Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Em phải đến Harvard học kinh tế - Chương 04 - Phần 3
BỎ LỠ THỜI CƠ ĐƯỢC THEO HỌC THẦY DƯ THU VŨ, TÔI HỐI TIẾC VÔ CÙNG
Tháng 7 năm 1984, tôi được nhận vào học lớp chuyên tu về lý luận của Nhà hát kịch Thượng Hải với điểm thi cao nhất, hơn nữa lại là một nữ sinh duy nhất trong số hơn 40 người được may mắn nhận vào. Tay cầm tờ giấy gọi nhập học tôi vừa mừng vừa lo: mừng vì tôi đã thi vào một lớp đại học nổi tiếng với chuyên ngành mình yêu thích, tôi sẽ được theo học một nhà giáo mà tôi hằng ngưỡng mộ - thầy Dư Thu Vũ. Khi đó thầy Dư Thu Vũ cũng chưa có tiếng tăm nổi trội, nhưng tôi yêu quý thầy là vì qua những tác phẩm chuyên luận về hý kịch, thầy đã có cách nhìn độc đáo, một tư duy mới mẻ. Trái lại tôi rất lo, nếu tôi đi học ở Thượng Hải, thì Đình Nhi sẽ ra sao?
Trong thời gian học thi ở Thượng Hải, tôi đã cố ý đi dò hỏi những nhà trẻ ở gần nơi tôi theo học. Với điều kiện như Đình Nhi, cháu sẽ không thể được nhận vào bất kỳ một nhà trẻ nào ở Thượng Hải. Tôi cũng thăm dò về lệ phí khi gửi một cháu nhỏ, một nhà trẻ loại xoàng nhất, cả tiền ăn lẫn tiền công trông trẻ, một tháng ít nhất cũng phải nộp 60 đồng nhân dân tệ. Có nghĩa là, sau khi nộp tiền cho cháu xong, thì toàn bộ thu nhập của tôi trong một tháng cũng chỉ còn lại 10 đồng. Mặc dù toàn bộ tiền học phí đơn vị đã bao cho, song với 10 đồng bạc lo chi phí cho cả tháng, tôi làm sao sống nổi.
Trong lúc đang khó khăn bộn bề như vậy, mẹ tôi đã chìa bàn tay cứu giúp, mẹ bảo tôi cứ để Đình Nhi lại theo mẹ về Hồ Bắc. Thế nhưng lần này tôi không thể tiếp nhận lòng tốt đó của mẹ được. Bởi vì em dâu sắp sinh cháu nhỏ, nếu trong lúc này tôi lại đẩy Đình Nhi cho mẹ, mẹ tôi cùng một lúc phải chăm sóc cả hai cháu nhỏ! Tôi không thể ích kỉ như vậy được.
Nếu cứ gửi con ở lại Thành Đô, để mình được rảnh rang đi Thượng Hải theo học. Đó cũng là một việc làm ích kỉ. Trong 20 ngày tôi học thi ở Thượng Hải vừa qua, Đình Nhi đã khổ sở như thế nào trong cái nhà trẻ tư nhân đó, khó khăn lắm mới giải quyết được hậu quả tồi tệ đó. Tôi thật không dám đi theo vết xe đổ đó.
Thế thì đành bỏ phí một cơ hội hiếm hoi là được lên Thượng Hải theo học hay sao? Tôi chưa cam tâm chấp nhận, đánh liều tìm đến cha đẻ của Đình Nhi, hi vọng sẽ cho cháu ở tạm với cha đẻ 2 năm. Nhưng anh ấy có những khó khăn riêng, Đình Nhi không thể ở đó được. Thật hết cách. Tôi đành phải viết thư cho thầy Dư Thu Vũ, nói rõ hoàn cảnh của mình, xin ý kiến thầy, cho phép tôi được tự học ở Thành Đô, đến kỳ thi tôi xin đến tham dự đầy đủ. Thật không ngờ thầy Dư đã thuyết phục được Ban lãnh đạo nhà hát chấp nhận lời đề nghị đó của tôi. Thế nhưng, càng nghĩ tôi càng thấy không ổn, học một lớp lý luận chuyên ngành như vậy theo phương thức hàm thụ thật là khó, chi bằng cứ ở lại Thành Đô tự học đại học theo chương trình Đài truyền hình hướng dẫn, như vậy vẫn giữ lại một cơ hội sau này được nghỉ công tác theo học một lớp chuyên tu của một trường nào khác hơn không.
Như vậy, tôi đã bỏ mất một dịp may hiếm có được theo theo học thầy Dư. Chừng nửa năm sau, thầy Dư có dịp đi qua Thành Đô, rất muốn gặp tôi, thầy đã nhờ một nhà viết kịch nữ nhắn cho tôi biết, thế nhưng không hiểu vì sao bà ấy lại quên. Hai năm sau, thầy Dư Thu Vũ lại viết thư cho tôi, khuyên tôi nên thi nghiên cứu sinh do thầy hướng dẫn. Tôi tự biết rằng, tôi sẽ không thể nào vượt được môn thi Anh văn. Vì vậy, tôi đã viết thư “xin tạ lỗi” thầy. Cũng thật lạ, cái tình cảnh hữu duyên vô phận giữa tôi và thầy Dư ấy, lại được lặp lại trong câu chuyện giữa cha tôi và thầy Dư. Sau đó vài năm, tôi vô cùng kinh ngạc gặp lại bóng dáng của cha tôi trong vài lời “Tái bút” viết sau quyển “Bắc đường chìm nổi của một nền văn hoá” của thầy Dư. Hồi đó, tiếng tăm của thầy đã vang trong cả nước, bạn bè trong nước và thế giới đều đánh giá cao tác phẩm của thầy. Trong lời “Tái bút”của cuốn sách nổi tiếng ấy, thầy đã viết:“Trong tất cả những lời bình luận vừa qua, tôi thấy, nghiêm túc hơn và có kiến giải độc đáo hơn chính là bài viết của năm nhà giáo thuộc khoa Trung văn Trường Đại học Hồ Bắc, bài viết này đã được đăng trong mục Bàn về cuốn “Bước đường chìm nổi của một nền văn hoá” thuộc tờ Học Báo của nhà trường. Tôi rất ngạc nhiên trước những suy nghĩ sâu sắc và độc đáo của Trường Đại học Hồ Bắc về lịch sử văn hóa Trung Hoa và nghệ thuật văn xuôi đương đại”. Thầy Dư Thu Vũ đương nhiên không thể biết được rằng, trong những nhà bình luận đó có cha tôi và cái chuyên mục bàn về cuốn sách của thầy trong tờ Học Báo của nhà trường lại chính do cha tôi đề xướng. Tuy rằng, mục đích chính của cha tôi lúc đó chỉ là kích thích hứng thú của học sinh đối với bộ môn Tập làm văn mà cha tôi đang giảng dạy. Thế nhưng, đọc tác phẩm “Bước đường chìm nổi của một nền văn hoá”, cha tôi thầy mình như “sông sâu núi thẳm gặp tri ân”. Thầy Dư Thu Vũ còn viết: “Sau này, tôi liền tìm đến tận Vũ Hán để nghiên cứu, được biết rằng, Trường Đại học đó ẩn mình trong một vùng xa xăm hẻo lánh của tỉnh này. Tôi hỏi có thể đi máy bay đến đó được không? Họ trả lời: “Đi máy bay cũng phải mất khá nhiều thời giờ mới tới được, mà lại chỉ có thể đi được bằng trực thăng, hơn nữa lại không đáp xuống được vì ở đó mây mù dày dặc mà núi non lại vô cùng hiểm trở. Tôi chưa biết rằng câu trả lời ấy có chính xác hay không (chắc là không), nhưng tôi lại thầm nghĩ rằng, trên dải dất Trung Quốc mênh mông này, những nới còn ẩn chứa những “tàng long ngọa hổ” chắc là không ít".
Khi tôi đọc được đoạn “Tái bút” trên, thì cha tôi đã không còn ở cõi đời này. Cảnh ngộ biết tiếng nhau mà không có cơ hội gặp nhau của cha tôi trước đây, thật không ngờ lại được lặp lại ngay trong cuộc đời con gái của ông. Có lẽ đó là định mệnh!
Bỏ lỡ mất cơ hội được theo học thầy Dư Thu Vũ, có thể nói rằng đây là sự hy sinh lớn nhất của tôi vì Đình Nhi, và đây cũng là điều cả đời tôi luôn hối hận. Suốt mười mấy năm nay lòng tôi cảm thấy buồn man mác, đôi lúc tôi than thân trách phận. Cũng may là việc nuôi dạy Đình Nhi rất có kết quả, sự hy sinh của tôi đã được đền bù thỏa đáng.
“Tình thương máu mủ” chỉ là một tình thương bản năng và mù quáng, chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý của người thân, đối với con cái chủ yếu chỉ nhằm sự đòi hỏi, và ước muốn về cuộc sống vật chất của nó. Đó là một thứ tình thương “một chiều”, “nước mắt chảy xuôi” mà thôi. Nhà văn M. Gorki nổi tiếng, người Nga, phê phán loại tình thương này: “Đó là thứ tình thương mà bất cứ con gà mái nuôi con nào cũng có”. Các nhà giáo dục học thì cho rằng, thứ “tình thương máu mủ” bản năng phải được nâng lên thành “tình thương vì giáo dục”; (tức là phải có ước muốn, mục tiêu và lòng tin dạy con nên người. Thương yêu con với một thái độ, một nguyên tắc và phương pháp đúng, cùng với việc làm thỏa mãn những nhu cầu cần thiết về cuộc sống vật chất cho con, phải đặc biệt coi trọng việc làm phong phú cuộc sống tinh thần, và kích thích niềm say mê của con trẻ, phải xây dựng được một mối quan hệ yêu thương “hai chiều”, dân chủ và luôn quan tâm lẫn nhau…).
Thấy được những thay đổi đáng buồn khi Đình Nhi thiếu thốn “tình thương máu mủ”, tôi mới nhận thức sâu sắc rằng, trong quá trình con cái trưởng thành, “tình thương vì giáo dục” tuy rất quan trọng, song “tình thương máu mủ” không thể nào thiếu được. (Đó là thứ tình thương có tinh thần hy sinh cao thượng, không phải chỉ có ở những con người có quan hệ máu mủ với nhau. Nếu một đứa trẻ con ngay cả “tình thương của một con gà mái nuôi con” cũng không có được thì làm sao nó có thể hưởng thụ được thứ “tình thương vì giáo dục” càng cao cả hơn kia?).
Vậy thì, chúng ta hãy biết nén nhịn để hy sinh khi cần phải hy sinh!
MUA SÁCH CHỌN NHỮNG QUYỂN NỔI TIẾNG. BỒI DƯỠNG ÓC THẨM MỸ CHO CON
Biết tôi đã trúng tuyển vào Nhà hát kịch Thượng Hải, nhưng lại quyết định không đi, bạn bè ai cũng ngạc nhiên. May mà Tổng biên tập Lý Lũy, hiểu nỗi khổ tâm của tôi, ông ủng hộ quyết định của tôi. Vì như vậy cùng một lúc, tôi vừa công tác, vừa tự học mà vẫn gần gũi chăm sóc Đình Nhi. Thế là, cuộc sống của tôi vẫn tiến triển đều đều, vẫn con đường cũ.
Được cô bảo mẫu giúp chăm sóc Đình Nhi, tôi có nhiều thời gian hơn cho cuộc sống cuối học kỳ của chương trình tự học. Thế nhưng hàng ngày, khoảng thời gian từ sau bữa tối đến trước khi Đình Nhi đi ngủ, tôi vẫn không quên chương trình giáo dục sớm đối với cháu. Nhân lúc dẫn con đi dạo sau bữa tối, dọc đường thấy được điều gì, tôi liền nói với Đình Nhi về cái đó, mục đích là mở rộng tầm hiểu biết và bồi dưỡng khả năng quan sát cho con.
Tối thứ bảy hàng tuần, hai mẹ con và cô bảo mẫu đều đi chợ đêm trên đường Xuân Hy. Mấy năm nay đang là buổi giao thời giữa các tập tranh truyện liên hoàn truyền thống và các tập truyện tranh màu hiện đại. Chợ đêm tối thứ bảy, thường có những cuộc bán đại hạ giá các tập truyện tranh liên hoàn truyền thống, chỉ cần bỏ ra khoảng 2 hào bạc là đã có thể mua được một quyển sách rất hay. Tôi và Đình Nhi đều rất thích đãi cát tìm vàng trong những quầy sách hạ giá đó. Và hầu như mỗi lần đều có thể mua được vài ba quyển truyện tranh liên hoàn hay mà giá lại rất rẻ. Thời đó trên thị trường mới xuất hiện một loại kem “Đầu búp bê” với giá 3 hào một que, Đình Nhi rất thích ăn loại kem này, nhưng tôi chỉ cho thưởng thức vài lần. Có một lần, như mọi khi đi chợ đêm, tôi định thử xem Đình Nhi thích sách vở đến mức nào, tôi cho con 3 hào và nói: “Con thích mua kem hay mua sách, tùy ý”. Đình Nhi không hề do dự: “Con sẽ mua sách”. Tôi hỏi: “Tại sao?”. Đình Nhi nói: “Kem ăn xong là hết, nhưng sách thì có thể xem được mãi mãi”. Các suy nghĩ của con làm tôi thấy mừng lắm, thế là tôi mua sách cho con, và thưởng thêm một que kem nữa.
Khi mua sách, cũng như khi ghi âm các câu chuyện cho con, tôi đều giữ một nguyên tắc là, cố gắng chọn những truyện có tiếng tăm. Tôi tin rằng, qua thời gian sàng lọc, những truyện nổi tiếng đều có sức hấp dẫn nghệ thuật, có ý nghĩa sâu xa đối với sự phát triển trí tuệ và năng khiếu thẩm mỹ của trẻ em. Ngoài những tập truyện nhi đồng nổi tiếng mà trẻ em rất thích, những bộ tranh liên hoàn được cải biên theo những tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng, cũng là những bộ sách có sức hấp dẫn lâu dài. Trong cuốn “Nhật ký dạy con” có lần tôi đã viết:
Thời gian lên Thượng Hải dự thi, tôi có mua về một bộ tranh liên hoàn “Hồng lâu mộng”, Đình Nhi thích đến không ngờ. Suốt ngày cứ quẩn quanh bên tôi và cô bảo mẫu Tiểu Lý đòi kể “Hồng lâu mộng”. Chỉ ít lâu sau cháu đã nhớ được hầu hết các nhân vật và tình tiết trong các tích truyện như: “Cuộc gặp gỡ đầu giữa Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc”, “Hý Phượng lộng quyền”, “Đại Ngọc chôn hoa”… Có lần tôi dẫn Đình Nhi đi xem băng video vở kịch “Hồng lâu mộng”, vì chất lượng băng quá tồi, khi xem đến đoạn “Kim Ngọc lương duyên” thì chuyển sang xem một màn trình diễn vũ balê của Nga, Đình Nhi bỗng khóc òa lên, cứ nằng nặc đòi xem “Hồng lâu mộng”. Tôi dỗ thế nào cũng không nín, cuối cùng đành để Tiểu Lý dẫn cháu về trước.
Tôi cũng rất thích “Hồng lâu mộng”, khi mang thai Đình Nhi, tôi đã đọc lại “Hồng lâu mộng” lần thứ hai. Phải chăng cháu đã được di truyền từ đấy? Bà ngoại cũng thích “Hồng lâu mộng”, bà đã từng dẫn cháu đi xem bở Việt kịch “Hồng lâu mộng” chiếu trên tivi. Chưa đầy 3 tuổi mà Đình Nhi đã bập bẹ kể: “Giả Bảo Ngọc có một cô em gái họ Lâm. Sau đó Giả Bảo Ngọc lấy Tiết Bảo Thoa, cô Lâm buồn rồi chết”. Đây là câu chuyện bà ngoại dạy cháu. Hơn thế nữa, lúc ấy Đình Nhi đã biết yêu Lâm Đại Ngọc và ghét Tiết Bảo Thoa. Khả năng tiếp nhận và hiểu biết của cháu thật hơn hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa.
Cuối tháng 7, Đình Nhi bị sốt cao 40 độ C, phải nằm viện. Trong thời gian nằm viện, khi cắt cơn sốt Đình Nhi lại giết thời giờ bằng cách nghe kể hoặc xem lại bộ tranh liên hoàn “Hồng lâu mộng”. Sự say mê của Đình Nhi khiến mọi người trong viện đều phải ngạc nhiên. Tôi đã phải cất bộ sách ấy đi, để sau này lớn lên cháu còn có cái mà xem lại. Tháng 9 năm ấy, có lần tôi dẫn cháu đi xem bộ phim “Hồng lâu mộng”, kết quả thật bất ngờ, cháu nhớ truyện tốt gấp nhiều lần so với nghe kể truyện tranh liên hoàn.
Còn nhỏ tuổi như vậy đã cho tiếp xúc với “Hồng lâu mộng” có tốt không? Tôi cho rằng không có gì là không tốt cả. “Hồng lâu mộng” là tác phẩm văn học cổ điển ưu tú nhất của dân tộc Trung Hoa, ảnh hưởng của nó không chỉ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật mà còn thấm sâu cả trong cuộc sống xã hội và truyền thống lịch sử. Đó là một bộ phận của nền văn minh Trung Hoa. Sớm tiếp xúc với nó, lại có một chút hiểu biết về thơ ca cổ điển (lúc bấy giờ Đình Nhi đã có thể đọc thuộc lòng hơn chục bài thơ cổ), có thể sớm làm cho trẻ con cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học cổ điển, nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình hình thành năng khiếu thẩm mỹ của trẻ em. Cái đẹp của văn chương cổ điển, cái đẹp của nghệ thuật dân gian, cái đẹp của thế giới tự nhiên, cộng với cái đẹp về chuẩn mực đạo đức, về quan niệm giá trị và về nhân sinh quan mà tôi đã dày công dạy cháu bằng cả lời nói và việc làm của chính bản thân mình. Tất cả những thứ đó đã tạo ra cho Đình Nhi một thế giới nội tâm vô cùng phong phú và bồi dưỡng cho Đình Nhi một khả năng hiểu biết khá chuẩn xác. Nếu biết kiên trì dạy dỗ, nếu biết rèn luyện cháu một cách nghiêm khắc và khoa học, thì chắc chắn rằng một ngày không xa sẽ có được một kết quả không ngờ. Nếu các cháu không được tiếp nhận một giáo dục từ sớm các cháu sẽ không bao giờ có được kết quả đó. Đình Nhi đang thực hiện điều mơ ước của mình.
Tương lai xa vời còn chưa biết thế nào. Trước mắt, có điều này đã củng cố vững chắc lòng tin của tôi đối với cháu. Lần ấy tôi dẫn Đình Nhi đến rạp xem một vở kịch nhi đồng. Tại đây sự phản ứng của Đình Nhi, một đứa trẻ mới 3 năm 3 tháng tuổi, đã chứng tỏ cháu có một khiếu thẩm mỹ hơn người.
Ngày mồng 2 tháng 7, xem vở kịch “Nguyệt Cầm và chú hổ con”, Đình Nhi rất cảm động. Sự phản ứng của Đình Nhi không chỉ rất mạnh mẽ, mà còn chính xác và đúng đắn nữa. Đối với các nhân vật, Đình Nhi không chỉ có thái độ yêu ghét rõ ràng, mà còn tỏ ra khá hiểu tâm lý và hoàn cảnh của nhân vật. Đơn cử một ví dụ, La Ca, nhân vật chính của câu chuyện, sau khi không may sa vào hầm bẫy của tên phú ông đã khẩn thiết giục bạn mình, một chú hổ con, còn đang ngơ ngác đứng trên miệng hố, hãy mau chóng rời xa chốn nguy hiểm này. Không nỡ bỏ bạn trong cơn hoạn nạn, chú hổ con không chịu chạy đi. Lúc đó dưới chỗ khán giả, các trẻ nhỏ cũng sốt sắng giục hổ chạy đi, có cháu còn đứng dậy hét lên” “Hổ ơi! Chạy đi, chạy mau đi!”. Đình Nhi quay sang tôi nói nhỏ: “Mẹ ơi! Chú hổ con không nên chạy đi, mẹ nhỉ?”. Tôi hỏi tại sao. Đình Nhi nói: “La Ca vẫn còn đang ở dưới hố kia, hổ con phải canh giữ cho bạn mình chứ, chạy đi làm sao được”. Tôi rất vui mừng là cháu đã hiểu được ý nghĩa sâu sắc của tình tiết này trong vở kịch: tình bạn còn quý hơn cả sinh mệnh của mình. Điều này nhiều khán giả nhỏ, ở đó phần lớn là các cháu học sinh tiểu học, đều chưa hiểu được ý nghĩa của tình tiết trên.
SỰ LỰA CHỌN ĐẦY ĐAU KHỔ, NHƯNG CHÍNH XÁC: KHÔNG LÀM “THẦN ĐỒNG”
Mới 3 tuổi mà Đình Nhi đã tỏ ra có nhiều ham muốn: muốn học tiếng Anh, muốn tập đọc, lại còn muốn cả học toán, học hội hoạ, đánh đàn cũng rất ham. Tôi chỉ có thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của cháu, vì không có thời gian, không có tiền và không đủ khả năng. Ví dụ như về tiếng Anh, lúc này cháu đã có thể nói được từ mới tiếng Anh khá thuần thục, tự cháu còn đặt ra một số câu rất ngộ nghĩnh và buồn cười, cũng giống như những bài thơ “thất ngôn cổ phong”, cháu tự làm ra trước đây mà đọc lên không ai hiểu nổi. Chỉ tiếc là, lúc đó không kiếm đâu ra những băng ghi bài học tiếng Anh, khả năng của tôi cũng không thể đủ dạy cháu. Môn đó đành phải gác lại. Theo nguyên tắc “tiềm năng đệ giảm”, Đình Nhi đã mất đi cơ hội trở thành thần đồng.
Tôi hiểu rất rõ, mỗi phút của trẻ thơ đều vô cùng quý báu, thế nhưng tôi vừa bận công tác lại vừa bận học tập, trước kỳ thi tốt nghiệp chương trình tự học đại học cuối năm 1985, tôi quả thật không còn thời gian và cả tiền bạc nữa để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng”, do tôi tự vạch ra.
Làm thế nào đây? Chẳng lẽ tôi lại phải hy sinh một lần nữa cho Đình Nhi, ngay cả tự học đại học cũng phải bỏ hay sao? Theo dòng suy nghĩ ấy: Nếu tôi từ bỏ công việc tự học đại học theo Đài truyền hình, tôi có thể bắt tay vào dạy cho Đình Nhi chương trình tiểu học. Tôi dự tính chỉ mất khoảng 3 năm Đình Nhi sẽ học xong chương trình này. Cứ cho là mất 6 năm nữa Đình Nhi học xong chương trình trung học, thế thì chỉ khoảng 12 tuổi, Đình Nhi sẽ thi vào đại học được rồi. “Thời gian biểu” này hấp dẫn biết bao! Còn tôi, nếu bỏ dở việc tự học đại học có thể tôi bị mất đi công tác biên tập, một công việc mà tôi luôn yêu thích. Và như vậy, nguồn sống của mẹ con tôi sẽ mất đi chỗ dựa vững chắc. Trước khi thi đỗ đại học, có thể tôi vẫn phải gác lại kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng” vì lý do kinh tế. Hơn nữa, nếu Đình Nhi theo học hết chương trình từ tiểu học đến hết trung học tại nhà, tôi làm gì có đủ thời gian để dạy cháu, và nhất là các môn toán, lý, hóa bậc cao trung tôi hoàn toàn không có khả năng, cũng không đủ tiền để mời gia sư cho cháu.
Làm thế nào đây? Tôi đau khổ tự hỏi mình: Lẽ nào lại phải bỏ dở kế hoạch bồi dưỡng “thần đồng” tại đây? Để thuyết phục mình, tôi quyết định tạm gác vấn đề kinh tế sang một bên, hãy suy nghĩ về những ảnh hươởn mặt trái đối với Đình Nhi khi thực thi kế hoạch “thần đồng”.
Trước hết, nếu theo học tại nhà, Đình Nhi sẽ bị đánh mất đi một cơ hội vô cùng quý báu, đó là được sống những năm tháng tuổi thơ với những người bạn cùng trang lứa với mình. Như vậy sẽ hạn chế rất nhiều đến sự phát triển khả năng giao tiếp của cháu. Nếu những tri thức của tôi thực sự có ảnh hưởng đến sự phát triển của Đình Nhi, thì cháu rất khó có khả năng trở thành một nhân tài về khoa học tự nhiên. Nếu là một nhân tài về khoa học xã hội, thì khả năng giao tiếp, khả năng hòa đồng với cuộc sống xã hội phải là một nhân tố vô cùng quan trọng, mà những khả năng đó chỉ có thể hình thành trong cuộc sống tập thể. Vì vậy, phương án tự học tại nhà thực tế sẽ trở ngại rất lớn đến sự phát triển sau này của Đình Nhi.
Hơn nữa, những việc làm của mẹ bao giờ cũng là một tấm gương có ảnh hươởn nhất đối với con gái, nếu tôi dứt khoát bỏ dở kế hoạch tự học, thì làm sao có thể giáo dục được con có được phẩm chất đạp bằng mọi khó khăn, quyết đạt được mục đích của mình?
Còn điều này nữa, nghĩ cùng buồn cười nhưng nó là sự thực, xưa nay những người con gái có tài thường rất khó kiếm được chồng. Nếu Đình Nhi sau này may mắn trở thành “nữ thần đồng”, liệu cháu có thể lấy được ai?
Qua mấy ngày đêm suy nghĩ dằn vặt, tôi nhận ra rằng: có lẽ từ bỏ ý nghĩ trờ thành “thần đồng” là sáng suốt hơn cả. Thứ nhất là cứ tuần tự như tiến theo học từ mẫu giáo đến đại học cùng với các bạn cùng tuổi, như vậy về mặt tuổi trẻ sẽ không mâu thuẫn gì với chế độ giáo dục hiện hành. Thứ hai là sau khi từ bỏ sách lược “đơn thương độc mã” trong việc học hành, vẫn có thể tập trung sức lực vào những phần trọng điểm trên cơ sở phát triển toàn diện, như vậy càng có lợi cho sự phát triển trí lực và hình thành nhân cách cho Đình Nhi, chuẩn bị đầy đủ cơ sở để Đình Nhi tiếp tục phát triển trong tương lai. Thứ ba là, việc tự học đại học đối với tôi có tác dụng bổ sung và điều chỉnh kiến thức, để xứng đáng hơn với tư cách cô giáo tại nhà đối với Đình Nhi. Ngoài ra về mặt kinh tế, đây là kế hoạch duy nhất có thể thực hiện được. Xét cho cùng, tự học đại học có quan hệ rất lớn đến việc giành lấy một chức danh chuyên nghiệp trong làng biên tập, để cải thiện điều kiện sống của gia đình, tôi buộc phải đầu tư một thời gian tối thiểu để hoàn thành việc tự học.
Nghĩ ra được những điều như vậy, những dằn vặt làm tôi mất ăn mất ngủ những ngày qua, dường như tiêu tan hết. Sau này, qua báo chí, tôi đọc được mấy bài viết về những con đường quanh co của các bậc “thần đồng”, tôi cảm thấy mình là may mắn khi lựa chọn con đường này.
Cuối năm 1999, trên tờ “Báo thanh nhiên đặc khu”, có bài về “vị thần đồng”, tuổi trạc Đình Nhi, năm 14 tuổi đã được Trường Đại học Nam Khai nhận miễn thi vào học lớp chuyên toán của trường tại cơ sở Hắc Long Giang, ba năm sau nhà trường “quyết định đuổi học”. Không phải cháu đó không đủ thông minh, mà là từ năm thứ nhất đến năm thứ ba không chịu học hành, thường trốn học đi chơi trò điện tử, hoặc say sưa đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đến nỗi các bộ môn chính mà nhiều lần thi vẫn không đủ điểm. Những thành công xuất sắc trước đây đã tạo nên ở cháu một tính cách cực kỳ kiêu ngạo, không bao giờ chịu nghe lời khuyên bảo của người khác. Mãi đến khi anh trai đến đón về quê, cuối năm 1998, cháu mới chợt nhận ra rằng, 18 tuổi mà không được đi học, thì chỉ còn cách đi cày ruộng. Lúc đó cậu bé mới hiểu được mối quan hệ giữa học và cuộc sống, cậu lại quyết tâm lao đầu vào học tập, nửa năm sau lại thi đỗ vào Trường Nam Khai.
Ngoài ra, có một lớp cơ sở thuộc khoa Toán trường Đại học Sư phạm Hoa Đông ở Thượng Hải, năm 1987 đã tiếp nhận một sinh viên mới 12 tuổi. Kỳ thi cuối học kỳ của ngay năm học đầu tiên đã có mấy môn không đủ điểm, nhà trường đã nghĩ đến cách khuyên cháu nên thôi học (chưa biết kết quả ra sao!). Có một lớp khác một học kỳ đã phải đuổi đến 3 học sinh, một cháu vì tội yêu đương quá sớm không chịu học hành, còn hai cháu kia cũng lại vì quá say mê chơi trò điện tử và đọc truyện kiếm hiệp.
Các chuyên gia của ngành giáo dục cho rằng, các cháu thiếu niên vốn có một trí lực siêu phàm ấy, sở dĩ không theo được tiến trình đại học, không phải vì các cháu kém thông minh. Các cháu tuổi còn quá nhỏ, tố chất tâm lý, khả năng phân biệt đúng sai, khả năng tự kiềm chế, thậm chí cả khả năng biết khắc phục khó khăn để vươn lên sau mỗi lần thất bại… đều chưa chín chắn, đạt tới trình độ mà một sinh viên đại học cần có. Ngoài ra, các sinh viên tuổi còn niên thiếu, thông thường chỉ giỏi về các môn toán, lý, hoá, còn các môn văn, sử, triết thì lại rất mỏng manh. Nhìn chung, các bộ môn về khoa học tự nhiên dễ “mau chóng đạt được thành công”, còn các bộ môn về khoa học xã hội, thì thường phải dựa vào vốn sống và sự chín chắn về tâm lý. Mà phiền một nỗi, nếu văn mà không giỏi, thì khi phân tích, suy luận trong một bài toán, lý, chắc sẽ gặp khó khăn. Một giáo viên chủ nhiệm của một lớp sinh viên ở Thượng Hải – ông Trần đã nhận định: chính cơ cấu kiến thức của những sinh viên non trẻ đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của họ.
Đối chiếu lại, thực trạng hiện nay của Đình Nhi đã chứng tỏ sự lựa chọn trước đây của tôi là hoàn toàn chính xác, dù rằng cháu đang học ở một trường nổi tiếng nhất thế giới: Trường Đại học Harvard. Cháu vẫn không có khả năng giành được những thành tích mà mọi người đều kinh ngạc. Khi tôi đang viết mấy dòng hồi ký này, cũng là lúc Đình Nhi vừa hoàn thành kỳ thi giữa học kỳ của năm học đầu tiên tại Trường Đại học Harvard. Điểm số của cháu là 3 điểm A, một điểm B, trong đó có những môn, điểm số của cháu cao hơn cả những người được xếp loại A.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, tôi không phản đối việc bồi dưỡng “thần đồng” và việc tiếp nhận những sinh viên tuổi còn niên thiếu. Trái lại, tôi nghĩ rằng nên có kế hoạch và bồi dươỡn nhiều hơn nữa những tài năng như vậy. Chỉ có điều trong hoàn cảnh “không bắt được cả cò lẫn trai”, như tôi. Tôi đã lựa chọn con đường ưu tiên giáo dục tố chất. Đình Nhi của tôi tuy không trở thành “thần đồng” ngay từ thời niên thiếu để mọi người ngưỡng mộ, nhưng cháu vẫn đang trở thành một con người phát triển toàn diện, có đầy đủ tiềm năng để phát triển tiếp theo.
Tháng 7 năm 1984, tôi được nhận vào học lớp chuyên tu về lý luận của Nhà hát kịch Thượng Hải với điểm thi cao nhất, hơn nữa lại là một nữ sinh duy nhất trong số hơn 40 người được may mắn nhận vào. Tay cầm tờ giấy gọi nhập học tôi vừa mừng vừa lo: mừng vì tôi đã thi vào một lớp đại học nổi tiếng với chuyên ngành mình yêu thích, tôi sẽ được theo học một nhà giáo mà tôi hằng ngưỡng mộ - thầy Dư Thu Vũ. Khi đó thầy Dư Thu Vũ cũng chưa có tiếng tăm nổi trội, nhưng tôi yêu quý thầy là vì qua những tác phẩm chuyên luận về hý kịch, thầy đã có cách nhìn độc đáo, một tư duy mới mẻ. Trái lại tôi rất lo, nếu tôi đi học ở Thượng Hải, thì Đình Nhi sẽ ra sao?
Trong thời gian học thi ở Thượng Hải, tôi đã cố ý đi dò hỏi những nhà trẻ ở gần nơi tôi theo học. Với điều kiện như Đình Nhi, cháu sẽ không thể được nhận vào bất kỳ một nhà trẻ nào ở Thượng Hải. Tôi cũng thăm dò về lệ phí khi gửi một cháu nhỏ, một nhà trẻ loại xoàng nhất, cả tiền ăn lẫn tiền công trông trẻ, một tháng ít nhất cũng phải nộp 60 đồng nhân dân tệ. Có nghĩa là, sau khi nộp tiền cho cháu xong, thì toàn bộ thu nhập của tôi trong một tháng cũng chỉ còn lại 10 đồng. Mặc dù toàn bộ tiền học phí đơn vị đã bao cho, song với 10 đồng bạc lo chi phí cho cả tháng, tôi làm sao sống nổi.
Trong lúc đang khó khăn bộn bề như vậy, mẹ tôi đã chìa bàn tay cứu giúp, mẹ bảo tôi cứ để Đình Nhi lại theo mẹ về Hồ Bắc. Thế nhưng lần này tôi không thể tiếp nhận lòng tốt đó của mẹ được. Bởi vì em dâu sắp sinh cháu nhỏ, nếu trong lúc này tôi lại đẩy Đình Nhi cho mẹ, mẹ tôi cùng một lúc phải chăm sóc cả hai cháu nhỏ! Tôi không thể ích kỉ như vậy được.
Nếu cứ gửi con ở lại Thành Đô, để mình được rảnh rang đi Thượng Hải theo học. Đó cũng là một việc làm ích kỉ. Trong 20 ngày tôi học thi ở Thượng Hải vừa qua, Đình Nhi đã khổ sở như thế nào trong cái nhà trẻ tư nhân đó, khó khăn lắm mới giải quyết được hậu quả tồi tệ đó. Tôi thật không dám đi theo vết xe đổ đó.
Thế thì đành bỏ phí một cơ hội hiếm hoi là được lên Thượng Hải theo học hay sao? Tôi chưa cam tâm chấp nhận, đánh liều tìm đến cha đẻ của Đình Nhi, hi vọng sẽ cho cháu ở tạm với cha đẻ 2 năm. Nhưng anh ấy có những khó khăn riêng, Đình Nhi không thể ở đó được. Thật hết cách. Tôi đành phải viết thư cho thầy Dư Thu Vũ, nói rõ hoàn cảnh của mình, xin ý kiến thầy, cho phép tôi được tự học ở Thành Đô, đến kỳ thi tôi xin đến tham dự đầy đủ. Thật không ngờ thầy Dư đã thuyết phục được Ban lãnh đạo nhà hát chấp nhận lời đề nghị đó của tôi. Thế nhưng, càng nghĩ tôi càng thấy không ổn, học một lớp lý luận chuyên ngành như vậy theo phương thức hàm thụ thật là khó, chi bằng cứ ở lại Thành Đô tự học đại học theo chương trình Đài truyền hình hướng dẫn, như vậy vẫn giữ lại một cơ hội sau này được nghỉ công tác theo học một lớp chuyên tu của một trường nào khác hơn không.
Như vậy, tôi đã bỏ mất một dịp may hiếm có được theo theo học thầy Dư. Chừng nửa năm sau, thầy Dư có dịp đi qua Thành Đô, rất muốn gặp tôi, thầy đã nhờ một nhà viết kịch nữ nhắn cho tôi biết, thế nhưng không hiểu vì sao bà ấy lại quên. Hai năm sau, thầy Dư Thu Vũ lại viết thư cho tôi, khuyên tôi nên thi nghiên cứu sinh do thầy hướng dẫn. Tôi tự biết rằng, tôi sẽ không thể nào vượt được môn thi Anh văn. Vì vậy, tôi đã viết thư “xin tạ lỗi” thầy. Cũng thật lạ, cái tình cảnh hữu duyên vô phận giữa tôi và thầy Dư ấy, lại được lặp lại trong câu chuyện giữa cha tôi và thầy Dư. Sau đó vài năm, tôi vô cùng kinh ngạc gặp lại bóng dáng của cha tôi trong vài lời “Tái bút” viết sau quyển “Bắc đường chìm nổi của một nền văn hoá” của thầy Dư. Hồi đó, tiếng tăm của thầy đã vang trong cả nước, bạn bè trong nước và thế giới đều đánh giá cao tác phẩm của thầy. Trong lời “Tái bút”của cuốn sách nổi tiếng ấy, thầy đã viết:“Trong tất cả những lời bình luận vừa qua, tôi thấy, nghiêm túc hơn và có kiến giải độc đáo hơn chính là bài viết của năm nhà giáo thuộc khoa Trung văn Trường Đại học Hồ Bắc, bài viết này đã được đăng trong mục Bàn về cuốn “Bước đường chìm nổi của một nền văn hoá” thuộc tờ Học Báo của nhà trường. Tôi rất ngạc nhiên trước những suy nghĩ sâu sắc và độc đáo của Trường Đại học Hồ Bắc về lịch sử văn hóa Trung Hoa và nghệ thuật văn xuôi đương đại”. Thầy Dư Thu Vũ đương nhiên không thể biết được rằng, trong những nhà bình luận đó có cha tôi và cái chuyên mục bàn về cuốn sách của thầy trong tờ Học Báo của nhà trường lại chính do cha tôi đề xướng. Tuy rằng, mục đích chính của cha tôi lúc đó chỉ là kích thích hứng thú của học sinh đối với bộ môn Tập làm văn mà cha tôi đang giảng dạy. Thế nhưng, đọc tác phẩm “Bước đường chìm nổi của một nền văn hoá”, cha tôi thầy mình như “sông sâu núi thẳm gặp tri ân”. Thầy Dư Thu Vũ còn viết: “Sau này, tôi liền tìm đến tận Vũ Hán để nghiên cứu, được biết rằng, Trường Đại học đó ẩn mình trong một vùng xa xăm hẻo lánh của tỉnh này. Tôi hỏi có thể đi máy bay đến đó được không? Họ trả lời: “Đi máy bay cũng phải mất khá nhiều thời giờ mới tới được, mà lại chỉ có thể đi được bằng trực thăng, hơn nữa lại không đáp xuống được vì ở đó mây mù dày dặc mà núi non lại vô cùng hiểm trở. Tôi chưa biết rằng câu trả lời ấy có chính xác hay không (chắc là không), nhưng tôi lại thầm nghĩ rằng, trên dải dất Trung Quốc mênh mông này, những nới còn ẩn chứa những “tàng long ngọa hổ” chắc là không ít".
Khi tôi đọc được đoạn “Tái bút” trên, thì cha tôi đã không còn ở cõi đời này. Cảnh ngộ biết tiếng nhau mà không có cơ hội gặp nhau của cha tôi trước đây, thật không ngờ lại được lặp lại ngay trong cuộc đời con gái của ông. Có lẽ đó là định mệnh!
Bỏ lỡ mất cơ hội được theo học thầy Dư Thu Vũ, có thể nói rằng đây là sự hy sinh lớn nhất của tôi vì Đình Nhi, và đây cũng là điều cả đời tôi luôn hối hận. Suốt mười mấy năm nay lòng tôi cảm thấy buồn man mác, đôi lúc tôi than thân trách phận. Cũng may là việc nuôi dạy Đình Nhi rất có kết quả, sự hy sinh của tôi đã được đền bù thỏa đáng.
“Tình thương máu mủ” chỉ là một tình thương bản năng và mù quáng, chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý của người thân, đối với con cái chủ yếu chỉ nhằm sự đòi hỏi, và ước muốn về cuộc sống vật chất của nó. Đó là một thứ tình thương “một chiều”, “nước mắt chảy xuôi” mà thôi. Nhà văn M. Gorki nổi tiếng, người Nga, phê phán loại tình thương này: “Đó là thứ tình thương mà bất cứ con gà mái nuôi con nào cũng có”. Các nhà giáo dục học thì cho rằng, thứ “tình thương máu mủ” bản năng phải được nâng lên thành “tình thương vì giáo dục”; (tức là phải có ước muốn, mục tiêu và lòng tin dạy con nên người. Thương yêu con với một thái độ, một nguyên tắc và phương pháp đúng, cùng với việc làm thỏa mãn những nhu cầu cần thiết về cuộc sống vật chất cho con, phải đặc biệt coi trọng việc làm phong phú cuộc sống tinh thần, và kích thích niềm say mê của con trẻ, phải xây dựng được một mối quan hệ yêu thương “hai chiều”, dân chủ và luôn quan tâm lẫn nhau…).
Thấy được những thay đổi đáng buồn khi Đình Nhi thiếu thốn “tình thương máu mủ”, tôi mới nhận thức sâu sắc rằng, trong quá trình con cái trưởng thành, “tình thương vì giáo dục” tuy rất quan trọng, song “tình thương máu mủ” không thể nào thiếu được. (Đó là thứ tình thương có tinh thần hy sinh cao thượng, không phải chỉ có ở những con người có quan hệ máu mủ với nhau. Nếu một đứa trẻ con ngay cả “tình thương của một con gà mái nuôi con” cũng không có được thì làm sao nó có thể hưởng thụ được thứ “tình thương vì giáo dục” càng cao cả hơn kia?).
Vậy thì, chúng ta hãy biết nén nhịn để hy sinh khi cần phải hy sinh!
MUA SÁCH CHỌN NHỮNG QUYỂN NỔI TIẾNG. BỒI DƯỠNG ÓC THẨM MỸ CHO CON
Biết tôi đã trúng tuyển vào Nhà hát kịch Thượng Hải, nhưng lại quyết định không đi, bạn bè ai cũng ngạc nhiên. May mà Tổng biên tập Lý Lũy, hiểu nỗi khổ tâm của tôi, ông ủng hộ quyết định của tôi. Vì như vậy cùng một lúc, tôi vừa công tác, vừa tự học mà vẫn gần gũi chăm sóc Đình Nhi. Thế là, cuộc sống của tôi vẫn tiến triển đều đều, vẫn con đường cũ.
Được cô bảo mẫu giúp chăm sóc Đình Nhi, tôi có nhiều thời gian hơn cho cuộc sống cuối học kỳ của chương trình tự học. Thế nhưng hàng ngày, khoảng thời gian từ sau bữa tối đến trước khi Đình Nhi đi ngủ, tôi vẫn không quên chương trình giáo dục sớm đối với cháu. Nhân lúc dẫn con đi dạo sau bữa tối, dọc đường thấy được điều gì, tôi liền nói với Đình Nhi về cái đó, mục đích là mở rộng tầm hiểu biết và bồi dưỡng khả năng quan sát cho con.
Tối thứ bảy hàng tuần, hai mẹ con và cô bảo mẫu đều đi chợ đêm trên đường Xuân Hy. Mấy năm nay đang là buổi giao thời giữa các tập tranh truyện liên hoàn truyền thống và các tập truyện tranh màu hiện đại. Chợ đêm tối thứ bảy, thường có những cuộc bán đại hạ giá các tập truyện tranh liên hoàn truyền thống, chỉ cần bỏ ra khoảng 2 hào bạc là đã có thể mua được một quyển sách rất hay. Tôi và Đình Nhi đều rất thích đãi cát tìm vàng trong những quầy sách hạ giá đó. Và hầu như mỗi lần đều có thể mua được vài ba quyển truyện tranh liên hoàn hay mà giá lại rất rẻ. Thời đó trên thị trường mới xuất hiện một loại kem “Đầu búp bê” với giá 3 hào một que, Đình Nhi rất thích ăn loại kem này, nhưng tôi chỉ cho thưởng thức vài lần. Có một lần, như mọi khi đi chợ đêm, tôi định thử xem Đình Nhi thích sách vở đến mức nào, tôi cho con 3 hào và nói: “Con thích mua kem hay mua sách, tùy ý”. Đình Nhi không hề do dự: “Con sẽ mua sách”. Tôi hỏi: “Tại sao?”. Đình Nhi nói: “Kem ăn xong là hết, nhưng sách thì có thể xem được mãi mãi”. Các suy nghĩ của con làm tôi thấy mừng lắm, thế là tôi mua sách cho con, và thưởng thêm một que kem nữa.
Khi mua sách, cũng như khi ghi âm các câu chuyện cho con, tôi đều giữ một nguyên tắc là, cố gắng chọn những truyện có tiếng tăm. Tôi tin rằng, qua thời gian sàng lọc, những truyện nổi tiếng đều có sức hấp dẫn nghệ thuật, có ý nghĩa sâu xa đối với sự phát triển trí tuệ và năng khiếu thẩm mỹ của trẻ em. Ngoài những tập truyện nhi đồng nổi tiếng mà trẻ em rất thích, những bộ tranh liên hoàn được cải biên theo những tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng, cũng là những bộ sách có sức hấp dẫn lâu dài. Trong cuốn “Nhật ký dạy con” có lần tôi đã viết:
Thời gian lên Thượng Hải dự thi, tôi có mua về một bộ tranh liên hoàn “Hồng lâu mộng”, Đình Nhi thích đến không ngờ. Suốt ngày cứ quẩn quanh bên tôi và cô bảo mẫu Tiểu Lý đòi kể “Hồng lâu mộng”. Chỉ ít lâu sau cháu đã nhớ được hầu hết các nhân vật và tình tiết trong các tích truyện như: “Cuộc gặp gỡ đầu giữa Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc”, “Hý Phượng lộng quyền”, “Đại Ngọc chôn hoa”… Có lần tôi dẫn Đình Nhi đi xem băng video vở kịch “Hồng lâu mộng”, vì chất lượng băng quá tồi, khi xem đến đoạn “Kim Ngọc lương duyên” thì chuyển sang xem một màn trình diễn vũ balê của Nga, Đình Nhi bỗng khóc òa lên, cứ nằng nặc đòi xem “Hồng lâu mộng”. Tôi dỗ thế nào cũng không nín, cuối cùng đành để Tiểu Lý dẫn cháu về trước.
Tôi cũng rất thích “Hồng lâu mộng”, khi mang thai Đình Nhi, tôi đã đọc lại “Hồng lâu mộng” lần thứ hai. Phải chăng cháu đã được di truyền từ đấy? Bà ngoại cũng thích “Hồng lâu mộng”, bà đã từng dẫn cháu đi xem bở Việt kịch “Hồng lâu mộng” chiếu trên tivi. Chưa đầy 3 tuổi mà Đình Nhi đã bập bẹ kể: “Giả Bảo Ngọc có một cô em gái họ Lâm. Sau đó Giả Bảo Ngọc lấy Tiết Bảo Thoa, cô Lâm buồn rồi chết”. Đây là câu chuyện bà ngoại dạy cháu. Hơn thế nữa, lúc ấy Đình Nhi đã biết yêu Lâm Đại Ngọc và ghét Tiết Bảo Thoa. Khả năng tiếp nhận và hiểu biết của cháu thật hơn hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa.
Cuối tháng 7, Đình Nhi bị sốt cao 40 độ C, phải nằm viện. Trong thời gian nằm viện, khi cắt cơn sốt Đình Nhi lại giết thời giờ bằng cách nghe kể hoặc xem lại bộ tranh liên hoàn “Hồng lâu mộng”. Sự say mê của Đình Nhi khiến mọi người trong viện đều phải ngạc nhiên. Tôi đã phải cất bộ sách ấy đi, để sau này lớn lên cháu còn có cái mà xem lại. Tháng 9 năm ấy, có lần tôi dẫn cháu đi xem bộ phim “Hồng lâu mộng”, kết quả thật bất ngờ, cháu nhớ truyện tốt gấp nhiều lần so với nghe kể truyện tranh liên hoàn.
Còn nhỏ tuổi như vậy đã cho tiếp xúc với “Hồng lâu mộng” có tốt không? Tôi cho rằng không có gì là không tốt cả. “Hồng lâu mộng” là tác phẩm văn học cổ điển ưu tú nhất của dân tộc Trung Hoa, ảnh hưởng của nó không chỉ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật mà còn thấm sâu cả trong cuộc sống xã hội và truyền thống lịch sử. Đó là một bộ phận của nền văn minh Trung Hoa. Sớm tiếp xúc với nó, lại có một chút hiểu biết về thơ ca cổ điển (lúc bấy giờ Đình Nhi đã có thể đọc thuộc lòng hơn chục bài thơ cổ), có thể sớm làm cho trẻ con cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học cổ điển, nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình hình thành năng khiếu thẩm mỹ của trẻ em. Cái đẹp của văn chương cổ điển, cái đẹp của nghệ thuật dân gian, cái đẹp của thế giới tự nhiên, cộng với cái đẹp về chuẩn mực đạo đức, về quan niệm giá trị và về nhân sinh quan mà tôi đã dày công dạy cháu bằng cả lời nói và việc làm của chính bản thân mình. Tất cả những thứ đó đã tạo ra cho Đình Nhi một thế giới nội tâm vô cùng phong phú và bồi dưỡng cho Đình Nhi một khả năng hiểu biết khá chuẩn xác. Nếu biết kiên trì dạy dỗ, nếu biết rèn luyện cháu một cách nghiêm khắc và khoa học, thì chắc chắn rằng một ngày không xa sẽ có được một kết quả không ngờ. Nếu các cháu không được tiếp nhận một giáo dục từ sớm các cháu sẽ không bao giờ có được kết quả đó. Đình Nhi đang thực hiện điều mơ ước của mình.
Tương lai xa vời còn chưa biết thế nào. Trước mắt, có điều này đã củng cố vững chắc lòng tin của tôi đối với cháu. Lần ấy tôi dẫn Đình Nhi đến rạp xem một vở kịch nhi đồng. Tại đây sự phản ứng của Đình Nhi, một đứa trẻ mới 3 năm 3 tháng tuổi, đã chứng tỏ cháu có một khiếu thẩm mỹ hơn người.
Ngày mồng 2 tháng 7, xem vở kịch “Nguyệt Cầm và chú hổ con”, Đình Nhi rất cảm động. Sự phản ứng của Đình Nhi không chỉ rất mạnh mẽ, mà còn chính xác và đúng đắn nữa. Đối với các nhân vật, Đình Nhi không chỉ có thái độ yêu ghét rõ ràng, mà còn tỏ ra khá hiểu tâm lý và hoàn cảnh của nhân vật. Đơn cử một ví dụ, La Ca, nhân vật chính của câu chuyện, sau khi không may sa vào hầm bẫy của tên phú ông đã khẩn thiết giục bạn mình, một chú hổ con, còn đang ngơ ngác đứng trên miệng hố, hãy mau chóng rời xa chốn nguy hiểm này. Không nỡ bỏ bạn trong cơn hoạn nạn, chú hổ con không chịu chạy đi. Lúc đó dưới chỗ khán giả, các trẻ nhỏ cũng sốt sắng giục hổ chạy đi, có cháu còn đứng dậy hét lên” “Hổ ơi! Chạy đi, chạy mau đi!”. Đình Nhi quay sang tôi nói nhỏ: “Mẹ ơi! Chú hổ con không nên chạy đi, mẹ nhỉ?”. Tôi hỏi tại sao. Đình Nhi nói: “La Ca vẫn còn đang ở dưới hố kia, hổ con phải canh giữ cho bạn mình chứ, chạy đi làm sao được”. Tôi rất vui mừng là cháu đã hiểu được ý nghĩa sâu sắc của tình tiết này trong vở kịch: tình bạn còn quý hơn cả sinh mệnh của mình. Điều này nhiều khán giả nhỏ, ở đó phần lớn là các cháu học sinh tiểu học, đều chưa hiểu được ý nghĩa của tình tiết trên.
SỰ LỰA CHỌN ĐẦY ĐAU KHỔ, NHƯNG CHÍNH XÁC: KHÔNG LÀM “THẦN ĐỒNG”
Mới 3 tuổi mà Đình Nhi đã tỏ ra có nhiều ham muốn: muốn học tiếng Anh, muốn tập đọc, lại còn muốn cả học toán, học hội hoạ, đánh đàn cũng rất ham. Tôi chỉ có thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của cháu, vì không có thời gian, không có tiền và không đủ khả năng. Ví dụ như về tiếng Anh, lúc này cháu đã có thể nói được từ mới tiếng Anh khá thuần thục, tự cháu còn đặt ra một số câu rất ngộ nghĩnh và buồn cười, cũng giống như những bài thơ “thất ngôn cổ phong”, cháu tự làm ra trước đây mà đọc lên không ai hiểu nổi. Chỉ tiếc là, lúc đó không kiếm đâu ra những băng ghi bài học tiếng Anh, khả năng của tôi cũng không thể đủ dạy cháu. Môn đó đành phải gác lại. Theo nguyên tắc “tiềm năng đệ giảm”, Đình Nhi đã mất đi cơ hội trở thành thần đồng.
Tôi hiểu rất rõ, mỗi phút của trẻ thơ đều vô cùng quý báu, thế nhưng tôi vừa bận công tác lại vừa bận học tập, trước kỳ thi tốt nghiệp chương trình tự học đại học cuối năm 1985, tôi quả thật không còn thời gian và cả tiền bạc nữa để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng”, do tôi tự vạch ra.
Làm thế nào đây? Chẳng lẽ tôi lại phải hy sinh một lần nữa cho Đình Nhi, ngay cả tự học đại học cũng phải bỏ hay sao? Theo dòng suy nghĩ ấy: Nếu tôi từ bỏ công việc tự học đại học theo Đài truyền hình, tôi có thể bắt tay vào dạy cho Đình Nhi chương trình tiểu học. Tôi dự tính chỉ mất khoảng 3 năm Đình Nhi sẽ học xong chương trình này. Cứ cho là mất 6 năm nữa Đình Nhi học xong chương trình trung học, thế thì chỉ khoảng 12 tuổi, Đình Nhi sẽ thi vào đại học được rồi. “Thời gian biểu” này hấp dẫn biết bao! Còn tôi, nếu bỏ dở việc tự học đại học có thể tôi bị mất đi công tác biên tập, một công việc mà tôi luôn yêu thích. Và như vậy, nguồn sống của mẹ con tôi sẽ mất đi chỗ dựa vững chắc. Trước khi thi đỗ đại học, có thể tôi vẫn phải gác lại kế hoạch bồi dưỡng Đình Nhi thành “thần đồng” vì lý do kinh tế. Hơn nữa, nếu Đình Nhi theo học hết chương trình từ tiểu học đến hết trung học tại nhà, tôi làm gì có đủ thời gian để dạy cháu, và nhất là các môn toán, lý, hóa bậc cao trung tôi hoàn toàn không có khả năng, cũng không đủ tiền để mời gia sư cho cháu.
Làm thế nào đây? Tôi đau khổ tự hỏi mình: Lẽ nào lại phải bỏ dở kế hoạch bồi dưỡng “thần đồng” tại đây? Để thuyết phục mình, tôi quyết định tạm gác vấn đề kinh tế sang một bên, hãy suy nghĩ về những ảnh hươởn mặt trái đối với Đình Nhi khi thực thi kế hoạch “thần đồng”.
Trước hết, nếu theo học tại nhà, Đình Nhi sẽ bị đánh mất đi một cơ hội vô cùng quý báu, đó là được sống những năm tháng tuổi thơ với những người bạn cùng trang lứa với mình. Như vậy sẽ hạn chế rất nhiều đến sự phát triển khả năng giao tiếp của cháu. Nếu những tri thức của tôi thực sự có ảnh hưởng đến sự phát triển của Đình Nhi, thì cháu rất khó có khả năng trở thành một nhân tài về khoa học tự nhiên. Nếu là một nhân tài về khoa học xã hội, thì khả năng giao tiếp, khả năng hòa đồng với cuộc sống xã hội phải là một nhân tố vô cùng quan trọng, mà những khả năng đó chỉ có thể hình thành trong cuộc sống tập thể. Vì vậy, phương án tự học tại nhà thực tế sẽ trở ngại rất lớn đến sự phát triển sau này của Đình Nhi.
Hơn nữa, những việc làm của mẹ bao giờ cũng là một tấm gương có ảnh hươởn nhất đối với con gái, nếu tôi dứt khoát bỏ dở kế hoạch tự học, thì làm sao có thể giáo dục được con có được phẩm chất đạp bằng mọi khó khăn, quyết đạt được mục đích của mình?
Còn điều này nữa, nghĩ cùng buồn cười nhưng nó là sự thực, xưa nay những người con gái có tài thường rất khó kiếm được chồng. Nếu Đình Nhi sau này may mắn trở thành “nữ thần đồng”, liệu cháu có thể lấy được ai?
Qua mấy ngày đêm suy nghĩ dằn vặt, tôi nhận ra rằng: có lẽ từ bỏ ý nghĩ trờ thành “thần đồng” là sáng suốt hơn cả. Thứ nhất là cứ tuần tự như tiến theo học từ mẫu giáo đến đại học cùng với các bạn cùng tuổi, như vậy về mặt tuổi trẻ sẽ không mâu thuẫn gì với chế độ giáo dục hiện hành. Thứ hai là sau khi từ bỏ sách lược “đơn thương độc mã” trong việc học hành, vẫn có thể tập trung sức lực vào những phần trọng điểm trên cơ sở phát triển toàn diện, như vậy càng có lợi cho sự phát triển trí lực và hình thành nhân cách cho Đình Nhi, chuẩn bị đầy đủ cơ sở để Đình Nhi tiếp tục phát triển trong tương lai. Thứ ba là, việc tự học đại học đối với tôi có tác dụng bổ sung và điều chỉnh kiến thức, để xứng đáng hơn với tư cách cô giáo tại nhà đối với Đình Nhi. Ngoài ra về mặt kinh tế, đây là kế hoạch duy nhất có thể thực hiện được. Xét cho cùng, tự học đại học có quan hệ rất lớn đến việc giành lấy một chức danh chuyên nghiệp trong làng biên tập, để cải thiện điều kiện sống của gia đình, tôi buộc phải đầu tư một thời gian tối thiểu để hoàn thành việc tự học.
Nghĩ ra được những điều như vậy, những dằn vặt làm tôi mất ăn mất ngủ những ngày qua, dường như tiêu tan hết. Sau này, qua báo chí, tôi đọc được mấy bài viết về những con đường quanh co của các bậc “thần đồng”, tôi cảm thấy mình là may mắn khi lựa chọn con đường này.
Cuối năm 1999, trên tờ “Báo thanh nhiên đặc khu”, có bài về “vị thần đồng”, tuổi trạc Đình Nhi, năm 14 tuổi đã được Trường Đại học Nam Khai nhận miễn thi vào học lớp chuyên toán của trường tại cơ sở Hắc Long Giang, ba năm sau nhà trường “quyết định đuổi học”. Không phải cháu đó không đủ thông minh, mà là từ năm thứ nhất đến năm thứ ba không chịu học hành, thường trốn học đi chơi trò điện tử, hoặc say sưa đọc tiểu thuyết kiếm hiệp, đến nỗi các bộ môn chính mà nhiều lần thi vẫn không đủ điểm. Những thành công xuất sắc trước đây đã tạo nên ở cháu một tính cách cực kỳ kiêu ngạo, không bao giờ chịu nghe lời khuyên bảo của người khác. Mãi đến khi anh trai đến đón về quê, cuối năm 1998, cháu mới chợt nhận ra rằng, 18 tuổi mà không được đi học, thì chỉ còn cách đi cày ruộng. Lúc đó cậu bé mới hiểu được mối quan hệ giữa học và cuộc sống, cậu lại quyết tâm lao đầu vào học tập, nửa năm sau lại thi đỗ vào Trường Nam Khai.
Ngoài ra, có một lớp cơ sở thuộc khoa Toán trường Đại học Sư phạm Hoa Đông ở Thượng Hải, năm 1987 đã tiếp nhận một sinh viên mới 12 tuổi. Kỳ thi cuối học kỳ của ngay năm học đầu tiên đã có mấy môn không đủ điểm, nhà trường đã nghĩ đến cách khuyên cháu nên thôi học (chưa biết kết quả ra sao!). Có một lớp khác một học kỳ đã phải đuổi đến 3 học sinh, một cháu vì tội yêu đương quá sớm không chịu học hành, còn hai cháu kia cũng lại vì quá say mê chơi trò điện tử và đọc truyện kiếm hiệp.
Các chuyên gia của ngành giáo dục cho rằng, các cháu thiếu niên vốn có một trí lực siêu phàm ấy, sở dĩ không theo được tiến trình đại học, không phải vì các cháu kém thông minh. Các cháu tuổi còn quá nhỏ, tố chất tâm lý, khả năng phân biệt đúng sai, khả năng tự kiềm chế, thậm chí cả khả năng biết khắc phục khó khăn để vươn lên sau mỗi lần thất bại… đều chưa chín chắn, đạt tới trình độ mà một sinh viên đại học cần có. Ngoài ra, các sinh viên tuổi còn niên thiếu, thông thường chỉ giỏi về các môn toán, lý, hoá, còn các môn văn, sử, triết thì lại rất mỏng manh. Nhìn chung, các bộ môn về khoa học tự nhiên dễ “mau chóng đạt được thành công”, còn các bộ môn về khoa học xã hội, thì thường phải dựa vào vốn sống và sự chín chắn về tâm lý. Mà phiền một nỗi, nếu văn mà không giỏi, thì khi phân tích, suy luận trong một bài toán, lý, chắc sẽ gặp khó khăn. Một giáo viên chủ nhiệm của một lớp sinh viên ở Thượng Hải – ông Trần đã nhận định: chính cơ cấu kiến thức của những sinh viên non trẻ đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp theo của họ.
Đối chiếu lại, thực trạng hiện nay của Đình Nhi đã chứng tỏ sự lựa chọn trước đây của tôi là hoàn toàn chính xác, dù rằng cháu đang học ở một trường nổi tiếng nhất thế giới: Trường Đại học Harvard. Cháu vẫn không có khả năng giành được những thành tích mà mọi người đều kinh ngạc. Khi tôi đang viết mấy dòng hồi ký này, cũng là lúc Đình Nhi vừa hoàn thành kỳ thi giữa học kỳ của năm học đầu tiên tại Trường Đại học Harvard. Điểm số của cháu là 3 điểm A, một điểm B, trong đó có những môn, điểm số của cháu cao hơn cả những người được xếp loại A.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, tôi không phản đối việc bồi dưỡng “thần đồng” và việc tiếp nhận những sinh viên tuổi còn niên thiếu. Trái lại, tôi nghĩ rằng nên có kế hoạch và bồi dươỡn nhiều hơn nữa những tài năng như vậy. Chỉ có điều trong hoàn cảnh “không bắt được cả cò lẫn trai”, như tôi. Tôi đã lựa chọn con đường ưu tiên giáo dục tố chất. Đình Nhi của tôi tuy không trở thành “thần đồng” ngay từ thời niên thiếu để mọi người ngưỡng mộ, nhưng cháu vẫn đang trở thành một con người phát triển toàn diện, có đầy đủ tiềm năng để phát triển tiếp theo.