Viet Writer
Và Mai Có Nắng
-
Chương 22
Tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái kéo tôi khỏi vô thức. Mặc dù vậy, tôi vẫn cố quay trở lại giấc ngủ, cuộn người vào chiếc chăn ấm cúng, trong căn gác an toàn của mình. Tôi mơ hồ nhận ra đầu mình đau như búa bổ. Có lẽ tôi đang bị cúm, lý do khiến tôi được phép ngủ nướng, mặc dù tôi biết mình đã ngủ từ rất lâu rồi. Mẹ đang vuốt má tôi, nhưng tôi không gạt tay bà ra như vẫn làm, bởi khi tỉnh táo không bao giờ tôi muốn mẹ biết mình khát khao những vuốt ve nhẹ nhàng ấy như thế nào. Tôi nhớ mẹ vô cùng, dù bà vẫn chưa làm tôi tin tưởng. Rồi có một giọng nói, một giọng nói khác, không phải của mẹ, làm tôi hoang mang.
“Katniss,” người đó nói. “Katniss, cậu có nghe thấy không?”
Tôi mở mắt, cảm giác an toàn biến mất. Tôi không ở nhà, cũng chẳng có mẹ. Tôi đang nằm trong một hang động lờ mờ và lạnh lẽo, mặc cho lớp bạt phủ đôi chân trần vẫn đang lạnh buốt, không khí thoảng mùi máu tanh không thể lẫn vào đâu. Gương mặt hốc hác, nhợt nhạt của một chàng trai nhích lại gần, và sau thoáng hoảng hốt ban đầu, tôi đã thấy yên tâm hơn. “Peeta.”
“Ê này,” cậu nói. “Mừng là cậu đã tỉnh lại.”
“Tớ đã ngất đi bao lâu rồi?” tôi hỏi.
“Không chắc nữa. Tối qua tớ thức dậy thì thấy cậu đang nằm cạnh cùng một vũng máu trông kinh chết được,” cậu nói. “Tớ nghĩ là máu đã ngừng chảy, nhưng tớ chưa xem lại hay làm gì khác.”
Tôi thận trọng đặt tay lên đầu và nhận ra vết thương đã được băng lại. Một vận động nhỏ cũng đủ khiến tôi rệu rã và choáng váng. Peeta đưa chai nước lên miệng tôi và tôi tu ừng ực.
“Cậu khá hơn rồi đấy,” tôi nói.
“Khá hơn nhiều rồi. Không biết cậu tiêm thứ gì vào tay tớ,” cậu nói. “Sáng nay, vết sưng ở chân hầu như đã đỡ.”
Peeta không có vẻ gì giận dữ về việc tôi đã gạt, đánh thuốc cậu và chạy thẳng tới bữa phá cỗ. Có thể vì lúc này tôi đang quá yếu đuối, và cậu sẽ nói khi tôi khỏe hơn. Dù vậy thì lúc này cậu thật tử tế.
“Cậu ăn gì chưa?” tôi hỏi.
“Xin lỗi vì tớ đã ngốn hết ba miếng gô-linh trước khi nhận ra nên để dành chúng. Nhưng đừng lo, tớ đang nhịn trở lại,” cậu nói.
“Không, như thế tốt mà. Cậu phải ăn gì chứ. Tớ sẽ sớm đi săn,” tôi nói.
“Đừng sớm quá, được chứ?” cậu nói. “Để tớ chăm sóc cậu một thời gian.”
Xem ra tôi không có nhiều lựa chọn lắm. Peeta cho tôi ăn vài miếng gô-linh cùng nho khô và cho tôi uống rất nhiều nước. Cậu xoa cho chân tôi ấm lại, ủ chúng trong chiếc áo khoác trước khi kéo vành túi ngủ lên sát cằm tôi.
“Ủng và vớ của cậu vẫn còn ẩm, mà thời tiết thế này không giúp được gì,” cậu nói. Tôi nghe một tiếng sét nổ đoàng bên tai và thấy ánh chớp lóe lên trên bầu trời qua khe hở giữa những tảng đá. Nước mưa nhỏ giọt qua vài lỗ hở phía trên, nhưng Peeta đã che chắn đầu và thân trên tôi bằng cách chèn tấm bạt vuông vào những khe đá ở nóc trần.
“Không biết cơn bão sẽ mang đến điều gì? Ý tớ là, mục tiêu của nó là ai?” Peeta nói.
“Cato và Thresh,” tôi nói không do dự. “Mặt cáo chắc chắn sẽ ẩn đâu đó tại sào huyệt của mình, còn Clove... nó đã chém tớ nhưng rồi...” giọng tôi khựng lại.
“Tớ biết Clove đã chết. Tối qua tớ đã thấy nó trên bầu trời, cậu nói. Cậu đã giết nó ư?”
“Không. Thresh đã đập vỡ sọ con bé,” tôi nói.
“Cũng may là hắn không tóm được cậu,” Peeta nói.
Ký ức về bữa phá cỗ trở lại rõ mồn một và tôi thấy chóng mặt. “Hắn tóm được tớ. Nhưng đã để tớ đi.” Và sau đó, tất nhiên tôi phải kể cho Peeta. Về những chuyện tôi từng giấu kín, do cậu không còn sức để hỏi, và cũng do tôi chưa sẵn sàng kể chúng. Chẳng hạn như vụ nổ, cái tai điếc của tôi, cái chết của Rue, thằng Quận 1 và ổ bánh mì. Tất cả điều đó giải thích cho việc làm của Thresh, cho việc hắn muốn tính nợ với tôi.
“Hắn tha vì hắn không muốn mắc nợ cậu thứ gì ư?” Peeta nghi hoặc.
“Đúng. Tớ cũng không hy vọng cậu hiểu chuyện đó. Cậu chưa bao giờ thiếu thốn thứ gì. Nếu cậu từng sống ở khu Vỉa than, tớ sẽ không phải giải thích điều này,” tôi nói.
“Không cần cố giải thích đâu. Rõ ràng tớ không đủ thông minh để hiểu,” Peeta nói.
“Giống như ổ bánh mì ngày trước. Cậu không thể biết là tớ luôn mang nặng cảm giác mắc nợ cậu như thế nào đâu,” tôi nói.
“Ổ bánh mì nào? Từ khi chúng ta nhỏ xíu ư?” cậu nói. “Tớ nghĩ nên cho qua chuyện ấy được rồi. Cậu vừa cứu mạng tớ còn gì.”
“Nhưng lúc ấy cậu không hề biết tớ. Chúng ta chưa nói chuyện bao giờ. Với lại, món quà đầu tiên bao giờ cũng khó đền đáp nhất. Nếu cậu không giúp tớ lúc đó thì tớ làm gì còn ở đây để giúp cậu,” tôi nói. “Nhưng tại sao lúc đó cậu lại làm thế?”
“Tại sao ư? Cậu biết tại sao không,” Peeta hỏi. Tôi cảm thấy cơn váng vất lướt qua khi khẽ lắc nhẹ đầu. “Haymitch nói thuyết phục cậu khó lắm.”
“Haymitch ư?” tôi hỏi. “Ông ấy có liên quan gì ở đây?”
“Không có gì,” Peeta nói. “Vậy còn Cato và Thresh? Liệu chúng ta có mơ mộng khi nghĩ rằng bọn chúng sẽ sát hại lẫn nhau?”
Nhưng ý nghĩ đó chỉ làm tôi dằn vặt. “Chúng ta không nên có ác cảm với Thresh. Cậu ấy sẽ là bạn bè tốt của chúng ta nếu ở Quận 12,” tôi nói.
“Vậy hãy hy vọng Cato sẽ giết hắn, và chúng ta không phải ra tay,” Peeta nói lạnh lùng.
Tôi không muốn Cato giết Thresh chút nào. Tôi không muốn bất kỳ ai phải chết. Nhưng một người chiến thắng tuyệt nhiên không thể nói điều này trong trường đấu. Mặc dù đã cố hết sức, tôi vẫn cảm thấy những giọt nước mắt đang bắt đầu trào ra.
Peeta nhìn tôi lo lắng. “Sao thế? Cậu đau lắm à?”
Tôi trả lời khác đi, bởi đúng là tôi cũng mang cảm xúc tương tự, nhưng đó chỉ là yếu đuối nhất thời chứ không ở sâu thẳm đáy lòng. “Tớ muốn trở về nhà, Peeta ạ,” tôi rầu rĩ, như một đứa trẻ.
“Cậu sẽ về. Tớ hứa, cậu nói, rồi cúi xuống hôn tôi.
“Tớ muốn trở về nhà bây giờ,” tôi nói.
“Thế này nhé. Trở lại ngủ đi và mơ về nhà mình. Rồi cậu sẽ được trở về nhà thật sự,” cậu nói. “Được chứ?”
“Được,” tôi nói khẽ. “Hãy đánh thức tớ nếu cần tớ canh chừng.”
“Tớ lại sức rồi, cảm ơn cậu và Haymitch. Với lại, ai biết được khi nào mới kết thúc?” cậu nói.
Peeta muốn nói điều gì? Cơn bão ư? Khoảng thời gian cho chúng tôi nghỉ ngơi ư? Hay cho chính Ban Tổ chức? Tôi không biết, nhưng tôi quá buồn bã và mệt mỏi chẳng còn hơi đâu mà hỏi.
Khi Peeta đánh thức tôi thì trời đã tối. Lúc này mưa đang đổ như trút, nước chảy thành dòng trên trần hang đá, dù chỉ mới đây thôi chỉ mới xuất hiện những hạt long tong. Peeta đặt chiếc tô dưới chỗ chảy nhiều nhất, sửa lại tấm bạt để có thể che chắn tôi sao cho tốt nhất. Tôi đã đỡ hơn một chút, có thể ngồi dậy mà không hoa mắt, và đói lả. Peeta cũng thế. Rõ ràng là cậu đã đợi tôi thức dậy để cùng ăn, cậu đang háo hức hơn bao giờ hết.
Không còn lại nhiều. Hai miếng gô-linh, một mớ rễ củ trộn lẫn và một nắm quả khô.
“Chúng ta nên ăn hết hay chừa lại nhỉ?” Peeta hỏi.
“Không cần đâu, ăn hết đi. Thịt gô-linh để cũng đã lâu, mà tớ thì sợ thịt ươn quá rồi,” tôi nói, chia đồ ăn thành hai phần. Chúng tôi cố ăn từ tốn, nhưng cả hai đều quá đói nên chỉ trong vài phút đã xong. Chẳng bõ dính răng với tôi. “Ngày mai chúng ta sẽ đi săn,” tôi nói.
“Tớ sẽ không giúp được nhiều,” Peeta nói. “Tớ chưa đi săn bao giờ cả.”
“Tớ săn còn cậu thì nấu,” tôi nói. “Với lại cậu còn hái lượm được mà.”
“Ước gì có bánh mì ở ngoài kia,” Peeta nói.
“Cái bánh mì mà Quận 11 gửi cho tớ lúc ấy còn nóng cơ đấy,” tôi thở dài. “Này, nhai đi.” Tôi đưa cậu ấy vài lá bạc hà và bỏ một ít vào miệng nhai.
Hầu như không thể thấy ánh sáng phát ra trên bầu trời, nhưng tôi thừa biết hôm nay không có thêm người nào chết. Cato và Thresh vẫn chưa chạm trán.
“Thresh đã đi đâu nhỉ? Ý tớ là, có gì ở phía bên kia bãi đất?” tôi hỏi Peeta.
“Một cánh đồng. Cậu sẽ chỉ thấy một đồng cỏ cao đến ngang vai tớ. Tớ không biết, có thể là cánh đồng ngũ cốc gì đó. Những thảm cỏ màu sắc khác nhau. Có điều, không có con đường nào cả,” Peeta nói.
“Tớ cá là ở đó có ngũ cốc. Và tớ cá là Thresh biết rõ về chúng.” tôi nói. “Cậu đã đến đó chưa?”
“Chưa. Không ai thực sự muốn theo dấu Thresh trong cánh đồng. Ở đó đầy mùi nguy hiểm. Mỗi lần nhìn về phía ấy tớ chỉ nghĩ về những thứ đang ẩn náu bên trong. Rắn rết, thú hoang, cát lầy,” Peeta nói. “Có thể có bất cứ thứ gì.”
Tuy không nói nhưng những lời của Peeta làm tôi nhớ lại lời cảnh báo cấm chúng tôi vượt qua hàng rào ở Quận 12. Ngay lúc đó, tôi không thể không so sánh cậu với Gale, người sẽ nhìn cánh đồng như một nguồn cung cấp thức ăn đáng kể, song song với mối nguy. Thresh chắc chắn đã nghĩ thế. Điều đó không hẳn có nghĩa là Peeta yếu đuối, cậu cũng đã cho thấy mình không phải thỏ đế. Nhưng tôi nghĩ, người ta không phải đặt quá nhiều câu hỏi khi nhà họ luôn thơm phức mùi bánh mì nướng, trong khi Gale luôn nghi ngờ mọi thứ. Peeta sẽ nghĩ gì khi nghe thấy những lời đùa cợt bỗ bã của chúng tôi trong lúc phá luật vào rừng mỗi ngày? Cậu có sốc không? Hay những thứ chúng tôi nói về Panem? Hay những gì Gale chỉ trích Capitol?
“Có thể có bánh mì ở cánh đồng đó,” tôi nói.
“Có thể đó là lý do trông Thresh mập mạp hơn so với lúc Đấu trường bắt đầu.”
“Hoặc là thế, hoặc là hắn có những nhà tài trợ rất rộng rãi,” Peeta nói. “Tớ không biết chúng ta phải làm gì để được Haymitch gửi vài ổ bánh mì.”
Tôi nheo mày trước khi nhớ ra cậu không biết về thông điệp của Haymitch cách đây vài đêm. Một nụ hôn bằng một tô xúp. Tôi chưa nghĩ gì về chuyện đó. Nếu nói điều này ra, khán giả có thể sẽ phát hiện rằng toàn bộ câu chuyện tình cảm này chỉ là một màn kịch nhằm nhận được sự cảm thông từ họ, và thế là sẽ chẳng có đồ ăn nào hết. Bằng cách nào đó, đáng tin hơn, tôi phải đưa mọi thứ trở lại đúng đường. Bắt đầu bằng một cử chỉ nhỏ. Tôi với lấy tay Peeta.
“Ừ, có lẽ ông ấy đã tốn khá tiền để giúp tớ ru ngủ cậu,” tôi trêu.
“Ồ, về chuyện đó,” Peeta nói, siết chặt tay tôi. “Cậu đừng bao giờ làm điều tương tự nữa.”
“Nếu không thì sao?” tôi hỏi.
“Thì... thì...” cậu không thể nghĩ ra điều gì khả dĩ. “Cho tớ một phút.”
“Có vấn đề gì à?” tôi cười khoái chí.
“Có chứ, vì cả hai đều còn sống nên cậu sẽ càng củng cố cái ý nghĩ, rằng mình làm thế là đúng,” Peeta nói.
“Tớ đã làm đúng còn gì,” tôi nói.
“Không! Không hề, Katniss!” Peeta siết chặt hơn làm tay tôi ê ẩm, giọng cậu thật sự giận dữ. “Đừng chết vì tớ. Đừng làm điều gì cho tớ. Được chứ?”
Giật mình trước sự quyết liệt của cậu, nhưng do đây là cơ hội tuyệt vời để kiếm thức ăn, tôi vẫn tiếp tục. “Biết đâu tớ làm thế vì bản thân mình, Peeta ạ, cậu đã nghĩ về điều đó chưa? Có thể cậu không phải là người duy nhất biết... biết lo lắng... sẽ ra sao nếu...”
Tôi ngập ngừng. Tôi không diễn đạt tốt như Peeta. Trong khi nói, ý nghĩ Peeta chết lại đánh gục tôi lần nữa, và rồi tôi nhận ra mình muốn cậu sống đến nhường nào. Không còn là chuyện vấn đề tài trợ. Không còn là chuyện phải bận tâm điều gì sẽ xảy ra khi trở về nhà. Cũng chẳng phải vì tôi không muốn bị bỏ rơi một mình. Vì chính cậu.
Tôi không muốn mất chàng trai đã đưa tôi ổ bánh mì.
“Nếu thế nào, Katniss?” Peeta dịu dàng.
Ước gì tôi có thể đóng ống kính lại, kéo khoảnh khắc này ra khỏi mắt ánh mắt tọc mạch của người Panem. Dù cho điều đó sẽ làm tôi thiệt đủ điều. Dù thế nào đi nữa thì tình cảm của tôi đâu phải chuyện của người khác, nó chỉ dành cho riêng mình tôi thôi.
“Haymitch đã dặn tớ không nhắc đến điều này,” tôi đánh trống lảng, dù Haymitch chưa bao giờ nói những điều đó. Có lẽ lúc này ông đang rủa xả tôi vì đã làm hỏng hết cả cái khoảnh khắc bùng nổ đầy cảm xúc như thế này. Nhưng Peeta dường như đã hiểu ý.
“Vậy tớ sẽ phải tự mình lấp vào những khoảng trống đó,” cậu nói, rồi tiến về phía tôi.
Đó là nụ hôn đầu tiên mà cả hai đều ý thức được hoàn toàn. Không ai trong chúng tôi tỏ ra do dự, vì bệnh, vì đau hay đơn giản vì sợ mình đang mất tỉnh táo. Làn môi cũng không nóng hổi vì sốt hay tê cóng vì lạnh. Đây là nụ hôn đầu tiên mà tôi thực sự cảm thấy rạo rực trong lồng ngực.
Ấm áp và lôi kéo. Nụ hôn đầu tiên mà tôi muốn nếm thêm lần nữa.
Nhưng không thể. Thực ra thì tôi có nhận nụ hôn thứ hai, nhưng chỉ là cái hôn nhẹ nhàng lên đầu mũi vì Peeta đã lảng sang chuyện khác. “Tớ nghĩ vết thương của cậu lại chảy máu. Yên nào, nằm xuống nhé, dù sao cũng đến lúc đi ngủ rồi,” cậu nói.
Lúc này đôi tất đã khô. Tôi bắt Peeta mặc áo khoác. Cái lạnh đã ngấm tới tận xương tôi, còn cậu hẳn sắp đóng băng rồi. Tôi khăng khăng muốn được nhận việc canh gác đầu tiên, dù không ai nghĩ rằng kẻ thù sẽ đến trong thời tiết này. Nhưng cậu muốn tôi cũng phải vào túi ngủ, trong khi tôi cũng đang run lên đến mức khó mà từ chối. Đối lập hoàn toàn với hai đêm trước, khi còn cảm giác xa lạ muôn trùng với Peeta, lúc này tôi muốn gần cậu hơn bao giờ hết. Khi đã yên chỗ, cậu nhấc đầu tôi gối vào cánh tay mình, cánh tay kia choàng qua người, che chở cho tôi ngay cả khi đã thiếp đi. Đã không ai ôm tôi như vậy trong thời gian dài. Từ khi cha chết, từ khi tôi không còn tin tưởng mẹ, chưa có cánh tay của ai tạo cho tôi cảm giác an toàn như thế.
Đeo chiếc kính đêm, tôi nằm đó quan sát những giọt nước rơi lộp độp xuống nền. Nhịp nhàng và lắng đọng. Thỉnh thoảng tôi lại gật gà gật gù rồi giật mình tỉnh dậy, cảm thấy có lỗi rồi giận dữ với chính bản thân. Sau khoảng ba hay bốn tiếng, không thể chịu được nữa, tôi buộc phải đánh thức Peeta bởi không thể cưỡng lại nổi cơn buồn ngủ. Cậu không hề nề hà gì.
“Ngày mai khi trời tạnh, tớ sẽ tìm cho chúng ta một nơi thật cao trên cây, để cả hai đều có thể yên giấc,” tôi hứa trong lúc thiu thiu chìm vào cơn mộng.
Nhưng ngày mai thời tiết cũng không khá hơn là bao. Cơn lũ cứ tiếp tục như thể Ban Tổ chức định quét sạch tất cả chúng tôi. Sấm mạnh đến nỗi làm rung chuyển trời đất. Peeta vẫn định ra ngoài để nhặt nhạnh thứ gì ăn được, nhưng tôi nói với cậu trong thời tiết kiểu này, việc đó là không thể. Người ta sẽ chẳng thấy nổi thứ gì quá một mét trước mặt và cuối cùng thì chỉ có ướt như chuột lột. Peeta biết tôi nói đúng, nhưng dạ dày của chúng tôi bắt đầu quặn lên vì đói.
Ngày qua, tối lại, thời tiết vẫn không khá hơn. Haymitch là niềm hy vọng duy nhất của chúng tôi, nhưng không có gì xảy đến, hoặc vì không đủ tiền - mọi thứ đều ngốn một núi tiền - hoặc vì ông không hài lòng với chúng tôi. Có thể là vế sau. Tôi phải thừa nhận rằng ngày hôm nay chúng tôi không mấy quấn quýt. Đói lả, yếu ớt vì thương tật, chỉ biết cố không làm những vết thương mở miệng. Chúng tôi ngồi rúc vào nhau trong chiếc túi ngủ, đúng thế thật, nhưng chỉ để giữ ấm là chính. Điều thú vị nhất mà cả ai chúng tôi đều làm, có lẽ là ngủ.
Tôi không biết chắc làm cách nào để hâm nóng tình cảm. Nụ hôn tối qua thật tuyệt, nhưng cần phải cân nhắc có nên lặp lại hay không. Khu Vỉa than có một số đứa con gái, cả nhóm lái thương nữa, rất giỏi làm người khác mủi lòng. Tôi thì không bao giờ nghĩ nhiều đến chuyện đó. Dù gì thì một nụ hôn rõ ràng là chưa đủ, nếu không tối qua chúng tôi đã có thức ăn. Linh cảm mách bảo tôi rằng Haymitch không cần sự gần gũi da thịt, ông muốn thứ gì đó nội tâm hơn. Như lúc ông bắt tôi phải kể về bản thân mình cho ông trong buổi tập trước cuộc phỏng vấn. Tôi làm ông chán ngán, còn Peeta thì không. Có lẽ cách tốt nhất là làm cậu nói cái gì đó.
“Peeta,” tôi nói khẽ. “Trong buổi phỏng vấn cậu nói đã để ý tớ từ lâu. Chuyện đó bắt đầu từ lúc nào?”
“Ồ, xem nào. Tớ đoán là ngày đầu tiên tới trường. Khi chúng ta năm tuổi. Cậu mặc chiếc váy kẻ ô màu đỏ và tóc cậu... lúc đó tết hai bím thay vì một. Cha tớ đã chỉ cậu khi chúng ta đợi xếp hàng,” Peeta nói.
“Cha cậu ư? Tại sao thế?” tôi hỏi.
“Ông ấy nói, ‘Con thấy cô bé ấy chứ? Cha từng muốn cưới mẹ cô bé, nhưng bà ấy đã lấy một người thợ mỏ’,” Peeta nói.
“Cái gì cơ? Cậu đúng là đang dựng chuyện!” tôi kêu lên.
“Không, chuyện là thật,” Peeta nói. “Và tớ nói, ‘Một người thợ mỏ sao? Tại sao bà ấy muốn lấy người thợ mỏ khi bà ấy có thể chọn cha?’ Và cha tớ nói, ‘Bởi vì khi ông ấy hát... ngay cả bầy chim cũng phải im lặng để lắng nghe’.”
“Điều đó đúng. Ý tớ là, bầy chim đúng là như thế,” tôi nói. Tôi ngạc nhiên và xúc động đến bất ngờ, khi nghĩ đến việc người chủ tiệm bánh kể điều đó cho Peeta. Tôi chợt nhận ra việc tôi miễn cưỡng khi hát, việc tôi từ bỏ ca hát, không hẳn vì tôi nghĩ chuyện đó mất thời gian, mà có thể vì nó gợi lại cho tôi quá nhiều về cha.
“Rồi ngày hôm đó, trong giờ hát nhạc, cô giáo đã hỏi ai biết hát bài ca về thung lũng. Cậu giơ tay trước lớp. Cô mời cậu đứng lên bục và hát trước lớp. Và tớ thề là khi đó tất cả bầy chim ngoài cửa sổ đều im bặt,” Peeta nói.
“Thôi nào, làm ơn,” tôi bật cười.
“Không, thật đấy. Và ngay khi cậu kết thúc bài hát, tớ biết là mình, cũng như mẹ cậu, đã trở thành kẻ si tình, Peeta nói. “Và rồi suốt mười một năm học sau đó, tớ đã tìm cách lấy can đảm để bắt chuyện với cậu.”
“Mà không thành,” tôi chêm vào.
“Mà không thành. Bởi thế, có thể xem việc tớ có tên trong ngày chiêu quân là một cái may,” Peeta nói.
Ngay lúc đó, tôi hạnh phúc đến ngây ngất, nhưng rồi tôi lại thấy lòng đầy băn khoăn. Bởi vì chúng tôi đang dựng câu chuyện này lên, đang giả vờ yêu nhau. Nhưng câu chuyện của Peeta cũng chứa đựng sự thật đấy chứ. Về cha tôi, về những con chim. Và đúng là tôi có hát trong ngày đầu tiên tới trường, dù tôi không còn nhớ bài hát ấy. Và cái váy kẻ ô màu đỏ... chiếc váy tôi để lại cho Prim, được mặc đến sờn rách từ sau khi cha tôi mất.
Điều này cũng giải thích một việc. Lý do Peeta chịu đòn để đưa tôi ổ bánh mì vào cái ngày đói mốc đói meo ấy. Như vậy, nếu những chi tiết là đúng... liệu toàn bộ câu chuyện có phải là thật không?
“Cậu có một... trí nhớ thật đáng nể,” tôi ngập ngừng nói.
“Tớ nhớ mọi thứ về cậu,” Peeta nói, vén mớ tóc trên tai tôi. “Còn cậu vốn không để ý.”
“Bây giờ thì có,” tôi nói.
“Tớ không định theo đuôi cậu ở đây,” cậu nói.
Tôi muốn lánh đi chỗ khác, muốn đóng sập những ống kính một lần nữa, nhưng tôi biết mình không thể. Tôi như nghe thấy tiếng Haymitch văng vẳng bên tai, “Nói đi! Nói đi!”
Tôi nuốt nước bọt, cất tiếng. “Cậu không phải theo đuôi ở đâu cả.” Và lúc này đến lượt tôi cúi xuống.
Chúng tôi sắp sửa chạm môi thì tiếng rơi độp ngoài kia cả hai giật mình. Tôi cầm cung, sẵn sàng bắn nhưng không có tiếng động nào khác. Peeta nhòm qua khe đá và hô to. Tôi chưa kịp ngăn lại thì cậu đã chạy ra ngoài mưa, rồi cầm một thứ vào cho tôi. Một chiếc dù bạc gắn với một chiếc giỏ. Ngay lập tức tôi mở toạc và thấy bên trong là cả một bữa cỗ - bánh mì tươi, pho mát dê, táo và ngon hơn cả, một cái liễn với thịt cừu hầm với gạo lúa hoang ngon tuyệt. Một bữa ăn mà tôi muốn nói với Caesar Flickerman là món quà ấn tượng nhất mà Capitol từng trao.
Peeta chui trở lại túi ngủ, vẻ mặt rạng rỡ. “Haymitch cuối cùng đã chán ngấy việc nhìn chúng ta khổ sở vì đói.”
“Tớ cũng đoán thế,” tôi trả lời.
Nhưng trong đầu tôi có thể nghe thấy tiếng Haymitch tự đắc, xen lẫn chút cáu kỉnh, “Chính xác, đó là điều ta chờ đợi, cháu yêu ạ.”
“Katniss,” người đó nói. “Katniss, cậu có nghe thấy không?”
Tôi mở mắt, cảm giác an toàn biến mất. Tôi không ở nhà, cũng chẳng có mẹ. Tôi đang nằm trong một hang động lờ mờ và lạnh lẽo, mặc cho lớp bạt phủ đôi chân trần vẫn đang lạnh buốt, không khí thoảng mùi máu tanh không thể lẫn vào đâu. Gương mặt hốc hác, nhợt nhạt của một chàng trai nhích lại gần, và sau thoáng hoảng hốt ban đầu, tôi đã thấy yên tâm hơn. “Peeta.”
“Ê này,” cậu nói. “Mừng là cậu đã tỉnh lại.”
“Tớ đã ngất đi bao lâu rồi?” tôi hỏi.
“Không chắc nữa. Tối qua tớ thức dậy thì thấy cậu đang nằm cạnh cùng một vũng máu trông kinh chết được,” cậu nói. “Tớ nghĩ là máu đã ngừng chảy, nhưng tớ chưa xem lại hay làm gì khác.”
Tôi thận trọng đặt tay lên đầu và nhận ra vết thương đã được băng lại. Một vận động nhỏ cũng đủ khiến tôi rệu rã và choáng váng. Peeta đưa chai nước lên miệng tôi và tôi tu ừng ực.
“Cậu khá hơn rồi đấy,” tôi nói.
“Khá hơn nhiều rồi. Không biết cậu tiêm thứ gì vào tay tớ,” cậu nói. “Sáng nay, vết sưng ở chân hầu như đã đỡ.”
Peeta không có vẻ gì giận dữ về việc tôi đã gạt, đánh thuốc cậu và chạy thẳng tới bữa phá cỗ. Có thể vì lúc này tôi đang quá yếu đuối, và cậu sẽ nói khi tôi khỏe hơn. Dù vậy thì lúc này cậu thật tử tế.
“Cậu ăn gì chưa?” tôi hỏi.
“Xin lỗi vì tớ đã ngốn hết ba miếng gô-linh trước khi nhận ra nên để dành chúng. Nhưng đừng lo, tớ đang nhịn trở lại,” cậu nói.
“Không, như thế tốt mà. Cậu phải ăn gì chứ. Tớ sẽ sớm đi săn,” tôi nói.
“Đừng sớm quá, được chứ?” cậu nói. “Để tớ chăm sóc cậu một thời gian.”
Xem ra tôi không có nhiều lựa chọn lắm. Peeta cho tôi ăn vài miếng gô-linh cùng nho khô và cho tôi uống rất nhiều nước. Cậu xoa cho chân tôi ấm lại, ủ chúng trong chiếc áo khoác trước khi kéo vành túi ngủ lên sát cằm tôi.
“Ủng và vớ của cậu vẫn còn ẩm, mà thời tiết thế này không giúp được gì,” cậu nói. Tôi nghe một tiếng sét nổ đoàng bên tai và thấy ánh chớp lóe lên trên bầu trời qua khe hở giữa những tảng đá. Nước mưa nhỏ giọt qua vài lỗ hở phía trên, nhưng Peeta đã che chắn đầu và thân trên tôi bằng cách chèn tấm bạt vuông vào những khe đá ở nóc trần.
“Không biết cơn bão sẽ mang đến điều gì? Ý tớ là, mục tiêu của nó là ai?” Peeta nói.
“Cato và Thresh,” tôi nói không do dự. “Mặt cáo chắc chắn sẽ ẩn đâu đó tại sào huyệt của mình, còn Clove... nó đã chém tớ nhưng rồi...” giọng tôi khựng lại.
“Tớ biết Clove đã chết. Tối qua tớ đã thấy nó trên bầu trời, cậu nói. Cậu đã giết nó ư?”
“Không. Thresh đã đập vỡ sọ con bé,” tôi nói.
“Cũng may là hắn không tóm được cậu,” Peeta nói.
Ký ức về bữa phá cỗ trở lại rõ mồn một và tôi thấy chóng mặt. “Hắn tóm được tớ. Nhưng đã để tớ đi.” Và sau đó, tất nhiên tôi phải kể cho Peeta. Về những chuyện tôi từng giấu kín, do cậu không còn sức để hỏi, và cũng do tôi chưa sẵn sàng kể chúng. Chẳng hạn như vụ nổ, cái tai điếc của tôi, cái chết của Rue, thằng Quận 1 và ổ bánh mì. Tất cả điều đó giải thích cho việc làm của Thresh, cho việc hắn muốn tính nợ với tôi.
“Hắn tha vì hắn không muốn mắc nợ cậu thứ gì ư?” Peeta nghi hoặc.
“Đúng. Tớ cũng không hy vọng cậu hiểu chuyện đó. Cậu chưa bao giờ thiếu thốn thứ gì. Nếu cậu từng sống ở khu Vỉa than, tớ sẽ không phải giải thích điều này,” tôi nói.
“Không cần cố giải thích đâu. Rõ ràng tớ không đủ thông minh để hiểu,” Peeta nói.
“Giống như ổ bánh mì ngày trước. Cậu không thể biết là tớ luôn mang nặng cảm giác mắc nợ cậu như thế nào đâu,” tôi nói.
“Ổ bánh mì nào? Từ khi chúng ta nhỏ xíu ư?” cậu nói. “Tớ nghĩ nên cho qua chuyện ấy được rồi. Cậu vừa cứu mạng tớ còn gì.”
“Nhưng lúc ấy cậu không hề biết tớ. Chúng ta chưa nói chuyện bao giờ. Với lại, món quà đầu tiên bao giờ cũng khó đền đáp nhất. Nếu cậu không giúp tớ lúc đó thì tớ làm gì còn ở đây để giúp cậu,” tôi nói. “Nhưng tại sao lúc đó cậu lại làm thế?”
“Tại sao ư? Cậu biết tại sao không,” Peeta hỏi. Tôi cảm thấy cơn váng vất lướt qua khi khẽ lắc nhẹ đầu. “Haymitch nói thuyết phục cậu khó lắm.”
“Haymitch ư?” tôi hỏi. “Ông ấy có liên quan gì ở đây?”
“Không có gì,” Peeta nói. “Vậy còn Cato và Thresh? Liệu chúng ta có mơ mộng khi nghĩ rằng bọn chúng sẽ sát hại lẫn nhau?”
Nhưng ý nghĩ đó chỉ làm tôi dằn vặt. “Chúng ta không nên có ác cảm với Thresh. Cậu ấy sẽ là bạn bè tốt của chúng ta nếu ở Quận 12,” tôi nói.
“Vậy hãy hy vọng Cato sẽ giết hắn, và chúng ta không phải ra tay,” Peeta nói lạnh lùng.
Tôi không muốn Cato giết Thresh chút nào. Tôi không muốn bất kỳ ai phải chết. Nhưng một người chiến thắng tuyệt nhiên không thể nói điều này trong trường đấu. Mặc dù đã cố hết sức, tôi vẫn cảm thấy những giọt nước mắt đang bắt đầu trào ra.
Peeta nhìn tôi lo lắng. “Sao thế? Cậu đau lắm à?”
Tôi trả lời khác đi, bởi đúng là tôi cũng mang cảm xúc tương tự, nhưng đó chỉ là yếu đuối nhất thời chứ không ở sâu thẳm đáy lòng. “Tớ muốn trở về nhà, Peeta ạ,” tôi rầu rĩ, như một đứa trẻ.
“Cậu sẽ về. Tớ hứa, cậu nói, rồi cúi xuống hôn tôi.
“Tớ muốn trở về nhà bây giờ,” tôi nói.
“Thế này nhé. Trở lại ngủ đi và mơ về nhà mình. Rồi cậu sẽ được trở về nhà thật sự,” cậu nói. “Được chứ?”
“Được,” tôi nói khẽ. “Hãy đánh thức tớ nếu cần tớ canh chừng.”
“Tớ lại sức rồi, cảm ơn cậu và Haymitch. Với lại, ai biết được khi nào mới kết thúc?” cậu nói.
Peeta muốn nói điều gì? Cơn bão ư? Khoảng thời gian cho chúng tôi nghỉ ngơi ư? Hay cho chính Ban Tổ chức? Tôi không biết, nhưng tôi quá buồn bã và mệt mỏi chẳng còn hơi đâu mà hỏi.
Khi Peeta đánh thức tôi thì trời đã tối. Lúc này mưa đang đổ như trút, nước chảy thành dòng trên trần hang đá, dù chỉ mới đây thôi chỉ mới xuất hiện những hạt long tong. Peeta đặt chiếc tô dưới chỗ chảy nhiều nhất, sửa lại tấm bạt để có thể che chắn tôi sao cho tốt nhất. Tôi đã đỡ hơn một chút, có thể ngồi dậy mà không hoa mắt, và đói lả. Peeta cũng thế. Rõ ràng là cậu đã đợi tôi thức dậy để cùng ăn, cậu đang háo hức hơn bao giờ hết.
Không còn lại nhiều. Hai miếng gô-linh, một mớ rễ củ trộn lẫn và một nắm quả khô.
“Chúng ta nên ăn hết hay chừa lại nhỉ?” Peeta hỏi.
“Không cần đâu, ăn hết đi. Thịt gô-linh để cũng đã lâu, mà tớ thì sợ thịt ươn quá rồi,” tôi nói, chia đồ ăn thành hai phần. Chúng tôi cố ăn từ tốn, nhưng cả hai đều quá đói nên chỉ trong vài phút đã xong. Chẳng bõ dính răng với tôi. “Ngày mai chúng ta sẽ đi săn,” tôi nói.
“Tớ sẽ không giúp được nhiều,” Peeta nói. “Tớ chưa đi săn bao giờ cả.”
“Tớ săn còn cậu thì nấu,” tôi nói. “Với lại cậu còn hái lượm được mà.”
“Ước gì có bánh mì ở ngoài kia,” Peeta nói.
“Cái bánh mì mà Quận 11 gửi cho tớ lúc ấy còn nóng cơ đấy,” tôi thở dài. “Này, nhai đi.” Tôi đưa cậu ấy vài lá bạc hà và bỏ một ít vào miệng nhai.
Hầu như không thể thấy ánh sáng phát ra trên bầu trời, nhưng tôi thừa biết hôm nay không có thêm người nào chết. Cato và Thresh vẫn chưa chạm trán.
“Thresh đã đi đâu nhỉ? Ý tớ là, có gì ở phía bên kia bãi đất?” tôi hỏi Peeta.
“Một cánh đồng. Cậu sẽ chỉ thấy một đồng cỏ cao đến ngang vai tớ. Tớ không biết, có thể là cánh đồng ngũ cốc gì đó. Những thảm cỏ màu sắc khác nhau. Có điều, không có con đường nào cả,” Peeta nói.
“Tớ cá là ở đó có ngũ cốc. Và tớ cá là Thresh biết rõ về chúng.” tôi nói. “Cậu đã đến đó chưa?”
“Chưa. Không ai thực sự muốn theo dấu Thresh trong cánh đồng. Ở đó đầy mùi nguy hiểm. Mỗi lần nhìn về phía ấy tớ chỉ nghĩ về những thứ đang ẩn náu bên trong. Rắn rết, thú hoang, cát lầy,” Peeta nói. “Có thể có bất cứ thứ gì.”
Tuy không nói nhưng những lời của Peeta làm tôi nhớ lại lời cảnh báo cấm chúng tôi vượt qua hàng rào ở Quận 12. Ngay lúc đó, tôi không thể không so sánh cậu với Gale, người sẽ nhìn cánh đồng như một nguồn cung cấp thức ăn đáng kể, song song với mối nguy. Thresh chắc chắn đã nghĩ thế. Điều đó không hẳn có nghĩa là Peeta yếu đuối, cậu cũng đã cho thấy mình không phải thỏ đế. Nhưng tôi nghĩ, người ta không phải đặt quá nhiều câu hỏi khi nhà họ luôn thơm phức mùi bánh mì nướng, trong khi Gale luôn nghi ngờ mọi thứ. Peeta sẽ nghĩ gì khi nghe thấy những lời đùa cợt bỗ bã của chúng tôi trong lúc phá luật vào rừng mỗi ngày? Cậu có sốc không? Hay những thứ chúng tôi nói về Panem? Hay những gì Gale chỉ trích Capitol?
“Có thể có bánh mì ở cánh đồng đó,” tôi nói.
“Có thể đó là lý do trông Thresh mập mạp hơn so với lúc Đấu trường bắt đầu.”
“Hoặc là thế, hoặc là hắn có những nhà tài trợ rất rộng rãi,” Peeta nói. “Tớ không biết chúng ta phải làm gì để được Haymitch gửi vài ổ bánh mì.”
Tôi nheo mày trước khi nhớ ra cậu không biết về thông điệp của Haymitch cách đây vài đêm. Một nụ hôn bằng một tô xúp. Tôi chưa nghĩ gì về chuyện đó. Nếu nói điều này ra, khán giả có thể sẽ phát hiện rằng toàn bộ câu chuyện tình cảm này chỉ là một màn kịch nhằm nhận được sự cảm thông từ họ, và thế là sẽ chẳng có đồ ăn nào hết. Bằng cách nào đó, đáng tin hơn, tôi phải đưa mọi thứ trở lại đúng đường. Bắt đầu bằng một cử chỉ nhỏ. Tôi với lấy tay Peeta.
“Ừ, có lẽ ông ấy đã tốn khá tiền để giúp tớ ru ngủ cậu,” tôi trêu.
“Ồ, về chuyện đó,” Peeta nói, siết chặt tay tôi. “Cậu đừng bao giờ làm điều tương tự nữa.”
“Nếu không thì sao?” tôi hỏi.
“Thì... thì...” cậu không thể nghĩ ra điều gì khả dĩ. “Cho tớ một phút.”
“Có vấn đề gì à?” tôi cười khoái chí.
“Có chứ, vì cả hai đều còn sống nên cậu sẽ càng củng cố cái ý nghĩ, rằng mình làm thế là đúng,” Peeta nói.
“Tớ đã làm đúng còn gì,” tôi nói.
“Không! Không hề, Katniss!” Peeta siết chặt hơn làm tay tôi ê ẩm, giọng cậu thật sự giận dữ. “Đừng chết vì tớ. Đừng làm điều gì cho tớ. Được chứ?”
Giật mình trước sự quyết liệt của cậu, nhưng do đây là cơ hội tuyệt vời để kiếm thức ăn, tôi vẫn tiếp tục. “Biết đâu tớ làm thế vì bản thân mình, Peeta ạ, cậu đã nghĩ về điều đó chưa? Có thể cậu không phải là người duy nhất biết... biết lo lắng... sẽ ra sao nếu...”
Tôi ngập ngừng. Tôi không diễn đạt tốt như Peeta. Trong khi nói, ý nghĩ Peeta chết lại đánh gục tôi lần nữa, và rồi tôi nhận ra mình muốn cậu sống đến nhường nào. Không còn là chuyện vấn đề tài trợ. Không còn là chuyện phải bận tâm điều gì sẽ xảy ra khi trở về nhà. Cũng chẳng phải vì tôi không muốn bị bỏ rơi một mình. Vì chính cậu.
Tôi không muốn mất chàng trai đã đưa tôi ổ bánh mì.
“Nếu thế nào, Katniss?” Peeta dịu dàng.
Ước gì tôi có thể đóng ống kính lại, kéo khoảnh khắc này ra khỏi mắt ánh mắt tọc mạch của người Panem. Dù cho điều đó sẽ làm tôi thiệt đủ điều. Dù thế nào đi nữa thì tình cảm của tôi đâu phải chuyện của người khác, nó chỉ dành cho riêng mình tôi thôi.
“Haymitch đã dặn tớ không nhắc đến điều này,” tôi đánh trống lảng, dù Haymitch chưa bao giờ nói những điều đó. Có lẽ lúc này ông đang rủa xả tôi vì đã làm hỏng hết cả cái khoảnh khắc bùng nổ đầy cảm xúc như thế này. Nhưng Peeta dường như đã hiểu ý.
“Vậy tớ sẽ phải tự mình lấp vào những khoảng trống đó,” cậu nói, rồi tiến về phía tôi.
Đó là nụ hôn đầu tiên mà cả hai đều ý thức được hoàn toàn. Không ai trong chúng tôi tỏ ra do dự, vì bệnh, vì đau hay đơn giản vì sợ mình đang mất tỉnh táo. Làn môi cũng không nóng hổi vì sốt hay tê cóng vì lạnh. Đây là nụ hôn đầu tiên mà tôi thực sự cảm thấy rạo rực trong lồng ngực.
Ấm áp và lôi kéo. Nụ hôn đầu tiên mà tôi muốn nếm thêm lần nữa.
Nhưng không thể. Thực ra thì tôi có nhận nụ hôn thứ hai, nhưng chỉ là cái hôn nhẹ nhàng lên đầu mũi vì Peeta đã lảng sang chuyện khác. “Tớ nghĩ vết thương của cậu lại chảy máu. Yên nào, nằm xuống nhé, dù sao cũng đến lúc đi ngủ rồi,” cậu nói.
Lúc này đôi tất đã khô. Tôi bắt Peeta mặc áo khoác. Cái lạnh đã ngấm tới tận xương tôi, còn cậu hẳn sắp đóng băng rồi. Tôi khăng khăng muốn được nhận việc canh gác đầu tiên, dù không ai nghĩ rằng kẻ thù sẽ đến trong thời tiết này. Nhưng cậu muốn tôi cũng phải vào túi ngủ, trong khi tôi cũng đang run lên đến mức khó mà từ chối. Đối lập hoàn toàn với hai đêm trước, khi còn cảm giác xa lạ muôn trùng với Peeta, lúc này tôi muốn gần cậu hơn bao giờ hết. Khi đã yên chỗ, cậu nhấc đầu tôi gối vào cánh tay mình, cánh tay kia choàng qua người, che chở cho tôi ngay cả khi đã thiếp đi. Đã không ai ôm tôi như vậy trong thời gian dài. Từ khi cha chết, từ khi tôi không còn tin tưởng mẹ, chưa có cánh tay của ai tạo cho tôi cảm giác an toàn như thế.
Đeo chiếc kính đêm, tôi nằm đó quan sát những giọt nước rơi lộp độp xuống nền. Nhịp nhàng và lắng đọng. Thỉnh thoảng tôi lại gật gà gật gù rồi giật mình tỉnh dậy, cảm thấy có lỗi rồi giận dữ với chính bản thân. Sau khoảng ba hay bốn tiếng, không thể chịu được nữa, tôi buộc phải đánh thức Peeta bởi không thể cưỡng lại nổi cơn buồn ngủ. Cậu không hề nề hà gì.
“Ngày mai khi trời tạnh, tớ sẽ tìm cho chúng ta một nơi thật cao trên cây, để cả hai đều có thể yên giấc,” tôi hứa trong lúc thiu thiu chìm vào cơn mộng.
Nhưng ngày mai thời tiết cũng không khá hơn là bao. Cơn lũ cứ tiếp tục như thể Ban Tổ chức định quét sạch tất cả chúng tôi. Sấm mạnh đến nỗi làm rung chuyển trời đất. Peeta vẫn định ra ngoài để nhặt nhạnh thứ gì ăn được, nhưng tôi nói với cậu trong thời tiết kiểu này, việc đó là không thể. Người ta sẽ chẳng thấy nổi thứ gì quá một mét trước mặt và cuối cùng thì chỉ có ướt như chuột lột. Peeta biết tôi nói đúng, nhưng dạ dày của chúng tôi bắt đầu quặn lên vì đói.
Ngày qua, tối lại, thời tiết vẫn không khá hơn. Haymitch là niềm hy vọng duy nhất của chúng tôi, nhưng không có gì xảy đến, hoặc vì không đủ tiền - mọi thứ đều ngốn một núi tiền - hoặc vì ông không hài lòng với chúng tôi. Có thể là vế sau. Tôi phải thừa nhận rằng ngày hôm nay chúng tôi không mấy quấn quýt. Đói lả, yếu ớt vì thương tật, chỉ biết cố không làm những vết thương mở miệng. Chúng tôi ngồi rúc vào nhau trong chiếc túi ngủ, đúng thế thật, nhưng chỉ để giữ ấm là chính. Điều thú vị nhất mà cả ai chúng tôi đều làm, có lẽ là ngủ.
Tôi không biết chắc làm cách nào để hâm nóng tình cảm. Nụ hôn tối qua thật tuyệt, nhưng cần phải cân nhắc có nên lặp lại hay không. Khu Vỉa than có một số đứa con gái, cả nhóm lái thương nữa, rất giỏi làm người khác mủi lòng. Tôi thì không bao giờ nghĩ nhiều đến chuyện đó. Dù gì thì một nụ hôn rõ ràng là chưa đủ, nếu không tối qua chúng tôi đã có thức ăn. Linh cảm mách bảo tôi rằng Haymitch không cần sự gần gũi da thịt, ông muốn thứ gì đó nội tâm hơn. Như lúc ông bắt tôi phải kể về bản thân mình cho ông trong buổi tập trước cuộc phỏng vấn. Tôi làm ông chán ngán, còn Peeta thì không. Có lẽ cách tốt nhất là làm cậu nói cái gì đó.
“Peeta,” tôi nói khẽ. “Trong buổi phỏng vấn cậu nói đã để ý tớ từ lâu. Chuyện đó bắt đầu từ lúc nào?”
“Ồ, xem nào. Tớ đoán là ngày đầu tiên tới trường. Khi chúng ta năm tuổi. Cậu mặc chiếc váy kẻ ô màu đỏ và tóc cậu... lúc đó tết hai bím thay vì một. Cha tớ đã chỉ cậu khi chúng ta đợi xếp hàng,” Peeta nói.
“Cha cậu ư? Tại sao thế?” tôi hỏi.
“Ông ấy nói, ‘Con thấy cô bé ấy chứ? Cha từng muốn cưới mẹ cô bé, nhưng bà ấy đã lấy một người thợ mỏ’,” Peeta nói.
“Cái gì cơ? Cậu đúng là đang dựng chuyện!” tôi kêu lên.
“Không, chuyện là thật,” Peeta nói. “Và tớ nói, ‘Một người thợ mỏ sao? Tại sao bà ấy muốn lấy người thợ mỏ khi bà ấy có thể chọn cha?’ Và cha tớ nói, ‘Bởi vì khi ông ấy hát... ngay cả bầy chim cũng phải im lặng để lắng nghe’.”
“Điều đó đúng. Ý tớ là, bầy chim đúng là như thế,” tôi nói. Tôi ngạc nhiên và xúc động đến bất ngờ, khi nghĩ đến việc người chủ tiệm bánh kể điều đó cho Peeta. Tôi chợt nhận ra việc tôi miễn cưỡng khi hát, việc tôi từ bỏ ca hát, không hẳn vì tôi nghĩ chuyện đó mất thời gian, mà có thể vì nó gợi lại cho tôi quá nhiều về cha.
“Rồi ngày hôm đó, trong giờ hát nhạc, cô giáo đã hỏi ai biết hát bài ca về thung lũng. Cậu giơ tay trước lớp. Cô mời cậu đứng lên bục và hát trước lớp. Và tớ thề là khi đó tất cả bầy chim ngoài cửa sổ đều im bặt,” Peeta nói.
“Thôi nào, làm ơn,” tôi bật cười.
“Không, thật đấy. Và ngay khi cậu kết thúc bài hát, tớ biết là mình, cũng như mẹ cậu, đã trở thành kẻ si tình, Peeta nói. “Và rồi suốt mười một năm học sau đó, tớ đã tìm cách lấy can đảm để bắt chuyện với cậu.”
“Mà không thành,” tôi chêm vào.
“Mà không thành. Bởi thế, có thể xem việc tớ có tên trong ngày chiêu quân là một cái may,” Peeta nói.
Ngay lúc đó, tôi hạnh phúc đến ngây ngất, nhưng rồi tôi lại thấy lòng đầy băn khoăn. Bởi vì chúng tôi đang dựng câu chuyện này lên, đang giả vờ yêu nhau. Nhưng câu chuyện của Peeta cũng chứa đựng sự thật đấy chứ. Về cha tôi, về những con chim. Và đúng là tôi có hát trong ngày đầu tiên tới trường, dù tôi không còn nhớ bài hát ấy. Và cái váy kẻ ô màu đỏ... chiếc váy tôi để lại cho Prim, được mặc đến sờn rách từ sau khi cha tôi mất.
Điều này cũng giải thích một việc. Lý do Peeta chịu đòn để đưa tôi ổ bánh mì vào cái ngày đói mốc đói meo ấy. Như vậy, nếu những chi tiết là đúng... liệu toàn bộ câu chuyện có phải là thật không?
“Cậu có một... trí nhớ thật đáng nể,” tôi ngập ngừng nói.
“Tớ nhớ mọi thứ về cậu,” Peeta nói, vén mớ tóc trên tai tôi. “Còn cậu vốn không để ý.”
“Bây giờ thì có,” tôi nói.
“Tớ không định theo đuôi cậu ở đây,” cậu nói.
Tôi muốn lánh đi chỗ khác, muốn đóng sập những ống kính một lần nữa, nhưng tôi biết mình không thể. Tôi như nghe thấy tiếng Haymitch văng vẳng bên tai, “Nói đi! Nói đi!”
Tôi nuốt nước bọt, cất tiếng. “Cậu không phải theo đuôi ở đâu cả.” Và lúc này đến lượt tôi cúi xuống.
Chúng tôi sắp sửa chạm môi thì tiếng rơi độp ngoài kia cả hai giật mình. Tôi cầm cung, sẵn sàng bắn nhưng không có tiếng động nào khác. Peeta nhòm qua khe đá và hô to. Tôi chưa kịp ngăn lại thì cậu đã chạy ra ngoài mưa, rồi cầm một thứ vào cho tôi. Một chiếc dù bạc gắn với một chiếc giỏ. Ngay lập tức tôi mở toạc và thấy bên trong là cả một bữa cỗ - bánh mì tươi, pho mát dê, táo và ngon hơn cả, một cái liễn với thịt cừu hầm với gạo lúa hoang ngon tuyệt. Một bữa ăn mà tôi muốn nói với Caesar Flickerman là món quà ấn tượng nhất mà Capitol từng trao.
Peeta chui trở lại túi ngủ, vẻ mặt rạng rỡ. “Haymitch cuối cùng đã chán ngấy việc nhìn chúng ta khổ sở vì đói.”
“Tớ cũng đoán thế,” tôi trả lời.
Nhưng trong đầu tôi có thể nghe thấy tiếng Haymitch tự đắc, xen lẫn chút cáu kỉnh, “Chính xác, đó là điều ta chờ đợi, cháu yêu ạ.”