay chạm phải một vật thể lạnh lẽo lồi lõm bằng kim loại, liền xòe cả bàn tay rờ mò, thì ra là một tấm mặt nạ hình mặt người. Tôi giật thót mình, lập tức nhớ đến cái xác đàn bà người Tiên Ty đeo mặt nạ trong bức bích họa kia, vội vàng quay người lại chiếu đèn pin xem. Trên bệ đá trông như bàn phẫu thuật này, quả nhiên có một xác đàn bà ăn mặc theo kiểu cổ, mặt nạ kim loại trên mặt bị chùm sáng màu vàng của đèn pin rọi vào, ánh lên những tia lạnh lẽo âm u.
Tuyền béo và lão Dương Bì cũng phát giác có sự lạ, đều bước lại quan sát. Sức mạnh chấn nhiếp vô hình tỏa ra từ sự chết chóc khiến toàn thân chúng tôi khẽ run lên, cái đèn pin đeo trước ngực cũng theo nhịp thở gấp gáp mà dập dềnh lên xuống. Có lẽ tôi đã hoa mắt, trong cột sáng dao động của đèn pin, cái mặt nạ trên mặt xác chết ấy như thể đã sống lại, bộ mặt vốn nghiêm trang không chút xúc cảm dường như đang nở một nụ cười cổ quái.
Căng lực biểu đạt bằng ngôn ngữ của lão Dương Bì rất có hạn, ông già lại còn nói năng lập cà lập cập chẳng ra đâu vào đâu, tôi với Tuyền béo nghe mà như người đi giữa đám sương mù, nhưng rốt cuộc cũng hiểu được đại khái ý tứ. Ở quê lão Dương Bì, có một khu vực chỉ toàn đất pha cát. Nơi ấy khô hạn thiếu nước, nhưng giữa vùng ấy lại có một chỗ đất bùn rất ẩm ướt, theo các truyền thuyết cổ xưa thì đó là đất dưỡng thi, người chết chôn vào đó thì có thể giữ mãi không bị thối rữa. Sự thực là, ở nơi ấy có một loài thực vật cổ quái sinh trưởng.
Tương truyền, từ thời cổ đại, loài thực vật này đã được du nhập từ thành Nguyên Sa của nước Hồi Hồi ở Tây Vực xa xôi. Loài này cực độc, hình dáng như con người, thoạt nhìn hơi giống cây nhân sâm lớn, nhưng phải to hơn gấp mấy chục mấy trăm lần. Bản thân nó cũng chẳng có họ hàng gì với nhân sâm cả, nhưng ở Trung Nguyên không có tên gọi chuẩn xác, đành gọi bừa là thi sâm hoặc quỷ sâm, còn người Hồi Hồi cổ thì gọi là "Yabulu".
Thứ này chuyên mọc ở những vùng đất bùn tối tăm ẩm thấp và hôi thối. Một số mộ huyệt bị hơi ẩm xâm thực, hoặc lòng sông cổ vẫn còn bùn nước đọng, đều là những nơi rất thích hợp cho nó sinh trưởng. Bộ rễ của nó có thể ăn sâu xuống lòng đất đến cả chục mét, tuy là thực vật, nhưng rễ cây lại có thể vươn lên mặt đất cuốn lấy người và súc vật làm thức ăn, về bản chất thực ra là một loại cỏ ăn thịt người khổng lồ. Nếu đào đất gặp phải loại thực vật này, bất luận là người hay súc vật, chỉ cần tiếp xúc với độc khí của nó ắt hẳn sẽ mất mạng chứ chẳng nghi.
Phương pháp khai thác loại cây này là, sau khi xác nhận vị trí Yabulu sinh trưởng, người ta đào xưng quanh nó bốn rãnh đất, sâu rộng đủ để chứa một cái lu nước lớn ở nông thôn là vừa. Kế đó, bắt đầu dùng gạch mộ chất vào trong rãnh, xây thành hình dạng như cái lò gạch, bít kín hoàn toàn cả phía trên. Trước khi xây bít vào thì thả vào trong mấy con chó dữ. Bọn chó dữ bị nhốt trong căn phòng gạch kín mít ấy bị khó thở, sau một hồi sủa loạn, theo bản năng, chúng sẽ dùng móng vuốt bới đất, hòng đào một đường hầm thoát ra bên ngoài. Khi đào chạm đến rễ cây Yabulu kịch độc, lũ chó ấy sẽ lập tức chết vì trúng độc. Ngoài ra, còn có một cách khác là trực tiếp dùng dây da buộc chân chó vào với rễ cây độc, rồi người nấp ở đầu ngọn gió đốt pháo, lũ chó bị giật mình sẽ kéo theo cả bộ rễ cây lên. Cách này tuy tiết kiệm được thời gian và sức lực, nhưng rất nguy hiểm, thường khiến người khai thác trúng độc mà chết, vì vậy không được lưu truyền rộng rãi như là cách đầu tiên.
Loài cây Yabulu của nước Hồi Hồi này một khi ra khỏi đất, chẳng bao lâu sau liền mất đi độc tính. Lúc này, người ta mới mang cả xác lũ chó trúng độc với cây Yabulu đã không còn độc tính ấy chôn xuống hố, một năm sau mới đào lên. Khi đó, xác chó đã kết hợp với rễ cây thành một thể, xương thịt tuy đã thối rữa, nhưng ở chỗ không có ánh mặt trời lại có thể nhúc nhích như khi còn sống. Thứ thịt thối ấy đem phơi nắng cho khô, liền trở thành một loại thuốc cực quý, bán rất được giá.
Dùng một chút rượu thuốc ấy có thể khiến người ta tê liệt toàn thân, tựa như rơi vào trạng thái chết giả, cho dù lấy dao lấy búa cắt đứt chân tay cũng không có bất cứ cảm giác gì, mấy ngày sau cho uống thuốc giải thì lại trở về trạng thái bình thường. Tương truyền, Hoa Đà thời xưa có thể phẫu thuật mổ bụng, cũng đều nhờ vào loại thuốc mê này. Đến thời Tống, Ngự y viện trong hoàng cung cũng có ghi chép về việc sử dụng nó.
Hồi còn ở quê, lão Dương Bì từng thấy người ta đi khai hoang, đào xới cả khu mộ địa lên làm đất ruộng, gặp phải loại độc vật hình người này. Lần đó đào lên cả một dây xác người dính chặt với nhau, toàn là dân làng vô ý đi qua đây những lúc đêm đen tối trời lâm nạn. Cây Yabulu quấn lấy người ta, rồi truyền độc vào trong cơ thể. Người chết tuy đã chết, nhưng đầu tóc và móng tay móng chân vẫn tiếp tục mọc dài, lại được âm khí tiềm tàng nuôi dưỡng, mỗi khi gặp dương khí liền nhúc nhích cử động, bắt được người hay súc vật gì cũng đều truyền chất độc cho rồi biến con mồi thành một phần của giống cây quái dị ấy.
Chúng tôi đoán cái hầm đất số "0" ấy là do quân Nhật đặc biệt xây dựng để nuôi trồng cây thuốc. Kỳ thực từ xưa, thịt cương thi, hay còn gọi là "mật hương" đã được dùng làm thuốc rồi, những cái xác thối rữa cơ hồ đã trở thành một phần của cây Yabulu cũng có thể coi như một loại dược phẩm đặc biệt, chẳng qua là cách nuôi cấy thực sự quá ghê tởm mà thôi.
Tôi đang định hỏi lão Dương Bì xem có cách gì có thể tiêu diệt hoàn toàn cái giống cây quái dị này không, chứ để nó chắn trước cửa thế này thì rốt cuộc bọn tôi cũng không thể thoát đi đâu được. Nhưng đang định cất tiếng, chợt bỗng nhớ ra một việc cực kỳ quan trọng, cả người lập tức lạnh buốt cả ra. Tôi và Tuyền béo quần nhau vớì lũ xác chết thối thây đó bao nhiêu lâu, trên người hai thằng bị dính phải rất nhiều chất dịch vừa tanh vừa thối ấy, sợ rằng đều đã trúng độc mất rồi.
Hai chúng tôi vội vàng giơ đôi tay lộ ra ngoài lên quan sát. Tay chúng tôi đều dính rất nhiều thứ, bẩn đến mức chẳng còn nhìn ra gì nữa cả, nhưng trên mu bàn tay dường như đã mọc lên một đống mụn nhỏ li ti, hơi hơi có cảm giác ngứa ngứa tê tê, ngoài ra, tạm thời cũng không có triệu chứng gì khác. Tuy không rõ đây có phải dấu hiệu trúng độc hay không, nhưng quá nửa cũng chẳng phải điều tốt lành gì.
Đinh Tư Điềm trúng độc còn chưa tìm ra cách trị liệu, không ngờ cả tôi và Tuyền béo cũng lần lượt dính đòn. Tâm trạng tôi vô cùng phức tạp, có điều trời sập xuống lấy làm chăn đắp là cùng, tình cảnh chúng tôi lúc này vốn đã loạn cào cào lên cả rồi, thêm một chút phiền phức nữa cũng chẳng có gì to tát cả, cùng lắm thì ba người chúng tôi cùng đi gặp cụ Mác cụ Lê thôi vậỵ.
Thanh niên thời đại ấy, chẳng ai có tư tưởng tình cảm phức tạp gì, vả lại hệ thống giáo dục tiếp nhận từ thuở ấu thơ khiến chúng tôi đều không biết hai chữ "khó khăn" viết như thế nào, dưới gầm trời này có chuyện gì làm khó được chiến sĩ cách mạng đâu chứ? Vì vậy, chuyện lớn bằng trời, chúng tôi cũng không để trong lòng cho lắm, chỉ thoáng sau đó tôi đã nhanh chóng gạt chuyện mình có trúng độc hay không ra khỏi đầu, quay sang hỏi lão Dương Bì xem có cách gì không.
Lão Dương Bì lắc đầu thở dài, bảo rằng chẳng có cách gì hết, loài độc vật nước Hồi Hồi ấy rời khỏi đất là chết, đợi chốc nữa âm khí tiêu tan, phỏng chừng nó sẽ không động cựa gì được nữa, trước mắt chỉ còn cách ngồi đợi mà thôi. Nhưng có trời mới biết rễ của cái thứ ấy dài bao nhiêu, nếu có một phần vẫn hút được hơi đất, vậy thì chúng tôi chỉ cần bước ra khỏi cửa là sẽ lập tức bị nó quấn lấy ngay.
Chúng tôi đang không biết phải làm sao, đột nhiên nghe thấy phía trên đầu vang lên tiếng động lạ. Tôi và Tuyền béo vội chiếu đèn pin lên xem, chỉ thấy chỗ tiếp giáp giữa tường và trần nhà, có mấy cửa sổ hẹp mở thông ra hành lang. Rễ cây Yabulu phía bên ngoài đã luồn qua ô cửa, đang định đánh lén. Tuyền béo lập tức vung đao lên chém bay đoạn rễ cây vừa thò vào trong phòng, chỉ nghe âm thanh như thể một cái túi da bị cứa đứt vang lên, chỗ lưỡi đao chặt xuống, nước thối bắn tung tóe, đoạn rễ cây liền nhanh chóng rụt trở về.
Chúng tôi bấy giờ mới phát hiện căn phòng này tuy cửa và tường đều rất kiên cố, nhưng lại không kín, lỗ thông khí và cửa sổ nhỏ cực nhiều, rất dễ bị đối phương thừa cơ xâm nhập. Căn phòng ngầm này dường như là một kho tồn trữ tài liệu, có nhiều tủ sắt và các hòm gỗ bên trong đựng hồ sơ văn kiện và giấy tờ lỉnh kỉnh. Tôi với Tuyền béo vội hè nhau đẩy tủ sắt ra chắn hết các lỗ hở phía bên ngoài lại.
Ở góc trong cùng của căn phòng có một cái tủ sắt rất dày, đây vốn là thứ tốt nhất để chắn cửa, nhưng mặc cho tôi và Tuyền béo dùng sức đẩy thế nào, nó cũng không chịu nhúc nhích, cứ như thể mọc rễ xuống dưới đất vậy. Tôi điều chỉnh lại ánh sáng đèn pin, cẩn thận quan sát lại cái tủ sắt ấy, trong lòng không khỏi ngờ vực ở đây có một cánh cửa ngầm, cần có công tắc hay chốt lẫy gì mới mở được. Mấy phim phản gián thời bấy giờ, đa phần đều có những tình tiết kiểu như vậy.
Tôi và Tuyền béo đoán bừa đoán bậy, không ngờ lần này lại trúng thật, khi tôi men theo mép tủ sắt, điều chỉnh ngọn đèn chiếu vào trong góc tường, bỗng thình lình trông thấy trong khe hẹp ngăn cách giữa tường và tủ sắt có kẹt một bàn tay. Bàn tay ấy khô đét tím bầm, mọc lông như lông thú. Phỏng chừng chủ nhân cánh tay này cũng giống như đại đa số những tử thi khác trong viện nghiên cứu, đều chết vì một nguyên nhân không rõ nào đấy, sau khi chết lại chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh đặc thù vùng động Bách Nhãn này mà nảy sinh ra hiện tượng thi biến dị thường.
Phía sau cái khe dường như là một không gian không nhỏ, nhưng tôi chiếu đèn pin vào một hồi lâu mà chẳng nhìn được gì hết. Trước mắt, hành lang bên ngoài gian phòng ngầm dưới lòng đất này đã bị cây thi sâm dính chùm cả đống xác chết bịt chặt, nếu sau cái tủ sắt này còn có thông đạo, nói không chừng lại có thể thoát ra từ đây, vả lại, đường hầm bí mật này có vẻ rất kỳ lạ, biết đâu bên trong lại cất giữ những thứ chúng tôi đang cần tìm cũng nên.
Tôi và Tuyền béo đều tràn đầy lòng tin với suy đoán khiến người ta phấn chấn tinh thần này, cậu ta lập tức mò mẫm khắp nơi tìm kiếm chốt lẫy để mở tủ sắt ra. Tôi không vội bắt tay vào ngay, mà cảm giác con đường ngầm phía sau tủ sắt này có gì đó không ổn lắm, nhưng không ổn ở đâu thì nhất thời lại không nghĩ ra được. Nghĩ đoạn, tôi hít sâu một hơi, cố gắng trấn tĩnh, đầu óc không ngừng hoạt động hết cỡ. Rất có thể tình hình khi ấy là, trong một tình huống vô cùng khẩn cấp, người bị kẹt giữa tủ sắt và bức tường này định chạy vào mật thất tránh nạn, nhưng vì cái chết đến quá bất ngờ, vừa mới mở được cánh cửa ngụy trang thành tủ sắt bước vào đường hầm bí mật đã lập tức tử vong, và bị cái tủ sắt tự động trở về vị trí ban đầu kẹp cứng cái xác lại, chứ không phải là tủ sắt kẹp vào mà chết.
Còn nữa, trong viện nghiên cứu giới bị cực kỳ thâm nghiêm, tựa hồ như hoàn toàn không cần thiết phải bố trí một cái cửa ngầm bí mật nữa ở dưới công trình ngầm dưới lòng đất vốn đã cực kỳ ẩn mật này làm gì. Trừ phi, không gian phía sau cánh cửa ẩn chứa những thứ cơ mật trong cơ mật, rất có thể là hầu hết nhân viên trong viện nghiên cứu đều không hề biết đến sự tồn tại của nó, mà chỉ có một số nhân vật đầu não của cơ quan mới nắm được. Cái xác bị kẹt ở đây xem chừng là một trong những người đứng đầu cái ổ quỷ này, nhưng tại sao cánh tay của cái xác lại thò ra phía ngoài, tư thế này có bình thường không nhỉ? Lẽ nào không phải là chạy vào bên trong, mà đang từ trong ấy chạy ra ngoài? Cái mật thất bên trong mật thất này...
Đầu óc tôi không ngừng tính đến các khả năng khác nhau, đang suy đoán lung tung thì Tuyền béo đã tìm được một viên gạch lát sàn gồ lên ở dưới gầm bàn, vị trí hết sức ẩn mật, cũng hoàn toàn không bắt mắt chút nào, nếu không phải mò mẫm từng viên gạch một thì cũng không thể nào phát hiện được. Cậu ta mắm môi mắm lợi cậy mấy cái mà không nhúc nhích gì, liền đổi sang dùng chân giẫm xuống. Cú giẫm này khá mạnh, viên gạch liền lún xuống một hai phân, sau tiếng động "ầm ầm", cái tủ sắt đã rút vào một bên tường, để lộ ra một lối đi hẹp. Có lẽ tại Tuyền béo dùng sức quá độ, giẫm xuống sâu quá, cái tủ sắt ấy trượt sang một bên rồi đứng yên chứ không tự động bật lại vị trí ban đầu như tôi dự đoán.
Bên trong lối đi ấy lại có một cửa nữa, cánh cửa mở rộng, sâu bên trong là một căn mật thất lớn hơn căn phòng chúng tôi đang ở. Tuyền béo cho rằng trong mật thất ấy thể nào cũng có thuốc men và thức ăn, liền nóng lòng muốn đi vào ngay. Tôi vội vàng chặn trước lối đi, nói với cậu ta và lão Dương Bì: "Hai người nhìn thử cái xác bị kẹt ở đây mà xem, đầu và cánh tay đều vươn ra phía ngoài, tư thế này chứng tỏ rằng rất có thể, trước lúc chết, kẻ này đang từ bên trong chạy ra phía ngoài, chứ không phải vì chạy nạn mà trốn vào trong mật thất, bên trong đó..."
Tôi mới nói được nửa chừng, bỗng nghe thấy một tiếng động lớn, cái ghế gỗ chắn ở cửa đột nhiên gãy ra làm mấy mảnh. Lão Dương Bì đang ngồi sau cánh cửa sắt giật bắn mình, vội vàng kéo Đinh Tư Điềm lùi ra xa. Tôi giơ đèn pin chiếu về phía ấy, chỉ thấy cánh cửa sắt đã bị húc bật ra, một gương mặt quái dị như bà già nhăn nheo từ bên ngoài thò vào. Loài thực vật dị hình này trông rất giống nhân sâm, nhưng hình thái thì hung ác hơn nhân sâm cả vạn lần. Bấy giờ, tôi nhìn thấy hết sức rõ ràng, trên "mặt" cái cây yêu quái đó toàn là nếp nhăn, nổi bật nhất là hai "con mắt" to tướng. Tôi thầm nhủ, bảo nó là thực vật, chi bằng nói đây là một loại bán sinh vật sống trong bùn đất, sinh tồn bằng cách hút chất dịch bên trong xác chết thì có lẽ chính xác hơn.
Đừng nói là phải đối diện với bộ mặt quái đản xấu xí của nó, chỉ riêng ngửi cái mùi ẩm thấp vừa tanh vừa thối trên người nó thôi cũng đã choáng váng đầu óc muốn té xỉu tại chỗ rồi. Chuyện đến nước này, chúng tôi cũng chỉ còn biết lùi dần về phía sau, tôi và lão Dương Bì xốc hai bên đỡ Đinh Tư Điềm, Tuyền béo cầm đao chặt đứt những đoạn rễ cây đang không ngừng vươn tới, bốn người bị bức ép dần dần lùi vào trong đường hầm bí mật phía sau cái tủ sắt.
Tôi lo Tuyền béo một mình gặp nạn, sau khi chạy vào trong mật thất cũng chẳng kịp nhìn rõ xung quanh thế nào, đã để Đinh Tư Điềm lại cho lão Dương Bì trông chừng, sau đó quay đầu chạy ra chỗ cửa tiếp ứng cho Tuyền béo, định đóng cửa ngầm lại hòng chặn đứng thế tiến công của cái cây yêu quái, nhưng trong lúc hoảng loạn như thế, sao có thể tìm được chốt lẫy bí mật ở phía bên trong này cơ chứ?
Tuyền béo gặp cái khó ló cái khôn, liền đẩy cái xác bên trong lối đi bí mật ấy ra ngoài. Một cái rễ cây lập tức cuốn chặt lấy nó bọc vào bên trong bộ rễ xù xì, tôi lợi dụng cơ hội ấy đóng ập cánh cửa bên trong mật thất lại, rồi cùng Tuyền béo tìm tất cả mọi thứ có thể tìm được chặn ra sau cửa. Bấy giờ mới nhìn ra, gian mật thất rộng lớn này đâu đâu cũng toàn là các tủ lớn bày đầy những bình chứa tiêu bản. Trong lúc hỗn loạn, chúng tôi đã làm vỡ rất nhiều bình thủy tinh, các bộ phận thân thể người và xác chết của đủ thứ động vật kỳ dị rơi lăn lóc đầy ra đất, trong không gian lập tức nồng nặc mùi chất chống phân hủy.
Chúng tôi trải qua một phen hoảng loạn, thân thể gần như kiệt quệ, tạm thời thấy cánh cửa đã bị chặn, thần kinh đang căng liền thả lỏng ra một chút, hai chân bỗng mềm nhũn ra. Vết thương trên vai lại đau nhức khó chịu vô cùng, thuận đà tôi loạng choạng lùi mấy bước, định kiếm chỗ ngồi tạm xuống nghỉ ngơi. Vừa khéo sau lưng có một bệ đá, trong bóng tối tù mù, tôi cũng chẳng kịp nhìn rõ, cứ ngồi phịch xuống. Ngồi lên đấy rồi, tôi mới cảm thấy sau lưng lạnh buốt lạ thường, liền vòng tay ra sờ thử, phát hiện ngón tay chạm phải một vật thể lạnh lẽo lồi lõm bằng kim loại, liền xòe cả bàn tay rờ mò, thì ra là một tấm mặt nạ hình mặt người. Tôi giật thót mình, lập tức nhớ đến cái xác đàn bà người Tiên Ty đeo mặt nạ trong bức bích họa kia, vội vàng quay người lại chiếu đèn pin xem. Trên bệ đá trông như bàn phẫu thuật này, quả nhiên có một xác đàn bà ăn mặc theo kiểu cổ, mặt nạ kim loại trên mặt bị chùm sáng màu vàng của đèn pin rọi vào, ánh lên những tia lạnh lẽo âm u.
Tuyền béo và lão Dương Bì cũng phát giác có sự lạ, đều bước lại quan sát. Sức mạnh chấn nhiếp vô hình tỏa ra từ sự chết chóc khiến toàn thân chúng tôi khẽ run lên, cái đèn pin đeo trước ngực cũng theo nhịp thở gấp gáp mà dập dềnh lên xuống. Có lẽ tôi đã hoa mắt, trong cột sáng dao động của đèn pin, cái mặt nạ trên mặt xác chết ấy như thể đã sống lại, bộ mặt vốn nghiêm trang không chút xúc cảm dường như đang nở một nụ cười cổ quái.