Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 163
– Kia là… khụ khụ khụ!
Ưng Hà Tòng nằm dưới đất, hồi lâu không thở nổi, cổ đau rát, hắn chỉ bị quái nhân xách lên chốc lát và bị ấn mấy dấu tay xanh tím, thế mà ho chết đi sống lại.
Ngô Sở Sở tuy thân thủ kém nhất, nhưng được Lý Nghiên đẩy ra sớm nhất, lúc này ngược lại không sao cả, nàng ấy bò dậy vẫn chưa hết kinh hãi, vừa kéo Lý Nghiên vừa nói:
– Mọi người có thấy tay người đó không?
Quái nhân nhìn không thấy mặt mũi nhưng tay duỗi ra lại dài hết hồn, da thịt khô quắt thâm đen dính lên xương, giữa cánh tay và bàn tay có thể nhìn rõ từng chỗ nối xương.
Ngô Sở Sở:
– Thực giống y những cương thi bị Niết Bàn cổ hút khô ấy!
Giọng Ưng Hà Tòng khàn khàn:
– Không cần giống, đó chính là Niết Bàn cổ chúa… Ân Bái.
– Là Ân Bái.
Lý Thịnh trầm giọng:
– Ta từng giao thủ với những dược nhân của hắn ta, ai nấy đều công lực thâm hậu, nhưng… shhh… đều toát mùi thối rữa.
Ngô Sở Sở vội nói:
– Vậy những lời chúng ta mới nói chẳng phải bị hắn ta nghe hết rồi sao?
Lý Thịnh cẩn thận hoạt động sau lưng đau nhức, nghe vậy cúi đầu nhìn lướt qua cuộn tranh và những mật thư chết người. Ân Bái không đụng tới chúng, ban nãy hắn ta đột nhiên xuất hiện lại đột nhiên rời đi, mọi hành động đều giống như cổ trùng lên não, chỉ nôn nóng cướp con mẫu trùng chết ngắt, toàn thân đều toát vẻ điên rồ.
– Đừng hoảng.
Lý Thịnh định thần lại, nhỏ giọng:
– Chúng ta cũng đoán bừa thôi, ngay cả chúng ta cũng không tính là có chứng cứ, Ân Bái càng không có, Niết Bàn cổ mẫu chết không phải hoàn toàn không ảnh hưởng tới Ân Bái, ta thấy thần trí hắn ta không rõ ràng lắm, người như vậy dù ra ngoài nói hươu nói vượn cũng không ai nghe đâu.
Ưng Hà Tòng cười lạnh:
– Năm xưa khi gọi Niết Bàn cổ lên người mình thì hắn ta đã không có thứ gọi là “thần trí” rồi.
Lý Thịnh nói nhanh:
– Chuyện này quan trọng, chỉ sợ đêm dài lắm mộng, không thể dây dưa nữa, như vậy… A Nghiên, Ngô cô nương, hai người tiếp tục dẫn các lưu dân lên đường, trở về nói hết đầu đuôi chuyện này cho đại cô cô, bây giờ ta lập tức mang cái hộp gỗ Tề môn này đi tìm cô phụ… Ưng huynh, Ân Bái cướp Niết Bàn cổ mẫu, lại nghe những lời chúng ta nói, ta nghi ngờ lúc này hắn ta muốn đi Kim Lăng hoặc cố đô, mà độ khả thi của Kim Lăng lớn hơn.
– Ta biết rồi.
Ưng Hà Tòng gật đầu:
– Ta sẽ đi Kim Lăng xem thử, ta cũng muốn biết hắn ta cầm một con sâu chết thì có thể giở trò gì.
– Cảm phiền rồi, A Nghiên, đưa khối Ngũ Bức lệnh của muội ra đây.
Lý Thịnh gật đầu, bảo Lý Nghiên giao ra lệnh bài dơi đỏ mang theo bên người rồi gỡ bảng tên bên hông mình xuống, gộp lại đưa hết cho Ưng Hà Tòng, căn dặn:
– Trước tiên liên hệ Hành Tẩu Bang để họ tìm Dương Cẩn, Kình Vân Câu đều là người Nam Cương, đời đời làm bạn với độc trùng và khí độc, chắc chắn có bản lĩnh đặc biệt trong phương diện phòng độc trấn cổ, rắn của huynh sợ Ân Bái, nếu gặp hắn ta, khó tránh sẽ chật vật. Với lại đừng quên cầm bảng tên của ta tìm trạm ngầm trong trại, liên hệ với A Phỉ, người trong trại chúng ta khi hành tẩu bên ngoài, bất kể là ai, đến nơi nào cũng biết trạm ngầm ở nơi đó, họ sẽ liên hệ được. Võ công tên Ân Bái này quá mức tà môn, lỡ hắn ta nổi điên lên thì cũng có người có thể kiềm chế hắn ta.
Ưng Hà Tòng đã quen ngàn dặm độc hành, tay bị nhét hai tín vật, lại bị đổ đầy tai những lời căn dặn, lúc này có chút bối rối.
Đầu tiên bảo hắn tìm Kình Vân Câu, sau đó bảo hắn triệu hồi Chu Phỉ, nghe giống như Lý Thịnh không hề tin tưởng trình độ y độc của hắn, lại cảm thấy võ công của hắn cũng không tốt nốt, nhưng không biết có phải vì giọng điệu Lý Thịnh quá chân thành tha thiết hay không, Ưng Hà Tòng không hề cảm thấy không thoải mái.
Lý Thịnh vỗ vai hắn, lướt qua Ưng Hà Tòng, nhìn các lưu dân bị động tĩnh ban nãy đánh thức, nói:
– Một cây làm chẳng nên non, huynh đệ.
Ưng Hà Tòng sững sờ, ngón tay cầm Ngũ Bức lệnh và bảng tên nắm chặt, tiếp đó nhìn sâu sắc Lý Thịnh, khẽ gật đầu, xoay người rời đi.
Các phương thế lực hoặc sáng hoặc tối nhao nhao lên đường, mục tiêu nhắm về cùng một hướng: Nam đô Kim Lăng.
Mà trong thành Kim Lăng vẫn là sắc thu an lành.
Chạng vạng, tà dương dần tắt, tiếng phượng tiêu vang vọng, chiếc đèn hoa sen đầu tiên được thắp sáng bên bờ sông Tần Hoài khẽ đong đưa, ánh sáng nhạt lan tỏa, lá xào xạc rơi xuống nước gần bờ đê rồi lặng yên không bóng dáng.
Trong thành cung, trăm năm phồn hoa tươi đẹp chưa thay, tường cao ngói trổ chạy dài xa xa, hồn phách Tạ Doãn vốn chìm trong cơ thể lạnh băng như thoát xác tung ra, lảo đảo giữa hiên nhà chạm trổ và trụ ngọc, va phải thềm son và lưu ly ngang dọc bốn phía, khóc lóc không chịu về.
Bình thường giữa các cao thủ nếu không có địch ý với nhau, vì lịch sự, họ có thể gây ra chút tiếng động khẽ khi ẩn nấp, hoặc hơi tạo ra chút sơ hở, đây gọi là “ném đá”, một là để chào hỏi, hai là để thăm dò đối phương sâu cạn. Nếu bị người ta nói toạc ra chỗ ẩn thân, gọi tiếng đầu tiên, người ẩn thân thông thường sẽ không phản ứng, vì nếu tình cờ gặp phải kẻ lõi đời mà võ công chẳng ra sao, đối phương có thể chỉ thuận miệng nói bừa thôi, bị lừa xuất hiện thì quá ngu. Đây là bài bản.
Tạ Doãn mới đầu còn tưởng là một cao nhân nghịch ngợm nào đó lẻn vào trong cung đùa giỡn. Ai ngờ bị ý trời khó đoán làm choáng váng.
Chu Phỉ kỳ thực cũng không phải dùng bài bản giang hồ tới trêu Tạ Doãn, sự thật là sau khi nàng nghe Lưu Hữu Lương nói Tạ Doãn trực tiếp vào cung liền không kìm được, tự ý xông vào cung cấm, lang thang cả ngày mà chẳng thu hoạch được gì, vốn đã bình tĩnh lại định rời đi, nào ngờ đúng lúc thấy nơi đây có nhiều đại nội thị vệ canh gác, nhất thời nổi lòng hiếu thắng tinh nghịch, định chuồn vào chơi một chuyến ngay dưới mắt các cao thủ.
Nàng mang vài phần đắc ý thành công lên xà nhà, vừa nhìn liền thấy ngay người nào đó, suýt trượt chân rơi xuống, lúc này mới có “ném đá”.
Chờ Tạ Doãn dăm ba câu đuổi Triệu Uyên đi, cho lui hạ nhân rồi nói toạc ra chỗ ẩn thân của nàng, Chu Phỉ không hề phản ứng ngay, là vì sau khi nàng thấy Tạ Doãn, người bị cứng đờ rất lâu, vô thức ép tê một chân mình.
Nhưng nàng không định để lộ sự thực mình ngu ngốc lang thang bên ngoài một ngày một đêm, bây giờ sau lưng còn toát mồ hôi lạnh, bởi vậy nàng trưng bản mặt tỉnh lình, ung dung bước đến chỗ Tạ Doãn, vờ như rất thân quen và hờ hững quơ quơ tay trước mặt hắn:
– Sao, lại hôn mê à?
Tạ Doãn nắm lấy tay nàng, sau đó bị chênh lệch nhiệt độ to lớn làm giật mình hoàn hồn, vội buông ra.
Mồm miệng ba hoa như giấu gai của hắn ban nãy dùng đối phó Triệu Uyên giờ dường như dính lại, hơi đơ ra, ngây ngẩn hồi lâu mới liều mạng gom góp hồn phách đang du đãng trên đỉnh đầu về, lắc đầu cười khan, tìm đề tài nói:
– Bao nhiêu năm không gặp, sao vừa gặp ta lại hung dữ thế?
Chu Phỉ:
– Là ngươi nhiều năm không gặp ta, chứ ta luôn có thể nhìn thấy ngươi.
Nói xong, nàng lại hơi cắn lưỡi, bổ sung một câu:
– Nhìn tới mức phiền chết đi được.
Khóe môi Tạ Doãn như sông băng đầu xuân, nhanh chóng tan chảy theo thời gian, từ từ tan thành nụ cười xấu xa đúng chuẩn:
– Gì? Tại hạ hoa nhường nguyệt thẹn mà có thể nhìn phiền thì cô muốn nhìn gì? Thiên tiên chắc?
Chu Phỉ:
– …
Chó không đổi được tánh ăn gì đó, Tạ Doãn không sửa được miệng mồm đê tiện.
Tạ Doãn bật cười, Chu Phỉ không nhìn nổi, quay đầu muốn quay lại xà nhà thì bị hắn gọi lại.
– A Phỉ.
Tạ Doãn đưa ngón tay lạnh băng khều đuôi tóc dài bay lên của nàng, vừa chạm vào liền thả ra, hắn nói khẽ:
– Ta nhớ cô lắm.
Bước chân Chu Phỉ khựng lại.
Nàng cảm nhận được hơi thở lạnh băng đang kiềm chế gom lại, dè dặt giữ khoảng cách với nàng, Tạ Doãn kéo nàng qua chỗ ống tay áo dày nhất, nói:
– Trước đây ta có nói với cô chưa nhỉ, mười phần mỹ vị nhân gian thì năm phần là ở Kim Lăng?
Chu Phỉ:
– Ngươi còn vừa gặm cái bánh bao tạp vừa ăn nói bừa bãi, nói muốn mời ta đến tửu lâu ngon nhất Kim Lăng.
Tạ Doãn:
– Vậy còn chờ gì nữa?
Một khắc sau, hai người không coi hoàng cung đại nội ra gì, nhảy khỏi thành cung, men theo chỗ náo nhiệt chạy ra ngoài.
Trời đã lạnh nhưng hoa đăng như ban ngày, hơi nước lượn lờ bốn phía, vây quanh người Tạ Doãn, nhanh chóng ngưng kết thành vụn băng nhỏ li ti, hắn băng như tia chớp qua đám đông, dẫn đường phía trước, không ôn chuyện với Chu Phỉ, cũng không hỏi nàng tới làm gì, bỏ đi mọi thứ ngọn nguồn nguyên do, chỉ đắm mình vào hiện tại không rõ là mơ hay thực.
Dọc đường hắn nói nhỏ với đồ nhà quê Chu Phỉ chưa vào thành bao giờ, chỉ điểm về phong cảnh đế đô, mới đầu Chu Phỉ còn nghe tai có tai không, mãi đến khi Tạ Doãn chỉ vào một tiệm son phấn nói:
– Cô nhìn căn tiệm không bắt mắt kia xem, cái tên “Nhị Thập Tứ Kiều” cũng là có sự tích riêng, nghe nói 200 năm trước có một vị mỹ nhân tuyệt sắc lưu lạc phong trần, một khúc “Nhị thập tứ kiều” vang danh thiên hạ, sau đó hồng nhan dần tàn, cuối cùng thỏa hiệp với trần thế, được một phú hộ bỏ tiền ra chuộc, trước khi đi, nàng ấy ở nơi này thổi tiêu cả đêm, người đời sau rung động với chuyện này nên mở tiệm son phấn ở đây, lấy tiếng tiêu làm tên, với ý “phù sinh nhược mộng, hồng nhan bất lão”.
Chu Phỉ:
– …
Tạ Doãn rung đùi đắc ý than:
– Tiểu mỹ nhân biến thành đại mỹ nhân mà vẫn không hiểu phong tình gì hết.
Chu Phỉ câm nín chốc lát, lành lạnh nói:
– …Vậy à? Ta còn tưởng tiệm “Nhị Thập Tứ Kiều” này là trạm ngầm của trại ta chứ.
Tạ Doãn chém gió xàm bị người ta vạch trần ngay tại chỗ lại không hề lúng túng, ngược lại chắp tay cười nói:
– Chậc, năm xưa có người ở cổng nhà mình mà không biết vào thế nào, dọc đường kể 32 điển cố Thục Trung, trong đó 28 cái là tự bịa…
Hắn nói chưa dứt lời đã bay vút ra ngoài như một làn gió, Quá Vô Ngân dường như còn hơn hẳn năm xưa, một con cún dạo chơi trên mấy tảng đá xanh nghi hoặc ngẩng đầu nhìn quanh nhưng ngay cả cái bóng cũng không thấy. Chu Phỉ tuy không có khinh công tuyệt đỉnh hòa làm một cùng gió mát như hắn nhưng cũng đuổi theo không hề phí sức.
Bước chân Tạ Doãn dừng bên cạnh một tửu lâu nhỏ bên bờ sông, hắn đứng ở đầu cầu, sương mù trắng xóa trong nước lượn lờ bao quanh, Tạ Doãn nhặt một hòn sỏi nhỏ dưới đất, bắn cực kỳ tinh chuẩn vào lỗ đèn lồng treo cao, kế đó ngoắc tay với Chu Phỉ, chợt nhảy lên, khéo léo điểm lên cây quế ở xung quanh, hương thơm ngào ngạt tỏa ra lác đác, hắn bồng bềnh đáp xuống nóc tòa nhà lầu ba, trên nóc nhà này có một “nhã gian”, ngăn ra một chỗ nhỏ, bàn ghế đầy đủ, tiếc là không có thang, phàm là người khinh công hơi kém sẽ không thể lên đây.
Tạ Doãn thò đầu ra nói với Chu Phỉ:
– Lên đây, để ý đừng…
Lời hắn chưa dứt, Chu Phỉ đã lưu loát hạ xuống phía sau hắn:
– Đừng gì?
– Đừng đụng làm kêu chuông trên nóc, bằng không họ sẽ không dâng rượu cho cô.
Tạ Doãn khựng lại, từ từ nói nốt câu của mình xong mới khẽ nói:
– Trần sư thúc nói cô tiến bộ thần tốc, ngay cả thầy đồ Lâm cũng sợ cô, mới đầu ta còn tưởng ông ấy khen quá lời, bây giờ xem ra, ta cũng sắp sợ cô rồi.
Lúc này, trong nhã gian nóc nhà vang một tiếng “cọt kẹt”, tấm gỗ dưới bàn mở ra từ bên dưới, một hộp cơm ba tầng từ dưới đáy bàn đưa ra, tiếp theo là một bình rượu.
Tạ Doãn tự làm trước, bưng đồ nhắm lên bàn, nói với Chu Phỉ:
– Đây là tửu lâu ngon nhất Kim Lăng, mời.
Nhưng Chu Phỉ không di chuyển, chút ý cười loáng thoáng trên mặt nàng nhạt đi:
– Ta tìm tới cấm địa Tề môn, thấy di tích cũ của Lữ quốc sư, tình cờ hiểu được yếu quyết của Khô Vinh chân khí, nhưng…
Một ly rượu chợt bay tới, ngắt lời Chu Phỉ, nàng quơ tay đón lấy theo bản năng, một giọt cũng không rơi ra, Chu Phỉ ngẩn người, chỉ cảm thấy hương rượu mang theo chút hàn ý phả vào mặt.
Tạ Doãn nhẹ giọng:
– Giờ lành cảnh đẹp mà nói mấy thứ phá hoại không khí này, có phải cô muốn tìm phạt không?
Chu Phỉ ngơ ngác ngẩng đầu, Tạ Doãn chạm ánh mắt nàng, chợt giơ tay che ngực, bóp cổ tay nói:
– Ôi đời người nhiều nỗi hận, hận hoa quế thơm nồng, hận đêm lành ngắn ngủi, hận mẫu đơn không hương, rượu hoa điêu khó say, đại mỹ nhân quấy nhiễu giấc mộng ba năm của ta ở ngay trước mắt mà không cưới được, chậc, đời có gì vui?
Chu Phỉ:
– …
Tạ Doãn lại chợt quay đầu nháy mắt với nàng:
– Nếu mỹ nhân chịu hôn ta một cái là ta có thể nhắm mắt rồi.
Chu Phỉ:
– Có phải ngươi muốn lăn từ nóc nhà xuống không?
Tạ Doãn cười to:
– Đầu chúc xuống dưới à? Không được, bất nhã lắm.
Nói rồi hắn kéo Chu Phỉ vào chỗ ngồi, vắt đôi chân dài không chút hình tượng lên xà gỗ của “nhã gian nóc nhà”, xa xa thuyền hoa đã mở, trong ánh sáng dập dềnh sóng nước thoáng vẳng tiếng sênh ca, hắn đưa mắt nhìn, rượu trong ly nơi tay nháy mắt đã kết sương, hồi lâu hắn mới nói:
– Lúc nãy là đùa đấy, có thể làm lỡ dở cô ba năm, ta đã có thể tiếu ngạo cửu tuyền rồi.
Ánh nước trong mắt Chu Phỉ lóe lên, sau đó nàng cười nhạo:
– Bớt dát vàng lên mặt mình đi, không có ngươi, bộ ta không sống nổi ba năm này hả?
Tạ Doãn:
– Không có ta, cô không cần đối đầu với Vũ Khúc, không cần phải đi cấm địa Tề môn cửu tử nhất sinh…
Chu Phỉ nghiêm túc nói tiếp:
– Phải, cũng chưa chắc luyện thành thần công cái thế đạp lên Bắc Đẩu.
Tạ Doãn im lặng chốc lát, kinh ngạc quay đầu nhìn nàng:
– Trời ơi, không biết xấu hổ kìa, thật có phong thái của ta thời trẻ!
Chu Phỉ bật cười không tiếng động.
Lúc này, không biết là ai ăn no rửng mỡ, không phải lễ tết gì mà thả pháo hoa nhỏ trên mặt nước, nháy mắt soi sáng một mảng, Tạ Doãn bị ánh sáng ấy quấy nhiễu, hơi nghiêng đầu, chợt cảm giác một vị ngọt cực nhạt mang hơi thở thiếu nữ nhanh chóng áp tới, môi như bị lông vũ lướt qua.
Tạ Doãn chợt ngừng hô hấp, đờ đẫn.
Ưng Hà Tòng nằm dưới đất, hồi lâu không thở nổi, cổ đau rát, hắn chỉ bị quái nhân xách lên chốc lát và bị ấn mấy dấu tay xanh tím, thế mà ho chết đi sống lại.
Ngô Sở Sở tuy thân thủ kém nhất, nhưng được Lý Nghiên đẩy ra sớm nhất, lúc này ngược lại không sao cả, nàng ấy bò dậy vẫn chưa hết kinh hãi, vừa kéo Lý Nghiên vừa nói:
– Mọi người có thấy tay người đó không?
Quái nhân nhìn không thấy mặt mũi nhưng tay duỗi ra lại dài hết hồn, da thịt khô quắt thâm đen dính lên xương, giữa cánh tay và bàn tay có thể nhìn rõ từng chỗ nối xương.
Ngô Sở Sở:
– Thực giống y những cương thi bị Niết Bàn cổ hút khô ấy!
Giọng Ưng Hà Tòng khàn khàn:
– Không cần giống, đó chính là Niết Bàn cổ chúa… Ân Bái.
– Là Ân Bái.
Lý Thịnh trầm giọng:
– Ta từng giao thủ với những dược nhân của hắn ta, ai nấy đều công lực thâm hậu, nhưng… shhh… đều toát mùi thối rữa.
Ngô Sở Sở vội nói:
– Vậy những lời chúng ta mới nói chẳng phải bị hắn ta nghe hết rồi sao?
Lý Thịnh cẩn thận hoạt động sau lưng đau nhức, nghe vậy cúi đầu nhìn lướt qua cuộn tranh và những mật thư chết người. Ân Bái không đụng tới chúng, ban nãy hắn ta đột nhiên xuất hiện lại đột nhiên rời đi, mọi hành động đều giống như cổ trùng lên não, chỉ nôn nóng cướp con mẫu trùng chết ngắt, toàn thân đều toát vẻ điên rồ.
– Đừng hoảng.
Lý Thịnh định thần lại, nhỏ giọng:
– Chúng ta cũng đoán bừa thôi, ngay cả chúng ta cũng không tính là có chứng cứ, Ân Bái càng không có, Niết Bàn cổ mẫu chết không phải hoàn toàn không ảnh hưởng tới Ân Bái, ta thấy thần trí hắn ta không rõ ràng lắm, người như vậy dù ra ngoài nói hươu nói vượn cũng không ai nghe đâu.
Ưng Hà Tòng cười lạnh:
– Năm xưa khi gọi Niết Bàn cổ lên người mình thì hắn ta đã không có thứ gọi là “thần trí” rồi.
Lý Thịnh nói nhanh:
– Chuyện này quan trọng, chỉ sợ đêm dài lắm mộng, không thể dây dưa nữa, như vậy… A Nghiên, Ngô cô nương, hai người tiếp tục dẫn các lưu dân lên đường, trở về nói hết đầu đuôi chuyện này cho đại cô cô, bây giờ ta lập tức mang cái hộp gỗ Tề môn này đi tìm cô phụ… Ưng huynh, Ân Bái cướp Niết Bàn cổ mẫu, lại nghe những lời chúng ta nói, ta nghi ngờ lúc này hắn ta muốn đi Kim Lăng hoặc cố đô, mà độ khả thi của Kim Lăng lớn hơn.
– Ta biết rồi.
Ưng Hà Tòng gật đầu:
– Ta sẽ đi Kim Lăng xem thử, ta cũng muốn biết hắn ta cầm một con sâu chết thì có thể giở trò gì.
– Cảm phiền rồi, A Nghiên, đưa khối Ngũ Bức lệnh của muội ra đây.
Lý Thịnh gật đầu, bảo Lý Nghiên giao ra lệnh bài dơi đỏ mang theo bên người rồi gỡ bảng tên bên hông mình xuống, gộp lại đưa hết cho Ưng Hà Tòng, căn dặn:
– Trước tiên liên hệ Hành Tẩu Bang để họ tìm Dương Cẩn, Kình Vân Câu đều là người Nam Cương, đời đời làm bạn với độc trùng và khí độc, chắc chắn có bản lĩnh đặc biệt trong phương diện phòng độc trấn cổ, rắn của huynh sợ Ân Bái, nếu gặp hắn ta, khó tránh sẽ chật vật. Với lại đừng quên cầm bảng tên của ta tìm trạm ngầm trong trại, liên hệ với A Phỉ, người trong trại chúng ta khi hành tẩu bên ngoài, bất kể là ai, đến nơi nào cũng biết trạm ngầm ở nơi đó, họ sẽ liên hệ được. Võ công tên Ân Bái này quá mức tà môn, lỡ hắn ta nổi điên lên thì cũng có người có thể kiềm chế hắn ta.
Ưng Hà Tòng đã quen ngàn dặm độc hành, tay bị nhét hai tín vật, lại bị đổ đầy tai những lời căn dặn, lúc này có chút bối rối.
Đầu tiên bảo hắn tìm Kình Vân Câu, sau đó bảo hắn triệu hồi Chu Phỉ, nghe giống như Lý Thịnh không hề tin tưởng trình độ y độc của hắn, lại cảm thấy võ công của hắn cũng không tốt nốt, nhưng không biết có phải vì giọng điệu Lý Thịnh quá chân thành tha thiết hay không, Ưng Hà Tòng không hề cảm thấy không thoải mái.
Lý Thịnh vỗ vai hắn, lướt qua Ưng Hà Tòng, nhìn các lưu dân bị động tĩnh ban nãy đánh thức, nói:
– Một cây làm chẳng nên non, huynh đệ.
Ưng Hà Tòng sững sờ, ngón tay cầm Ngũ Bức lệnh và bảng tên nắm chặt, tiếp đó nhìn sâu sắc Lý Thịnh, khẽ gật đầu, xoay người rời đi.
Các phương thế lực hoặc sáng hoặc tối nhao nhao lên đường, mục tiêu nhắm về cùng một hướng: Nam đô Kim Lăng.
Mà trong thành Kim Lăng vẫn là sắc thu an lành.
Chạng vạng, tà dương dần tắt, tiếng phượng tiêu vang vọng, chiếc đèn hoa sen đầu tiên được thắp sáng bên bờ sông Tần Hoài khẽ đong đưa, ánh sáng nhạt lan tỏa, lá xào xạc rơi xuống nước gần bờ đê rồi lặng yên không bóng dáng.
Trong thành cung, trăm năm phồn hoa tươi đẹp chưa thay, tường cao ngói trổ chạy dài xa xa, hồn phách Tạ Doãn vốn chìm trong cơ thể lạnh băng như thoát xác tung ra, lảo đảo giữa hiên nhà chạm trổ và trụ ngọc, va phải thềm son và lưu ly ngang dọc bốn phía, khóc lóc không chịu về.
Bình thường giữa các cao thủ nếu không có địch ý với nhau, vì lịch sự, họ có thể gây ra chút tiếng động khẽ khi ẩn nấp, hoặc hơi tạo ra chút sơ hở, đây gọi là “ném đá”, một là để chào hỏi, hai là để thăm dò đối phương sâu cạn. Nếu bị người ta nói toạc ra chỗ ẩn thân, gọi tiếng đầu tiên, người ẩn thân thông thường sẽ không phản ứng, vì nếu tình cờ gặp phải kẻ lõi đời mà võ công chẳng ra sao, đối phương có thể chỉ thuận miệng nói bừa thôi, bị lừa xuất hiện thì quá ngu. Đây là bài bản.
Tạ Doãn mới đầu còn tưởng là một cao nhân nghịch ngợm nào đó lẻn vào trong cung đùa giỡn. Ai ngờ bị ý trời khó đoán làm choáng váng.
Chu Phỉ kỳ thực cũng không phải dùng bài bản giang hồ tới trêu Tạ Doãn, sự thật là sau khi nàng nghe Lưu Hữu Lương nói Tạ Doãn trực tiếp vào cung liền không kìm được, tự ý xông vào cung cấm, lang thang cả ngày mà chẳng thu hoạch được gì, vốn đã bình tĩnh lại định rời đi, nào ngờ đúng lúc thấy nơi đây có nhiều đại nội thị vệ canh gác, nhất thời nổi lòng hiếu thắng tinh nghịch, định chuồn vào chơi một chuyến ngay dưới mắt các cao thủ.
Nàng mang vài phần đắc ý thành công lên xà nhà, vừa nhìn liền thấy ngay người nào đó, suýt trượt chân rơi xuống, lúc này mới có “ném đá”.
Chờ Tạ Doãn dăm ba câu đuổi Triệu Uyên đi, cho lui hạ nhân rồi nói toạc ra chỗ ẩn thân của nàng, Chu Phỉ không hề phản ứng ngay, là vì sau khi nàng thấy Tạ Doãn, người bị cứng đờ rất lâu, vô thức ép tê một chân mình.
Nhưng nàng không định để lộ sự thực mình ngu ngốc lang thang bên ngoài một ngày một đêm, bây giờ sau lưng còn toát mồ hôi lạnh, bởi vậy nàng trưng bản mặt tỉnh lình, ung dung bước đến chỗ Tạ Doãn, vờ như rất thân quen và hờ hững quơ quơ tay trước mặt hắn:
– Sao, lại hôn mê à?
Tạ Doãn nắm lấy tay nàng, sau đó bị chênh lệch nhiệt độ to lớn làm giật mình hoàn hồn, vội buông ra.
Mồm miệng ba hoa như giấu gai của hắn ban nãy dùng đối phó Triệu Uyên giờ dường như dính lại, hơi đơ ra, ngây ngẩn hồi lâu mới liều mạng gom góp hồn phách đang du đãng trên đỉnh đầu về, lắc đầu cười khan, tìm đề tài nói:
– Bao nhiêu năm không gặp, sao vừa gặp ta lại hung dữ thế?
Chu Phỉ:
– Là ngươi nhiều năm không gặp ta, chứ ta luôn có thể nhìn thấy ngươi.
Nói xong, nàng lại hơi cắn lưỡi, bổ sung một câu:
– Nhìn tới mức phiền chết đi được.
Khóe môi Tạ Doãn như sông băng đầu xuân, nhanh chóng tan chảy theo thời gian, từ từ tan thành nụ cười xấu xa đúng chuẩn:
– Gì? Tại hạ hoa nhường nguyệt thẹn mà có thể nhìn phiền thì cô muốn nhìn gì? Thiên tiên chắc?
Chu Phỉ:
– …
Chó không đổi được tánh ăn gì đó, Tạ Doãn không sửa được miệng mồm đê tiện.
Tạ Doãn bật cười, Chu Phỉ không nhìn nổi, quay đầu muốn quay lại xà nhà thì bị hắn gọi lại.
– A Phỉ.
Tạ Doãn đưa ngón tay lạnh băng khều đuôi tóc dài bay lên của nàng, vừa chạm vào liền thả ra, hắn nói khẽ:
– Ta nhớ cô lắm.
Bước chân Chu Phỉ khựng lại.
Nàng cảm nhận được hơi thở lạnh băng đang kiềm chế gom lại, dè dặt giữ khoảng cách với nàng, Tạ Doãn kéo nàng qua chỗ ống tay áo dày nhất, nói:
– Trước đây ta có nói với cô chưa nhỉ, mười phần mỹ vị nhân gian thì năm phần là ở Kim Lăng?
Chu Phỉ:
– Ngươi còn vừa gặm cái bánh bao tạp vừa ăn nói bừa bãi, nói muốn mời ta đến tửu lâu ngon nhất Kim Lăng.
Tạ Doãn:
– Vậy còn chờ gì nữa?
Một khắc sau, hai người không coi hoàng cung đại nội ra gì, nhảy khỏi thành cung, men theo chỗ náo nhiệt chạy ra ngoài.
Trời đã lạnh nhưng hoa đăng như ban ngày, hơi nước lượn lờ bốn phía, vây quanh người Tạ Doãn, nhanh chóng ngưng kết thành vụn băng nhỏ li ti, hắn băng như tia chớp qua đám đông, dẫn đường phía trước, không ôn chuyện với Chu Phỉ, cũng không hỏi nàng tới làm gì, bỏ đi mọi thứ ngọn nguồn nguyên do, chỉ đắm mình vào hiện tại không rõ là mơ hay thực.
Dọc đường hắn nói nhỏ với đồ nhà quê Chu Phỉ chưa vào thành bao giờ, chỉ điểm về phong cảnh đế đô, mới đầu Chu Phỉ còn nghe tai có tai không, mãi đến khi Tạ Doãn chỉ vào một tiệm son phấn nói:
– Cô nhìn căn tiệm không bắt mắt kia xem, cái tên “Nhị Thập Tứ Kiều” cũng là có sự tích riêng, nghe nói 200 năm trước có một vị mỹ nhân tuyệt sắc lưu lạc phong trần, một khúc “Nhị thập tứ kiều” vang danh thiên hạ, sau đó hồng nhan dần tàn, cuối cùng thỏa hiệp với trần thế, được một phú hộ bỏ tiền ra chuộc, trước khi đi, nàng ấy ở nơi này thổi tiêu cả đêm, người đời sau rung động với chuyện này nên mở tiệm son phấn ở đây, lấy tiếng tiêu làm tên, với ý “phù sinh nhược mộng, hồng nhan bất lão”.
Chu Phỉ:
– …
Tạ Doãn rung đùi đắc ý than:
– Tiểu mỹ nhân biến thành đại mỹ nhân mà vẫn không hiểu phong tình gì hết.
Chu Phỉ câm nín chốc lát, lành lạnh nói:
– …Vậy à? Ta còn tưởng tiệm “Nhị Thập Tứ Kiều” này là trạm ngầm của trại ta chứ.
Tạ Doãn chém gió xàm bị người ta vạch trần ngay tại chỗ lại không hề lúng túng, ngược lại chắp tay cười nói:
– Chậc, năm xưa có người ở cổng nhà mình mà không biết vào thế nào, dọc đường kể 32 điển cố Thục Trung, trong đó 28 cái là tự bịa…
Hắn nói chưa dứt lời đã bay vút ra ngoài như một làn gió, Quá Vô Ngân dường như còn hơn hẳn năm xưa, một con cún dạo chơi trên mấy tảng đá xanh nghi hoặc ngẩng đầu nhìn quanh nhưng ngay cả cái bóng cũng không thấy. Chu Phỉ tuy không có khinh công tuyệt đỉnh hòa làm một cùng gió mát như hắn nhưng cũng đuổi theo không hề phí sức.
Bước chân Tạ Doãn dừng bên cạnh một tửu lâu nhỏ bên bờ sông, hắn đứng ở đầu cầu, sương mù trắng xóa trong nước lượn lờ bao quanh, Tạ Doãn nhặt một hòn sỏi nhỏ dưới đất, bắn cực kỳ tinh chuẩn vào lỗ đèn lồng treo cao, kế đó ngoắc tay với Chu Phỉ, chợt nhảy lên, khéo léo điểm lên cây quế ở xung quanh, hương thơm ngào ngạt tỏa ra lác đác, hắn bồng bềnh đáp xuống nóc tòa nhà lầu ba, trên nóc nhà này có một “nhã gian”, ngăn ra một chỗ nhỏ, bàn ghế đầy đủ, tiếc là không có thang, phàm là người khinh công hơi kém sẽ không thể lên đây.
Tạ Doãn thò đầu ra nói với Chu Phỉ:
– Lên đây, để ý đừng…
Lời hắn chưa dứt, Chu Phỉ đã lưu loát hạ xuống phía sau hắn:
– Đừng gì?
– Đừng đụng làm kêu chuông trên nóc, bằng không họ sẽ không dâng rượu cho cô.
Tạ Doãn khựng lại, từ từ nói nốt câu của mình xong mới khẽ nói:
– Trần sư thúc nói cô tiến bộ thần tốc, ngay cả thầy đồ Lâm cũng sợ cô, mới đầu ta còn tưởng ông ấy khen quá lời, bây giờ xem ra, ta cũng sắp sợ cô rồi.
Lúc này, trong nhã gian nóc nhà vang một tiếng “cọt kẹt”, tấm gỗ dưới bàn mở ra từ bên dưới, một hộp cơm ba tầng từ dưới đáy bàn đưa ra, tiếp theo là một bình rượu.
Tạ Doãn tự làm trước, bưng đồ nhắm lên bàn, nói với Chu Phỉ:
– Đây là tửu lâu ngon nhất Kim Lăng, mời.
Nhưng Chu Phỉ không di chuyển, chút ý cười loáng thoáng trên mặt nàng nhạt đi:
– Ta tìm tới cấm địa Tề môn, thấy di tích cũ của Lữ quốc sư, tình cờ hiểu được yếu quyết của Khô Vinh chân khí, nhưng…
Một ly rượu chợt bay tới, ngắt lời Chu Phỉ, nàng quơ tay đón lấy theo bản năng, một giọt cũng không rơi ra, Chu Phỉ ngẩn người, chỉ cảm thấy hương rượu mang theo chút hàn ý phả vào mặt.
Tạ Doãn nhẹ giọng:
– Giờ lành cảnh đẹp mà nói mấy thứ phá hoại không khí này, có phải cô muốn tìm phạt không?
Chu Phỉ ngơ ngác ngẩng đầu, Tạ Doãn chạm ánh mắt nàng, chợt giơ tay che ngực, bóp cổ tay nói:
– Ôi đời người nhiều nỗi hận, hận hoa quế thơm nồng, hận đêm lành ngắn ngủi, hận mẫu đơn không hương, rượu hoa điêu khó say, đại mỹ nhân quấy nhiễu giấc mộng ba năm của ta ở ngay trước mắt mà không cưới được, chậc, đời có gì vui?
Chu Phỉ:
– …
Tạ Doãn lại chợt quay đầu nháy mắt với nàng:
– Nếu mỹ nhân chịu hôn ta một cái là ta có thể nhắm mắt rồi.
Chu Phỉ:
– Có phải ngươi muốn lăn từ nóc nhà xuống không?
Tạ Doãn cười to:
– Đầu chúc xuống dưới à? Không được, bất nhã lắm.
Nói rồi hắn kéo Chu Phỉ vào chỗ ngồi, vắt đôi chân dài không chút hình tượng lên xà gỗ của “nhã gian nóc nhà”, xa xa thuyền hoa đã mở, trong ánh sáng dập dềnh sóng nước thoáng vẳng tiếng sênh ca, hắn đưa mắt nhìn, rượu trong ly nơi tay nháy mắt đã kết sương, hồi lâu hắn mới nói:
– Lúc nãy là đùa đấy, có thể làm lỡ dở cô ba năm, ta đã có thể tiếu ngạo cửu tuyền rồi.
Ánh nước trong mắt Chu Phỉ lóe lên, sau đó nàng cười nhạo:
– Bớt dát vàng lên mặt mình đi, không có ngươi, bộ ta không sống nổi ba năm này hả?
Tạ Doãn:
– Không có ta, cô không cần đối đầu với Vũ Khúc, không cần phải đi cấm địa Tề môn cửu tử nhất sinh…
Chu Phỉ nghiêm túc nói tiếp:
– Phải, cũng chưa chắc luyện thành thần công cái thế đạp lên Bắc Đẩu.
Tạ Doãn im lặng chốc lát, kinh ngạc quay đầu nhìn nàng:
– Trời ơi, không biết xấu hổ kìa, thật có phong thái của ta thời trẻ!
Chu Phỉ bật cười không tiếng động.
Lúc này, không biết là ai ăn no rửng mỡ, không phải lễ tết gì mà thả pháo hoa nhỏ trên mặt nước, nháy mắt soi sáng một mảng, Tạ Doãn bị ánh sáng ấy quấy nhiễu, hơi nghiêng đầu, chợt cảm giác một vị ngọt cực nhạt mang hơi thở thiếu nữ nhanh chóng áp tới, môi như bị lông vũ lướt qua.
Tạ Doãn chợt ngừng hô hấp, đờ đẫn.